Love is always bestowed as a gift – freely, willingly and without expectation. We don’t love to be loved; we love to love.

Leo Buscaglia

 
 
 
 
 
Tác giả: Alain Wasmes
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3: Người Công Giáo Và Cách Mạng
ào tháng Mười một 1975, tức bảy tháng sau giải phóng, tôi có dịp được đến thăm Hố Nai, một giáo khu kéo dài trên hai chục kilômét dọc quốc lộ 1 ở mạn tây bắc Sài Gòn.
Lúc này, Hố Nai thuộc một khu vực hành chính rộng hơn, nhưng trên 200.000 dân của nó thì có đến 150.000 là giáo dân.
Việc Mỹ đổ quân vào ồ ạt đã làm đảo lộn cả cuộc sống của những con người từ 1954 vẫn sống bằng ruộng đất. Tổng kho đồ sộ Long Bình xây dựng gần đấy đã thu hút xung quanh nó tất cả những hoạt động của Hố Nai, theo như một hiện tượng trở thành phổ biến của toàn miền Nam: hoạt động dịch vụ để phục vụ cho người Mỹ nhiều lên, tệ nạn đĩ điếm cũng đồng thời tăng lên kéo theo nó là một cuộc sống vật chất dễ chịu hơn, nhưng lại chẳng có một cơ sở thực tế nào hết về kinh tế. Sau khi lính Mỹ ra đi, sự dễ chịu nhường chỗ cho sự trì trệ về kinh tế, xã hội, nạn trộm cướp gia tăng và cả tình trạng đĩ điếm và nghiện ma túy cũng thế: trong giáo phận 60.000 dân của mình, một linh mục tính được 20.000 người xài ma túy. Khi vào giải phóng, chính quyền cách mạng đã phải thừa kế một di sản là... 20.000 người thất nghiệp. Một phần năm của cả một số dân bị băng hoại về tư tưởng và đạo lý.
Trong tình hình ấy, việc lực lượng giải phóng tiến vào đã diễn ra như thế nào? Chúng tôi đến Hố Nai theo xa lộ Biên Hòa, băng qua căn cứ Long Bình giờ đây trở nên hoang vắng. Xa xa, trùm lên cảnh vật là những nóc nhà thờ, nom có vẻ như chúng đang nép lại gần nhau. Đi với tôi chỉ có một bạn đường là linh mục Minh.
“Trước khi lực lượng giải phóng đến, phần lớn giáo dân ở đây do bị tuyên truyền đã hiểu rất sai về Quân đội nhân dân. Nói chung là họ sợ...”, cha Minh nói.
Chúng tôi gặp cha Trần Xuân Thảo, cha xứ của giáo khu Hố Nai. Cha Thảo, ba mươi sáu tuổi, ở độ tuổi trung bình của các con chiên của cha và cha chăm sóc việc đạo cho 5.000 hộ dân.
“Trong đêm 27 rạng 28 tháng Tư, cha nói, khi những đơn vị đầu tiên của Quân đội nhân dân xuất hiện, dân chúng bỏ chạy cả. Nhiều người tìm chỗ ẩn nấp. Nhưng sáng hôm sau, khi thấy những anh bộ đội chẳng làm điều gì ghê gớm, họ mới bắt đầu mở ra và nói chuyện với các anh.
- Nghe nói ở Hố Nai có một đám dân vệ rất hung ác, nổi tiếng về sự cuồng tín của nó, có phải vậy không cha?
- Như ở tất cả các nơi, Hố Nai cũng có những đội dân vệ, nhưng phần lớn họ chỉ hữu danh vô thực. Và họ cũng không chiến đấu chống lại quân cách mạng”, cha Thảo trả lời rồi nói tiếp: “Ở đây, mọi việc diễn ra tốt đẹp. Không ai bị bắt bớ, không nhà nào bị khám xét. Và từ lúc được tiếp xúc với những người cách mạng, dân chúng đã bắt đầu thay đổi thái độ đối với họ, kính trọng họ. Một sự thay đổi gần như hoàn toàn, mà chính tôi được chứng kiến”. Nhưng cách mạng có tìm cách trừng phạt những người đã chạy trốn khỏi miền Bắc năm 1954 không? Về điểm này, cha Thảo tỏ ra dứt khoát: “Tuy có nhiều người miền Bắc trong quân đội cách mạng, nhưng họ cư xử một cách rất có thiện cảm. Và rồi quân đội đã tiến về Sài Gòn, ở đây chỉ còn có những cán bộ của Uỷ ban cách mạng, mà họ đều là những người ở địa phương”.
