Số lần đọc/download: 222 / 15
Cập nhật: 2020-01-25 21:17:45 +0700
Đàn Chim Bị Bùa Mê
C
Ó LẼ TÔI SẼ CHẲNG BAO GIỜ còn được nhìn thấy những cây táo nở hoa, thảm cỏ mềm mại, và hàng cây xanh xào xạc nữa. Bởi vì bây giờ chúng tôi đang đến một nơi không có loài hoa nào, loài cây nào, loài cỏ nào có thể sinh sôi.
Chúng tôi đi suốt đêm. cứ đi mãi, đi mãi lên phía trước. Chẳng bao lâu Rừng Sáng Trăng thân ái đã xa khuất phía sau. Trước mặt chúng tôi là bóng tối. Ánh trăng mờ dần, mặt đất cứng đầy sỏi đá, những vách đá lởm chởm trơ trụi dựng lên sừng sững khắp mọi phía, càng lúc càng ép sát lại. Cuối cùng chúng tôi lọt vào một lối đi hẹp tối tăm, sâu hun hút giữa những vách đá đen ngòm cao ngầt ở tít dưới lòng một khe núi.
"Ước gì trời đừng tối đặc thế này," Pompoo nói. "Ước gì núi đừng đen đặc thế này, và mình đừng quá nhỏ bé và cô đơn."
Con đường quanh co khúc khuỷu, như có muôn ngàn hiểm nguy rinh rập ở mỗi khúc ngoặt. Con Miramis cũng cảm thấy điều đó. Toàn thân nó run rẩy, nó muốn quay về. Nhưng tôi nhất quyết ghì chắc dây cương thúc nó tiến lên phía trước. Con đường thu hẹp dần. Những vách đá đen ngòm vươn lên cao hơn. Bóng tối đặc quánh lại. Cuối cùng chúng tôi đến một nơi nom tựa như cái cổng, một lối vào rất hẹp giữa vách đá. Phía sau lối vào là bóng tối, đen thăm thầm hơn bất kỳ bóng tối nào trên thế gian.
"Đất Ngoài," Pompoo thì thào. "Lối vào Đất Ngoài đấy."
Con Miramis chồm lên giận dữ. Nó đứng dựng trên hai chân sau và cất tiếng hí vô cùng hoang dại. Tiếng hí của nó thảm thiết, và đó là âm thanh duy nhất, vì bóng tối phía sau cánh cổng im lặng như tờ. Bóng tối câm lặng như đang theo dõi chúng tôi - như đợi sẵn để chực nuốt chửng khi chúng tôi vừa vượt qua cánh cổng.
Tôi biết mình phải bước vào bóng tối. Và tôi không còn sợ hãi nữa. Bây giờ khi biết rằng hàng nghìn năm trước đã có lời tiên tri tôi sẽ đi qua khung cửa tối đen này, tôi thấy trong lòng can đảm hẳn lên. Tôi biết dù có bất cứ điều gì xảy ra đi nữa, tôi vẫn cứ đi. Có thể tôi sẽ không bao giờ trở về, nhưng tôi đã quyết chí sẽ không sợ hãi.
Tôi thúc con Miramis lao vào bóng tối. Khi biết tôi không hề có ý định quay trở lại, nó cất bước phóng nhanh qua vòm cổng hẹp trên con đường tối đen phía trước. Chúng tôi lao đi trong đêm, xung quanh toàn bóng tối thăm thẳm, không thấy đường thấy lối nơi đâu.
Nhưng bên cạnh tôi có Pompoo. Nó ngồi sau tôi, ôm chặt, và tôi càng yêu quý nó hơn. Tôi không đơn độc. Tôi có một người bạn bên mình, người bạn thân nhất, đúng như lời tiên tri.
Tôi không biết mình đã phi ngựa trong bóng tối bao lâu. Có thể chỉ là một khoảnh khắc, có thể là hàng giờ, hàng giờ dàng dặc. Hay có thể là cả hàng nghìn, hàng nghìn năm! Tựa như một chuyến đi trong mơ - một trong những giấc mơ kinh hoàng khiến bạn thét lên rồi thức giấc và sau đó rất lâu vẫn còn khiếp hãi. Nhưng đây không phải là giấc mơ mà tôi có thể tỉnh giấc. Chúng tôi cứ phi mãi, phi mãi, không biết mình đang đi đâu, không biết con đường bao xa. Chúng tôi cứ phi ngựa thâu đêm.
