Số lần đọc/download: 0 / 14
Cập nhật: 2020-10-15 22:03:49 +0700
Chương 8: Xưng Tôi
Ðó là kiểu của “bọn Tây”, cha mẹ tôi vẫn bảo chúng tôi như thế.
Ðại từ nhân xưng này khiến tôi bối rối. Tôi ước gì có thể xóa đi cái từ “tôi” trơ trẽn kia, cái từ tuy thế mà lại xác định rằng tôi là con gái của cha tôi. Tôi muốn kể về cha tôi, kể về những người thân của tôi mà chưa gì tôi đã lủi mất. Tôi trốn sau đại từ “chúng tôi”, chúng tôi, gia đình tôi, anh chị em tôi.
Tôi tên là “Ðoàn Bùi” nhưng trên thực tế còn bốn Ðoàn Bùi nữa trong nhà tôi. Theo văn hóa Việt Nam, tên riêng là thứ phụ. Căn cước cá nhân luôn bị chối bỏ vì họ đứng trước tên – trong trường hợp của tôi là họ Bùi – để thông báo rằng người này thuộc về một thị tộc. Họ và tên của tôi: Bùi Ðoàn Thùy. Ðoàn: Họ của mẹ tôi. Thùy: Tên thật của tôi, tên tiếng Việt của tôi.
Ở trong nhà, khi nói tiếng Việt cha mẹ tôi gọi tôi là Thùy. Hoặc “con”. Ở trường tiểu học và trung học, tên riêng trong giấy tờ của tôi là Doan Thuy. Và khi tôi 20, bước vào tuổi trưởng thành, tôi cắt tên riêng thành hai. Tôi trở thành Doan. Như là vừa qua một lễ rửa tội. Và cái tên riêng này ở lại với tôi cho tới bây giờ. Trong công việc, trong cuộc sống hàng ngày, với phần lớn bạn bè. Doan Bui: Chữ ký này hợp nhất họ cha và họ mẹ tôi và xóa đi cái tên riêng “Thùy” của tôi. “Doan” là để cho người Pháp, “Thùy” là để cho người Việt, “Doan” là để cho xã hội, “Thùy” là để cho gia đình, “Doan” là tôi người lớn, “Thùy” là tôi trẻ con. Giống như rất nhiều trẻ con di dân, tôi đổi tên riêng, cũng như những mặt nạ.
“Doan” có thuận lợi là một nơi để ẩn náu. Một bộ quần áo ngụy trang. Thực ra, tôi có tên y hệt các chị em gái của tôi. Tất cả tên riêng của chúng tôi đều được đặt theo cách này: Doan, rồi thêm một từ gì đó. Các chị em gái tôi cũng bị gọi là Doan. Nên không chỉ tôi là Doan Bui, mà tất cả chúng tôi là Doan Bui.
Doan, cái tên riêng giả này, chúng tôi muốn chia sẻ cùng nhau. Nhờ vậy mà ngày trước chúng tôi thường xuyên dùng lẫn của nhau chứng minh thư, vé tháng giao thông công cộng, vé tàu hỏa, vé máy bay, vì tất cả đều ghi tên “Doan Bui”. Không ai phát hiện cả, với họ, dân Á châu đều giống nhau. Ðể trả thù cho tất cả những lần người ta nhầm tôi với một đứa nhỏ gốc Á nào đó, cho nỗi buồn phiền hàng ngày khi tôi nhận ra rằng khuôn mặt tôi quá ư nhạt nhòa, có thể lẫn với bao người khác, một khuôn mặt Á châu trước khi được coi là khuôn mặt của tôi.
Ở trong nhà chúng tôi, tên riêng chẳng để làm gì. Tiếng Việt bỏ quên từ “tôi”. Mỗi người được gọi phụ thuộc vào quan hệ với kẻ đối thoại. Khi nói với các em tôi, thì tôi là “chị”, chúng nó là “em”. Còn với cha mẹ tôi, tôi sẽ là “con”. Ở nhà chúng tôi, theo thứ tự sinh nhật mà chị em tôi được đặt tên. “Hai tới ngồi cạnh Tư!”. Tôi chưa bao giờ nghe thấy cha mẹ tôi gọi tên riêng của từng đứa chúng tôi. Cũng như giữa họ với nhau, họ gọi nhau là “anh” và “em”. Vừa là anh trai, em gái, vừa là anh yêu, em yêu.
Những từ này tạo nên một sự gần gũi tức thì. Ngôn ngữ đẽo thành hình, ngôn từ tạo, nặn, vẽ một lối tư duy. Cha mẹ tôi thay đổi khi nói tiếng Pháp. Trong giọng nói, kiểu cười, cách ngẩng đầu. Nói tiếng Việt, đó là quên từ “tôi”. Hạ thấp trước tập thể: Gia đình, làng xóm, đất nước. Chuyển qua tiếng Pháp, thế cũng đã là làm một cuộc cách mạng rồi. Khẳng định một cá nhân con người.
Tư duy theo kiểu Việt Nam vừa khiến người ta ngộp thở lại vừa khiến người ta yên tâm. Con người sinh ra, lớn lên, đẻ con, già đi, nhưng trong tiếng Việt, những quan hệ “thứ bậc” bao giờ cũng giữ nguyên. Ðương nhiên, chúng sẽ khác đi cùng với cái chết. Với tôi, chúng sẽ thay đổi ngày mà tôi trở thành mồ côi. Tôi sẽ chẳng còn ai để xưng là “con”. Tang tóc cũng ghi dấu ấn trong ngôn ngữ, với sự mất đi của cái đại từ nhân xưng bé nhỏ này.
Ấy vậy mà, chẳng gì khiến tôi chao đảo hơn thế khi tôi nghe mẹ tôi xưng “con” với những bà con họ hàng lớn tuổi của mẹ. Như thể hồn ma bà ngoại với đôi má bầu bĩnh và mềm mại đột nhiên hiện ra. Và lúc ấy, mẹ tôi tự nhiên trở thành một cô gái nhỏ.
Tuy nhiên, vẫn hiện diện trong tiếng Việt đại từ nhân xưng “tôi”. Nhưng từ “tôi” ấy, được dạy trong sách Assimil dạy tiếng Việt thì chẳng ai sử dụng. Người Việt tự nói về mình ở ngôi thứ ba. Một nhà chuyên môn gốc Việt đã giải thích cho tôi nguồn gốc của từ “tôi”: Nó được đưa vào từ thời Pháp đô hộ Việt Nam. Các trí thức Việt bắt đầu nghiên cứu Victor Hugo, Lamartine. Họ say mê chủ nghĩa lãng mạn cực đoan, và mong muốn tìm một từ để diễn tả tính cá nhân, diễn tả cái tôi của mình. Từ “tôi” đã ra đời như thế.
Nói “tôi”: là kiểu nói của người Pháp.