Mới đầu, những người của chính quyền mới cũng có vẻ “nghiêm khắc và xa cách”. “Họ áp dụng chưa tốt những chỉ thị chung”, cha Thảo nhận xét. Nhưng sau đó, trước những lời kêu ca phàn nàn của dân chúng, cán bộ của Uỷ ban cách mạng đã có những thay đổi, sửa chữa: “Đúng là khác hẳn với chính quyền cũ. Những người cũ thì họ chỉ làm việc bằng cưỡng bức, bằng vũ lực. Còn trái lại những người mới, họ lại dựa vào thuyết phục và hòa hợp với dân chúng, tôn trọng nguyện vọng của dân chúng. Quan hệ giữa chính quyền và dân ngày càng trở nên tốt đẹp. Mới đầu là nghi kỵ, sau dần dần cán bộ họ tự phê bình, sáu tháng lại thay đổi người một lần nên bây giờ có nhiều tiến bộ lắm, mọi người tin tưởng lẫn nhau hơn”.
Theo cha Thảo thì sự thay đổi của người dân là ngấm ngầm có từ trước nữa kia, ngay từ thời còn chế độ cũ: “Chính quyền miền Nam lúc ấy đã lợi dụng cái sợ cộng sản của giáo dân. Nhưng dần dần, giáo dân nói chung, do những nhu cầu bức bách của cuộc sống, đã không còn mấy quan tâm đến vấn đề đó nữa, ảnh hưởng của Vaticăng II cũng như thái độ cởi mở hơn của Nhà thờ đã có những tác động nhất định đến các tu sĩ trẻ. Vì vậy khi mà các quan chức của chế độ cũ yêu cầu những người ở đây hãy chạy về đồng bằng để tiếp tục chiến đấu thì họ đã không nghe và vẫn cứ ở lại”. Nhưng, cha Thảo nói thêm, cái chính lại là do sự tuyên truyền của Sài Gòn:
“Do bị tuyên truyền, dân chúng Hố Nai đã rất sợ cách mạng. Họ nghĩ sẽ bị trừng trị, giết hại, người Bắc sẽ phân loại họ ra làm nhiều hạng để phân biệt đối xử, nhất là số dân Bắc di cư năm 1954. Nhưng vì sự tuyên truyền ấy quá lừa bịp, dối trá nên đâm ra nó lại phản tác dụng: bây giờ dân chả ai tin vào những gì Sài Gòn nói lúc đó nữa... Ông có biết thế nào không? Khi Buôn Ma Thuột thất thủ, ở đây người ta đã loan truyền với nhau rằng ở đấy các đức cha đã bị Việt cộng xẻ thịt ra làm nhiều mảnh!”
