Tôi chưa từng biết ai phải khổ sở vì làm việc nhiều quá. Chỉ có rất nhiều người khổ sở vì có tham vọng nhiều quá mà lại không có đủ hành động.

Dr. James Mantague

 
 
 
 
 
Tác giả: Mark Haddon
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Ace Lê
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 204 / 8
Cập nhật: 2020-01-25 21:18:44 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8 - Tạm Biệt, Charlie
harlie không đi học. Tôi đã đón chuyến xe buýt sớm hơn thường lệ và đợi ở cổng trường. Tám trăm học sinh đi ngang qua, nhưng không có bóng dáng của Charlie. Tôi chờ nguyên một chỗ đến tận khi chuông reo, rồi co cẳng chạy qua cổng chính.
Hay là nó bị ốm. Hay là nó giả vờ ốm để ở nhà thực hiện một kế hoạch ranh mãnh nào đó. Rõ ràng phải có một lý do thuyết phục chứ. Vấn đề là tôi chưa biết lý do đó là gì.
Thế rồi, trong giờ tập trung, bà hiệu trưởng đưa ra một thông báo, và tôi biết ngay rằng chuyện chẳng lành đã xảy ra.
Sau khi bà báo cho chúng tôi biết chi tiết của ngày thể dục thể thao sắp tới, cô Gupta khẽ vỗ vai và thầm thì vào tai bà.
“À đúng rồi,” bà tiếp lời, “Suýt thì tôi quên. Cả cô Pearce và thầy Kidd đều nghỉ ốm hôm nay. Hai giáo viên dự bị rất giỏi là thầy Garrett và cô Keynes sẽ đảm nhiệm các tiết học này.” Bà gật đầu nhìn về phía hai gương mặt mới bị tống xuống tận cuối dãy xếp hàng của giáo viên.
Có cái gì sặc mùi hắc ám. Sao lại có chuyện trùng hợp quá mức như vậy. Tôi cố thuyết phục bản thân rằng Charlie và bố nó đã giải được mật mã, đi báo cảnh sát, và thầy Kidd cùng cô Pearce hiện đang ngồi bóc lịch hoặc bị áp giải ra sân bay gần nhất. Nhưng xác suất này có vẻ không được cao cho lắm.
Tôi không tài nào tập trung được. Tôi bị thầy Kosinsky phạt ở lại trường sau giờ tan học, và bị thầy Garrett phạt tiếp lần nữa, nhưng tôi chẳng mảy may quan tâm.
Sau giờ ăn trưa, tôi giả bộ đau đầu và đi xuống phòng y tế. Được phát cho hai viên thuốc giảm đau và một ly trà, tôi rên rỉ não nề cho đến khi họ phải gọi điện cho bố tôi đến đón.
Trên chuyến xe buýt về nhà, tôi tiếp tục rên rỉ quằn quại, nhưng vừa bước đến cổng khu chung cư tôi liền xin lỗi bố, hứa rằng sẽ giải thích cho ông mọi chuyện sau, rồi chạy tới kho để xe đạp, mở khóa và phóng sang nhà Charlie với một tốc độ có thể phá vỡ cả kỷ lục đua đường đất của mọi loại phương tiện.
Tôi phi xuyên qua cổng biệt thự, bẻ phanh gấp, quành xe sang một bên làm sỏi bắn tung tóe lên chiếc ô tô của bác sĩ Brooks. Rồi tôi vứt xe đó, nhảy lên bậc thềm và nhấn chuông.
Vài giây sau cô Brooks thù lù xuất hiện sau lớp kính mờ và mở tung cánh cửa. Cô ấy đâm bổ về phía tôi mà thét lớn, “Mày đi đâu giờ mới về, hả cái thằng ngu si, ích kỷ, vô tâm...” Rồi cô im bặt. “Ơ, ra là cháu.”
Hai bàn tay đặt trên vai cô Brooks và nhẹ nhàng đưa cô qua một bên, như thể cô ấy là một quả bom sẵn sàng nổ tung. Bác sĩ Brooks xuất hiện.
