Nguyên tác: L'étoile Du Sud (1884)
Số lần đọc/download: 1911 / 69
Cập nhật: 2018-12-04 06:06:47 +0700
Chương 7 - Sập Mỏ
D
ã năm mươi ngày rồi Cyprien không tìm được viên kim cương nào ở mỏ của mình. Thế nên càng lúc chàng càng chán ngấy công việc thợ mỏ này, với chàng như một canh bạc, khi ta không có đủ vốn để mua đất mỏ thuộc loại hàng đầu và thuê khoảng một chục thợ nam Phi có khả năng lao động.
Thế là, một buổi sáng, để Matakit và Bardik đi làm cùng Thomas Steel, Cyprien ở lại lều một mình. Chàng muốn trả lời thư cho anh bạn Pharamond Barthès, người đã gửi đến chàng tin tức của mình qua một người buôn bán ngà voi đi ngang tỉnh Cap.
Pharamond Barthès rất hạnh phúc với cuộc sống săn bắn và phiêu lưu. Anh đã săn được ba sư tử, mười sáu voi, bảy cọp, thêm không biết bao nhiêu là hươu cao cổ, linh dương, ấy là chưa tính đến các loại thú nhỏ.
“Giống như những kẻ chinh phục trong lịch sử, anh nói, anh nuôi sống chiến tranh bằng chiến tranh. Không những anh có thể, từ những đồ săn bắn được, bảo bọc cả một đội lính viễn chinh anh mang theo, mà anh còn dễ dàng kiếm nhiều lợi nhuận đáng kể, nếu anh muốn, nhờ bán lông thú và ngà, hoặc trao đổi hàng hóa với các bộ tộc nam Phi nơi anh đi qua.”
Để kết thúc anh nói:
“Cậu không đến làm một chuyến dọc bờ dòng Limpopo cùng tôi được sao? Tôi sẽ đến đó vào cuối tháng tới và có ý định đi xuống đến vịnh Delagoa, rồi bằng đường biển quay về Durban, từ đó tôi bắt đầu đến vùng Bassoutos của tôi... Vậy nên hãy quên xứ Griqualand kinh khủng của cậu vài tuần và đến đây cùng tôi...”
Cyprien đang đọc lại lá thư ấy, thì một tiếng nổ kinh động, tiếp theo là tiếng ồn nhao nhao khắp cả khu trại khiến chàng vụt đứng dậy rồi vội lao ra khỏi lều.
Đám đông thợ mỏ, nháo nhào và náo động, chạy về phía mỏ.
“Sập mỏ!” họ thét lên từ mọi phía.
Đêm trước, quả thật trời rất lạnh, gần như có băng, ấy vậy mà ngày hôm trước được xem là một trong những ngày nóng nhất mà người ta từng chịu từ trước đến giờ. Thông thường, chính sau những lần thay đổi nhiệt độ đột ngột, hệ quả là những co rút ngay giữa các nền đất dày lộ thiên, xảy ra những tai nạn thế này.
Cyprien vội vã chạy về phía đồi Kopje.
Vừa đến nơi, chàng đã thấy ngay chuyện gì xảy ra.
Nguyên một vạt đất lớn, cao ít nhất sáu mươi mét, dài hai trăm mét, bị nứt theo chiều thẳng đứng tạo nên một kẽ giống như đường hổng của một thành lũy bị phá vỡ. Hàng trăm tấn sỏi rời ra, ào vào các hố khai thác, lấp đầy các hố bằng cát, đất, đá. Những gì còn lại bên trên, lúc này đây, người, bò, ba gác, chỉ một bước thì đổ nhào xuống và bị đè bẹp dưới hố.
May thay, phần lớn số thợ vẫn chưa xuống dưới nền đất bên dưới mỏ, nếu không có lẽ phải một nửa số nhân công của trại bị chôn vùi trong đống đổ nát dưới ấy.
