Nguyên tác: The Monogram Murders (2014)
Số lần đọc/download: 257 / 41
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:24 +0700
Chương 8 - Tổng Hợp Suy Nghĩ
N
ói cách khác,” Poirot nói khi nhanh nhẹn đi từ quán Pleasant về hướng nhà trọ của chúng tôi nửa giờ sau đó, “tất cả những sự kiện không hay mười sáu năm về trước đều nối kết với nhau: số phận bi thảm của vị mục sư và vợ của ông ta, Richard Negus đột nhiên hủy hôn ước với Ida Gransbury, Richard Negus quyết định bỏ Great Holling, chạy về Devon để bắt đầu chuỗi ngày ăn không ngồi rồi và uống rượu chí tử tại nhà người em trai.”
“Theo ông có phải Richard Negus uống rượu vì cái chết của vị mục sư?” tôi hỏi. “Ông giả định mọi thứ đều gắn kết với nhau, nhưng phải chăng có khả năng nhiều hơn là chúng chẳng liên quan gì đến nhau?”
“Tôi không nghĩ vậy đâu, không đâu.” Poirot ném cho tôi một cái nhìn sắc lẻm. “Hãy hít thở không khí trong lành của ngày đông hôm nay đi, Catchpool. Có thể sẽ giúp nạp ôxy cho các tế bào xám nho nhỏ của anh đấy. Hít sâu vào, bạn tôi.”
Tôi chiều ý bằng cách làm theo lời ông. Dĩ nhiên, dù sao tôi cũng đang hít thở đấy thôi, cho nên việc đó cũng khá là ngốc nghếch.
“Bon. Giờ thì hãy nghĩ về điều này: vị mục sư trẻ không chỉ chết một cách bi thảm mà ông ta chết sau vợ ông ta chỉ vài giờ. Điều này rất bất thường. Richard Negus đã nhắc tới sự việc này trong lá thư gửi người em Henry. Nhiều tháng sau, ông ta hủy hôn ước với Ida Gransbury. Ông ta trốn đến Devon, nơi ông ta bị rơi vào tình trạng suy sụp. Ông ta không muốn có cuốn Kinh Thánh trong phòng, và không chịu đi lễ ngay cả để làm vui lòng bà chủ nhà.”
“Sao ông nói cứ như những điều đó có ý nghĩa đặc biệt vậy?” tôi hỏi.
“À! Khí ôxy phải mất thời gian để đi đến các tế bào xám nhỉ! Không sao: nó sẽ đến được nơi nó phải đến, đến cái bộ não gối-gài-kim của anh ấy mà. Nhà thờ, Catchpool ạ! Một mục sư và người vợ bị chết thảm ở Great Holling. Ít lâu sau đó, Richard Negus đột nhiên ác cảm với ngôi làng, nhà thờ và Kinh Thánh.”
“Ồ, tôi hiểu ông đang hướng về đâu rồi.”
“Bon. Alors, Richard Negus đã lết về Devon, sống suy sụp trong nhiều năm ở đó, và suốt thời gian ấy người em trai đã không được chào đón mỗi khi xâm phạm vào cuộc sống riêng tư của ông ta, dù chỉ là để cứu anh mình không tự hủy hoại…”
“Ông nghĩ Henry Negus đã sơ suất trong chuyện này sao?”
“Không phải tại ông ta,” Poirot khoát tay, nói. “Ông ta là người Anh. Người Anh các vị luôn ngồi sang bên, thà im lặng một cách lịch sự trước đủ loại thảm họa vốn có thể tránh diễn ra ngay trước mắt còn hơn là phải xấu hổ vì bị bắt gặp ra tay can thiệp vào!”
“Tôi nghĩ ông nói vậy không đúng đâu,” tôi cao giọng để át tiếng gió rít và giọng người trên các con phố đông đúc của London.