“Jim,” chú ấy nói, mặt bối rối, “vào nhà đi và đóng cửa lại.”
Tôi bước lên tấm thảm và nép người lách qua cô Brooks, lúc này đang bắt đầu mếu máo. Bác sĩ Brooks đưa tôi qua sảnh vào phòng khách.
“Charlie đâu rồi ạ?” tôi hỏi.
“Charlie mất tích rồi,” chú ấy đáp.
“Hả?” tôi cố làm ra vẻ ngạc nhiên.
“Đêm qua nó lên giường đi ngủ, giờ giấc cũng như mọi hôm. Trông nó cũng, ừm, chẳng có gì khác thường. Nhưng sáng nay... nó biến mất tăm mất tích.” Chú ấy chầm chậm lắc đầu. “Cô chú không biết nó đã đi đâu.”
Tôi nghe rõ tiếng mẹ Charlie kêu khóc vật vã ngoài sảnh.
“Này. Cháu biết tính thằng Charlie. Nó chuyên trị gây rắc rối. Chuyên môn nghịch dại. Cháu có biết nó đi đâu không?”
Tôi hít một hơi sâu. Tôi phải kể lại chuyện điên rồ nọ. Và tôi sẽ gặp rắc rối. Nhưng đây không phải lúc để lo lắng về việc đó. “Tối qua Charlie gọi điện cho cháu,” tôi đáp. “Nó rủ cháu qua bên này, vì có chuyện quan trọng muốn nói cho cháu. Cháu không qua được vì bố cháu đã nấu xong một bữa thịnh soạn. Chuyện là về cái mật mã hôm trước, chú nhớ không? Charlie bảo cháu là chú đã giải mã được rồi.”
“Ừ,” bác sĩ Brooks nói. “Ừ, bố con chú đã giải được cái mật mã đó. Gần như vậy. Nhưng mà chú cứ nghĩ đó chỉ là trò chơi thôi. Ý cháu là cái trò đó có liên quan tới...?”
“Thế đáp án là gì ạ?” tôi hỏi. “Nó bảo cháu là chú đã đoán ra Coruisk nghĩa là gì.”
Chú đưa hai bàn tay lên xoa xoa mặt. “Coruisk à. Nó là một cái hồ ở Scotland. Nằm trên đảo Skye. Dãy số viết sau đó - dãy số trong ngoặc đơn ấy - chính là tọa độ định vị. Cháu biết đấy, người ta dùng để xác định vị trí đó trên bản đồ Khảo sát Quân nhu ấy mà.” Rồi chú ngưng bặt. “Nói nghiêm chỉnh, không phải ý cháu là thằng Charlie đã đi đến Scotland đấy chứ?”
“Đợi cháu chút,” tôi đưa tay ôm đầu. Mọi thứ dường như đều khớp lại thành một bức tranh. Cô Pearce thường đi nghỉ ở Scotland. Cô ấy có một cuốn sách về những tòa lâu đài ở Scotland. Và tấm bản đồ được giấu trong chiếc hộp đựng đống vòng tay dưới bể nước - đó là một tấm bản đồ đảo Skye.
“Jim?” bác sĩ Brooks hỏi.
“Chuyện này nghe ra sẽ rất điên rồ đấy chú ạ.”
“Nói chú nghe đi,” chú ấy giục tôi.
“Cái mật mã đó...”
“Ừ?”
“Nó là bí mật của một nhóm người. Họ không muốn bất kỳ ai biết cả.”
“Ai thế Jim? Là ai?”
“Cô Pearce. Thầy Kidd. Là cô giáo dạy sử. Và thầy mỹ thuật. Họ đang âm mưu chuyện gì ấy.”
“Này Jim, cháu đang nói cái quái gì đấy?”
“Cháu nói nghiêm túc mà. Với lại hôm nay cả hai đều không đến trường.”
Chuông cửa reo.
“Đợi chú nhé,” bác sĩ Brooks dặn. “Cảnh sát đấy mà.” Rồi chú biến mất sau hành lang.