Cha Thảo cũng là một “dân di cư” từ miền Bắc vào. Cha quê ở Thái Bình, một tỉnh giàu lúa của đồng bằng sông Hồng. Năm 1954, cha mới mười lăm tuổi và đang theo học một trường dòng nhỏ. Cha vào Nam cùng trường: “Do người ta nói với chúng tôi rằng Đức Mẹ Đồng trinh đã vào Nam, rằng ở ngoài Bắc từ nay cộng sản sẽ cấm đạo” Trước khi trở thành cha xứ giáo phận “Hà Nội”, theo sự phong chức của Bề trên, cha Thảo được cử về phụ trách giáo khu mang tên “Tân Hiệp”, trong có một nhà tù chính trị. “Ở đấy, tôi đã có nhiều dịp tiếp xúc với những cán bộ cách mạng bị giam giữ. Qua họ, tôi đã khám phá được nhiều giá trị của cuộc chiến đấu của họ và cá nhân tôi, tôi đã khám phá ra rằng trong thế giới ngày nay, chủ nghĩa xã hội chẳng những không làm hại cho nhà thờ mà trái lại, nó còn góp phần làm cho Nhà thờ phát triển nhiều hơn theo chiều hướng tốt đẹp.” Phần lớn các linh mục ở Hố Nai đều có cảm tình với cách mạng, cha Thảo công nhận. Họ chưa bao giờ nghe thấy có điều tiếng gì từ phía các tu sĩ ở Hố Nai đối với những người cách mạng:
“Hạn chế duy nhất là ở chuyện rước lễ bên ngoài nhà thờ. Theo tôi thì không phải là hạn chế. Những kẻ kêu ca về chuyện ấy thì chẳng qua là họ không lợi dụng được việc rước lễ để bày ra những trò chống cộng một cách ảo tưởng của họ. Sự thật là từ khi cách mạng về, tôi thấy chẳng có gì xáo trộn hết, việc đạo vẫn cứ được tiếp tục như trước. Không ai có thể nói ngược lại điều tôi nói, tôi khẳng định rằng việc tự do tín ngưỡng là hoàn toàn.”.
Cha Thảo không giấu giếm những tình cảm tiến bộ của cha. Nhưng còn những cha khác thì sao? Cha Nguyễn Đức Sử, thuộc dòng tu Dôminicanh của Philippines, một người nổi tiếng chống cộng công khai thuộc giáo khu Ngọc Đồng giàu có, trước đây rất gắn bó với viên tỉnh trưởng sở tại, đã công nhận với tôi: “Ở Hố Nai, chưa hề xảy ra một vụ bắt bớ nào và điều đó đã làm nhiều người yên tâm. Bản thân tôi, tôi chẳng có gì phải lo lắng, nhiều người khác cũng thế. Bảy tháng nay, phải công nhận là đã có một sự tiến bộ xã hội nào đấy, “phù hợp với những điểm chính của Thông cáo của Giáo hoàng Paul VI”. Còn về tự do tín ngưỡng thì “ở đây, chưa có vấn đề gì về phương diện này cho đến nay”. Tuy nhiên về những dư luận xì xào, thì cha “cũng có nghe nói về những khó khăn” do các cán bộ địa phương vì chưa vận dụng tốt đường lối chính sách của chính phủ cách mạng nên đã để xẩy ra.
Trong bảy cán bộ của Uỷ ban cách mạng Hố Nai tôi được gặp một cán bộ người công giáo. Anh cũng từ Bắc di cư vào năm 1954. Nhiều người biết trước đây anh đã có liên hệ với kháng chiến: năm 1968 rồi năm 1972, anh vẫn cứ khăng khăng cày cấy thửa ruộng của anh, nằm cách quốc lộ 1 ba kilômét, thuộc vùng “Việt cộng kiểm soát”. Và chính ở đấy, anh đã được hiểu thế nào là kháng chiến. Sáu cán bộ khác cùng trong Uỷ ban với anh thì họ đều là những người đã hoạt động bí mật từ mười năm trước.
“Chúng tôi không tìm hiểu xem trước đây họ là người như thế nào”, anh giải thích với tôi về những người công giáo là binh sĩ trong quân đội ngụy cũ, “đường lối chung của chúng tôi là hòa giải dân tộc”. Những lớp học “cải tạo” mở ra là để cho mọi người trong xã cùng được mời đến dự, chỉ kéo dài có hai, ba ngày thôi. Vả lại, chúng tôi không gọi nó là “lớp học cải tạo”, mà gọi là “lớp học chính trị”. Phía chúng tôi không có chính sách trả thù. Chứng cớ là chẳng có một linh mục nào bị bắt. Bởi nếu có thì họ là những người phải nhằm vào trước hết”.