Đầu tiên Cyprien nghĩ ngay đến cộng sự của chàng, Thomas Steel. Rồi chàng nhanh chóng vui mừng nhận ra anh trong đám người đang cố thuật lại thảm họa trên bờ khe nứt. Chàng liền chạy ngay về phía anh hỏi.
“Vâng, chúng tôi đã thoát chết ngoạn mục! anh bạn người Lancashire vừa nói vừa nắm tay chàng.
“Còn Matakit đâu?” Cyprien hỏi.
“Cậu bé đáng thương còn dưới đó! Thomas Steel vừa trả lời vừa chỉ đống đổ nát đang chất đầy khu đất chung của họ. Tôi chỉ vừa sai cậu ta xuống dưới và chờ cho cậu xúc đầy xô đất đầu tiên để kéo lên, thì đúng lúc vụ sạt lở xảy ra!”
“Nhưng ta không thể đứng đấy mà chẳng cố làm gì để cứu cậu ta!” Cyprien thét lên. “Có thể cậu ta còn sống!...”
Thomas Steel lắc đầu.
“Chuyện cậu ta còn sống dưới mười lăm đến hai mươi tấn đất thật hi hữu!” anh ta nói. “Hơn nữa, phải có ít nhất mười người làm việc trong hai ba ngày để đào xới mỏ!”
“Sao cũng được!” chàng kỹ sư trẻ trả lời kiên quyết. “Sẽ không ai trách ta đã để một con người bị chôn vùi trong cái mồ đất ấy mà không tìm cách cứu cậu ta ra!”
Rồi, thông qua Bardik chàng nói với một anh thợ nam Phi đang đứng đó, chàng thông báo sẽ trả thù lao tận năm siling một ngày cho những ai muốn làm việc theo lệnh chàng để dọn dẹp hầm mỏ.
Khoảng ba mươi người da đen nhận lời ngay, và không mất thêm giây nào, họ bắt tay vào việc. Những cuốc chim, cuốc bàn, xẻng không hề thiếu; những xô và dây cáp đã rất sẵn sàng, những xe ba gác cũng vậy. Một số rất đông thợ mỏ da trắng, nghe chuyện đào đất để lôi kẻ khốn khổ đáng thương bị chôn vùi do sạt lở thành mỏ, cũng tình nguyện tham gia hợp tác. Thomas Steel, kích động trước sự hăng hái của Cyprien, là người hoạt động rất tích cực trong công tác cứu hộ này.
Đến giữa trưa, họ đã đào xới lên vài tấn cát lẫn đá bị dồn nén dưới lòng hố.
Lúc ba giờ, Bardik thét lên giọng khản đặc: cậu vừa thấp thoáng thấy, dưới lưỡi cuốc, một bàn chân da đen lộ ra.
Họ nỗ lực gấp bội, và vài phút sau đó, toàn bộ thân thể Matakit được đào lên. Cậu bé nam Phi bất hạnh nằm ngửa, bất động, trông bề ngoài dường như đã chết. Do một sự tình cờ lạ thường, một trong những xô bằng da cậu thường dùng trong công việc, đã đổ lên mặt cậu và úp lại như thể chiếc mặt nạ.
Cyprien nhận thấy ngay tức khắc chi tiết ấy và chàng nghĩ rằng có thể đưa kẻ bất hạnh trở lại với đời; nhưng trên thực tế, hy vọng ấy quá mong manh, bởi rằng tim không đập nữa, thân người lạnh, tứ chi đờ ra, bàn tay quắp lại đau đớn, và khuôn mặt với sắc xanh tím tái của dân da đen - co rúm lại khủng khiếp vì ngạt thở.
Cyprien không để nguội lòng nhiệt tình. Chàng sai chuyển Matakit vào lều của Thomas Steel là lều ở gần đó nhất. Họ đặt cậu bé nằm dài trên mặt bàn thường ngày vẫn dùng để sàng lọc đất đá, và cậu được xoa bóp đúng phương pháp, nhận những cú sốc mạnh lên ngực, nhằm tạo ra sự hô hấp nhân tạo mà người ta thường vận dụng để làm nạn nhân đuối nước tỉnh lại. Cyprien biết rằng phương pháp này cũng áp dụng được cho các trường hợp bị ngạt, và trong trường hợp hiện tại thì chẳng còn gì khác phải làm, bởi chẳng có vết thương nào, chẳng có chỗ gãy nào, thậm chí còn không thấy có dấu hiệu của một chấn động mạnh nào.
“Nhìn này, anh Méré, cậu ta còn nắm trong tay một cục đất!” Thomas Steel đang hỗ trợ hết mình để xoa bóp thân thể da đen cao lớn này, chỉ cho chàng thấy.
Và anh làm việc ấy với cả tấm lòng, chàng trai trung hậu xứ Lancashire! Giá mà anh đang “dồn hết sức lực”, như người ta thường nói, đánh bóng trục quay của một máy hơi nước công suất một nghìn hai trăm mã lực thì anh đã có thể thao tác mạnh mẽ hơn!
Những nỗ lực đó nhanh chóng mang lại một kết quả đáng kể. Cái xác cứng đờ của cậu bé nam Phi dần dần mềm ra. Thân nhiệt có thay đổi rõ rệt. Khi xem xét ở phần tim để tìm dấu hiệu nhỏ nhất của sự sống, Cyprien có cảm giác nhìn thấy dưới bàn tay cậu một cử động yếu ớt mang lại điềm lành.
Ngay sau đó, các triệu chứng rõ rệt hơn. Mạch bắt đầu đập, một hơi thở nhẹ gần như khó nhận thấy nâng ngực Matakit lên; rồi một hơi thở hắt ra mạnh hơn chứng tỏ có sự hồi ứng trở lại của các chức năng sống.
Đột nhiên, hai cái hắt hơi mạnh làm thân hình da đen cao lớn ấy, mới lúc nãy vẫn hoàn toàn trơ ì, rung từ đầu đến chân. Matakit mở mắt, hít thở, tỉnh lại.
“Hoan hô! hoan hô! Cậu bé thoát nạn rồi! Thomas Steel đang đầm đìa mồ hôi liền ngưng xoa bóp, hét lớn. Xem này, anh Méré, cậu ta vẫn không thả cục đất đang nắm chặt trong bàn tay co quắp!”
Chàng kỹ sư trẻ có nhiều việc khác để làm hơn là dừng lại quan sát chi tiết này! Chàng cho bệnh nhân uống một thìa rượu rum, rồi chàng nâng cậu dậy để cho dễ thở. Cuối cùng, khi thấy cậu đã thực sự tỉnh lại, chàng quấn người cậu trong chăn, và với sự trợ giúp của ba hay bốn người tình nguyện, chàng chuyển cậu về nhà riêng của mình ở trang trại Watkins.
Ở đây, cậu bé nam Phi đáng thương nằm trên giường của chàng. Bardik cho cậu ta uống một tách trà nghi ngút khói. Mười lăm phút sau, Matakit chìm dần vào giấc ngủ nhẹ nhàng và thanh bình: cậu ta đã được cứu sống.
Cyprien cảm thấy niềm vui sướng trong lòng ấy không gì sánh bằng, sau khi giành giật sự sống con người từ nanh vuốt thần chết. Trong lúc Thomas Steel và những người trợ giúp, vô cùng nhọc sức vì nhiều động tác cấp cứu, cùng nhau ăn mừng thành tích của mình ở một hàng ăn gần nhất bằng cách tắm trong bia lai láng thì Cyprien muốn ở lại với Matakit, cầm một quyển sách, chỉ thi thoảng ngừng đọc để quan sát cậu bé ngủ như một người cha trông con trai ngủ dưỡng sức.
Matakit phục vụ chàng đã được sáu tuần, Cyprien chỉ có thể hài lòng và thậm chí là kinh ngạc vì cậu. Trí thông minh, sự ngoan ngoãn, lòng hăng say lao động của cậu chẳng ai sánh bằng. Là một cậu bé trung hậu, tốt bụng, ân cần, tính cách hiền hòa và vui vẻ khác thường. Chẳng việc gì làm cậu nề hà, chẳng khó khăn nào làm cậu nhụt chí. Điều đó để nói rằng, đôi khi một người Pháp có những tư chất ấy cũng không đạt đến độ chín về mặt xã hội như cậu! Và những tư chất quý báu đó lại đến trú ngụ dưới làn da đen sì và mái đầu xoăn tít của một cậu bé da đen nam Phi chất phác!
Tuy nhiên Matakit có một khuyết điểm - một khuyết điểm rất nghiêm trọng - Hẳn là bắt nguồn từ sự giáo dục ban đầu và do thói quen bị ảnh hưởng từ thời hy Lạp cổ mà cậu ta có lúc còn ở làng. Có nên nói ra chăng? Matakit có tính ăn cắp vặt, nhưng một cách gần như vô thức. Hễ thấy một đồ vật hợp ý, cậu tự nhiên biến nó thành của mình.
Chủ cậu ta, lo lắng khi thấy khuynh hướng ấy, đã trách mắng cậu bằng những lời nghiêm khắc nhất cũng hoài công! Chàng đe dọa đuổi việc nếu cậu còn tái phạm cũng vô ích! Matakit hứa sẽ không mắc lỗi đó nữa, cậu khóc, cậu khẩn nài chàng tha thứ, và ngay ngày hôm sau, nếu cơ hội đưa đẩy, cậu lại tái phạm.
Mấy đồ cậu ăn cắp vặt thường chẳng mấy quan trọng. Những thứ đặt biệc khơi gợi thèm muốn nơi cậu chẳng có giá trị gì lớn: một con dao, một chiếc cà vạt, một ống cắm bút chì, một vật nhỏ đại loại như thế. Nhưng Cyprien cũng không kém phần ngao ngán khi nhận thấy tật xấu như thế trong một bản chất dễ mến đến vậy.
“Đợi xem!... Hy vọng nào! chàng tự nhủ. Có thể mình sẽ khiến cậu ta hiểu lấy cắp như vậy xấu thế nào!”
Và Cyprien vừa nhìn cậu ta ngủ vừa nghĩ về những đối nghịch vô cùng khác lạ ấy vốn được lý giải bởi cuộc sống quá khứ của Matakit giữa những đồng loại hoang dã!
Lúc màn đêm buông xuống, cậu bé nam Phi tỉnh dậy tươi tỉnh, khoan khoái dường nào, như thể cậu không hề chịu đựng việc phải ngừng thở gần như hoàn toàn trong hai hay ba tiếng đồng hồ. Bây giờ cậu ta có thể kể lại chuyện đã xảy ra.
Cái xô vô tình ụp lên mặt cậu và một cái thang dài tạo nên mái vòm chống trên đầu cậu, thoạt đầu đã bảo vệ cậu khỏi các tác động cơ học của sự sạt lở, sau đó giúp cậu không bị nghẹt thở trong thời gian khá lâu bằng cách đó giữ lại chút ít khí dự trữ trong lúc cậu bị chôn sâu dưới đất. Cậu đã thấy được tình tiết may mắn này và cố mọi cách để tận dụng nó, bằng cách thở thật ít. Nhưng dần dần, không khí cũng cạn. Matakit cảm thấy tối sầm mặt mũi. Rồi cậu rơi vào tình trạng mê man đầy sợ hãi, và cậu chỉ thi thoảng thoát ra để cố dốc sức bình sinh mà hít thở. Và rồi, tất cả bị nhận chìm. Cậu mất luôn cả ý thức về việc đang đến với mình, và cậu đã chết... bởi thực sự đúng là cậu vừa trở về từ cõi chết!
Cyprien để cậu kể chuyện một lúc rồi cho cậu ăn uống, và bắt cậu ngủ qua đêm trên chiếc giường cậu đang nằm, mặc cho cậu phản đối. Cuối cùng, vì chắc chắn từ phút ấy mọi nguy hiểm đã qua, chàng để cậu lại một mình để ghé thăm nhà Watkins như thường lệ.
Chàng kỹ sư trẻ cần phải kể cho Alice nghe những cảm nhận của chàng trong ngày, việc chàng chán ghét hầm mỏ - sự chán ghét càng tăng thêm sau tai nạn tồi tệ ban sáng. Chàng thấy ghê sợ khi nghĩ đến việc dùng mạng sống của Matakit đổi lấy cơ hội mong manh kiếm được mấy viên kim cương xúi quẩy.
“Tự mình làm việc này thì còn bỏ qua được! chàng tự nhủ. Nhưng trả thù lao rẻ mạt thuê một kẻ nam Phi bất hạnh, kẻ chẳng mắc nợ gì mình, rồi bắt hắn làm việc này thì thật bỉ ổi!”
Cứ thế chàng kể nàng nghe những bất mãn và những chua chát của mình. Chàng kể về lá thư chàng nhận được từ Pharamond Barthès. Quả thật, lẽ nào sẽ tốt hơn nếu chàng nghe theo lời khuyên của bạn mình? Chàng mất mát gì đâu nếu đi một chuyến đến vùng Limpopo và thử vận làm giàu bằng săn bắn? Có lẽ sẽ thanh tao hơn, hẳn thế rồi, là đi đào đất như một kẻ hà tiện, hay là phải thuê những người khốn khổ tội nghiệp đào đất giúp ta?
“Cô nghĩ thế nào, tiểu thư Watkins, chàng hỏi, cô vốn là người đầy khôn ngoan và có óc thực tế? hãy cho tôi lời khuyên! Tôi cần lắm! Tôi đang mất cân bằng về mặt tinh thần rồi! Tôi cần một bàn tay thân thiết để lấy lại thăng bằng!”
Chàng bày tỏ với tất cả lòng thành, tự thấy một niềm vui không diễn tả được, vì bình thường chàng rất dè dặt khi bày tỏ nỗi khốn khổ về những do dự của mình trước cô bạn tâm tình dịu dàng và duyên dáng này.
Cuộc trò chuyện tiếp diễn bằng tiếng Pháp được vài phút rồi, và mang vẻ rất thân mật trong tình huống giản dị ấy, cho dù John Watkins, đã ngủ lim dim được một quãng khi hút đến tẩu thuốc thứ ba, chẳng hề quan tâm gì đến chuyện các bạn trẻ nói tiếng Anh hay tiếng gì khác. Alice thì lắng nghe Cyprien với niềm cảm thông sâu sắc.
“Tất cả những điều anh nói với tôi, nàng đáp, từ lâu tôi đã suy nghĩ giúp anh, anh Méré à! Tôi khó có thể hiểu làm sao một chàng kỹ sư, một nhà khoa học như anh, có thể thanh thản theo đuổi một cuộc sống như thế! Phải chăng đấy là một tội ác chống lại bản thân anh và phản khoa học? hy sinh thời gian quý giá cho công việc chân tay vốn chỉ cần một người nam Phi hay một anh chàng hottentot tầm thường cũng làm tốt hơn anh, điều ấy tệ thật, tôi cam đoan với anh đó!”
Cyprien có lẽ chỉ có một lời duy nhất để giải thích với nàng về vấn đề làm nàng kinh ngạc và sốc mạnh thế kia. Và thậm chí ai mà biết, nếu nàng không phóng đại một chút sự phẫn nộ của nàng để khiến chàng phải thú nhận một điều?... Nhưng lời thú nhận kia, chàng đã thề chỉ giữ riêng cho chàng, chàng sẽ khinh bỉ bản thân mình nếu tỏ bày; dù muốn nói thành lời nhưng chàng đành kìm nén. Tiểu thư Watkins nói tiếp:
“Nếu anh muốn tìm kiếm kim cương đến thế, anh Méré à, anh chỉ nên tìm kiếm đúng ở nơi anh có nhiều cơ may tìm thấy chúng thì hơn - trong lò nung của anh chẳng hạn? Lạ chưa! Anh là nhà hóa học, anh biết rõ hơn ai hết bản chất những viên đá đáng rẻ rúng kia là như thế nào, những viên đá mà người ta gán cho nhiều giá trị, thế mà anh lại trông cậy vào việc lao động khổ nhọc bạc bẽo và máy móc để tìm kiếm ư? Với tôi, tôi vẫn giữ quan điểm: nếu tôi là anh, tôi sẽ tìm cách chế tạo kim cương hơn là đi tìm kiếm những viên đá có sẵn!”
Alice sôi nổi nói với một niềm tin vào khoa học và tin vào chính bản thân Cyprien, đến mức con tim chàng trai trẻ như được tắm trong sương mai tươi mát.
Chẳng may, đúng lúc ấy John Watkins tỉnh ngủ và hỏi thăm tin tức về mỏ Vandergaart-Kopje. Vậy nên phải quay lại nói tiếng Anh, gián đoạn cuộc chuyện trò riêng đầy lôi cuốn. Sự quyến rũ bị phá vỡ.
Nhưng lời của nàng gieo vào tai chàng như hạt giống ươm vào đất màu mỡ hẳn sẽ nảy mầm. Chàng kỹ sư trẻ, trong lúc trở về nhà, suy nghĩ về những lời đầy rung động nhưng vô cùng đúng đắn mà tiểu thư Watkins đã nói chàng nghe. Không còn những lời nghe có vẻ huyễn hoặc mà thay vào đó là những lời độ lượng, tin tưởng và thực sự dịu dàng.
“Sau cùng, tại sao không nhỉ?” chàng tự nhủ. “Việc sản xuất kim cương, có thể là không tưởng cách đây một thế kỷ, thì giờ đây có thể xem là một việc có thể thực hiện được! ngài M. Frémy và Peil ở Paris đã làm ra hồng ngọc, ngọc lục bảo và ngọc lam, chỉ từ các tinh thể của nhôm ôxít được nhuộm màu khác nhau! ngài Mac-Tear ở Glasgow, ngài J. Ballantine hannay ở cùng thành phố, đã tạo ra, vào năm 1880, tinh thể cácbon mang tất cả các đặc tính của kim cương và chỉ còn một nhược điểm duy nhất là giá thành đắt khủng khiếp - đắt hơn nhiều lần kim cương tự nhiên từ Braxin, từ Ấn Độ hay từ Griqualand - và kết cục thì không đáp ứng được nhu cầu kinh doanh! nhưng, một khi giải pháp khoa học của một vấn đề được tìm thấy thì giải pháp công nghiệp của nó cũng không mấy xa vời! Sao ta không đi tìm nó?... Những nhà bác học kia, đến giờ vẫn còn thiếu nó, vốn là những nhà lý luận, những con người của văn phòng và phòng thí nghiệm. Họ đã không nghiên cứu kim cương tại chỗ, trong lòng đất tự nhiên có thể nói là nơi khởi đầu của kim cương! Còn ta, có thể thừa hưởng từ công trình nghiên cứu của họ, kinh nghiệm của họ và cũng từ kinh nghiệm riêng ta nữa! Chính tay ta đã chắt lọc kim cương! Ta đã phân tích, nghiên cứu tất cả các dạng thái đất chứa kim cương! nếu một ai đó, với đôi chút may mắn, có thể vượt lên những khó khăn sau cùng, thì đó chính là ta... người đó phải là ta thôi!”
Đây chính điều Cyprien tự nhắc đi nhắc lại, và là điều chàng suy đi nghĩ lại gần như cả đêm.
Chẳng bao lâu sau chàng đã ra quyết định. Ngay sáng hôm sau, chàng thông báo với Thomas Steel - rằng ít nhất là tạm thời, chàng không định khai thác cũng không thuê người khai thác mỏ cho mình nữa. Chàng còn thỏa thuận với anh ta, nếu anh ta muốn rút lại phần mình, anh ta sẽ được tự do làm điều đó; từ đó chàng tự giam mình trong phòng thí nghiệm và suy nghĩ về những dự án mới.