Họ đã bắt Charlie đi rồi, tôi biết mà. Nó đã sử dụng cái vòng tay. Giọng nói đầu bên kia... Họ biết hết cả. Nó đã không nghe lời cảnh báo, và đã phải chịu hậu quả.
Tôi phải đi tìm nó. Và để tìm được nó tôi cần thêm manh mối. Tôi cần quyển sổ. Và không được phép tin tưởng bất kỳ ai. Tôi bèn trượt ra hành lang và phi lên cầu thang. Vào đến phòng Charlie, tôi mở ngăn kéo ra, giật tấm gỗ sàn lên và lục soát tủ quần áo.
Ở dưới tấm đệm, tôi tìm thấy quyển sổ Spudvetch! màu cam và chiếc vòng tay bằng đồng. Tôi đút hết vào túi.
Tôi đứng dậy, nhìn thấy chiếc hộp tiết kiệm hình người máy trên bậu cửa sổ, liền trút hết tiền vào tay. Tổng cộng có tám bảng và sáu mươi lăm xu. Tôi nhét tất cả vào túi bên kia.
Khi quay xuống dưới nhà, tôi thấy bác sĩ Brooks đang đứng giữa sảnh, nói chuyện với một gã cảnh sát to béo tóc màu gừng.
Gã ngước lên nhìn tôi. “Bác sĩ đây nói cậu là bạn của Charlie.”
“Vâng,” tôi đáp.
“À, thế thì chắc cậu giúp được chúng tôi,” gã nói, rút từ túi áo khoác ra một tập giấy ghi chép.
“Cháu kể lại những gì vừa kể cho chú đi,” bác sĩ Brooks nói. “Cái đoạn về cô Pearce và cái thầy gì ấy nhỉ... dạy mỹ thuật ấy.”
Đôi lông mày gã cảnh sát nhướng lên. Gã nhòm bác sĩ Brooks, rồi nhòm qua tôi. “Chuyện này nghe thú vị đấy.”
“À,” tôi chuẩn bị tinh thần kể lại câu chuyện điên rồ thêm một lần nữa.
“Chú biết rồi,” - gã cảnh sát mỉm cười - “để chú đưa cháu về nhà nhé? Cháu kể tất tần tật cho chú nghe trên đường về cũng được.”
Bác sĩ Brooks gật đầu nhìn tôi tán thành, “OK thôi, Jim, cháu đi với trinh sát Hepplewhite đi. Đừng lo cho cô chú ở đây. Lúc nào nhớ ra cái gì thì điện cho chú.”
Tôi đang định nói rằng xe đạp của tôi vẫn còn để ngoài lối đi thì trinh sát Hepplewhite với tay vặn cái nắm cửa. Nếu chỉ sớm hơn hoặc muộn hơn một tích tắc có lẽ tôi đã không nhìn thấy nó mất rồi. Tay áo gã khẽ nhích lên, và cuốn quanh cổ tay trái là một chiếc vòng bằng đồng.
“Thôi ạ,” tôi lùi lại cầu thang. “Cám ơn chú nhưng cháu tự về được.”
“Ta có chuyện quan trọng cần thảo luận kia mà.” Gã trinh sát cười khoái trá một cách chẳng đáng tin chút nào. “Chú sắp muộn giờ uống trà trong căng tin rồi đây này. Nào. Chỉ loáng cái là về đến nhà cháu thôi.”
Tôi ngước nhìn bác sĩ Brooks cầu cứu, nhưng chú đâu có biết tôi đang cần trợ giúp.
“Không cần đâu ạ,” tôi lắp bắp.
Gã trinh sát bước về phía tôi, và tôi cảm nhận được bàn tay gã nắm lấy cánh tay tôi. “Nếu cháu biết cái gì quan trọng thì phải kể cho bọn ta nghe. Giấu giếm thông tin là tội nặng lắm đấy.”