Chính sách không trả thù này, ít bữa trước, tôi đã có dịp kiểm chứng nó tại tỉnh Rạch Giá. Năm 1954, khoảng 40.000 giáo dân di cư từ miền Bắc vào đã đến ở Tân Hiệp, một quận thuộc tỉnh vừa nói. Diệm lấy lại đất của nông dân được cách mạng chia cho trước đây từ hồi kháng Pháp và cấp cho dân mới đến. Do có tổ chức và có kỷ luật xuất xứ từ nguồn gốc nông dân miền Bắc, và mặt khác từ sự cố kết cộng đồng của những giáo dân có tính chiến đấu, họ đã làm cho đất đai sinh lợi. Những đức tính ấy lại không bị ảnh hưởng bởi những tệ nạn do người Mỹ mang đến, do quân Mỹ không có mặt ở Rạch Giá. Chống cộng một cách cuồng tín, suốt trong hai mươi năm, họ đã trở thành ngọn giáo sắt trong cuộc chiến chống cách mạng ở trong tỉnh, tổ chức ra những đội dân vệ và một trung đoàn chính quy đặc biệt nguy hiểm và tàn ác. Họ đã lập thành một con đập cạn ngăn chặn mọi ảnh hưởng của kháng chiến. Nhiều cán bộ chiến sĩ cách mạng đã bị những đơn vị của họ bắt bớ, dùng cực hình tra tấn và giết hại. Lúc bộ đội tiến vào giải phóng, những đơn vị của họ là những đơn vị duy nhất trong quân đội Sài Gòn đã chiến đấu đến cùng, một cách tuyệt vọng để chống lại.
“Chúng tôi không hề có một phân biệt đối xử nào đối với họ”, một cán bộ của Uỷ ban cách mạng quận đã khẳng định với tôi như thế. “Sau giải phóng, chúng tôi đã bắt giữ các ban chỉ huy tiểu đoàn của họ. Mỗi một tên trong số sĩ quan ấy đều xứng đáng phải xử tội chết vì những gì chúng đã gây ra trước đó. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng chúng có thể cải tạo được”. Sáu nghìn binh lính công giáo đã được cải tạo và ba trăm gần đây đã được trả về.
“Tuy rằng đất đai hiện có của họ là do cướp đoạt năm 1954 của những người dân gốc ở đây, nhưng chúng tôi không lấy lại những ruộng đất ấy. Chúng tôi sẽ phải đi tìm những đất khác để chia cho những người trước đây bị mất đất”, người tiếp chuyện tôi nói tiếp. 49 linh mục và 166 thầy tu vẫn được đi lại tự do. “Thỉnh thoảng chúng tôi lại mời họ đến để thảo luận về chính sách của chúng tôi, và chúng tôi đã thu được một số kết quả”. Tuy nhiên vẫn có sự phân biệt đối với số sĩ quan tuyên uý bởi họ là những sỹ quân chính trị thực thụ của những đơn vị công giáo và số phận của họ là số phận của những sĩ quan quân đội ngụy. Các nhà thờ đều mở cửa; khi qua thị trấn Kiệm Tân, một giáo phận công giáo, không ai có thể phát hiện trong thị trấn này một không khí khác biệt nào với không khí của các thị trấn khác trong tỉnh; cuộc sống vẫn nhộn nhịp như bình thường; người ta không thấy sự có mặt của quân đội, duy thỉnh thoảng bắt gặp một tốp dân quân đi tuần tiễu như ở tất cả các nơi khác. Trên dọc đường, tôi gặp một số người thuộc diện phải “cải tạo” tay cầm vở đến lớp để học. Họ đi thành nhóm nhỏ, điệu bộ thoải mái, vừa đi vừa cười đùa vui vẻ. Không có ai - cầm súng hay không cầm súng - làm nhiệm vụ canh gác đi cùng họ.
Ở Hố Nai, sự có mặt của quân đội chứng tỏ đây là một vùng chưa được an toàn cũng không làm cho người ta phải chú ý lắm đến sự có mặt ấy.