Cuối cùng con Miramis dừng khựng lại. Chúng tôi đã đến một cái hồ. Không giấc mơ kinh hãi nhất nào có thề sánh cùng nó. Trong những giấc mơ của tôi, đôi khi tôi vẫn thấy những vùng nước đen mênh mông mở ra trước mắt. Nhưng tôi chưa từng mơ, chưa ai trên đời từng mơ thấy những vùng nước tối đen như vùng nước đang ở ngay trước mắt tôi. Nó là vùng nước đen nhất, hoang tàn nhất trên thế gian. Quanh hồ chẳng có gì ngoài những khối đá đen cao vọi, trơ trụi. Chim chóc lượn lờ trên mặt nước ảm đạm, rất nhiều chim. Bạn không thể thấy chúng, nhưng có thể nghe tiếng chúng. Tôi chưa bao giờ nghe âm thanh nào buồn thảm như tiếng kêu than của chúng, ôi, tôi thương chúng xiết bao! Dường như chúng đang kêu cầu giúp đỡ. Những tiếng kêu như tiếng khóc than và tuyệt vọng.
Bên kia hồ, trên tảng đá cao nhất mọc lên sùng sững một tòa pháo đài khổng to đen trùi trũi. Chỉ có một ô cửa sổ sáng đèn. Nó, cái ô cửa sổ đó, nom như mắt quỷ, một con mắt quỷ đỏ ngầu hung ác, trừng trừng nhìn chúng tôi trong đêm như hăm dọa đem đến điều dữ.
"Lâu đài của Nam tước Kato!" Pompoo thì thầm, ở đó, bên kia mặt nước đen ngòm là kẻ thù mà tôi phải đến để chiến đấu. Con mắt quỷ trên mặt hồ trừng trừng nhìn tôi dọa dẫm, mặc dù tôi đã quyết định không sợ nữa. Nó làm tôi kinh hoảng - làm sao một người nhỏ bé như tôi có thể đánh bại một kẻ độc ác và nguy hiểm như Nam tước Kato?
"Cậu cần có một thanh gươm," Pompoo nói.
Nó vừa nói xong chúng tôi nghe có tiếng ai khóc than gần đó.
"ôi.., ôi... ôi," tiếng khóc rền rĩ. "Tôi sắp chết đói rồi, ôi... ôi... ôi!"
Tôi biết tiến về phía tiếng khóc mặc dù biết là sẽ nguy hiểm. Có thể là kẻ nào đó đang cố dụ chúng tôi vào bẫy. Nhưng dù đó là ai, tôi phải tìm đến xem họ có cần sự giúp đỡ thật hay không.
"Bọn mình phải xem là ai mới được," tôi bảo Pompoo. "Mình phải giúp họ."
"Tớ sẽ đi cùng cậu," Pompoo nói.
"Còn mày, Miramis, cứ ở đây nhé," tôi vừa nói vừa vuốt ve bờm nó. Nó hí lên đầy lo lắng.
Đừng lo," tôi nói. "Bọn tao sẽ quay lại ngay."
Tiếng than khóc của ai đó không xa lắm, nhưng vẫn khó tìm thấy họ trong bóng đêm.
"ôi... ôi... ôi," chúng tôi lại nghe. "Tôi sắp chết đói rồi, ôi... ôi... ôi!"
Chúng tôi vấp, chúng tôi trượt chân trên đá, ngã khuỵu trong bóng tối trong khi lần bước về phía tiếng khóc than rền rĩ, nhưng cuối cùng chúng tôi cũng tìm thấy một ngôi nhà nhỏ cũ kỹ. Đúng ra thì nó là một cái lán sơ sài. Nếu không dựa vào một vách đá thi nó đã đổ sập xuống. Trong ô cửa sổ nhỏ le lói ánh đèn mờ, chúng tôi bò tới kín đáo nhìn vào.
Một ông lão ngồi trong lán, một ông lão nhỏ bé đáng thương, gầy hốc hác, mái tóc bạc rối tung. Trong lò lửa cháy bập bùng, còn ông lão ngồi trước ngọn lửa, vừa vật vã vừa nói, "ôi... ôi... ôi, tôi sáp chết đói rồi, ôi... ôi... ôi!"
Chúng tôi bèn bước vào. ông lão bé nhỏ im bặt nhìn chúng tôi chăm chăm. Chúng tôi đúng trên ngưỡng cửa, còn ông thì mở to mắt kinh ngạc mà nhìn cứ như thể chưa từng thấy ai như chúng tôi bao giờ. Rồi có vẻ sợ hãi, ông giơ đôi bàn tay khẳng khiu lên che mặt.
"Đừng làm hại tôi," ông thì thào. "Đừng làm hại tôi!"
Tôi nói chúng tôi không đến để làm hại ông. "Chúng cháu nghe thấy ông bảo là ông đang đói," tôi nói. "Chúng cháu đến để đưa cho ông bánh."
Tôi lấy ổ bánh của Bà Thợ Dệt ra bẻ một miếng đưa cho ông lão. Ông vẫn cứ mở to mắt nhìn chúng tôi chầm chầm như trước. Tôi chìa miếng bánh lại gần, nhưng ông vẫn nhìn tôi đầy khiếp sợ, như thể ông nghĩ rằng tôi đang dụ ông vào bẫy.
"Bánh đây," tôi nói. "ông đừng sợ!"
Bấy giờ ông lão mới rón rén đưa tay ra đón lấy miếng bánh, ông cầm mẩu bánh bằng cả hai tay mà mân mê. Rồi ông đưa bánh lên mũi ngửi. Và ông bắt đầu khóc.
"Bánh đây mà," ông thì thầm. "Bánh Hết Đói đây mà."
Rồi ông bắt đầu ăn miếng bánh. Tôi chưa tùng thấy ai ăn như thế bao giờ. Ông cứ vừa ăn vừa khóc. Sau khi ăn xong, ông nhặt từng vụn bánh nhỏ rơi trên áo. Ông tìm mãi cho đến khi không còn vụn bánh nào, rồi ông lại nhìn chằm chằm về phía chúng tôi và nói, "Các cháu từ đâu đến? Các cháu lấy bánh này ở đâu ra? Hãy nghĩ đến những ngày ta chịu đói - cho ta biết các cháu lấy bánh ở đâu đi."
"Chúng cháu từ Xứ sở Xa Xăm đến. Bánh cũng mang từ nơi ấy,” tôi nói.
"Sao các cháu lại đến đây?" ông lão thì thào.
"Để chiến đấu với Nam tước Kato," tôi nói.
Tôi vừa dứt lời, ông cụ thét lên rồi ngã nhào khỏi ghế. Ông lăn tròn như cuộn len xám trên sàn nhà rồi bò về phía chúng tôi. ông phủ phục sát chân chúng tôi, cặp mắt nhỏ âu lo ngước lên đăm đăm.
"Hãy trở về nơi cháu đã ra đi," ông thì thào. "Về ngay đi, trước khi quá muộn."
"Cháu không về," tôi nói. "Cháu đến để chiến đấu với Nam tước Kato."
Tôi nói dõng dạc. Nghe tôi thốt lên tên Nam tước Kato, ông lão kinh hãi lặng người đi, và nhìn tôi chằm chằm cứ như chờ tôi ngã vật ra chết ngay lập tức trước mắt ông.
"ôi...ôi...ôi..." ông rền rỉ. "Đừng nói nữa, đừng nói nữa và hãy trở về nơi cháu đã ra đi. Ta nói rồi, đi đi, trước khi quá muộn." "Cháu không về," tôi nói. "Cháu đi đánh Nam tước Kato."
"Suỵt," ông lão thì thầm, hồn vía như lên mây. "Ta đã bảo là đừng nói nữa mà. Bọn lính canh có thể nghe thấy đấy. Biết đâu chúng đang ẩn nấp bên ngoài."
Ông bò ra cửa, nghe ngóng vẻ hết sức âu lo. "Ta không nghe thấy ai ngoài này," ông nói. "Nhưng có thể chúng vẫn ở đấy. Chúng có thể ở đây, chúng có thể ở đó, hay ở bất cứ đâu. Bọn lính canh ở khắp... khắp nơi."
"Bọn lính canh của Nam tước Kato ư?" tôi hỏi.
"Im nào," ông lão thì thào. "Cháu muốn mất mạng lắm à? Cháu không giữ im lặng được sao?"
Ông ngồi xuống ghế rồi gật gù một mình, "ừ, ừ," ông nói, khẽ đến nỗi gần như chẳng nghe thấy gì. "Bọn lính canh nhan nhản khắp nơi, sáng, trưa, tối. Xó xỉnh nào cũng có."
Ông giơ tay nắm lấy cánh tay tôi. "Vì chuỗi ngày dài chịu đựng cơn đói," ông thì thào, "ta không tin một ai. Bước vào một ngôi nhà... cháu tưởng là đang ở giữa bạn bè. Nhưng đừng tin: cháu đang ở giữa kẻ thù. Chúng sẽ phản lại cháu. Chúng sẽ nộp cháu cho kẻ sống bên kia hồ. Đừng tin ai. Đừng tin ta! Làm sao cháu biết ta sẽ không cho bọn lính canh bám theo cháu ngay sau khi cháu bước ra khỏi cửa cơ chứ?"
"Cháu không tin ông sẽ làm thế," tôi nói.
"Chẳng ai nói chắc được," ông cụ thi thào. "Cháu chẳng bao giờ biết chắc được."
Ông ngồi lặng im trong giây lát và suy nghĩ.
"Không đâu, ta sẽ không cho lính canh bám theo cháu đâu," ông nói.
"Trên mảnh đất này vẫn còn vài người không phải là kẻ phản bội. Rồi vẫn còn có cả những người đang rèn vũ khí nữa."
"Chúng cháu cần vũ khí," Pompoo nói. "Mio cần có một thanh gươm."
Ông lão không đáp. ông đi mở tung cửa sổ. Từ bên ngoài vọng vào những tiếng kêu buồn bã của đàn chim bên kia hồ. Những tiếng kêu như than khóc trong đêm đen thẳm.
"Hãy nghe đi," ông lão bảo tôi. "Cháu có nghe chúng than khóc không? Cháu có muốn làm một con chim bay rền rĩ trên mặt hô không?"
"Những con chim gì thế ạ?" tôi hỏi.
"Chúng là những con Chim Bị Bùa Mê," ông cụ thì thào. "Cháu biết rõ kẻ nào đã bỏ bùa chúng. Cháu biết rõ kẻ nào đã bắt chúng. Bây giờ cháu biết điều gì sẽ xảy đến với những người định chiến đấu với tên kẻ cướp rồi chứ."
Tôi rất buồn khi nghe điều ông nói. Đàn chim là các em trai của Nonno, em gái của Totty, đứa con gái nhỏ của Bà Thợ Dệt, và tất cả những người đã bị Nam tuớc Kato bắt và bỏ bùa. ôi, tôi sẽ chiến đấu với hắn - tôi nhất định phải chiến đấu với hắn!
"Mio cần có một thanh gươm," Pompoo nói. "Chẳng ai đi đánh nhau mà lại không có gươm cả."
"Ông bảo có người rèn vũ khí mà," tôi nhắc.
Ông lão nhìn tôi chằm chằm, gần như giận dữ. "Cháu không sợ chết khi vẫn còn trẻ à?" ông nói.
"Những người rèn vũ khí đang ở đâu ạ?" tôi lại hỏi.
"Đừng nói nữa," ông nói rồi vội vàng đóng ập cửa sổ lại. "Đừng nói nữa, bọn lính canh có thể nghe thấy đấy."
Ông rón rén tới bên cửa, áp tai vào nghe ngóng.
"Ta chẳng nghe thấy ai ngoài ấy," ông nói. "Nhưng chúng vẫn có thể ở đấy. Bọn lính canh ở khắp nơi."
Ông ghé xuống, thi thầm vào tai tôi, "Cháu hãy đến chỗ ông Thợ Rèn Gươm, nói với ông ấy là Eno gửi cháu đến. Cháu phải nói là cháu cần một thanh gươm có thể chém xuyên qua đá. Cháu phải nói cháu là hiệp sĩ ở Xứ sở Xa Xăm." ông nhìn tôi một lúc lâu rồi nói, "Vì ta tin cháu là hiệp sĩ, đúng không?"
"Đúng ạ," Pompoo trả lời thay tôi. "Cậu ấy là hiệp sĩ và là hoàng tử. Hoàng tử Mio ở Xứ sở Xa Xăm. Cậu ấy phải có một thanh gươm."
"Cháu phải tìm ông Thợ Rèn Gươm ở đâu?" tôi hỏi.
"Ở Hang Sâu Nhất trong Ngọn Núi Đen Nhất," ông nói. "Băng qua Rừng Chết! Đi ngay đi!"
Ông lại ra mở cửa sổ. Xa xa từ phía mặt hồ, những tiếng chim than Khóc lại cất lên trong đêm.
"Đi ngay đi, Hoàng tử Mio," ông nói. "Ta sẽ ngồi đây cầu mong cho mọi việc suôn sẻ. Nhưng có thể tối mai ta sẽ nghe tiếng một con chim mới bay liệng khóc than trên mặt hồ mất thôi."