Tôi cựa quậy giãy thoát, nhưng bàn tay gã khỏe như một con trăn khổng lồ. Thêm nữa, từ nãy đến giờ trên miệng gã luôn nhăn nhở một nụ cười thân thiện đặc trưng kiểu cảnh sát, ngay giữa bộ râu màu da cam. Nếu tôi không nhanh trí thì ắt hẳn đã ngồi gọn trên chiếc xe của gã rồi. Một khi tôi đã vào xe, gã sẽ tìm thấy cái vòng, cuốn sổ và đoạn thông điệp. Và tôi cũng sẽ biến mất như Charlie. Sẽ không còn ai đi tìm tôi như tôi đi tìm nó nữa. Và sẽ không còn bất kỳ một manh mối nào ngoài cái tên của một hồ nước ở Scotland.
“Vâng được rồi,” tôi đáp. “Đợi cháu đi vệ sinh đã.”
“Chú đợi cháu ở đây nhé,” gã trinh sát nói.
Tôi đi vào bếp. Chẳng có cái cửa hậu nào cả. Tôi bèn trèo lên bồn rửa bát và mở cửa sổ ra. Khi đang bước qua giá bát, tôi đá phải một cái đĩa đựng thịt hầm to bự. Tôi vội với tay đỡ lấy nó nhưng đã quá muộn. Nó rơi thẳng xuống sàn đá hoa và một âm thanh nghe như tiếng gõ cồng chiêng vang lên.
Đột nhiên gã trinh sát xuất hiện ở cửa bếp thét lớn, “Ê! Quay lại đây mau!”
“Jim!” bác sĩ Brooks cũng chạy vào kêu lên. “Cháu làm gì đấy?”
Tôi nhảy vọt qua cửa sổ, bỏ mặc đằng sau đồ sứ rơi vỡ loảng choảng. Hạ cánh trên thảm cỏ, tôi lộn vài vòng, nguyên một đống dao, nĩa và thìa rơi xuống người tôi như mưa.
Tôi bật dậy, rảo cẳng phóng vụt tới góc ngôi biệt thự, nhảy lên xe đạp, thực hiện một cú quành chuẩn xác vòng quanh gã trinh sát khi gã này đâm nhào ra khỏi cửa trước, rồi tôi phi ngược lại qua thảm cỏ, lấy đà đâm vụt qua cánh cổng gỗ, lao thẳng ra công viên và vun vút xuyên qua những rặng cây.
o O o
Tôi chạy nước rút lên những bậc thang thư viện, bỏ mặc chiếc xe đạp không khóa ở đằng sau, nhảy qua từng lớp cửa và nhằm thẳng quầy thông tin. Tôi thở dốc đến mức nói không ra hơi. “Đảo Skye. Bản đồ Khảo sát Quân nhu. Cháu cần tấm bản đồ Khảo sát Quân nhu. Đảo Skye. Ở Scotland.”
“Cảm ơn, cô lại không biết đảo Skye ở đâu chắc.” Với một vẻ chậm chạp kinh hoàng, cô thủ thư rút trong túi ra một chiếc khăn mùi xoa trắng đã cáu bẩn và xì mũi vào đó. Rồi lại bỏ nó vào túi. “Đi theo cô.”
Cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra khu chứa bản đồ. Cô này dẫn tôi tới một giá sách có khung màu hồng. “Rõ khỉ,” cô ấy tặc lưỡi. “Ai cũng lấy ra rồi tra lại vào lung tung hết cả.”
Tôi rút hú họa một tấm bản đồ và mở ra xem. Mặt sau là một biểu đồ quốc gia, chia theo các ô vuông nhỏ. Đảo Skye được hiển thị ở bản đồ số 23 và 32. Tôi rê tay dọc theo những khung giá màu hồng.
Cô thủ thư tìm thấy tấm 32. Tôi tìm thấy tấm 23.
“Cháu mang ra ngoài được không cô?” tôi hỏi, rút tấm 32 từ bàn tay cô ta.
“Xin lỗi,” cô ta đáp, “bản đồ không thể cho mượn. Cháu chỉ được đọc trong này thôi.”