Chúng tôi gặp một trường hợp chứng tỏ sự khoan dung độ lượng của chính quyền cách mạng đối với những viên chức của chính quyền ngụy cũ: đó là trường hợp của viên phó chủ tịch của một uỷ ban xã. Nhà của ông ta khang trang rộng rãi, kiểu cách ít pha tạp hơn cách làm truyền thống của các nhà khá giả ở xứ quê Việt Nam. Có lẽ để bảo đảm cho tương lai của ông ở trên trần thế này cũng như ở thế giới bên kia, trên ba mảng tường trang trọng nhất trong gian phòng giữa của ông, một bên thì ông kê một tủ kính trong bầy la liệt những tranh ảnh và tượng thánh của Đức chúa Jesu và Đức Mẹ Đồng trinh, còn bên tường kia 1à một ban thờ tổ tiên đồ sộ và ở bên tường thứ ba là treo hai tấm ảnh: một bức mới tinh là ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và bức thứ hai cũ kỹ hơn là ảnh của Giáo hoàng La Mã.
Trông qua cũng biết nhà ông thuộc loại có máu mặt: một chiếc máy kéo mới cứng kéo nằm bệ vệ ở một góc sân không bị tịch thu. Trái lại, ông còn được phân hai héc ta đất ở một khu vục mới để khai trương.
“Tôi được đối xử như mọi người, ông nói, nghĩa là như những ai trước đây có hoặc không hợp tác với chính quyền cũ”. Ông chỉ phải dự một lớp học hai ngày và bây giờ ông là hội viên của hội nông dân.
Cán bộ chính quyền Hố Nai cũng xác nhận với tôi những cải thiện dần dần trong quan hệ giữa họ và nhân dân địa phương. Một việc đã giúp họ nhiều trong vấn đề này, đó là việc vào thăm họ hàng trong Nam của những người ở ngoài Bắc: “Việc vào thăm này đã nói với bà con giáo dân ở đây còn nhiều hơn cả những lời giải thích của chúng tôi”. Bởi còn có gì hùng hồn hơn, thuyết phục hơn là những lời mà giáo dân Hố Nai được nghe từ chính miệng những họ hàng của họ từ ngoài Bắc vào kể rằng ở ngoài kia quyền tự do tín ngưỡng được hoàn toàn tôn trọng.
Ngoài Bắc bây giờ có khoảng giữa một triệu và một triệu hai trăm nghìn giáo dân. Năm 1954, họ có một triệu, gần tám trăm nghìn người đã bỏ chạy vào Nam; những con số đó đã nói lên thực tế của việc tự do tín ngưỡng. Tuy nhiên trong hồi đầu kháng chiến chống Pháp, vấn đề công giáo ở Việt Nam cũng “có chuyện”: đó là thái độ của cộng đồng công giáo thiểu số này - trong một đất nước có một nền tảng Khổng giáo từ lâu đời - đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Bởi nhà thờ, thế lực nắm trong tay một sở hữu ruộng đất lớn nhất ở ngoài Bắc, lại là chỗ dựa cho chính sách thực dân và không chấp nhận chế độ mới: năm 1951, giám mục đoàn Việt Nam đã kết tội cộng sản và kêu gọi giáo dân không tham gia kháng chiến; năm 1955, giáo đoàn “Truyền bá Đức tin” đã gửi thư cấm các giáo đồ Việt Nam không được tham gia phong trào yêu nước nếu không sẽ bị rút phép thông công. Tòa thánh Vaticăng ném tất cả sức mạnh của mình vào bàn cân chống cách mạng Việt Nam: chế độ độc tài Ngô Đình Diệm lấy hệ tư tưởng chính thống của nó là Thiên chúa giáo; và tổng giám mục New York Spellman ban phước lành cho quân đội viễn chinh Mỹ. Còn phái viên Tòa thánh ở Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1960, cha John Dooley, người xứ Ailen thì thái độ của cha lại nghiêng về một hoạt động “tâm lý” hơn là thực hiện một nhiệm vụ thuộc Tòa thánh.
Trong những điều kiện ấy, quan hệ giữa Nhà thờ và nhà nước Bắc Việt Nam quả là còn hơn cả gập ghềnh gian truân. Mặc dù vậy, quyền tự do tín ngưỡng được ghi trong Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1960 vẫn được tôn trọng: giáo hội Bắc Việt Nam sống theo nguyên tắc “tốt đạo, đẹp đời”. Họ vẫn được hưởng hoa lợi trên những đất nước dành cho họ quyền thu hoa lợi, và tiền dầu đèn: những khoản quyên cúng vào Nhà thờ, quà tặng bằng hiện vật, tiền công cho những chầu lễ được đặt: một chầu lễ lớn cho đám cưới là giá 100 đồng - lương tháng trung bình ở miền Bắc lúc ấy là từ 40 đến 60 đồng. Khoảng một chục giám mục được Vaticăng thừa nhận từ 1954 và một trăm linh mục vẫn cai quản bình thường công việc ở các xứ đạo.
