Love is the only way to grasp another human being in the innermost core of his personality.

Viktor E. Frankl

 
 
 
 
 
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Azazel123
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 66
Cập nhật: 2020-11-14 06:29:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B (3)
ường nhiều chỗ trơn, mỗi người một gậy dò chống. Đi đầu là người dẫn đường, rồi đến D trưởng Khanh, một cậu liên lạc và tôi. Đằng sau là mấy cậu liên lạc nữa rồi tới C51. Chúng tôi đi rất chậm, nhưng vẫn biết là ở phía cuối đội hình đang phải đi như chạy, nên thỉnh thoảng anh Khanh cho dừng lại nghỉ một lúc. Ra khỏi cửa rừng, đoàn quân lội trên một con suối, thỉnh thoảng nhô lên vạt cỏ lác. Nước lạnh buốt, nhiều chỗ chảy xiết. Chả hiểu sao mà suối mỗi lúc một sâu hơn, anh Khanh đã bị nước ngập đến bụng. Anh nghi ngờ, gọi cậu dẫn đường lúc này cũng đang ngơ ngác ở phía trên. Cuối cùng rồi cũng ổn, chúng tôi đi theo lối mòn trong thung lũng lớn, hai bên có những bụi cây nhỏ. Chúng tôi ngồi nghỉ khá lâu để chờ dồn đội hình. Cậu dẫn đường đã đi lên trước để liên hệ thuyền, hình như chúng tôi sắp vượt sông thì phải? Tôi cảm thấy người hết mệt mỏi, lúc này mới thấy tác dụng kỳ diệu của sâm Cao-ly. Mảnh sâm trong mồm đã tan hết, tôi lấy tiếp một mảnh nữa ra ngậm. Vị nó nhàn nhạt và ngọt lờ lợ, nhưng nếu không có nó thì đoạn đường vừa qua tôi gay rồi. Đã thấy mặt người mờ mờ, biết không trà trộn được nữa, tôi trở về đại đội của mình. Ra đến bờ sông thì thấy nhiều con thuyền đã đợi sẵn. Mỗi con thuyền trông dường như nhỏ bé ấy không ngờ lại có thể chở gần hết một đại đội cả trăm người. Lính lên thuyền lộn xộn. Tôi thấy có một thuyền ít lính chen lên, bèn trèo vào. Thì ra đây là thuyền chở bộ đội tỉnh Quảng Bình. Chậc! miễn là sang được bờ bên kia, tôi nghĩ. Nghe mấy anh lính này và mấy o Quảng Bình nói chuyện, thăm hỏi và đối đáp nhau với cái giọng miền Trung ríu rít, tôi thấy vui vui. Thuyền chưa cặp bờ, tất cả đã nhảy ào xuống nước. Dưới đáy toàn cát, nước trong vắt, lính ta hăm hở tháo bi-đông nhấn xuống sông lấy nước. Đây là sông Nhật Lệ chăng?
Tất cả chạy qua bãi cát lún lên bờ, tập hợp và lại đi hối hả. Bắt đầu leo dốc, luồn lách trong đám lau sậy và những bụi cây nhỏ rậm rạp. Leo được nửa tiếng thì có lệnh nghỉ 15 phút. Chúng tôi giở cơm nắm ra ăn. Anh Bính tuyên bố đi theo đội hình trung đội, anh đi đầu, không ai được vượt. Lại bắt đầu xuống dốc, tới mỗi chỗ nghỉ, ai cũng mệt nhoài. Tôi mò đến chỗ Chí Thành, hai đứa giở cục cơm nắm còn lại ra ăn hết. Anh Bính rất bực với mấy cậu đi chậm. Ở một chỗ nghỉ, chúng tôi ngồi đã khá lâu mới thấy Long “già” A6 lò dò đến, trông thật nhếch nhác. Khẩu súng đập lủng củng vào chân cậu ta, cái nắp xoong sau đít đưa qua đưa lại, mặt thiểu não trông thật “già”. Anh Bính quát tháo, Long “già” cự lại, kết quả là cậu ta bị ăn một cái tát nên thân. Nhìn cảnh ấy chúng tôi ôm bụng cười, tuy thâm tâm không hài lòng lắm.
Lại men theo một khe suối. Chúng tôi uống nước kinh thật. Đây là cái suối tù, nhiều chỗ nước rất bẩn. Nhưng khát quá nhiều cậu vẫn phải múc và cho thuốc lọc vào uống. Tôi cũng định múc, nhưng Long “cồ” ngăn lại và san cho một ít nước sông trong bi-đông của cậu ta.
Chúng tôi lần theo một con đường ô-tô đang mở trong rừng. Một con đường chưa có vết bánh xe, bí ẩn dưới vòm lá cây rừng, đất mới đào màu vàng ướt. Tất cả những gốc cây trên nền đường đều được trốc đi, nhiều chỗ phải cắm lá cây lên mặt đường để ngụy trang. Chúng tôi rất ngạc nhiên và kính cẩn nhìn ngắm con đường, thành quả của sức lao động phi thường. Bắt đầu đi trong rừng lau, hình như ô-tô cũng đi được theo những lối này. Tất cả vừa đi vừa ngắm những hòn núi đá đơn độc nhô lên trên cánh rừng lau bạt ngàn. Chợt gặp hai anh bộ đội Giải phóng (1) mặc bộ đồ vi-ni-lông mầu nâu đi ngược lại, cả bọn trầm trồ khen những con dao găm đẹp của họ.
----------
(1) Trong chiến tranh chống Mỹ, bộ đội chủ lực chia làm hai. Quân Giải phóng do Mặt trận DTGP Miền Nam Việt Nam quản lý, có trang phục riêng khác với bộ đội Miền Bắc; cờ và sao nửa đỏ nửa xanh, nhưng thường không đeo quân hàm, quân hiệu. Trên thực tế, lãnh đạo thống nhất, quân đội thống nhất.
Tôi thấy lính ta xúm quanh một người dân tộc đứng sau hàng rào gỗ. Ông ta bán cam trong vườn. Cam còn non và xanh, ăn như chanh mà ông ta bán những năm hào một quả. Lúc này tôi mới nhận thấy trên vách núi có một hang đá. Mấy người dân tộc và một lũ trẻ con lau nhau đứng ở cửa hang ngắm nhìn bộ đội. Tôi thấy họ có cả súng CKC. Hai anh Giải phóng, một già một trẻ, đang đứng ở phía dưới, tay cầm mấy mớ rau và con gà, đang nói chuyện với họ, ý chừng hai bên trao đổi gì đó cho nhau.
“Người Vân Kiều!”, ai đó nói. À, ra đây là người Vân Kiều. Họ có vẻ nghèo khổ, đen đúa, ăn mặc lam lũ, nhưng tôi đã được nghe nhiều về tinh thần cách mạng của họ.
Dọc lối đi thấy nhiều vết đạn 20ly của máy bay bắn xuống. Lại nghỉ 15 phút, tôi ngồi nói chuyện với Lâm Thành và Chí Thành. Con đường vẫn men theo vách núi đá, nhiều chỗ đá tạo thành những bãi chông nhọn sắc đâm thẳng lên trời, đi qua phải hết sức cẩn thận. Có những hòn đá trên mặt rỗ hoa tạo thành nhiều lỗ có gờ rất sắc, vô ý bám tay vào là chảy máu. Nghe tiếng từ lâu, giờ mới thấy mặt đá tai mèo, quả là ghê thật.
Tôi đang đi chợt thấy phía trước xôn xao. Thì ra có một hàng mía bán ở hốc đá ven đường. Thảo nào lúc nãy đi qua rừng lau thấy con đường phủ kín bã mía. Mía nhỏ như cây sậy mà cũng lăn vào mua, một hào hai tấm. Long “cồ” xông vào mua được sáu tấm, chúng tôi mỗi đứa cướp một tấm.
Đoàn quân đang đi dọc con suối khá rộng, nước trong, hiền hòa. Hai bên bờ có những cây lá giống lá trúc đào, xòa xuống là là mặt nước trông thật đẹp. Gặp một đoàn người đi ngược ra, hóa ra toàn tù binh mặc quần áo rằn ri, mấy cậu vệ binh súng cắm lưỡi lê lăm lăm áp giải. Cậu Hòa “chó” nhặt mấy hòn đá ném tới tấp vào đám tù binh, làm mấy người đó phải giơ tay che đầu. Thấy điệu bộ hoảng sợ của họ, tôi bảo Hòa: “Mày thôi ngay đi. Mày có muốn khi mày bị bắt người ta ném vào đầu mày như vậy không?” Cậu này trước khi nhập ngũ thuộc loại lưu manh đường phố, hay ăn cắp vặt của anh em trong đơn vị.
Đã quá nửa ngày rồi, tất cả đều thở không ra hơi, thì tới một khu vực giống như bãi khách. Chúng tôi tách khỏi con suối lớn, đi men những theo những lạch nước bẩn thỉu. Khắp nơi vỏ đồ hộp lăn lóc, bên các thân cây lô nhô cọc phụ và các giá ba-lô đã khô nỏ. Vẫn chưa có lệnh dừng, đoàn quân đi lê lết, rời rạc. Tôi và Chí Thành tạt sang một bên ngồi. Tôi chạy xuống khe lấy nước rồi đem đường sữa của Chí Thành ra pha uống. Nghỉ cho đỡ mệt một chút, hai đứa lại lên đường.
Mãi gần tối mới tới chỗ dừng chân. Chúng tôi căng tăng mắc võng cạnh đường đi, trên triền đồi, phía dưới là khe nước. Tổ trực nhật mang nồi xuống khe nấu cơm, tôi xuống theo. Nước bẩn thật, thỉnh thoảng mới có một hốc đào bên rìa suối, nước sạch hơn một tí. Dọc khe, các B khác cũng đang nổi lửa. Có lệnh phải nấu bếp Hoàng Cầm, nhưng chả A nào đào, rốt cuộc vẫn kê đá lên nấu. Vất vả lắm rồi cuối cùng cũng được ăn, tôi bảo Duy Minh lấy hai hộp thịt ra chia cho anh em. Võng tôi nằm cạnh Phái “con” và Thành “ma tịt”. Hai cậu này chuyên môn nấu ống coóng, khi thì nước, khi thì cháo. Nấu như vậy là phạm kỷ luật, vì khói lên dễ lộ vị trí, máy bay sẽ đến đánh bom, tôi đã nói mãi mà hai cậu ấy không nghe.
Hôm sau củng cố lại tăng võng. Cậu Phát A5 nằm gần đấy bị đứt dây võng, ngã dúi đầu xuống đất mãi không dậy được. Hình như Lâm và Chí Thành có điều gì đó không bằng lòng nhau. Chí Thành phàn nàn với tôi là mất mũ mà Lâm có hai cái lại không cho mượn. Duy Minh bận túi bụi với bếp nước. Bọn Thành, Phái kiếm củi đun riêng thì giỏi, chứ kiếm củi cho A hoặc làm chung thì rất lười. Sao tôi ghét tụi này thế. Nhưng với tư cách A trưởng, tôi vẫn phải nói cười ngọt nhạt với chúng để động viên chúng lao động. Hình như chúng đã ăn riêng số đồ hộp của A phát cho chúng mang, thật là tồi tệ.
Vấn đề đun nấu là một vấn nạn. Từ dưới khe, nhiều lúc khói bay lên làm chúng tôi phải kêu ầm ĩ. Anh Hồng, Chính trị viên đại đội, chạy lồng lộn ngược xuôi quát tháo những cậu đầu bếp. Những cậu này mặt mũi đỏ gay, nước mắt dàn dụa, đang phồng mang trợn mắt thổi mà lửa vẫn không lên, khói bốc mù mịt. Có chỗ như bếp B4, anh đã phải dội nước vào dập vì quá khói, mặc dù mấy cậu đầu bếp nhìn anh đầy căm tức. Biết làm thế nào được, nhiều khi phải tàn nhẫn. Anh từng nói, có mấy cậu Dũng sĩ “đù mẹ đù cha” đun ống coóng, máy bay đến ném bom chết mất xác, lại còn chết thêm cả mấy đơn vị bên cạnh. Giữ được chuyện khói lửa quả là vất vả.
Có lệnh chiều đi. Nấu cơm nắm, nước uống đàng hoàng, sẩm tối tất cả cuốn tăng võng lên đường. Lại những cây lá nón, những cái dốc, những khúc gỗ mục ngang đường. Chúng tôi đi thoăn thoắt, thấy bảo còn 2km nữa thì ra đến đường ô-tô. Sắp được đi ô-tô nữa rồi, tuy có xóc thật, nhưng còn hơn cuốc bộ. Đột nhiên từ phía sau truyền lên: “Phía trước dừng lại”. Thấy cậu liên lạc dẫn đường đi ngược hàng quân, vai vác khẩu AR15, chúng tôi ngồi ngả ngốn bàn tán về khẩu súng lạ. Chợt có lệnh truyền: “Quay lại” làm cả bọn sửng sốt. Chúng tôi trở về cũng nhanh như lúc đi mặc dù không được vui lắm.
Lại căng tăng mắc võng vào chỗ cũ. Sao mà nhớ nhà thế. Biết bao sự việc ngày nào ở trường ở lớp hiện ra như mới hôm qua, vậy mà bây giờ tôi đã nằm đây, trong bãi khách của một cánh rừng Trường Sơn này.
Nửa đêm mưa to, sáng hôm sau thấy hai đầu võng bị ướt. Chẳng sao, đến chiều khô ngay mà. Hình như tối qua Duy Minh bị ướt hết, phải sang nằm chung võng với Đường “cóc”. Lại cảnh đun nấu ầm ĩ về chuyện khói lửa. Mấy hôm nay bắt đầu phải dè sẻn gạo. Nhiều chỗ mấy cậu xúm quanh ống coóng cháo húp xì xụp. Đến chiều lại có lệnh nấu cơm nắm. Tôi và Chí Thành mượn xoong nấu 1 nồi cháo húp với nhau, rồi nấu nước nóng đổ đầy bi-đông 2 đứa.
Lại con đường hôm qua. Ra khỏi rừng già, đi giữa rừng thưa, rồi ngồi tản mạn ven đường cái đất đỏ chờ xe. Trời sẩm tối thì xe tới, cả loại Vọt tiến lẫn Hoàng hà. Sau một hồi chạy ngược xuôi, chúng tôi trèo lên 1 chiếc Hoàng hà. Trời tối hẳn, chiếc xe nhảy chồm chồm trên đường. Có chỗ nó bò chậm rì rì, thận trọng. Có chỗ bất ngờ nó chổng mông lên trời, làm tất cả chúng tôi bị dồn tụt xuống phía ca-bin. Rồi nghe có tiếng nước rào rào dưới bánh xe, chắc đang lội qua hố bom hoặc ngầm. Xe có mui bạt nên chẳng nhìn thấy gì, cả bọn ngủ gà ngủ gật. Xe chạy chắc đã lâu lắm rồi. Chúng tôi chợt tỉnh khi thấy xe dừng lại, đến nơi rồi ư? Tất cả xốc lại trang bị rồi nhảy xuống xe. Sương lạnh, cả bọn co ro bên con đường lầy lội. Thì ra xe không vào được nữa vì đường xấu, chúng tôi phải đi bộ đến bãi khách. Muỗi bắt đầu tấn công, đoàn quân men theo ven đường mà bước, bùn lép nhép. Rồi tới một cái bãi rất rộng, có mấy người đang đi ngược lại, họ nói sắp tới bãi khách. Chưa tỉnh ngủ hẳn, lại thêm trời tối đen như mực, nên tôi bước như trong mơ. Mấy vũng nước sáng trắng trong đêm tối.
Chợt có tiếng máy bay ì ầm. Rồi đột nhiên một chiếc máy bay xoẹt qua rất thấp trên đầu chúng tôi, kéo theo màn tiếng động rung óc. Tất cả đang bối rối thì có tiếng “pục!” khô nhẹ phát ra ngay phía trên. Một ánh chớp lóe lên, và lập tức mặt đất bị chiếu sáng đến khủng khiếp. Mọi vật phơi bày trước mắt tôi, rõ đến nỗi tưởng cái kim dưới đất cũng nhìn thấy.
Tôi thấy mình đang đứng dưới lòng đường trống trải, nghĩ bụng: “Thôi hỏng rồi, thế này thì nó nhìn thấy mất, thế là hết!” và chạy vội vào bên đường. Quả pháo sáng vẫn cháy xèo xèo, vừa rơi vừa quay chậm chạp trên đầu chúng tôi, kéo theo một cái đuôi khói trắng lơ lửng. Trước mặt tôi, một toán lính ta đang chạy tán loạn dưới ánh pháo sáng. Tôi bực bội nghĩ: “Sao chúng nó ngu đến thế, chạy vậy thì chết hết!” Tiếng máy bay vẫn rền rĩ. Phía xe chúng tôi lúc nãy xuất hiện hai quả pháo sáng, rồi tiếng bom bi nổ rầm rầm. Không hiểu mấy xe đi sau có làm sao không? Anh Bính quát tất cả tìm hố hai bên vệ đường mà nằm. Quả pháo sáng trên đầu chúng tôi bắt đầu lụi dần, chiếc dù đưa nó đi khá xa. Lợi dụng lúc máy bay vòng xa, ánh pháo sáng chưa tắt, chúng tôi lẩn nhanh vào đường rừng. Lần đầu tiên bị pháo sáng rọi thẳng trên đầu kể cũng hốt thật. Rõ thế, tưởng nó nhìn thấy hết, không ngờ mắt phi công Mỹ cũng thường thôi.
Quái, sao lại dừng hết cả lại thế này? Từng bước nhích lên chậm chạp. Tới nơi thì mới thấy một cái lạch khá sâu, hai bờ bị sụt lở. Anh Bính đang rọi đèn cho từng người một bò xuống, rồi dò dẫm lội qua lạch. Tôi thận trọng bám lấy mấy cái rễ cây chìa ra từ bờ, tụt dần xuống nước. Ô, sao sâu quá, càng đi càng sâu. Tôi loạng choạng lùi lại, kêu anh Bính rọi đèn. Thì ra qua lạch có một gờ đất ngầm, bước chệch khỏi gờ đất sẽ bị thụt sâu. Đi 1 đoạn nữa trong rừng thưa, chúng tôi dừng lại nghỉ để dồn đội hình. Trời bắt đầu mưa, tất cả giở ni-lông loạt xoạt. Lại đi tiếp, gần như chạy. Tối quá, đường lại trơn nữa, nhiều chỗ ngoặt gấp, không cẩn thận rất dễ lạc.
Hình như lạc thật, mỗi C một nẻo rồi, thôi đành mai tìm vậy. Có lệnh nghỉ, chúng tôi tản vào hai bên đường tìm chỗ mắc võng. Cây nhỏ bằng ngón chân cái, mọc san sát, ướt đẫm, chạm vào đâu nước mưa rơi ào ào ở đó. Chọn được cây, tôi đặt ba-lô xuống nền lá mục ẩm ướt lấp lánh ánh lân tinh, căng tăng mắc võng. Không làm cọc phụ nên sáng hôm sau hai đầu võng ướt sũng. Chúng tôi gấp rút cuốn tăng võng đi tiếp. Con đường mòn hai bên thỉnh thoảng có vài bụi lau. Một con suối to chắn ngang, nước chảy cuồn cuộn. Từ bờ này sang bờ kia chăng một sợi cáp, tất cả bám vào lóp ngóp lội qua. Nước suối trong, chảy xiết, đáy toàn cuội sỏi. Chúng tôi vục nước uống, rửa mặt. Sang bên kia lại leo dốc ngay, đi men theo một sườn đồi dựng đứng, rất trơn. Mấy cậu đi trước mất hút, may có vài người ở bếp gần đó chỉ cho bọn tôi đuổi theo. Một cái cầu qua khe sâu, làm bằng thân mấy cây gỗ tròn, đi trên cũng kinh. Đi mãi, nhìn trước nhìn sau chẳng thấy ai, tôi phân vân dừng lại đợi. Thấy anh Nghĩa B phó B1 đi tới, tôi bám theo luôn. Hết men theo sườn dốc đứng rừng già, lại xuống khe đá có dòng nước nhỏ chảy. Hình như C52 đóng ở đây, thấy lính lăng xăng chạy quanh mấy cái bếp mới dựng tạm. Leo qua bờ khe cao như quả đồi bên trái, rồi đi qua mấy cái hầm thùng (hố to như căn nhà, mắc võng nằm dưới đó được) bỏ không, chúng tôi tới nơi.
Tất cả nhốn nháo tìm chỗ mắc võng. Anh Hồng tới, phân bổ khu vực từng B, thế là lại phải di chuyển. Bây giờ mới tính đến chuyện nấu ăn, tôi chạy đi giục Duy Minh. Theo lời chỉ dẫn của anh Đạm B phó, chúng tôi chạy đến một ngôi nhà tranh gần đó. Ngôi nhà thấp, chật, tối, bên trong rất đông người. Giữa nhà là mấy cái bếp đang đỏ lửa, vài cậu A6 ngồi quanh nấu cơm. Đành đợi cho họ nấu xong đã. Ngoài hiên có mấy thùng lương khô đựng nước và hứng nước mưa từ giọt gianh rơi xuống. Không khí ẩm lạnh, buồn tẻ. Đây là nhà của dân công hỏa tuyến, trên sạp nứa bên phải, mấy người đàn ông đang ngủ lăn lóc. Một bác già khoảng 50 tuổi đang ngồi hút thuốc lào cùng hai người nữa. Thấy chúng tôi đến, họ chẳng nói gì, nhưng xem ý họ không đồng ý cho chúng tôi nấu nhờ, gay thật. Bác già nói nhà chật, mấy anh em đi làm suốt đêm giờ đang nghỉ, có người đang sốt rét, đừng vào đông. Chúng tôi đành nói khó với bác xin nấu nhờ. Bác nói phải tự túc củi nước, chúng tôi đồng ý. Bọn A6 bở thật, chúng nấu trước nên cứ sẵn củi khô trong nhà đem đun. Tôi quay ra bảo anh em kiếm củi và đi lấy nước. Trời mưa thế này kiếm đâu ra củi khô bây giờ? Lội xuống con lạch gần đó xem có củi trôi không, cuối cùng cũng chỉ vớ được vài cành nhỏ. Tôi trở vào bếp thì thấy Quang và Duy Minh đã nhóm được lửa, sau khi đốt hết cả mớ dẻ dầu lau súng. Tôi liếc xem mấy ông dân công đánh cờ. Mưa vẫn rơi lác đác, người ướt át, vừa lạnh vừa buồn. Nhìn những ngôi nhà lá khác trên sườn đồi cây, tôi càng thấy phục những con người đã sống bao năm qua giữa cảnh rừng sâu nước độc, heo hút buồn tẻ này.
Cuối cùng cũng nấu xong hai nồi cơm. Chúng tôi khiêng lên chỗ nằm của Đệ, cuốn võng hắn lại và tất cả chui vào dưới mái tăng ngồi. Thế mà khi khiêng, hai cậu lúng túng thế nào để rơi nồi cơm to, đổ mất một ít. Suốt đời không thể nào quên được bữa cơm giữa rừng già ấy. Mưa rào rào, mưa như trút nước. Mái tăng thì hẹp, bên dưới đặt hai nồi cơm và 8 đứa chúng tôi xúm xít chung quanh. Tăng lụp xụp không che đủ kín người, nên đứa nào cũng bị ướt 1 phần. Chúng tôi ngồi ăn, nước mưa ròng ròng trên vai, trên cổ. Mặc, vẫn xúc cơm chén lu bù. Lúc đó tôi đã nghĩ nếu sau này còn sống thì phải tả lại bữa cơm hôm nay mới được. Ăn xong, mỗi đứa xúc thêm một ca để dành.
Tôi đã kiếm được một chỗ mắc võng khá tốt, thì Quý A trưởng A5 đến nói đây là khu vực của A5. Lúc này anh Bính đang chia khu vực cho các A, Quý hét to với anh: A5 ở đây phải không? Anh Bính chưa biết thế nào cứ gật bừa. Tôi không muốn cãi cọ bèn dọn đi, nhưng trong bụng rất tức, nhất là tức Quý, và ghét cả ông Bính nữa. Lâm Thành mắc cạnh đó dứt khoát không đi. Tăng Lâm Thành mắc lụp xụp không tưởng được, nhăn nhúm, võng thì gần trệt mặt đất, tăng thì như đắp lên võng, thế mà hắn ngủ được. Tôi đã giục hắn buộc lại, nhưng hắn lười, không nghe.
Tôi tìm được hai cây để mắc võng khá đẹp, nhưng xung quanh là bụi rậm, bèn rút dao găm chặt lia lịa. Phần lớn là bụi cây lá nón, giống như những tàu cọ cắm xuống đất, nên việc phát quang cũng nhanh. Làm cả cọc phụ đàng hoàng, nhưng khi nằm thử thì dây bị đứt, phải buộc lại. Cuối cùng cũng được chỗ nằm thoáng đãng, thoải mái. Gần võng tôi là võng Châm “thối tai” và Hùng “Di-gan” của A5. Hai chân lấm bùn nên trước khi lên võng bọn tôi phải lấy khăn mặt ra lau, buồn cười thật.
Ở triền đồi bên kia con khe là B1. Có tiếng í óe về gạo củi, tiếng Huy Ninh A trưởng A3 đang phân công gì đó. Đi theo con khe vào sâu hơn 1 tý hình như là C50.
Trời vẫn mưa. Có chỗ mái tăng trũng, nước đọng nhiều, từ từ đè mái tăng nghiêng đi, trút ào 1 cái xuống đất. Tôi nằm trong võng, nhìn cảnh ấy lặp đi lặp lại nhiều lần. Mỗi khi ngớt mưa, lại phải điều chỉnh mái tăng: để doãng quá thì hay bị tạt bụi nước vào mặt, nhưng thoáng đãng; để cụp quá thì không bị hắt nhưng bí hơi. Nhìn nước giọt xuống quanh mái tăng, sao mà nhớ nhà thế.
Hôm sau trời nắng. Có lệnh sang tập trung bên quả đồi B1 nghe nói chuyện. Một cán bộ chính trị của mặt trận B5 đăng đàn. Anh cán bộ này người Quảng Trị, trạc ngoài 40, thấp béo, sau hông đeo khẩu K54, và một túi mìn Claymore đựng tài liệu. Anh ta nói hào hứng, sôi nổi, khích lệ tinh thần chiến đấu của chúng tôi. Nghe xong ai nấy đều thấy hừng hực, muốn lao ngay vào mặt trận.
Vừa về đến khu vực của trung đội thì được lệnh chuyển chỗ ở. Chán gớm, thế là phải bỏ chỗ nằm tôi đã tốn nhiều công sức mới có. Chúng tôi cuốn đồ đạc, đi ngược lại đường hôm nọ theo con khe khoảng 200m rồi leo lên một sườn đồi hạ trại.
Võng của tôi, Duy Minh, Lâm Thành mắc liền nhau thành một vệt ven khe nước. Bên dưới gần khe hơn là đường đi, bếp và võng của anh Đạm B phó. Mưa liên tục, chúng tôi phải tốn nhiều sức để làm một cái bếp kiên cố, tất cả ni-lông bếp của các tiểu đội đều được huy động.
Sáng hôm sau chúng tôi xuống khe đánh răng rửa mặt, nước chảy khá xiết. Sau đó tôi và mấy cậu nữa theo anh Đạm đi lấy gạo. Chí Thành đi bên tôi phàn nàn về tệ phân công không hợp lý của A5. Đi ven khe, vượt một cái cầu nhỏ, lên dốc, chúng tôi chợt thấy những chiếc lán của một bệnh viện dã chiến. Các thương bệnh binh đang ngồi ăn quanh những chiếc bàn ghép bằng cây sậy ở ngoài sân. Họ ăn khá sang, có cá khô và bột trứng. Lại xuống dốc, lội khe một quãng dài. Đi qua một túp nhà gianh, tôi tò mò nhìn những cuộn dây điện to nhỏ, đủ loại đồng nhôm, dây cáp, dây trần. Hình như đây là trạm bảo dưỡng đường dây. Những hàng cột điện thẳng tắp chạy ven đồi, ven suối, từ đồi này sang đồi khác, hoặc ở lưng chừng núi, với những ống sứ trắng như những bông hoa, khiến ta phải khâm phục công sức của những chiến sĩ đường dây. Chúng tôi sắp ra khỏi rừng thì máy bay Mỹ đến quần đảo trên đầu ầm ĩ. Đành phải ngồi chờ vậy, bây giờ mà đi ra nơi trống trải thì nguy hiểm lắm. Tôi và Chí Thành ngồi dưới một gốc cây, vừa ăn cơm nắm vừa nói chuyện. Chỗ này rừng toàn cây to, chúng tôi có thể nhìn thấy những chiếc F4 lao sạt ngon cây, phun khói đen kịt và gào tưởng rách màng nhĩ.
Ra khỏi rừng tôi nhập bọn với Mai Quý Cường, Nhuận “nhà báo”, Sinh A3... Chúng tôi đi giữa vùng cỏ gianh, thỉnh thoảng có những bụi de hay bụi tre cao vóng lên, lá phơ phất. Con đường đất đỏ quạch, hai bên có những gốc cây đen sì, thấy gọi là con đường tăng, chắc để xe tăng đi.
Cả vùng này thuộc khu vực Bãi Hà lừng danh mà tất cả chiến sĩ mặt trận B5 đều biết. Bắt đầu rẽ vào rừng có kho quân nhu. Gạo vãi dọc dường nhiều vô kể, chỗ thì mốc xanh, chỗ thì đã thành những hạt đen sì. Trên một bãi mua mọc cao vượt đầu, có một vạt cháy đen: mấy chiếc xe trúng đạn rúm ró, nằm chổng vó. Đi dọc đường ô-tô quang cảnh làm tôi suy nghĩ nhiều. Những viên thuốc đạn pháo vung vãi khắp nơi, ủng nước. Rất nhiều hòm đạn pháo vứt tung tóe hai bên đường, hòm rỗng nằm lẫn với hòm còn nguyên. Vỏ đạn đồng lăn lóc khắp nơi, đủ các cỡ: 85ly, 122ly, 130ly... Những cái vỏ đạn 130ly to tướng, bằng đồng vàng chóe, có in chữ Liên Xô, Trung Quốc ở ngoài, mỗi cái phải nặng tới 7-8kg. Loại này đem đúc mâm hay chậu thì tốt phải biết. Thế mà giờ nằm bừa bộn trong cỏ, có cái đã rỉ xanh. Thậm chí còn có cả quả đạn nguyên vẹn nằm lộn trong đó. Tôi đau lòng vì biết rằng mỗi quả đạn đó trị giá hơn một năm tiền lương của bố tôi. Người ta rất có lý khi nói rằng, dù trong lao động hòa bình có lãng phí mấy đi nữa, thì cũng không thể so sánh nổi với những tổn phí trong chiến tranh. Nhân dân ta còn nghèo khổ lắm. Tôi ao ước nếu những quả đạn kia biến thành tiền phúc lợi cho dân tộc thì hay biết mấy. Đi lạc ra đường 15, lại phải lộn vào, ngồi nghỉ ở một bãi gỗ, những cây gỗ to đùng. Cạnh đó là một bãi xếp những ống thép tròn mầu xám trắng, thấy nói là ống dẫn dầu. Cuối cùng thì chúng tôi cũng tìm được đến kho gạo. Rừng cây ẩm ướt, những thân cây mọc đầy tầm gửi, đẫm nước, đen xì. Sắp đến kho gạo có khác, gạo rắc đầy đường, mốc xanh mốc vàng. Càng gần kho càng nhiều gạo vãi, thậm chí nhiều chỗ gạo còn trắng tinh, mới nguyên. Những đôi dép lính đầy bùn đất dẫm lên gạo mà đi. Nhìn thật đau xót, nhưng không biết biểu lộ thế nào: xung quanh tôi mọi người đều mệt nhoài, nhễ nhại mồ hôi và bận túi bụi. Anh Đạm hét tôi inh ỏi để cùng chia nhau chỗ gạo cuối cùng. Tôi rời khỏi kho gạo với tâm trí nặng nề.
Trên đường về qua bệnh viện, tôi chợt thấy trong lán có một khuôn mặt quen quen. Tôi kêu lên: “Cao Thành!”, anh ta quay lại nhìn. Tôi bèn vẫy Chí Thành cùng chui hàng rào vào thăm anh ta. Cao Thành là học sinh trường tôi, học trên tôi một lớp, lớp của thày Thung dạy thể dục chủ nhiệm. Còn nhớ hồi chúng tôi mới vào lớp 8, anh ta được thầy Thung cử đến điều khiển lớp tôi tập thể dục. Anh ta chơi thể thao rất khá, một lần họp trong Hội trường tròn Bách khoa, anh ta giã giò trên xà kép 32 cái liền làm bọn tôi lác hết cả mắt. Hồi đó nhìn anh ta rất đẹp trai, khỏe mạnh và là học trò cưng của thầy Thung. Cái lán trong bệnh viện trống hoác, sạp nằm được ken bằng thân cây sậy. Cao Thành ngỡ ngàng nhìn tôi nói: “Trông cậu quen lắm mà tớ không nhớ ra”. Giới thiệu là học cùng trường xong, chúng tôi ngồi nói chuyện lúc lâu. Cao Thành bị thương vào mông, vẫn béo tốt dù có hơi chậm chạp. Lớp Cao Thành có 3 cậu cùng đi, đến nay Cao Thành bị thương đi Viện, 1 cậu vẫn ở đơn vị. Còn cậu thứ 3 trong 1 trận đánh phối thuộc với xe tăng ban đêm, bị trúng thương rơi từ xe trước xuống, và chiếc tăng đi sau nghiến lên luôn. Đang nghe chuyện, chợt một cậu lính bước vào làm tôi ngẩn cả người. Má hồng môi đỏ, da trắng, mắt sáng long lanh, anh em sinh đôi với T.H chăng? Tôi phải lắc đầu xua đuổi, định thần nhìn lại. Trông cậu ta dáng lử khử, thì ra đó chỉ là vẻ đẹp bệnh hoạn của một con người đang lên cơn sốt. Cậu ta là trai Hà Nội, nhà ở Hàng Than hay Hàng Gai gì đó, và chả có họ hàng gì với T.H của tôi cả. Tôi săm soi nhìn những chiếc ba-lô ngụy, trông rất lạ mắt, với những đai, những khóa lỉnh kỉnh, và chỉ có hai túi cóc.
Hôm sau tôi và Chí Thành lại tới chỗ Cao Thành để nghe chuyện và hỏi thêm những kinh nghiệm trong chiến trận. Cao Thành cho biết sắp chuyển viện ra ngoài Bắc, mà trong túi chẳng có xu nào. Tôi bèn cho cậu ta 5 đồng và nhờ chuyển hộ mấy phong thư. Kể nhiều chuyện, nhưng rốt cuộc Cao Thành dặn tôi chủ yếu là phải khôn ngoan, trong chiến đấu không chỉ nhìn về phía trước mà còn phải nhìn ngang xem đồng đội như thế nào nữa, phải tùy tình thế để “ứng phó” thì mới mong giữ “gáo” (đầu) được...
Một số cậu lính mới vào đóng gần đó đang ồn ào xem mấy cái màn tuyn của ngụy. Mấy cái màn tuyn này màu xanh đen, mắt tuyn nhỏ, đình bằng vải và thấp tịt. Sở dĩ thấp thế vì phần dưới bằng vải đã bị cắt đi. Đùa chán, mấy cậu đó lại xúm vào ăn nốt thức ăn thừa của các thương bệnh binh bỏ lại trên bàn. Cao Thành nhìn chúng lắc đầu, tôi cũng cảm thấy ngượng lây. Đúng là dạo này chúng tôi sinh hoạt rất kham khổ, ăn uống chẳng có gì. Nhiều cậu lính đã phải đổi thắt lưng đỏ, quần áo mới, võng... lấy mấy cân lương khô. Thương bệnh binh được ra Bắc rất thích những thứ đó, và họ cũng có nhiều lương khô để đổi.
Hôm sau khi chúng tôi lại đến, thì Cao Thành đã chuyển đi rồi. Tôi nhớ cậu ta có nói là ra đến Thanh Hóa sẽ tìm cách trốn về thăm nhà mấy ngày.
Ở Bãi Hà chúng tôi ăn cơm theo Trung đội. Mỗi buổi sáng các A góp gạo, cử người xuống cùng anh Đạm nấu ăn. Tôi cắt việc xuống bếp một cách lần lượt, hai người một ngày. Còn gạo, lúc đầu cũng cắt lần lượt, hôm nay lấy gạo cậu này nấu, mai cậu khác. Về sau để tránh tình trạng người phải mang nặng, người mang nhẹ, tôi quyết định mỗi bữa cậu nào cũng phải bỏ ra một ca gạo. Thức ăn chả có gì, ở đây họ chỉ phát cho mấy hộp ruốc tôm, vừa mặn vừa xáp. Mỗi bữa chỉ có một xoong canh to, nấu bằng ruốc tôm với lá bứa chua chua. Thêm vào đó là món ruốc đi B của từng người. Thế mà chúng tôi ăn khỏe kinh khủng, mỗi đứa 4-5 ca cơm là chuyện bình thường. Ăn xong còn lèn thêm một ca để dành, lúc đói lại dở ra ăn.
Mấy hôm nay tôi không được khỏe vì bị đi ỉa lỏng. Hình như đang có dịch, vì nhiều người cũng bị như vậy. Cảm thấy mệt mỏi, thở không ra hơi. Đành phải giở hộp thuốc cá nhân ra, chọn lọ thuốc đi ỉa uống dần, sau vài ngày thì khỏi.
Anh Bính kêu gọi mọi người đi kiếm củi. Những ngày mưa thế này, củi khô rất khó kiếm. Chúng tôi có kinh nghiệm là đi tìm các bếp Hoàng Cầm cũ, phá ra thì tha hồ.
Một số cậu xuống làm giếng, bằng cách lấy đá xếp cao lên quanh 1 hố nước cạnh khe. Trời mưa nước khe to thì không sao, nhưng bình thường nước khe cạn và bẩn vì nhiều người dùng vô ý thức, thậm chí phóng uế cả xuống khe, nên việc đào giếng là cần thiết.
Mưa liên tục, sao mà buồn thế. Chợt nghe Duy Minh nằm gần đó hát bài “Bạn ơi tôi tin tưởng”. Bài hát Nga lời Việt về nghề phi công nghe cũng hay hay. Ở nhà tôi cũng có đĩa hát này, nhưng lời Nga nên không hiểu gì. Tôi bèn đề nghị Duy Minh dạy hát. Cứ thế Duy Minh đọc câu nào tôi nhắc lại câu ấy cho đến khi thuộc thì thôi. Lâm Thành nằm gần đấy cũng phụ họa theo cho đỡ buồn.
Võng tôi không có cọc phụ nên nước mưa chảy dọc thân cây truyền theo dây võng làm ướt sũng hai đầu. Anh Mùi chính trị viên Tiểu đoàn đi qua thấy vậy dừng lại hỏi: “Tại sao cậu không mắc cọc phụ? Nằm thế này ướt hết không bảo đảm sức khỏe”. Anh ra lệnh cho tôi và Duy Minh phải làm lại chỗ nằm thật tử tế, đi họp về anh sẽ kiểm tra. Báo hại hai thằng phải đi tìm cọc và buộc dây mất cả buổi.
Sau bữa cơm, thấy đám lính xúm xít quanh mấy người đang kể chuyện, tôi lại gần nghe. Mấy người này mặt mũi hốc hác, mặc quần áo lính cộc tay nhem nhuốc, kể về chiến trận và cối cá nhân M79 với một vẻ khiếp đảm. Ai đó rỉ vào tai tôi: “Mấy thằng đảo ngũ đấy”.
Chợt có lệnh thu hết súng và bao xe, chỉ để lại mấy khẩu của các A trưởng. Mấy cậu ngại mang nặng cười hí hửng: “Tớ biết mà, vào chiến đấu phải phát súng khác chứ”! Quả thật vừa rồi trên đường hành quân nhiều cậu quăng quật súng ghê quá, sợ có khẩu bị cong nòng.
Tiểu đoàn 60 đã mang súng đi nộp từ chiều, giờ đến lượt tiểu đoàn tôi. Tất cả phải đi trả súng, mỗi A chỉ để lại một người trông đồ đạc. Anh Đạm gọi tôi xuống, bảo tôi nằm vào cái võng ni-lông của anh mà nghỉ, và trông nồi xoong bếp núc luôn.
Buổi tối nào cũng vậy, khi tất cả nằm vào võng là tiếng chửi nhau vang lên í ới. Thật là một cách giải trí kỳ quặc. Chửi nhau không phải vì xích mích nhau, mà chỉ để cho đỡ buồn. Chửi lẫn nhau chán, lại réo tên B trưởng các B khác để chửi. Chẳng hạn lính B1 đồng thanh hô: “Bính “tẩm“!” (Bính là B trưởng B2), thì lính B2 đồng thanh hô lại: “Trọng “say rượu“!” (Trọng là B trưởng B1). Cán bộ đã nhắc nhở mãi nhưng chẳng ăn thua gì.
Hôm sau anh Bính lệnh cho những người nằm gần khe suối phải di chuyển lên chỗ cao hơn. Anh giải thích là máy bay địch hay đánh dọc khe suối. Như vậy là tôi, Duy Minh và Lâm Thành phải chuyển đi. Chúng tôi rất bực, Lâm Thành chửi đổng ầm ĩ. Tôi và Duy Minh cuốn đồ lề leo tít lên cao, nơi chưa có ai ở cả. Sau một buổi phát quang cật lực, rồi cũng được một chỗ nằm tươm tất, hai đứa mắc võng châu đầu vào nhau. Sau đó tôi đi kiếm củi, nhân dịp nhòm ngó tìm hiểu khu vực xung quanh luôn. Khắp nơi cứt đái vung vãi, toàn cây lá nón, không một bóng người. Tôi nảy ra ý định thử súng, để xem khẩu súng của tôi qua một hành trình như vậy có bị kém chính xác đi không? Thế là nhằm đỉnh đồi bươn tới, luồn qua các bụi cây rậm rạp và nhiều dây leo chằng chịt. Có lúc cũng hơi sợ, nhỡ quơ phải một con rắn hay đạp phải một con trăn thì sao? Đi hồi lâu tới một khe đá cạn, đoán từ đây tiếng súng khó lọt tới nơi đóng quân, tôi bèn dừng lại, rồi chọn một cái cây bằng bắp chân làm đích. “Đoành đoành!”, cây súng nẩy lên trên tay. Tôi chạy tới xem, hai viên đạn đều trúng cây, nhưng lỗ trên cách lỗ dưới tới 50cm. Phấn khởi, tôi bắn tiếp “Đoành đoành”. Mùi thuốc súng tỏa ra khét lẹt, tôi xách súng băng về. Đang tháo súng ra lau, chợt giật mình thấy anh Bính đến. Anh nhìn tôi với cặp mắt dò xét: “Cậu vừa bắn hả?”. Tôi định chối thì anh đã cầm cái kim hỏa lên ngửi làm tôi cứng họng. “...Vâng... Em xin lỗi”. Anh nói: “Cậu thử nghĩ xem, tôi tin tưởng cậu là A trưởng... Thế mà cậu lại làm như vậy...”. Tôi bối rối vô cùng. Vốn không ưa anh Bính, nhưng lần này mình trái lè lè, đành phải xin lỗi anh mãi. Một lúc sau anh bỏ đi.
Hầu như suốt ngày tôi và Duy Minh nằm trên võng trong lãnh thổ riêng của hai thằng. Cả hai đứa đều là học sinh nên rất thông cảm và tâm đầu ý hợp. Trong những ngày lê thê đó, tôi và Duy Minh đã tâm sự cho nhau nghe tất cả những nỗi niềm riêng tư thầm kín, những suy nghĩ ước mơ. Khó mà quên được cảnh hai thằng trên hai cánh võng trong rừng già, bên những bụi lá nón xào xạc, thì thầm kể lại cho nhau nghe về quãng đời học sinh của mình và những ngày nghỉ phép vừa qua.
Hai nhân vật nữ mà Duy Minh nhắc tới nhiều nhất là Hòa và Dư Loan. Hòa đẹp, thông minh, học cùng lớp. Dư Loan là bạn cũ, không đẹp lắm nhưng ngoan, có bố là Đại tá xe tăng. Qua câu chuyện, tôi thấy Duy Minh yêu Hòa hơn, và vẫn còn cay đắng về mấy ngày phép vừa rồi. Khi biết Minh là lính bộ binh, Hòa nói: “Tôi tưởng bạn đi xe tăng, tên lửa, chứ ai ngờ bạn trở thành một anh lính “bò binh ”. Tuy không nói ra, nhưng tôi không tán thành Hòa lắm. Minh còn say sưa kể cho tôi nghe những chuyện trong trường lớp, những tối tập văn nghệ ở ngã năm Trần Hưng Đạo-Lê Thánh Tông, những ngày đi học múa...
Tôi cũng kể hết cho Minh nghe những kỷ niệm trong đời học sinh của mình, nhất là về mối tình thầm lặng với T.H. Hai đứa cùng mơ ước sắp tới vào đánh một vài trận rồi được quay ra đi học lại, biết đâu Tết này còn được ăn Tết ở nhà cũng nên, vì năm 1972 là năm bản lề mà. Gia đình mà thấy con về chắc sẽ mừng lắm. Có lần tôi nói đùa với Minh: “Làm trai thời đại này mà không biết bắn AK, thụt B40, ném lựu đạn, thì không phải là thân trai!”...
Đang mơ màng, tôi không để ý tới những tiếng loạt soạt khả nghi. Chợt thấy Minh nói khẽ, gần như rít lên: “Vinh! Khỉ...!”. Tôi chưa kịp hiểu Minh nói gì, thì cậu ta chỉ lên ngọn cây. Theo hướng đó, tôi nhìn thấy cả một đàn khỉ cộc đuôi, con thì lông vàng, con thì hung hoặc xám... Nhưng bọn chúng tinh lắm, vừa thấy chúng tôi là bọn chúng chuyền cành biến mất hút...
Chợt có tiếng Chí Thành gọi đi ăn cơm. Chúng tôi xuống dốc, đi ngang qua võng cậu ta. Những hôm trời mưa, trông Chí Thành loay hoay trong cái ổ của mình rất buồn cười. Võng mắc ngang dốc nên một bên gần như sệt xuống đất, bùn bắn lên bê bết, phải rải lá nón làm thảm chống bẩn. Xung quanh tăng của Thành lủng củng những dây chằng cọc chống, lại đặt mấy cái thùng sắt tây để hứng nước. Đại khái Thành tìm mọi cách tạo đủ tiện nghi cho chỗ ở. Tôi và Thành ăn xong thường cất thêm một ca cơm để dành, lúc đói lại đem ra ăn. Những lúc chuyện gẫu, hai đứa thường giở ảnh ra xem. Thành có cái ảnh chụp cả lớp 10B quý thật, tôi định xin mà không được.
Buổi tối có lệnh nấu cơm nắm chuẩn bị sáng mai lên đường.
Quảng Trị 1972 Quảng Trị 1972 - Nguyễn Quang Vinh Quảng Trị 1972