Hôm nay không phải là ngày nên lo lắng về những chi tiết tầm phào như quy định thư viện. Tôi nói, “Cháu tên là Barry Griffin, học trường Thánh Thomas,” và đâm đầu về phía cửa ra.
o O o
Chỉ đến khi về đến khu chung cư, tôi mới nhận ra việc về nhà là một ý định ngu ngốc. Trinh sát Hepplewhite biết địa chỉ nhà tôi. Mà nếu gã không biết thì bố Charlie cũng sẽ nói cho gã biết.
Tôi phóng nhanh qua bãi đỗ xe, phanh lại ngay phía sau bãi. Tôi bèn xuống xe và ló đầu nhìn qua góc tường. Bãi xe trống không. Vậy là hoặc gã trinh sát đã đến và đi, hoặc gã chưa kịp đến, hoặc đơn giản là gã cho rằng tôi không ngốc đến độ sẽ quay về nhà. Đầu tôi quay cuồng. Nếu tôi đi kiếm Charlie thì sẽ phải cần đến một số thứ trên phòng. Tôi chỉ cần ba phút để vào nhà và quay trở ra.
Tôi quyết định sẽ làm như tính toán, đoạn chạy xuyên qua bãi đỗ xe vắng hoe, đâm qua cánh cửa lò xo và xông vào thang máy.
o O o
Tôi chạy vào nhà, đóng sầm cửa ra vào đằng sau.
Tôi đi lên phòng mình, dốc cạn khoản tiết kiệm mười chín bảng năm mươi hai xu trong hộp thuốc lá và gộp chung vào với tiền của Charlie. Tôi kéo từ trên tủ ngoài sảnh xuống một chiếc lều cũ và một chiếc túi ngủ, rồi nhồi chúng vào cái ba lô thể thao lớn. Tôi quơ vội một bộ quần áo rồi chạy vào bếp nhét đầy thức ăn vào cái túi đựng đồ siêu thị Sainsbury: một ổ bánh mì, một gói bích quy, chút đồ ăn thừa bố nấu hôm qua và một hộp kẹo hiệu Quality Street. Tôi mở ngăn kéo lấy ra một con dao bấm, hộp cứu thương, đèn pin và một cuộn dây. Tôi quay lên phòng kiếm ra một chiếc la bàn.
Trong khi tôi đang hối hả, cái vòng đồng trong túi rơi ra. Tôi nhặt nó lên ngắm nghía. Liệu đây có phải là thứ khiến họ tìm ra Charlie không? Có phải nó đã truyền đi thứ tín hiệu nguồn nào đó? Tôi phải thủ tiêu nó mới được. Nhưng tôi lại không được phép thủ tiêu nó. Đây là manh mối duy nhất chứng tỏ tôi không phải là một kẻ tâm thần loạn trí.
Thế rồi tôi đột nhiên nhớ ra. Năm ngoái bố đánh mất một chiếc máy bay. Đội quản lý công viên bọc một lớp mái tôn lượn sóng chung quanh bục sân khấu. Cái máy bay bay vòng ra phía sau khiến sóng liên lạc bị ngắt, thế là nó đâm bổ xuống hồ bơi thuyền. Tín hiệu phát thanh không thể truyền qua kim loại được. Bố còn chứng minh điều đó bằng cách đặt cái đài phát thanh vào trong lò nướng, khiến nó im bặt thin thít.
Tôi bèn vớ lấy cuộn lá thiếc gói đồ ăn dưới bồn rửa, xé ra một mảng lớn và bọc vài vòng quanh cái vòng tay trước khi nhét nó lại vào túi.
Chỉ đến khi đã xong xuôi, tôi mới đứng sững lại, nghe tiếng đồng hồ tích tắc, tiếng tủ lạnh rì rì và chợt nhận ra căn nhà hoàn toàn vắng bóng người. Không có bố. Cũng chẳng có Becky. Mọi người đâu hết rồi?
Một luồng ớn lạnh chạy dọc sống lưng tôi.
Bùm Bùm - Mark Haddon Bùm