Từ sau Hiệp định Paris người ta nhận thấy có một sự phát triển rõ rệt trong giáo hội Bắc Việt Nam. Nó được tạo ra, một mặt do sự thúc đẩy của quần chúng giáo dân, những người trước những tiến bộ của phong trào hợp tác hóa nông nghiệp và sự tham gia của họ vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước mà những trái bom của quân xâm lược đã chẳng chừa một ai, đã hiểu ra rằng quyền lợi của họ là gắn liền với quyền lợi của quốc gia dân tộc. Mặt khác, đó là do thái độ thực tế hơn của Vaticăng đối với Việt Nam dân chủ cộng hòa: như sau khi bộ trưởng Xuân Thủy, trưởng phái đoàn Bắc Việt Nam ở Hội nghị Paris được Vaticăng chính thức đón tiếp, thì phó giám mục Hà Nội Trịnh Văn Căn đã lần đầu tiên được tham dự hội nghị tôn giáo Vaticăng 1974. Và ngày 11 tháng Mười hai năm 1974, tổng giám mục Hà Nội, đức cha Trịnh Như Khuê, bảy mươi tư tuổi, đã tuyên bố với chủ tịch Mặt trận Tổ quốc thành phố rằng:
“… Chúng tôi yêu tổ quốc chúng tôi, chúng tôi tôn trọng chính phủ, chúng tôi thường xuyên nhắc nhở giáo dân phải vâng lời chính phủ, bởi chính phủ cầm quyền là để giữ gìn an ninh cho quốc gia... và quyền ấy đã được Chúa trời ban cho. Và chính vì vậy mà vâng lời chính phủ tức là tuân theo ý Chúa.” Ấy thế mà năm 1954, chính đức cha đã tố cáo chính quyền cách mạng là “công trình của ma quỷ”... Năm 1975, giáo hội Bắc Việt Nam đề nghị xin mở lại các trường chủng viện và đề nghị đó đã được chấp nhận với điều kiện là nhà nước vẫn có quyền kiểm soát đối với những người vào học. Một dấu hiệu khác chứng tỏ thái độ mới của Vaticăng đối với cách mạng Việt Nam: ngày 16 tháng Một năm 1975, tòa thánh La Mã đã rút phép thông công của Ngô Đình Thục, cựu tổng giám mục Huế, anh ruột của Ngô Đình Diệm.
Vậy là những vấn đề lớn về công giáo, đặc biệt là thái độ của Nhà thờ đối với vấn đề dân tộc đang trên đường được dần dần giải quyết. Nhưng sự tranh chấp chính trị được tạo ra ở những người công giáo bởi một giới tăng lữ quá cổ hủ, lạc hậu, trong đó có một số người sống ở miền Bắc đã... không ngần ngại đón chào những cuộc ném bom Mỹ như là “một sự báo hiệu của ngày giải phóng sắp tới”, là khá nặng nề. Lấy ví dụ như trường hợp một anh bộ đội trẻ mà tôi gặp, lẫn trong đám đông các tín đồ đang dự một buổi lễ sáng chủ nhật tại một nhà thờ ở Sài Gòn. Là một chiến sĩ ưu tú đã từng lập nhiều chiến công và có tinh thần yêu nước đã được thử thách, anh ta đã nhiều lần được chi bộ đề nghị xét kết nạp Đảng. Nhưng cứ mỗi lần như thế thì anh lại cố tình phạm phải một lỗi, không nặng lắm song cũng đủ để việc xét kết nạp anh phải gác lại. Bởi sao? Bởi vì anh cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội không thể dung hòa được với đức tin của tôi”!
Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam - Alain Wasmes Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam