Nguyên tác: Interviewwith The Vampire (The Vampire Chronicles Series , Book 1)
Số lần đọc/download: 0 / 9
Cập nhật: 2023-06-22 21:33:27 +0700
Chương 7
“T
a nghĩ chỉ riêng cái tên Paris đã mang đến cho ta một niềm vui lạ thường, một sự khuây khỏa gần như là hạnh phúc đã khiến ta rất bất ngờ, không chỉ vì đang cảm nhận được rõ rệt cảm xúc đó, mà còn vì gần như đã quên mất nó.”
“Không biết anh có hiểu được điều này có ý nghĩa thế nào với ta không. Giờ đây ta không nói rõ được điều đó, vì bây giờ Paris đối với ta có một ý nghĩa rất khác với Paris của ngày tháng đó, trong khoảnh khắc đó; dù vậy, đến tận bây giờ, suy nghĩ về Paris vẫn làm trỗi lên trong ta một cảm giác gần như là hạnh phúc. Ta của lúc này có nhiều lý do hơn bao giờ hết để nói rằng hạnh phúc đó ta chưa từng biết, hoặc cũng chưa bao giờ xứng đáng được biết. Ta không mấy quan tâm tới hạnh phúc. Nhưng cái tên Paris vẫn khiến ta có cảm giác đó.”
“Cái đẹp trần tục thường khiến ta đau đớn, và sự xa hoa trần tục có thể làm ta tràn ngập nỗi khát khao đã từng khiến ta tuyệt vọng khi ở biển Địa Trung Hải. Nhưng Paris, Paris lại kéo ta tới gần trái tim nàng, giúp ta có thể hoàn toàn quên đi bản thân mình. Quên đi việc bị nguyền rủa, quên đi nhiệm vụ săn lùng những vết cắn dị thường trên da và trên quần áo con người. Paris bao trùm ta, rọi sáng ta và là sự đền đáp tuyệt vời với ta hơn bất cứ lời hứa hẹn nào.”
“Paris là mẹ của New Orleans, trước hết anh phải hiểu điều đó; chính nó đã tạo ra hơi thở đầu tiên và những công dân đầu tiên cho New Orleans; và nó là ngưỡng vọng mà New Orleans từ lâu đã cố gắng để đạt được. Nhưng New Orleans, dù rất đẹp và cực kỳ sống động, vẫn luôn có cái gì đó vô cùng mong manh. Ở đó luôn tồn tại điều gì đó vĩnh viễn hoang dã và nguyên sơ, thứ đe dọa cuộc sống kỳ lạ và phức tạp của nó cả từ bên ngoài lẫn bên trong. Không một mi li mét nào trên những con phố lát gỗ và không một viên gạch nào của những ngôi nhà Tây Ban Nha chen chúc nhau lại không được mang đến từ vùng hoang dã man rợ đời đời bao quanh thành phố, vùng đất luôn sẵn sàng nhấn chìm nó. Bão, lũ lụt, sốt, dịch hạch và khí hậu ẩm ướt của Louisiana không ngừng giáng xuống từng miếng ván gỗ và từng mặt tiền đá của thành phố, thế nên New Orleans dường như luôn là một giấc mơ trong trí tưởng tượng của những cư dân không ngừng đấu tranh, một giấc mơ được những con người ấy giữ vẹn nguyên trong từng phút giây, bằng một ý chí gan lì, dù là trong vô thức, của cả một cộng đồng.”
“Nhưng còn Paris, Paris là một vũ trụ toàn vẹn trong chính lòng nàng, là một thành phố có chiều sâu lịch sử và là nguồn gốc của nhiều dòng chảy khác; vì vậy, vào thời bấy giờ, dưới quyền cai trị của Vua Napoleon III, nàng có vẻ bao la và vững bền như chính thế giới tự nhiên, với những tòa nhà cao chót vót, những thánh đường đồ sộ, những đại lộ rộng lớn và những con phố quanh co từ thời Trung cổ. Tất thảy được ôm ấp bởi nàng, bởi những người dân hay thay đổi đã bị nàng quyến rũ, luôn chen chân vào các phòng triển làm nghệ thuật, các nhà hát và các quán cà phê, liên tục sinh ra vô số các bậc thánh nhân và thiên tài, triết lý và chiến tranh và sự phù phiếm cũng như nghệ thuật tinh túy nhất; vậy nên, người ta có cảm giác như kể cả toàn bộ thế giới bên ngoài nàng có chìm vào bóng tối thì những tinh hoa trong nàng, vẻ đẹp của nàng, những điều cốt yếu nhất của nàng vẫn sẽ tiếp tục bừng nở thành bông hoa rực rỡ nhất. Ngay cả những cây cổ thụ kỳ vĩ đang yêu kiều chở che mỗi con đường cũng hòa hợp với nàng, và dòng nước sông Seine, trĩu nặng và xinh đẹp uốn lượn quanh trái tim nàng, khiến cho mặt đất nơi đó, được hình thành bởi máu và ý thức, không còn chỉ là một khối đất nữa mà đã trở thành Paris.”
“Bọn ta đã hồi sinh. Bọn ta lại bừng cháy yêu thương, và sau những đêm dài vô vọng lang thang khắp vùng Đông Âu, ta phấn khích đến nỗi đã hoàn toàn bị Claudia thuyết phục chuyển đến khách sạn Saint-Gabriel trên đại lộ Capucines. Nghe đồn nơi đó là một trong những khách sạn lớn nhất châu Âu, những căn phòng mênh mông của nó khiến cho ngôi nhà cũ trong ký ức bọn ta nhỏ bé lại, nhưng cũng đồng thời gợi ta nhớ về cảm giác thoải mái và nguy nga của nơi đó. Bọn ta đã có một trong những dãy phòng tốt nhất. Cửa sổ phòng nhìn ra đại lộ với những cây đèn khí hai bên đường, nơi tối tối, vỉa hè sẽ ngập tràn người đi bộ và dưới lòng đường là dòng chảy bất tận của những cỗ xe ngựa chở các quý bà ăn bận lộng lẫy và các quý ông của họ tới nhà hát opera, nhà hát opera comique, sân khấu ba lê, sân khấu kịch, cùng những buổi khiêu vũ và tiếp tân không bao giờ ngưng tại Công điện Tuileries.
“Claudia đã đưa ra những lý do cho khoản chi này một cách rất nhẹ nhàng và hợp lý, nhưng ta có thể nhận thấy cô bé thấy sốt ruột khi phải nhờ ta thu xếp tất cả, việc đó khiến em mệt mỏi. Cái khách sạn này, Claudia nói, đã lặng lẽ dành cho bọn ta sự tự do tuyệt đối, thói quen ăn đêm của bọn ta không bị những dòng khách du lịch châu Âu liên miên để mắt đến, phòng bọn ta luôn được những nhân viên vô danh dọn dẹp tinh tươm trong khi số tiền khổng lồ mà ta chi trả có thể đảm bảo sự riêng tư và an toàn tuyệt đối cho cả hai. Nhưng chuyện còn phức tạp hơn thế. Việc mua sắm của cô bé như bị thúc đẩy bởi một nhu cầu rất cấp thiết.”
“Đây là thế giới của em, cô bé giải thích với ta khi đang ngồi trên một chiếc ghế nhỏ bọc nhung bên ban công, ngắm hàng xe ngựa dài lần lượt đỗ lại trước cổng khách sạn. Em phải sắp xếp nó theo ý thích, cô bé nói như thể đang độc thoại với chính mình. Và em đã sắp xếp thế giới của mình đúng như ý thích, giấy dán tường tuyệt đẹp màu hồng và vàng ánh, vô số đồ nội thất bọc gấm và nhung, những chiếc gối thêu và rèm lụa cho chiếc giường bốn chân. Hàng chục bông hồng ngày ngày được bày trên nóc lò sưởi bằng đá cẩm thạch và trên chiếc bàn khảm trai, chen chúc ở một góc tường có màn che trong phòng thay đồ của cô bé, phản chiếu bất tận trong những tấm gương đặt nghiêng. Và cuối cùng, em phủ kín ô cửa sổ cao kiểu Pháp bằng một vườn hoa trà và dương xỉ. Em nhớ những bông hoa, em nhớ những bông hoa nhiều hơn bất cứ thứ gì, cô bé trầm ngâm. Và em tìm kiếm những bông hoa cả trên những bức tranh sơn dầu tuyệt mỹ mà bọn ta mua về từ các cửa hàng và các phòng triển lãm, những họa phẩm lộng lẫy mà ta chưa từng thấy ở New Orleans - từ những bó hoa được vẽ theo trường phái cổ điển, sống động như thật, khiến ta chỉ muốn chạm tay lên những cánh hoa đang rơi trên tấm khăn trải bàn ba chiều, đến phong cách hội họa mới và đáng sợ với những màu sắc cực kỳ rực rỡ, đến mức chúng xóa nhòa đi những đường nét cũ và tính toàn vẹn cũ, tạo nên một ảo ảnh giống như những lúc ta mê sảng, và những bông hoa phình lên trước mắt ta, rồi nổ tanh tách ra như những đốm lửa trong đèn. Paris đã tràn vào những căn phòng này.”
“Ta lại thấy như mình đang được ở nhà, lại đặt sang một bên những giấc mơ về cuộc sống giản đơn và tách biệt để nhận lấy những gì mà người khác đã nhẹ nhàng một mực đòi trao cho ta, bởi vì không khí ở đây cũng ngọt ngào như trong khoảng sân của bọn ta Rue Royale, và tất cả đều ngập trong ánh sáng rực rỡ của vô số ngọn đèn khí, khiến ngay cả những góc khuất nhất của trần nhà chạm khắc hoa văn tinh tế cũng được chiếu sáng. Ánh sáng chạy trên những vòng xoắn mạ vàng, nhấp nháy trên những hạt trang trí của chiếc đèn chùm. Bóng tối không tồn tại. Ma cà rồng cũng không tồn tại.”
“Và ngay cả khi luôn chú tâm vào cuộc tìm kiếm, ta vẫn thấy thật tuyệt vời khi nghĩ rằng cha và con gái có thể dành ra một giờ đồng hồ ngồi trên chiếc xe ngựa sang trọng và tân thời, chạy dọc theo bờ sông Seine, vượt qua cây cầu bắc qua sông, tiến vào khu Latin và đi dạo trên những con đường nhỏ hơn, tối hơn để tìm kiếm lịch sử, chứ không phải nạn nhân. Sau đó, bọn ta sẽ trở về với chiếc đồng hồ đang kêu tích tắc, chiếc vỉ lò sưởi bằng đồng và những lá bài xếp trên mặt bàn. Những cuốn thơ, tờ chương trình của một vở kịch, và bao quanh là những tiếng râm ran khe khẽ của khách sạn rộng lớn, tiếng đàn violin vọng lại từ xa, giọng nhanh và sinh động của một phụ nữ hòa lẫn vào tiếng lược chải tóc, và một anh chàng ở tầng trên cứ lặp đi lặp lại câu nói này với trời đêm, “Tôi hiểu rồi, tôi chỉ mới bắt đầu, tôi chỉ mới bắt đầu hiểu được mà thôi...”
“Đây có phải cuộc sống mà anh muốn không? Claudia hỏi, có lẽ chỉ để cho ta biết em vẫn không quên ta, bởi vì em đã tĩnh lặng suốt nhiều giờ, không nói một lời về ma ca rồng. Nhưng có gì đó không ổn. Đó không còn là sự thanh thản của ngày xưa, cũng không phải vẻ trầm mặc của sự hồi tưởng. Trong giọng em ẩn chứa nỗi buồn sâu sắc, một cảm giác bất mãn âm ỉ. Dù cho cảm xúc đó sẽ biến mất khỏi mắt em khi ta gọi tên hoặc đáp lời em, cơn tức giận trong em dường như đã dâng lên đến độ sắp lộ ra mặt.”
“Ồ, em biết là ta muốn cuộc sống như thế nào mà, ta trả lời cô bé, khăng khăng bám lấy ảo tưởng của riêng mình. Một căn gác xép nào đó ở gần Học viện Sorbonne, đủ gần để có thể nghe được tiếng ồn trên phố St Michel, nhưng cũng đủ xa. Nhưng về cơ bản, ta muốn cuộc sống này hợp ý em. Và ta có thể thấy má cô bé đỏ lên, nhưng em chỉ liếc nhìn ta, như thể để nói rằng, “Anh không có cách nào giúp em được đâu; đừng lại quá gần; đừng hỏi ngược em điều em hỏi anh: em có bằng lòng với cuộc sống này không?”
“Ký ức của ta quá rõ ràng, quá sống động; những thứ sắc cạnh sẽ bị mài mòn đi và những thứ thô ráp sẽ trở nên mềm mại. Thế nên, những cảnh tượng ta đã từng thấy vẫn luôn còn lại trong tim ta như những bức họa lồng trong mặt dây chuyền; thế nhưng đó là những hình ảnh quái dị mà không một họa sĩ hay chiếc máy ảnh nào có thể bắt được; và hết lần này đến lần khác, ta thấy cảnh tượng Claudia đứng bên cây đàn piano trong đêm cuối ấy trong khi Lestat đang chơi nhạc và sắp sửa đến với cái chết, thấy vẻ mặt của em khi bị hắn mỉa mai, cái vẻ rúm ró lập tức biến thành một cái mặt nạ; nếu chú ý hơn, có lẽ hắn đã không mất mạng, đó là nếu hắn thật sự đã chết.”
“Có điều gì đó đang tích tụ lại trong Claudia và từ từ lộ ra trước mắt nhân chứng bất đắc dĩ nhất trên đời. Cô bé có niềm đam mê mới với những chiếc nhẫn và vòng tay không dành cho trẻ em. Dáng đi thẳng thắn, duyên dáng của cô bé cũng không còn là của một đứa trẻ, em thường tiến vào những cửa hàng thời trang trước ta và chỉ tay đầy oai vệ vào một lọ nước hoa hoặc đôi găng tay nào đó rồi tự mua chúng cho mình. Ta không bao giờ đứng quá xa em và luôn cảm thấy không thoải mái - không phải vì ta sợ điều gì trong thành phố rộng lớn này, mà là vì ta sợ em. Cô bé đã luôn là “đứa trẻ đi lạc” đứa trẻ mồ côi, trong mắt những nạn nhân của em, còn bây giờ, em có vẻ đã biến thành thứ gì đó khác - một thứ ma quái và kinh khủng đối với những người qua đường sẽ bị em quyến rũ. Tuy nhiên đó thường là những suy nghĩ của riêng ta; em sẽ bỏ mặc ta khoảng một giờ đồng hồ, để ta dạo bước bên những công trình kiến trúc điêu khắc của Nhà thờ Đức Bà Paris hoặc ngồi trong xe ngựa, đậu ngoài rìa một công viên và chờ đợi.”
“Và rồi một đêm nọ, khi thức dậy trên chiếc giường xa hoa trong phòng khách sạn, cuốn sách đang đọc dở cộm lên dưới lưng, ta nhận ra em đã biến mất. Ta không dám hỏi người phục vụ có thấy cô bé đâu không. Bọn ta có thói quen vụt qua trước mắt họ như những bóng ma; họ không biết tên bọn ta. Ta sục sạo khắp mọi hành lang, mọi nẻo đường để tìm cô bé, thậm chí ta còn đến cả phòng khiêu vũ, ta cảm thấy lo sợ một cách khó lý giải khi nghĩ em đang ngồi đó một mình. Nhưng cuối cùng, ta nhìn thấy cô bé bước qua những cánh cửa bên hông tiền sảnh khách sạn, mái tóc dưới vành chiếc mũ nhỏ lấp lánh những giọt mưa đêm, cô bé chạy vội như thể đang có một cuộc phiêu lưu tinh nghịch nào đó, làm sáng bừng khuôn mặt âu yếm của những người đàn ông và phụ nữ trong khi em bước lên cầu thang và đi qua ta, như thể không hề nhìn thấy ta. Đó là điều bất khả, một sự phớt lờ duyên dáng lạ thường.”
“Ta đóng cửa phòng lại khi cô bé đang cởi áo choàng, rũ áo lắc đầu tạo thành một cơn mưa vàng lấp lánh. Dải ruy băng tuột ra khỏi chiếc mũ nhỏ và ta bỗng thấy vô cùng nhẹ nhõm khi được thấy chiếc váy trẻ con đó, những dải ruy băng đó, và trong tay cô bé là một vật khiến ta yên lòng đến diệu kỳ, một con búp bê nhỏ bằng sứ. Cô bé vẫn không nói với ta lời nào; em còn đang mải mê với con búp bê. Bàn chân nhỏ xíu của nó rung lên như chuông và được nối vào cơ thể bên dưới chiếc váy ren bằng móc hay dây kim loại gì đó. Nó là một búp bê tiểu thư, cô bé nói, ngước lên nhìn ta. Anh thấy không? Một búp bê tiểu thư. Cô bé đặt con búp bê vào tủ quần áo.”
“Đúng thế,” ta thì thầm.
Một phụ nữ đã làm ra nó, cô bé nói. Cô ấy làm những con búp bê trẻ con, luôn luôn như vậy, búp bê trẻ con, một cửa hàng toàn búp bê trẻ con, cho đến khi em bảo cô ấy, “Tôi muốn một búp bê tiểu thư.”
“Giọng em đầy châm chọc, bí ẩn. Em ngồi đó, những sợi tóc ướt dính bết trên trán, chăm chú nhìn con búp bê. “Anh có biết tại sao cô ấy lại làm con búp bê này cho em không?” cô bé hỏi. Ta ước gì căn phòng có những góc tối để ta có thể lui khỏi quầng sáng ấm áp của lò sưởi và trốn vào trong chúng, ta ước gì mình đừng ngồi trên giường như thể đang đứng trên một sân khấu sáng choang và nhìn cô bé tay áo phồng ngồi ngay phía trước nhìn bóng em phản chiếu trong gương.”
“Bởi vì em là một cô bé xinh đẹp và cô ấy muốn làm cho em hạnh phúc,” ta trả lời, tự cảm thấy xa lạ trước giọng nói lí nhí của mình.
“Cô bé bật cười không thành tiếng. Một cô bé xinh đẹp, cô bé nói và liếc nhìn ta. “Anh vẫn nghĩ về em như thế ư?” Và khuôn mặt cô bé tối sầm lại khi em chơi cùng con búp bê, những ngón tay em kéo đường viền cổ áo thêu nhỏ xíu xuống khuôn ngực bằng sứ. Phải, trông em giống những con búp bê trẻ con của cô ấy, em chính là con búp bê trẻ con của cô ấy. Anh phải thấy cô ấy làm việc trong cửa hàng đó ra sao, gục đầu trên những con búp bê, con nào cũng có cùng một khuôn mặt, một đôi môi. Cô bé chạm một ngón tay lên môi mình. Dường như có cái gì đó vừa đột ngột thay đổi, cái gì đó ẩn bên dưới chính những bức tường phòng, và tấm gương đang phản chiếu hình ảnh cô bé chợt rung lên như thể mặt đất vừa trút ra một tiếng thở dài bên dưới móng nhà. Xe ngựa chạy rầm rầm ngoài đường phố, nhưng chúng ở rất xa. Và rồi ta thấy cơ thể vẫn còn là một đứa trẻ của Claudia đang làm gì: cô bé giữ con búp bê trong một bàn tay, bàn tay còn lại đang đặt trên môi mình; và bàn tay đang nắm con búp bê bóp nghiến lại, bóp nghiến cho đến khi con búp bê kêu rắc một tiếng rồi vỡ nát, rơi từ bàn tay đầm đìa máu của cô bé xuống sàn nhà. Em vặn chặt chiếc váy nhỏ xíu của con búp bê, tạo thành một cơn mưa sứ vụn trong khi ta quay mặt đi, để rồi lại thấy bóng em phản chiếu trong tấm gương trên lò sưởi, thấy mắt em đang quét khắp cơ thể ta từ chân lên đầu. Bóng em trong tấm gương tiến về phía ta và ngồi lên giường.”
“Tại sao anh quay mặt đi, tại sao anh không nhìn em?” cô bé hỏi, giọng rất êm ái, rất giống tiếng chuông bạc đang ngân vang. Nhưng rồi em bật cười dịu dàng, tiếng cười của một phụ nữ, và nói, “Anh nghĩ rằng em sẽ là con gái anh mãi mãi sao? Anh có phải người cha trong số những kẻ ngốc, kẻ ngốc trong số những người cha?”
“Những lời em nói thật tàn nhẫn với ta,” ta đáp lại.
“Hừmmm... tàn nhẫn.” Cô bé gật đầu. Em là ngọn lửa rực sáng nơi khóe mắt ta, ngọn lửa xanh, ngọn lửa vàng.
“Vậy người ta nghĩ gì về em,” ta hỏi, dịu dàng hết mức, “ở ngoài kia?” Ta chỉ tay ra phía ô cửa sổ đang mở rộng.
“Rất nhiều điều. Cô bé mỉm cười. Rất nhiều điều. Con người thật giỏi lý giải. Anh đã thấy “người tí hon” trong công viên, trong những gánh xiếc, trong những màn trình diễn quái dị mà con người vẫn thường trả tiền để mua vui chưa?”
“Ta chỉ là một phù thủy tập sự!” đột nhiên ta hét lên, dù không muốn. “Một kẻ tập sự!” ta nói. Ta muốn chạm vào cô bé, vuốt ve mái tóc em, nhưng ta chỉ ngồi im một chỗ và thấy sợ em, cơn giận dữ của cô bé như một que diêm sắp bùng cháy.
“Cô bé lại mỉm cười một lần nữa, rồi kéo tay ta đặt lên đùi em, cố gắng úp bàn tay bé nhỏ của em che kín tay ta. Một kẻ tập sự, vâng, cô bé bật cười. Nhưng hãy nói em biết một điều, một điều từ trên tầm cao vời vợi ấy. Nó có cảm giác như thế nào... tình dục ấy?”
“Ta bất giác lùi ra xa khỏi cô bé, tìm áo choàng và găng tay, lóng ngóng như người phàm vụng về. “Anh quên rồi sao?” cô bé hỏi bằng giọng cực kỳ điềm tĩnh khi ta đặt tay lên tay nắm cửa bằng đồng.”
“Ta dừng lại, hổ thẹn, cảm thấy đôi mắt cô bé đang chiếu lên lưng mình, rồi ta quay đầu lại, ngơ ngác như thể không biết mình đang định đi đâu, mình định làm gì, tại sao mình lại ở đây?”
“Nó là một thứ vội vã,” ta nói, cố gắng nhìn thẳng vào mắt cô bé. Đôi mắt em mới xanh biếc hoàn hảo và lạnh lùng làm sao. Háo hức làm sao. “Và... nó hiếm khi được thưởng thức... Một thứ mãnh liệt nhưng tan biến rất nhanh. Ta nghĩ nó chỉ là một cái bóng mờ nhạt so với việc giết chóc.”
“A...” cô bé nói. “Cũng giống như nỗi đau đớn em đang gây ra cho anh bây giờ... nó cũng là một cái bóng mờ nhạt của việc giết chóc.”
“Vâng, thưa quý cô,” ta nói với cô bé. “Ta cho rằng quý cô đã liên tưởng chính xác rồi đấy.” Và ta cúi đầu chớp nhoáng, chúc em ngủ ngon.
“Sau khi đã rời khỏi cô bé một hồi lâu, ta mới có thể bước chậm lại. Ta đã qua bờ bên kia sông Seine. Ta muốn bóng đêm. Để trốn khỏi cô bé, trốn khỏi những cảm xúc đang trào lên trong lòng và nỗi sợ bao trùm khủng khiếp rằng ta hoàn toàn không thể khiến em hạnh phúc, hoặc là khiến chính mình hạnh phúc, bằng cách làm hài lòng em.”
“Nếu có thể khiến em hạnh phúc, ta sẵn sàng từ bỏ thế giới này; thế giới mà bọn ta đang chiếm hữu, cái thứ dường như vừa vô nghĩa vừa vĩnh cửu. Nhưng lời nói và ánh mắt của em đã khiến ta đau lòng, và không có lời giải thích nào hiện ra trong tâm trí ta hay hiện thành những tiếng thì thầm tuyệt vọng trên môi ta, trong khi ta rời khỏi phố St. Michel và tiến ngày một sâu hơn vào đường phố tối tăm của khu Latin: không một lời giải thích nào có thể xoa dịu cái mà ta nghĩ là nỗi bất mãn khủng khiếp của em và nỗi đau của chính mình.”
“Cuối cùng, ta chẳng thốt lên được gì khác ngoài một bài kinh lạ lùng. Ta đang dạo bước trên một con phố thời Trung cổ tĩnh lặng tối tăm, mò mẫm lần theo những lối ngoặt của nó, được an ủi bởi những tòa chung cư cao hẹp dường như có thể kéo nhau đổ xuống bất cứ lúc nào, xếp sin sít lại như một đường chỉ che kín con hẻm dưới những vì sao hững hờ. “Ta không thể làm cô bé hạnh phúc, ta không làm em hạnh phúc; và nỗi đau khổ của em lớn thêm từng ngày.” Đó là bài kinh của ta, bài kinh được ta lặp đi lặp lại không ngừng như một chuỗi tràng hạt, một thứ bùa chú để cố gắng thay đổi thực trạng cô bé đã không thể tránh khỏi việc vỡ mộng với cuộc tìm kiếm của bọn ta, khiến bọn ta rơi vào một cõi lửng lơ, nơi cô bé dần rời xa khỏi ta và khát khao khổng lồ trong em khiến ta trở nên nhỏ bé. Ta thậm chí còn nổi lên một cơn ghen dữ dội với người làm búp bê mà em đã tin tưởng chia sẻ nguyện vọng muốn có được cô tiểu thư bé xíu biết kêu leng keng ấy, vì người đó, dù chỉ trong khoảnh khắc, đã trao được cho cô bé một thứ mà em giữ lấy thật chặt ngay trước mặt ta, như thể ta không còn tồn tại nữa.”
“Điều đó sẽ biến thành gì, nó có thể dẫn bọn ta tới đâu?”
“Suốt mấy tháng kể từ khi đặt chân đến Paris, chưa bao giờ ta cảm nhận được rõ ràng độ rộng lớn của thành phố này đến vậy, thấy rằng ta có thể rời khỏi những lối đi quanh co này, con đường tăm tối mà ta đã chọn này để bước ra thế giới của những niềm vui, và chưa bao giờ ta lại thấy rõ sự vô nghĩa của nó đến thế. Tất cả đều là vô nghĩa với cô bé nếu em không thể giải phóng được cơn giận dữ của mình, nếu em không bằng cách nào đó nắm bắt được những giới hạn của bản thân vốn đã được em nhận thức một cách vô cùng đau khổ và tức giận. Ta vô vọng. Cô bé cũng vô vọng. Nhưng cô bé mạnh mẽ hơn ta. Và ta biết, ta biết ngay từ khoảnh khắc quay lưng đi khỏi em trong khách sạn, rằng đằng sau ánh mắt lạnh lùng, em vẫn dành cho ta tình yêu vô hạn.”
“Mặc dù ta đang mất phương hướng, mệt mỏi và đắm chìm trong suy nghĩ, nhưng bằng giác quan không thể nhầm lẫn được của ma cà rồng, ta vẫn nhận ra là mình đang bị theo dõi.”
“Ý nghĩ đầu tiên của ta rất phi lý. Cô bé đã bám theo ta. Và, vì thông minh hơn ta, cô bé đã giữ một khoảng cách rất xa. Tuy nhiên một ý nghĩ khác bắt đầu xuất hiện, cũng chắc chắn như phỏng đoán kia, một ý nghĩ có phần tàn nhẫn nếu tính đến tất cả những gì đã xảy ra giữa chúng ta. Những bước chân này quá nặng nề so với em. Đó có lẽ chỉ là một con người nào đó cũng đang bước đi trên con ngõ này, bước một cách thiếu cẩn trọng tới cái chết.”
“Vậy nên ta vẫn tiếp tục bước, gần như đã sẵn sàng chìm vào nỗi đau của mình một lần nữa vì ta đáng bị như thế, nhưng bỗng nhiên tâm trí ta nói, Đồ ngốc; lắng nghe đi. Và ta chợt nhận ra những bước chân kia, dội lại như thể đâu đó rất xa phía sau lưng ta, đang hoàn toàn khớp với nhịp bước của ta. Ngẫu nhiên thôi. Bởi vì nếu đó là bước chân con người thì người đó cũng đang ở quá xa để có thể nghe thấy tiếng chân ta. Nhưng khi ta dừng lại để cân nhắc về điều này, tiếng bước chân kia cũng dừng lại. Và khi ta quay đầu lại tự nhủ rằng, Louis, ngươi đang tự đánh lừa bản thân đấy, rồi tiếp tục bước, thì tiếng chân kia cũng tiếp tục bước. Từng bước ăn khớp với bước chân ta, tăng tốc khi ta tăng tốc. Và sau đó, xảy ra một việc rất khác thường và không thể phủ nhận được. Vì quá tập trung vào tiếng bước chân đã ở ngay sau lưng, ta vấp phải một miếng ngói vỡ và ngã dúi dụi vào tường. Và từ phía sau, tiếng bước chân đó lặp lại hoàn hảo âm thanh trượt ngã của ta.”
“Ta sững sờ. Và cảm thấy một nỗi hoảng loạn còn hơn cả sợ hãi. Bên phải và bên trái ta chỉ là bóng tối. Không có chút ánh sáng mờ xỉn nào chiếu ra từ một cửa sổ áp mái. Và điều duy nhất bảo đảm an toàn cho ta là khoảng cách lớn giữa ta và đôi chân kia, nhưng ta dám chắc chúng không phải của con người. Ta hoàn toàn rối trí, không biết mình nên làm gì. Trong ta dâng lên một khao khát gần như không cưỡng lại được là cất tiếng gọi và chào đón kẻ bí ẩn kia, cho kẻ đó biết một cách nhanh chóng và rõ ràng hết mức rằng ta đã chờ hắn, vẫn đang tìm kiếm hắn và sẽ đối mặt với hắn. Nhưng ta sợ. Có lẽ cứ tiếp tục bước đi và chờ hắn đụng độ ta sẽ là giải pháp hợp lý hơn; và ngay khi ta bước đi, tiếng bước chân bắt chước kia lại vang lên, khoảng cách giữa ta và kẻ đó vẫn giữ nguyên như cũ. Sự căng thẳng trong ta bắt đầu leo thang, bóng tối bao trùm lấy ta ngày càng đáng sợ hơn; và trong lúc đếm từng bước chân đó, ta không ngừng tự hỏi, Sao ngươi lại đi theo ta, sao ngươi lại để ta biết ngươi đang có mặt?”
“Sau đó, ta rẽ ngoặt vào một góc phố, và một tia sáng lóe lên trước mặt ta. Con đường dốc về phía đó, và ta tiến tới chậm rì rì, tiếng tim đập vang trong tai, không muốn để lộ bản thân dưới ánh sáng đó.”
“Và khi ta ngập ngừng dừng lại, thật ra là ngay trước lối rẽ; có cái gì đó đổ xuống rầm một cái và kêu loảng xoảng phía trên đầu ta, như thể mái ngói của ngôi nhà bên cạnh ta sắp sửa sụp xuống. Ta nhảy lùi lại vừa kịp lúc một loạt ngói lao xuống lòng đường, một viên sượt qua vai ta. Rồi đường phố lại rơi vào tĩnh lặng. Ta nhìn chằm chằm vào những viên ngói, lắng tai nghe, chờ đợi. Rồi rất chậm rãi, ta men theo lối rẽ hướng về phía ánh sáng, để rồi thấy ngay dưới ngọn đèn khí ở đầu đường hình dáng không thể lẫn vào đâu được nữa của một ma cà rồng khác.”
“Hắn cao lênh khênh mặc dù cũng gầy như ta, khuôn mặt dài, trắng của hắn sáng lên dưới ngọn đèn, đôi mắt to đen nhìn ta trừng trừng với vẻ ngạc nhiên không giấu giếm. Chân phải hắn hơi gập lại như thể đang bước dở chừng. Và đột nhiên ta nhận ra hắn không chỉ có mái tóc đen dài, dày và được chải giống hệt ta, hắn không chỉ mặc chiếc áo khoác và áo choàng giống ta, mà còn đang mô phỏng hoàn hảo tư thế và biểu cảm trên khuôn mặt ta. Ta nuốt nước bọt và từ từ đưa mắt nhìn khắp người tên ma cà rồng đó, trong khi phải cố che giấu nhịp đập thình thịch của tim mình, và hắn cũng quét mắt qua ta y như vậy. Khi thấy hắn chớp mắt, ta nhận ra mình cũng vừa chớp mắt, và khi ta giơ hai cánh tay lên và khoanh chúng lại trước ngực, hắn cũng chầm chậm làm theo. Chuyện này khiến ta phát điên. Còn tệ hơn cả phát điên. Bởi vì, khi ta hầu như không mấp máy môi, hắn cũng hầu như không mấp máy môi, những lời định nói chết lặng trên môi ta và ta không thể thốt ra thêm lời nào khác để đối đầu với tình cảnh này, để chấm dứt nó. Suốt thời gian đó, thân hình cao lớn kia, đôi mắt đen sắc bén kia và sự tập trung cao độ kia, dù tất nhiên chỉ là bản sao hoàn hảo của ta, lại khiến ta không rời mắt đi đâu được. Hắn là ma cà rồng; ta là tấm gương.”
“Hay lắm, ta nói, cụt lủn và tuyệt vọng, và, tất nhiên, hắn lặp lại câu nói đó ngay tức khắc. Càng điên tiết hơn, ta đành phải chậm rãi mỉm cười cam chịu, bất chấp những giọt mồ hôi đang túa ra từ khắp các lỗ chân lông và cơn run dữ dội dưới chân. Hắn cũng mỉm cười, nhưng trong đôi mắt hắn có gì đó rất tàn ác và thú tính không giống ta, và nụ cười của hắn cũng thật đáng sợ bởi vẻ cứng nhắc của nó.”
“Bấy giờ, ta bước lên một bước và hắn cũng vậy; và khi ta đột ngột dừng lại, chỉ đứng nhìn chằm chằm, hắn cũng làm theo y hệt. Nhưng rồi từ từ, rất từ từ, hắn nhấc cánh tay phải lên mặc dù tay ta vẫn đang duỗi thẳng, và hắn chầm chậm thu ngón tay lại thành một nắm đấm rồi đấm tay lên ngực mình theo nhịp nhanh dần để nhại lại nhịp đập của tim ta. Rồi hắn cười phá lên. Đầu hắn ngửa ra sau, để lộ hai cái răng nanh, tiếng cười của hắn như lấp đầy con ngõ. Ta căm ghét hắn. Ghét vô cùng.”
“Anh muốn tấn công tôi?” ta hỏi, chỉ để nghe những lời của mình vọng ngược trở lại.
“Kẻ láu cá!” ta gay gắt nói. “Thằng hề!”
“Từ này khiến tràng cười của hắn vụt tắt. Chết lặng trên môi hắn khi hắn nhại lại ta, và mặt hắn đanh lại.”
“Hành động tiếp theo của ta hoàn toàn mang tính bốc đồng. Ta quay lưng khỏi hắn và bước đi, có lẽ chỉ để khiến hắn bám theo và đòi được biết ta là ai. Nhưng bằng một động tác cực kỳ mau lẹ, đến mức ta không thể nhận ra, hắn lại đứng trước mặt ta, như thể vừa hiện hồn ra. Ta quay lưng đi một lần nữa, lại thấy hắn đứng ngay dưới ngọn đèn, những sợi tóc đen, xoăn đang rơi xuống là dấu hiệu duy nhất cho thấy hắn thực ra đã đi chuyển.”
“Tôi đã tìm kiếm anh! Tôi đến Paris là để tìm anh, ta buộc mình phải nói ra những lời đó, khi nhận ra hắn không còn nhại lại lời nói và cử động của ta nữa mà chỉ đứng đó ngó ta trân trối.”
“Sau đó, hắn chậm rãi, duyên dáng tiến lên phía trước, và ta thấy cơ thể và cử chỉ của hắn bấy giờ đã lại thuộc về riêng hắn, rồi, mở rộng bàn tay ra như thể muốn bắt tay ta, hắn bất thình lình đẩy ta về phía sau, khiến ta mất thăng bằng. Ta có thể cảm thấy chiếc áo sơ mi của mình đã ướt đẫm mồ hôi và đang dính sát vào da khi ta đứng thẳng dậy, bàn tay ta bám đầy rong rêu từ bức tường ẩm mốc.”
“Và khi ta quay sang đối mặt với hắn, hắn quật ta ngã lăn xuống đất.”
“Giá như ta có thể tả cho anh biết sức mạnh của hắn. Có lẽ anh chỉ hiểu được nếu ta tấn công anh, quật anh ngã chỏng gọng chỉ bằng một tay, nhanh tới mức anh không kịp nhìn ra.”
“Nhưng có điều gì đó trong ta nói. Cho hắn thấy sức mạnh của ngươi đi; và ta lập tức đứng lên, xông thẳng vào hắn với hai cánh tay dang rộng. Nhưng ta chỉ đánh vào bóng đêm, bóng đêm trống rỗng đang xoáy tít đước cột đèn, và ta đứng trơ ra đó, đưa mắt nhìn quanh như một thằng ngốc. Rồi ta nhận ra đó là một phép thử, mặc dù ta vẫn cố gắng đón sự tập trung vào con đường đêm, những ô cửa hõm vào, bất kỳ nơi nào hắn có thể ẩn nấp. Ta chẳng muốn tham gia phép thử này, nhưng lại không biết phải thoát khỏi nó bằng cách nào. Và ngay khi ta đang tìm cách để khinh khỉnh tỏ cho hắn biết như vậy, thì hắn thình lình xuất hiện và xô ta ngã lăn xuống dưới con dốc lát đá cuội mà ta vừa ngã ban nãy. Ta cảm thấy giày hắn trên xương sườn mình. Và trong cơn giận dữ, ta túm lấy cẳng chân hắn, gần như không thể tin được khi thấy lớp vải quần và ống xương trong tay mình. Hắn ngã đập đầu vào bức tường đá đối diện và gầm ghè phẫn nộ.”
“Những gì xảy ra sau đó hoàn toàn hỗn loạn. Ta giữ chặt lấy cẳng chân hắn, dù hắn đang cố hết sức để đạp giày vào mặt ta. Sau một hồi giằng co, hắn ngã xuống người ta và lại giật ra khỏi ta, rồi ta bị nâng lên không bằng một đôi tay cực kỳ khỏe. Ta có thể dễ dàng tưởng tượng được điều gì sắp xảy đến với mình. Hắn có thể dễ dàng ném ta văng ra xa cả mấy mét, hắn khỏe đến mức đó đấy.
Và vì đã bị đánh đập, bị thương nặng, ta có thể bị bất tỉnh. Dù đang trong cuộc hỗn chiến, ta vẫn thấy vô cùng lo sợ không biết mình có bị bất tỉnh hay không. Nhưng ta không có cơ hội xác nhận điều đó. Bởi vì, dù đang trong cơn hoảng loạn, ta vẫn chắc chắn là có một người khác đã chen vào giữa hai bọn ta, ai đó đang đánh tên ma cà rồng nọ một cách dứt khoát buộc hắn phải bỏ ta xuống.”
“Khi ngước mắt lên nhìn, ta thấy mình đang nằm trên đường và trong khoảnh khắc, thấy hai bóng người hiện ra lờ mờ như ảo ảnh còn lại khi vừa nhắm mắt. Sau đó, ta chỉ còn thấy những tấm áo choàng màu đen xoáy tít, giày gõ lên con đường lát đá, rồi màn đêm lại trở nên tĩnh mịch. Ta ngồi dậy, thở hổn hển, mặt ướt đẫm mồ hôi, chằm chằm nhìn xung quanh mình rồi nhìn lên dải nền trời mờ nhạt. Rồi chầm chậm, một bóng đen hiện ra từ bóng tối của bức tường trước mặt ta, mà ta thấy được chỉ nhờ mắt đang tập trung vào đó. Hắn lom khom trên ô cửa sổ lát đá và quay lại, nhờ vậy mà ta có thể thấy loáng thoáng ánh sáng phản chiếu trên tóc hắn và sau đó là khuôn mặt trắng bệch, cứng đờ. Đó là một khuôn mặt lạ, rộng và không hốc hác như kẻ vừa nãy, với một con mắt to đang dán chặt vào ta. Một tiếng thì thào phát ra dù môi hắn dường như không hề mấp máy. Anh ổn rồi.”
“Còn hơn cả ổn. Ta đã đúng lên, sẵn sàng tấn công. Nhưng bóng đen kia vẫn ngồi khom mình, như thể hắn là một phần của bức tường. Ta có thể thấy một bàn tay trắng đang lục lọi trong túi áo gối lê. Rồi hắn rút ra một tấm danh thiếp trắng y như những ngón tay đang chìa ra cho ta. Ta không bước lên để nhận nó. Hãy đến với chúng tôi, vào đêm mai, tiếng thì thào đó phát ra từ khuôn mặt vô cảm, trơn láng mà ta chỉ thấy một con mắt hiện ra trong ánh đèn. Tôi sẽ không làm hại anh, hắn nói, và kẻ kia cũng vậy. Tôi sẽ không cho phép điều đó. Và hắn làm một việc mà chỉ ma cà rồng mới có thể làm; bàn tay dường như đã rời khỏi cơ thể hắn trong bóng đêm để đặt tấm bé vào tay ta, một dòng chữ in màu tím lập tức sáng lên dưới ánh đèn. Và bóng đen kia di chuyển trên tường như một con mèo, rồi nhanh chóng biến mất giữa những đầu hồi gác xép.”
“Ta biết là ta chỉ còn một mình, ta có thể cảm nhận được điều đó. Và khi ta đứng dưới ánh đèn để đọc dòng chữ trên tấm vé tiếng đập trái tim ta dường như lấp đầy con phố nhỏ vắng tanh. Ta biết rõ địa chỉ ghi trên vé vì đã ghé thăm các sân khấu kịch dọc con đường đó nhiều lần rồi. Nhưng cái tên của nó thì khiến ta ngạc nhiên: “Rạp hát Ma Cà Rồng,” và thời gian là chín giờ tối.
“Ta lật mặt sau tấm vé lên và phát hiện một dòng ghi chú, “Hãy mang cô bé xinh đẹp theo cùng. Nhiệt liệt chào đón. Armand!”
“Không còn nghi ngờ gì nữa, bóng đen đưa tấm vé cho ta lúc nãy cũng chính là người đã viết dòng chữ này. Ta chỉ còn rất ít thời gian để quay về khách sạn và báo cho Claudia chuyện vừa xảy ra trước khi bình minh đến. Ta chạy như tên bắn, đến mức những con người ta va phải trên đại lộ còn không kịp nhìn ra cái bóng vừa lao qua họ.
“Rạp hát Ma Cà Rồng chỉ nhận khách có vé mời, và đêm hôm sau, người gác cổng kiểm tra tấm vé của ta hồi lâu trong khi mưa rơi lất phất xung quanh: rơi xuống người đàn ông và người đàn bà đứng trước quầy bán vé đã đóng cửa; rơi xuống những tấm áp phích in hình ma cà rồng như trên tiểu thuyết giật gân với cánh tay dang rộng và chiếc áo choàng như cánh dơi, chuẩn bị lao xuống đôi vai trần của một nạn nhân con người; rơi xuống cặp đôi vừa chen qua bọn ta để tiến vào tiền sảnh đông đúc, ta dễ dàng nhận ra rằng đám đông ở đó toàn là con người, không có một ma cà rồng nào đang trà trộn giữa họ, kể cả cậu bé đã rẽ lối cho bọn ta đi qua giữa những cuộc chuyện trò huyên náo, những áo choàng len ẩm nước mưa và những bàn tay mang găng của các quý bà đang dò dẫm với những chiếc mũ vành nỉ và mớ tóc xoăn ướt. Ta chen vào bóng tối với niềm phấn khích tột cùng. Bọn ta đã ăn trước đó để không bị lộ ra làn da trắng bệch và đôi mắt sáng quắc trên con đường nhộn nhịp trước rạp hát này. Và vị máu mà ta không được thưởng thức càng khiến ta lo ngại; nhưng ta không có thời gian cho việc đó. Đêm nay không dành cho việc giết chóc. Đêm nay là dành cho sự khai sáng, bất kể rồi nó sẽ kết thúc ra sao. Đó là điều chắc chắn.”
“Lúc này bọn ta đang đứng giữa một đám đông toàn là con người, cánh cửa khán phòng đã mở rộng, và một cậu bé đang cố len tới chỗ bọn ta, vẫy tay ra hiệu, chỉ qua vai của đám đông hướng lên phía cầu thang. Chỗ ngồi của bọn ta là một trong những lô ghế tốt nhất của rạp hát này, và cho dù máu không giúp làn da ta hồng hào hơn hay biến Claudia thành một đứa trẻ con người hơn khi ta bế em trên tay, thì người dẫn khách cũng không có vẻ chú ý hay quan tâm. Trên thực tế, cậu ta còn mỉm cười vui vẻ khi kéo hai tấm màn che trên hai chiếc ghế đặt trước lan can bằng đồng.”
“Anh tưởng bọn họ không có nô lệ con người ư?” Claudia thì thầm.
“Nhưng Lestat chưa bao giờ tin tưởng nô lệ con người,” ta đáp. Ta nhìn từng chỗ ngồi trong rạp được lấp đầy, từng chiếc mũ cài hoa tuyệt đẹp lướt qua phía dưới mình giữa những dãy ghế bọc lụa. Những đôi vai trắng sáng lên trong vòng cung rất sâu của bao lơn mở rộng ra từ chỗ bọn ta; những chuỗi dây chuyền kim cương lấp lánh dưới ánh đèn. “Hãy nhớ, lần này phải tỏ ra ranh mãnh,” Claudia thì thầm từ bên dưới mái đầu vàng óng đang cúi xuống. “Anh quá lịch thiệp.”
“Đèn trong khán phòng tắt dần, đầu tiên là ở bao lơn và sau đó là dọc theo các bức tường của tầng trệt. Một nhóm nhạc sĩ đã tập trung lại dưới sàn rạp hát bên dưới sân khấu, và dưới chân tấm màn nhung dài màu xanh lá, khí đốt bập bùng rồi bừng sáng, và khán giả mờ dần như bị bao phủ bởi một đám mây xám, trong đó, chỉ còn những viên kim cương là còn nhấp nháy sáng trên cổ tay, trên cổ và trên những ngón tay. Và sự tĩnh lặng cũng đang bao trùm khán phòng hệt như đám mây màu xám kia, cho đến khi mọi âm thanh tụ lại thành một tràng ho bất tận. Rồi im lặng. Và nhịp đập trống lục lạc chầm chậm vang lên. Tiếp sau đó là giai điệu khe khẽ của một cây sáo gỗ, dường như hòa nhịp với tiếng va đập của những lục lạc kim loại trên trống, hòa trộn vào nhau, tạo nên một giai điệu thê lương như nhạc thời Trung cổ. Rồi tiếng bập bùng của đàn dây sau đó càng làm âm thanh của chiếc trống nổi rõ hơn. Rồi tiếng sáo dâng cao trong bản hợp xướng đó, ngân lên một giai điệu rất u sầu. Thứ âm nhạc này có một sức mê hoặc lớn, khiến cho toàn bộ khán giả đều ngồi lặng như tờ và trở thành một thể thống nhất, như thể giai điệu của cây sáo là một tia lân tinh đang từ từ trải ra trong bóng tối. Ngay cả tấm màn sân khấu được kéo lên cũng không phát ra một tiếng động nhỏ nào phá vỡ sự tĩnh lặng. Đèn sáng lên, và sân khấu trước mắt ta dường như không còn là sân khấu nữa, mà đã biến thành một chốn rậm rạp cỏ cây, ánh sáng lấp lánh trên những thân cây xù xì và trong những tán lá dày bên dưới vòm trần đầy bóng tối bên trên; và nhìn xuyên qua tán lá, ta có thể thấy kè đá thấp của một dòng sông và cao cao phía trên, xa hơn, là dòng nước óng ánh, toàn bộ khung cảnh ba chiều này được vẽ trên vải lụa thượng hạng chỉ khẽ rung lên khi có một luồng khí nhẹ lùa qua.”
“Một tràng vỗ tay vang lên hoan nghênh bức tranh trên sân khấu tiếng vỗ tay to dần từ mọi góc của khán phòng cho tới khi nó dội lên trong chốc lát rồi tắt dần. Một nhân vật mặc áo choàng đang tiến vào sân khấu, di chuyển từ thân cây này sang thân cây khác, nhanh đến mức khi bước tới vùng sáng của những ngọn đèn, dường như hắn vừa hiện ra một cách kỳ diệu ở giữa sân khấu, một cánh tay hắn rút vụt ra một lưỡi hái bạc từ trong áo choàng, trong tay còn lại là một chiếc mặt nạ có tay cầm, che đi khuôn mặt vô hình, một chiếc mặt nạ mang những đường nét của Tử thần, một bức họa đầu lâu.”
“Đám đông khẽ kêu lên. Tử thần đang đứng ngay trước mắt họ, với lưỡi hái đã sẵn sàng, Tử thần bên rìa khu rừng u tối. Và có gì đó trong ta cũng đang phản ứng hệt như những khán giả con người kia, không phải là nỗi sợ, mà chỉ là một phản ứng rất con người trước sự huyền diệu của bức tranh nền sân khấu mong manh, vẻ bí ẩn của thế giới chói sáng đó, thế giới nơi dáng người kia đang di chuyển với tấm áo choàng đen cuộn sóng, đi tới đi lui trước mặt khán giả, uyển chuyển như một con báo lớn, khiến khán giả òa lên những tiếng kêu, những tiếng thở dài, những lời thì thầm đầy ngưỡng mộ.”
“Và bấy giờ, phía sau nhân vật mà mỗi hành động dường như đều có sức lôi cuốn vô cùng ma mị cũng như điệu nhạc đệm cho hắn, hiện ra những nhân vật khác từ hai phía cánh gà. Đầu tiên, xuất hiện một bà cụ lưng còng, tóc bạc, tay trĩu xuống vì sức nặng của một giỏ hoa lớn. Bước chân lệt xệt của bà kéo lê trên sân khấu, đầu bà nhấp nhô lên xuống theo nhịp nhạc và theo bước chân nhanh như tên bắn của Tử thần. Rồi bà bất ngờ bước lùi lại khi nhìn thấy hắn và, từ từ đặt giỏ hoa xuống, bà chắp hai tay lại cầu nguyện. Bà cụ đã rất mệt mỏi; bà gục đầu xuống tay như thể đang ngủ, và rồi bà với tay tới Tử thần, khẩn khoản cầu xin hắn. Nhưng khi Tử thần tiến tới gần, hắn cúi xuống nhìn thẳng vào mặt bà, khuôn mặt khuất trong mái tóc rồi đột nhiên hắn lùi lại, vẩy tay như thể muốn làm tươi mới không khí quanh mình. Dưới khán đài vang lên những tiếng cười ngập ngừng. Khi bà cụ đứng lên và chạy theo Tử thần, tiếng cười nổ ra khắp nơi.”
Nhạc chuyển sang tiết tấu nhanh khi bà cụ chạy vòng tròn xung quanh sân khấu, đuổi theo Tử thần, cho đến lúc hắn phải áp sát người vào trong bóng tối của một cái cây, cúi gầm khuôn mặt đeo mặt nạ xuống dưới đôi cánh của mình như một con chim. Và bà cụ già bị lạc, thua cuộc, đành phải nhặt giỏ hoa của mình lên trong khi tiếng nhạc dịu và chậm dần lại theo từng bước chân của bà, và bà từ từ rời khỏi sân khấu. Ta không thích màn kịch này. Ta không thích những tiếng cười kia. Bấy giờ, ta có thể thấy những nhân vật khác đang tiến vào, dàn nhạc đệm theo những cử động của họ, những người què quặt đang chống nạng và ăn mày mặc bộ đồ rách rưới màu tro, tất cả đều đang với tay về phía Tử thần, còn hắn quay cuồng, trốn khỏi kẻ này bằng một cú uốn lưng đột ngột, thoát được kẻ kia bằng một điệu bộ õng ẹo tỏ ý ghê tởm, và cuối cùng, hắn vẫy tay đuổi tất cả đi với những động tác rất kịch ra vẻ mỏi mệt và chán ngán.”
“Chính lúc đó, ta nhận ta bàn tay trắng uể oải đang uốn cong một cách hài hước kia không phải được bôi phấn trắng. Bàn tay đang khiến khán giả cười rũ rượi đó là của một ma cà rồng. Và bấy giờ, khi sân khấu đã không còn ai khác, bàn tay ma cà rồng đưa tay lên chiếc mặt nạ đầu lâu đang cười nhe răng, như thể muốn che một cái ngáp. Và rồi tên ma cà rồng này, vẫn giữ cái mặt nạ che trước mặt, diễn xuất hoàn hảo động tác tựa mình vào một cái cây trên bức tranh lụa, như thể hắn đang từ từ chìm vào giấc ngủ. Tiếng nhạc vang lên ríu rít như tiếng chim hót, róc rách như tiếng nước chảy; và ánh đèn sân khấu, đang bao bọc lấy hắn trong một bể ánh sáng màu vàng, mờ dần đi, gần như tắt hẳn trong lúc hắn say ngủ.”
“Và một ánh đèn sân khấu khác rọi thẳng vào bức phông, dường như muốn làm nó tan chảy để lộ ra một cô gái trẻ đang đơn độc đứng tại một góc xa phía trên sân khấu. Nàng rất cao và gần như được bao bọc trong suối tóc vàng bồng bềnh của mình. Ta có thể cảm nhận được nỗi kinh ngạc của khán giả khi cô gái đó loạng choạng dưới ánh đèn, bóng tối của khu rừng lan rộng xung quanh khiến nàng dường như biến mất giữa những tán cây. Nàng đang đi lạc, và nàng không phải một ma cà rồng. Bùn đất dính trên chiếc áo cánh và chiếc váy rách rưới của nàng không phải là màu hóa trang sân khấu, không có chút son phấn nào trên khuôn mặt hoàn hảo của nàng, khuôn mặt đang nhìn lên ánh đèn, đẹp và cao thượng như khuôn mặt Đức Mẹ Đồng trinh bằng đá cẩm thạch, mái tóc nàng như một chiếc khăn voan đang tỏa hào quang. Nàng không thể nhìn thẳng vào luồng sáng dù tất cả đều có thể nhìn thấy nàng. Và tiếng rên rỉ phát ra từ môi nàng khi nàng loạng choạng bước đi dường như đang vang vọng át cả tiếng sáo khe khẽ, lãng mạn dành cho người đẹp. Nhân vật Tử thần thức dậy giữa ánh đèn sân khấu, và quay mặt lại nhìn cô gái cũng như tất thảy khán giả đã nhìn nàng, rồi hắn giơ một bàn tay lên tỏ ý thán phục, tôn kính vẻ đẹp trước mắt mình.”
“Những tiếng cười khúc khích mới thoáng vang lên đã vụt tắt. Cô gái này quá xinh đẹp, đôi mắt xám của nàng quá đau khổ. Diễn xuất của nàng hoàn hảo. Và bất thình lình cái mặt nạ đầu lâu bị ném phăng qua đôi cánh, để lộ ra khuôn mặt trắng bệch, nhăn nhở cười với khán giả, bàn tay vội vã đưa lên vuốt lại mái tóc đen óng, chỉnh trang lại chiếc áo gi lê, phủi đi lớp bụi tưởng tượng trên ve áo. Tử thần đã phải lòng người đẹp. Tiếng vỗ tay vang lên dành cho khuôn mặt sáng rực, đôi gò má lấp lánh đôi mắt đen nhấp nháy trên sân khấu, tưởng như tất cả là một ảo ảnh tuyệt vời trong khi thực ra, đó chỉ đơn thuần là khuôn mặt của một ma cà rồng, chính là tên ma cà rồng đã đi theo ta ở khu Latin, tên ma cà rồng có cái liếc mắt quỷ quyệt và nụ cười xếch đến tận mang tai dưới ánh đèn vàng chói gắt.”