Số lần đọc/download: 1590 / 33
Cập nhật: 2017-08-04 14:04:04 +0700
Chương 8
N
hững ngày ấy, Cosimo thường thách đấu với mọi người ở dưới đất, thách bắn trúng đích, thách tài nghệ thao tác, cũng là để thử lại xem các khả năng của mình, toàn bộ những gì mình có thể thực hiện được ở đỉnh cao trên kia. Anh thách lũ trẻ chơi đánh đáo. Đó là ở những chỗ gần Cổng Capperi, giữa những mái nhà tranh vách nát của người nghèo và của kẻ phiêu bạt tứ xứ. Từ trên một cây sồi xanh nửa khô cằn nửa trơ trụi, trong lúc đang chơi đánh đáo, Cosimo trông thấy một người đàn ông, cao, hơi khòm, cuốn mình trong chiếc áo măng tô đen, cưỡi ngựa, tiến đến gần. Anh nhận ra đó là bố. Lũ trẻ tản đi; một số phụ nữ thì đứng nhìn bên ngưỡng cửa của các túp nhà ấy.
Nam tước Arminio phi ngựa đến gốc cây. Hoàng hôn đỏ rực. Cosimo đang ở giữa những cành cây trụi lá. Hai người nhìn nhau. Đây là lần đầu tiên, sau buổi cơm trưa ốc sên, họ lại ở trong tình trạng như thế, mặt đối mặt. Nhiều ngày đã trôi qua, người này lẫn người kia biết rằng giờ đây ốc sên không can dự chi nữa, sự vâng lời của con cái hay thẩm quyền của cha chú cũng thế; rằng có biết bao điều hợp với lô gích và có ý nghĩa mà họ có thể nói, tất cả ắt đều không đúng chỗ; tuy nhiên, cũng phải thốt lên gì chứ.
– Cậu có màn trình diễn tuyệt vời về mình đấy! – bố cay đắng mở đầu – quả không hổ danh một công tử quyền quý!
(Bố gọi Cosimo là Cậu, như cách xưng hô trong những vụ trách mắng trầm trọng nhất, song lúc này thì sự sử dụng ấy mang một ý nghĩa xa xôi, giữ khoảng cách).
– Một công tử quyền quý, thưa bố, chân đạp đất hay đầu đội vòm cây, thì cũng y như nhau.
Cosimo trả lời, và nói thêm ngay sau đó:
– Nếu chàng công tử ấy ứng xử chính đáng.
– Câu nói hay đấy.
Vị Nam tước thừa nhận một cách trịnh trọng.
– Cái anh chàng công tử mà, mới vừa đây thôi, đã hái trộm mận của một người thuê đất.
Thật thế. Anh tôi đã bị bắt gặp tại trận. Trả lời thế nào đây? Anh mỉm cười, không ngạo mạn cũng không khinh mạn: một nụ cười bẽn lẽn, và mặt anh đỏ bừng.
Bố cũng mỉm cười, một nụ cười buồn rầu, chẳng hiểu tại sao bố cũng đỏ mặt. Sau đó bố nói:
– Giờ thì cậu còn kết bè kết đảng với những đứa cứng đầu cứng cổ và du côn du kề nhất.
Cosimo nói, cương quyết:
– Không phải, thưa bố, con có chuyện của con, mỗi người có chuyện của mình.
Bằng một giọng nói điềm tĩnh, hầu như dịu nhẹ, vị Nam tước bảo:
– Tôi mời cậu tụt xuống đất, nhận lại bổn phận dành cho địa vị của mình.
– Thưa bố, con không có ý định tuân lời bố, và con rất đau lòng về chuyện này, anh tôi nói.
Cả hai cùng ngượng ngùng, ngán ngẩm. Mỗi người biết người kia ắt sẽ nói gì.
– Thế thì chuyện học hành, chuyện phụng ngưỡng Kitô giáo của anh thì sao? Cậu định lớn lên như một kẻ hoang dã của những xứ Mỹ châu à? người bố nói.
Cosimo im lặng. Đó là những sự suy nghĩ mà anh chưa và không muốn đặt ra cho mình. Rồi anh bảo:
– Thế thì bố tin rằng chỉ vì vài mét trên cao này mà những lời dạy dỗ cao đẹp không tới được với con à?
Đây cũng là một câu trả lời khôn khéo, song như thể nó đã làm giảm thiểu tầm mức của cái thái độ của anh, vì thế: một tín hiệu của sự yếu đuối.
Người bố nhận ra điều đó và tăng thêm áp lực:
– Sự nổi loạn không đo bằng mét. Có những chuyến xê dịch tưởng như chỉ vài gang tay thôi, ấy thế mà không có ngày về đấy.
Lúc ấy anh tôi hẳn có thể đưa ra một lời đối đáp cao cả nào đó, một câu cách ngôn tiếng La tinh chẳng hạn, mà hồi đó chúng tôi thuộc nằm lòng nhiều câu, song ngay lúc này thì tôi chẳng nghĩ ra được câu nào. Vậy mà anh đã ngán ngẩm, đứng đó, vẻ đĩnh đạc, chặc lưỡi, hét lên:
– Nhưng từ trên cành cây này con tiểu ra xa hơn!
Một câu nói không hàm nghĩa gì nhiều, nhưng phạt ngang vấn đề.
Như thể câu hét đã được nghe ra, từ phía Cổng Capperi nổi lên tiếng hò reo của lũ trẻ. Con ngựa của Nam tước xứ Rondo khựng lại, người chủ kềm cương, quấn lại áo choàng, chực sửa soạn rời vó. Song ông ngoảnh mặt lại, rút một cánh tay ra khỏi áo choàng, chỉ lên bầu trời, lúc đó mây đen đã nhanh chóng phủ đầy, rồi kêu lên:
– Coi chừng đấy, quý tử, có Ai đó có thể tiểu lên tất cả chúng ta!
Rồi thúc ngựa chạy đi.
Cơn mưa, mà đồng ruộng chờ đợi từ lâu, bắt đầu nặng hạt. Từ những túp nhà tranh vách lá, những đứa trẻ, đầu đội túi, túa ra, miệng ca vang:
– Ciêuve! Ciêuve! L’aiga va pe êuve!14
Cosimo víu cành biến mất trong đám lá đầm đìa nước, chỉ cần chạm vào là sẽ bị hắt nước xuống đầu.
Vừa biết là trời mưa, tôi đã khổ giùm anh. Tôi mường tượng ra anh đang co ro, dán sát người vào một thân cây mà vẫn không thể tránh được những làn mưa rơi chéo. Và tôi còn biết, một cơn bão cũng không đủ để thổi anh về. Tôi chạy lại mẹ:
– Trời mưa! Mẹ ơi, anh Cosimo sẽ ra sao?
Bà Nữ tướng gạt tấm màn cửa, nhìn mưa. Bà bình tĩnh.
– Sự bất tiện nhất của trời mưa là đất bùn lầy. Ở trên đó anh con không bị tác động.
– Nhưng cây cối có đủ che cho anh con không?
– Anh con sẽ rút về những đại bản doanh của mình.
– Đại bản doanh nào, thưa mẹ?
– Anh con hẳn đã suy nghĩ rất lung để sửa soạn ra những chỗ ấy trước.
– Thế mẹ có nghĩ rằng con nên đi tìm và đưa cho anh con một cây dù hay không?
Như thể đột nhiên chữ “dù” đã chộp bà Nữ tướng từ cái tháp quan sát, rồi thả tõm bà về lại với mối lo lắng mẫu tử, bà thốt lên:
– Ja, ganz gewiss!15. Một chai mật ong, thật nóng, quấn trong đôi tất len! Một tấm vải bạt, chống ẩm, để trải trên gỗ… Nhưng giờ này nó ở đâu, thật đáng thương… Hy vọng con sẽ tìm ra được anh con…
Nặng trĩu những gói đồ, cầm cây dù to tướng màu xanh, và kẹp một cây khác chưa mở dưới nách để đưa cho Cosimo, tôi bước ra trời mưa.
Tôi huýt vang tiếng huýt sáo của chúng tôi, nhưng chỉ có tiếng mưa rì rào không ngớt trên trên cây lá đáp lời. Trời tối đen; ra khỏi vườn, không biết đi đâu, tôi dọ dẫm bước để tránh những viên đá trơn trợt, những đám cỏ nhẽo ướt, những vũng nước, và tiếp tục huýt sáo. Để tiếng huýt có thể bay cao, tôi ngả người ra khỏi tầm dù, thế là nước mưa đập lên mặt và làm tịt mất tiếng huýt trên môi. Tôi muốn đi về phía những khu rừng công nhiều cây cao, nơi tựu trung, tôi nghĩ, có thể được anh dùng làm chỗ ẩn náu, song tôi bị lạc trong bóng tối. Tôi đứng ngây ra đó, cầm dù và ôm chặt những gói đồ, chỉ nhận được chút hơi ấm từ đôi tất len quấn quanh lọ mật.
Cho tới lúc, kìa! tôi nhìn thấy một đốm sáng giữa cây lá trên cao tối đen, nó không thể là ánh trăng hay ánh sao. Tôi có cảm tưởng là tiếng huýt của mình đã được đón nhận.
– Cosimooo!
– Biagiooo! tiếng cất giọng giữa mưa, từ trên cao đó.
– Anh ở đâu vậy?
– Ở đây…! Anh đang tới gặp chú mày, nhanh lên, không thì anh ướt hết!
Chúng tôi gặp lại nhau. Bọc trong một cái chăn, anh tụt xuống một chạng cây liễu, ở dưới thấp, để chỉ cho tôi lối trèo, băng qua những cành nhánh trổ chìa quanh co phức tạp, tới tận một chạng cây sồi to, nơi cái đốm sáng xuất phát. Tôi đưa ngay cho anh chiếc dù và vài gói đồ, chúng tôi tìm cách leo bám trong lúc dù để mở, song không thể được, thế là vẫn bị ướt. Cuối cùng, trèo tới chỗ anh hướng dẫn; tôi không thấy gì cả ngoài cái vệt sáng giống như một khe cửa lều.
Cosimo vén một bên vạt, tôi chui vào. Dưới ánh sáng của cây đèn xách, tôi thấy mình đang ở trong một gian phòng nhỏ, bạt và thảm che khép tứ phía, với cái sàn nhỏ kết bằng cọc, bắc ngang từ thân cây sồi, toàn thể được trụ đỡ bởi những cành cây lớn. Thoạt tiên, tôi cảm thấy nó như là một cung điện, song ngay sau đó, tôi buộc phải nhận ra rằng nó hết sức chênh vênh, chỉ thêm một người thứ hai bên trong là nó đã xiêu vẹo, thế là Cosimo phải nỗ lực chỉnh sửa lại ngay lập tức những chỗ lung lay và xộc xệch. Anh nhặt cả hai chiếc dù tôi mang đến, mở ra, và che vào hai lỗ hổng trên nóc; nhưng nước tiếp tục nhỏ xuống từ nhiều chỗ khác, cả hai chúng tôi đều bị ướt, thế là vẫn đẫm lạnh như khi ở bên ngoài. Tuy nhiên, với một lượng bạt và thảm chồng chất trùm phủ nhiều như thế, chúng tôi có thể bị vùi bên dưới mà chỉ còn ló ra hai mái đầu. Chiếc đèn xách tỏa ra một thứ ánh sáng ngập ngừng, lập lòe, và rọi chiếu lên trần vách của cái công trình lạ lùng ấy những bóng hình cành lá rối rắm. Cosimo hớp từng ngụm mật ong, xuýt xoa:
– Puah! Puah!
– Một ngôi nhà đẹp, tôi nói.
– Ồ, chỉ là tạm thời thôi, anh vội vã đáp lại. Anh phải nghiên cứu kỹ hơn.
– Toàn bộ đã được một mình anh dựng nên à?
– Thế chú mày bảo với ai? Chỗ này là bí mật.
– Em có thể tới đây được không?
– Không được, chú mày sẽ lộ cho người khác biết lối đến.
– Bố đã bảo là sẽ không sai người đi tìm anh nữa.
– Cũng vẫn phải giữ bí mật.
– Với cái băng trộm trái cây à? Thế chúng nó không phải là bạn anh ư?
– Lúc là bạn, lúc không.
– Thế còn tiểu thư cưỡi chú ngựa con?
– Sao chú mày lại quan tâm?
– Em muốn nói tiểu thư ấy có là bạn, có cùng chơi với anh không?
– Lúc thì có, lúc thì không.
– Sao lại lúc thì không?
– Bởi lẽ, hoặc là anh không muốn, hoặc là nàng không muốn.
– Thế nàng ấy, anh có dẫn nàng ấy leo lên đó không?
Cosimo, mặt sa sầm, tìm cách trải chiếc chiếu vắt trên một cành cây.
– … Nếu nàng tới, anh mày sẽ cho nàng lên
Anh trịnh trọng nói.
– Thế nàng không muốn à?
Cosimo nằm nhoài xuống.
– Nàng đã đi rồi.
– Nói cho em nghe đi anh, tôi nói nhỏ. Thế anh và nàng đã cặp bồ với nhau chưa?
– Chưa!
Anh trả lời, rồi chìm sâu trong im lặng.
Sáng hôm sau trời đẹp, và một quyết định được đưa ra: Cosimo sẽ tiếp tục học với thầy Trùm CắtTiệtHoa. Không biết là bằng cách nào. Đơn giản và có phần đột ngột, vị Nam tước nhờ thầy Trùm (“Thầy ơi! thay vì đứng đó mà đuổi ruồi…”) tìm ra nơi anh đang có mặt, và bảo anh dịch một ít Virgilio. Thế rồi ngại rằng mình sẽ đẩy thầy vào một tình thế quá lúng túng, bố tìm cách dễ dàng hóa nhiệm vụ của thầy mà bảo tôi:
– Con ra bảo anh con nửa tiếng nữa hãy có mặt trong vườn để học tiếng La tinh.
Bố nói với một giọng nói tự nhiên nhất có thể, cái giọng nói mà bố muốn duy trì từ giờ về sau: cùng với việc Cosimo ở trên cây, mọi sự cần tiếp tục như trước.
Thế là buổi học đã diễn ra. Anh tôi cưỡi một cành cây du, chân thả đong đưa; thầy Trùm, ở bãi cỏ phía dưới, ngồi trên một chiếc ghế đẩu, hai người đồng thanh lập đi lập lại những bài thơ sáu âm tiết. Tôi chạy chơi xung quanh và khuất xa họ một lúc; khi tôi quay lại, chính thầy Trùm cũng ở trên cây; đôi chân còm nhom mang vớ đen đang tìm cách quờ bám vào một chạng cây, Cosimo thì đang giữ cái khuỷu tay thầy để hỗ trợ. Tìm ra một chỗ thuận lợi cho người lớn tuổi, cả hai, cắm cúi với quyển sách, cùng nhau giải đáp âm tiết của một đoạn thơ khó. Anh tôi dường như tỏ ra mình hết sức chuyên cần.
Sau đó, tôi không biết chuyện gì đã xảy ra, bằng cách nào mà cậu học trò đã biến, có lẽ do thầy Trùm trên đó đã đễnh đãng, đã ì ra đó mà lóng ngóng nhìn vào khoảng không như mọi khi; vì sự thể là: rúc giữa cành lá bấy giờ chỉ còn vị linh mục già áo đen, với quyển sách trên đầu gối, miệng há hốc, dõi nhìn một cánh bướm trắng đang bay. Khi con bướm mất dạng, thầy Trùm nhận ra là mình đang ở trên đỉnh cây, bắt đầu run sợ. Thầy ôm chặt thân cây, bắt đầu hét lên:
– Au secours! Au secours!16
Chỉ tới lúc dân chúng kéo đến với một cái thang, thì từ từ thầy mới điềm tĩnh trở lại, và leo xuống.