Poirot phớt lờ lời chống chế của tôi. “Suốt nhiều năm, Henry Negus đã thầm lặng lo lắng cho người anh. Ông ta hy vọng, và chắc còn cầu nguyện nữa, và khi ông ta hầu như đã đầu hàng thì những lời cầu nguyện của ông ta lại được lắng nghe: Richard Negus đã đứng dậy được vài tháng trước. Ông ta hình như đang lên kế hoạch gì đó. Có lẽ kế hoạch này bao gồm việc đặt ba căn phòng ở khách sạn Bloxham tại London cho ông ta và hai người phụ nữ mà ông ta quen từ những ngày sống ở Great Holling, vì chúng ta biết ông ta đã làm như thế. Và tối qua người ta tìm thấy ông nằm chết ở khách sạn Bloxham, trong miệng có chiếc khuy măng-xét khắc chữ, ở rất gần vị hôn thê cũ Ida Gransbury và Harriet Sippel, người hàng xóm cùng làng truớc đây. Cả hai người phụ nữ đều bị giết theo cùng một cách.”
Poirot dừng bước. Ông đã đi quá nhanh và lúc này đang hụt hơi. “Catchpool,” ông hổn hển, rút từ áo gi-lê ra chiếc khăn tay gấp cẩn thận lau trán. “Anh hãy tự hỏi mình xem đâu là sự kiện đầu tiên trong chuỗi sự kiện mà tôi vừa trình bày cùng anh. Phải chăng là cái chết bi thảm của vị mục sư và vợ?”
“Thì vậy, nhưng là chỉ khi ta nhìn nhận chúng là những nhánh của cùng một câu chuyện ba án mạng ở Bloxham. Ông Poirot ạ, việc đó ta nào đã có bằng cớ gì đâu. Tôi vẫn cho rằng vị mục sư đáng thương đó chẳng hề nằm ở nhánh nào cả.”
“Giống như la pauvre Jennie, cô ta cũng chẳng ở nhánh nào hết?”
“Chính xác.”
Chúng tôi tiếp tục đi.
“Có bao giờ ông thử giải một ô chữ chưa, ông Poirot? Bởi lẽ… lúc này đây, tôi đang cố tự tạo ra một ô chữ, ông có biết không nhỉ?”
“Làm sao tôi không biết khi mà tôi đã thân thiết với anh như thế, mon ami.”
“Phải. Quả vậy. Thế này nhé, tôi có vài nhận xét khi giải ô chữ. Thú vị lắm. Giả sử ta có manh mối là dụng cụ nhà bếp, gồm ba chữ cái, và ta có vần ‘P’ ở đầu. Rất dễ nghĩ rằng đó hẳn phải là ‘pot’ vì ‘pot’ gồm ba chữ cái, bắt đầu bằng chữ ‘P’, và ‘pot’ cũng là dụng cụ nhà bếp. Do đó ta tự nhủ từ đó chắc là đúng, trong khi câu trả lời đúng lại là ‘pan’. Nó cũng gồm ba chữ cái, nó cũng là dụng cụ nhà bếp bắt đầu bằng chữ ‘P’ vậy. Ông thấy chưa?”
“Ví dụ này không hay lắm, Catchpool ạ. Trường hợp anh vừa nêu, tôi sẽ nghĩ cả ‘pot’ lẫn ‘pan’ đều có khả năng đúng ngang nhau. Chỉ có kẻ ngốc mới chỉ nghĩ một món và bỏ qua món kia khi cả hai đều khớp hoàn toàn.”
“Được thôi, nếu ông muốn thứ gì đó có khả năng đúng ngang nhau, vậy giả thuyết này thì sao: Richard Negus từ chối đi lễ hoặc chứa Kinh Thánh trong phòng vì chuyện bất hạnh nào đó diễn ra với ông ta ở Great Holling đã làm suy giảm đôi chút niềm tin tôn giáo thì sao? Lẽ nào điều đó nghe không khớp? Và có thể chẳng liên quan gì đến cái chết của vị mục sư và bà vợ. Richard Negus không phải là người đầu tiên lâm vào hoàn cảnh khó khăn và tự hỏi tại sao Chúa lại không yêu ông ta như yêu bao người khác! Ý nghĩ đó nảy ra mãnh liệt hơn ta tưởng.”
“Bản thân anh có bao giờ tự hỏi như vậy không, Catchpool?” Poirot chạm tay áo tôi để nhắc tôi chậm lại. Đôi khi tôi quên khuấy rằng chân tôi dài hơn chân ông.
“Thật ra là có đấy. Điều đó không ngăn tôi tiếp tục đi lễ, nhưng tôi đã thấy nó như thế nào đối với một số người.” Lấy ví dụ, tôi nghĩ, nếu bộ não của mình bị gọi là gối-gài-kim thì người ta sẽ có xu hướng phản bác thay vì im lặng đồng tình. Nhưng với Poirot thì tôi nói: “Tôi nghĩ điều đó còn tùy thuộc vào việc người ta có biết tự chủ hay chỉ đổ trách nhiệm cho Chúa các vấn đề của chính mình.”
“Lập luận của anh có gắn với phụ nữ không đấy?”
“Có nhiều mẫu phụ nữ tốt. Cha mẹ tôi đã sốt sắng hy vọng tôi sẽ lấy một cô trong số đó. Tôi vẫn khăng khăng chẳng để cho cô nào cám dỗ.” Tôi nhanh chân bước tiếp.
Poirot bước vội để bắt kịp tôi. “Vậy nên, theo như kinh nghiệm của anh, chúng ta phải quên đi vị mục sư quá cố và vợ ông ta? Chúng ta phải vờ như không biết sự kiện đó, để ngăn ngừa nó dẫn chúng ta đến một kết luận sai? Và chúng ta phải quên Jennie cũng vì lý do đó?”
“Không phải, tôi đâu có nói làm thế nào là đúng. Tôi không đề nghị chúng ta quên gì cả, chỉ là…”
“Để tôi nói anh biết thế nào là hành động đúng nhé! Anh phải đến Great Holling. Harriet Sippel, Ida Gransbury và Richard Negus không phải là ba mảnh ghép hình đâu. Họ đâu chỉ là những miếng ghép giấy mà ta tìm cách đặt chỗ này, chỗ kia để thành bức tranh. Trước khi chết, họ là những con người thật, có cuộc sống, có cảm xúc… với những xu hướng điên rồ, và có lẽ cả những khoảnh khắc khôn ngoan và sáng suốt nữa. Anh phải đến ngôi làng nơi họ sống và tìm hiểu xem họ là người thế nào, Catchpool ạ.”
“Tôi ấy à? Ý ông là chúng ta chứ?”
“Non, mon ami. Poirot, ông ấy sẽ ở lại London. Tôi chỉ cần di chuyển ý nghĩ là tạo ra được bước tiến. Anh sẽ đi và đem về cho tôi bản tường thuật đầy đủ nhất về chuyến đi của anh. Vậy là đủ. Hãy đem theo hai danh sách: danh sách các khách trọ của khách sạn Bloxham vào tối thứ tư và thứ năm, và danh sách nhân viên của khách sạn Bloxham. Hãy tìm xem có ai trong ngôi làng bị nguyền rủa ấy nhận ra cái tên nào trong các bản danh sách này. Hãy hỏi về Jennie và PIJ. Hãy khám phá bằng được câu chuyện về vị mục sư và vợ ông ta rồi hẵng về, và cả những cái chết bi thảm trong năm 1913 nữa.”
“Poirot, ông phải đi cùng tôi,” tôi nói, khá khẩn khoản. “Tôi không nắm bắt đủ sâu trong vụ án Bloxham này. Tôi đang trông cậy cả vào ông.”
“Anh có thể vẫn tiếp tục như thế, mon ami. Chúng ta sẽ về nhà bà Unsworth và ở đó chúng ta sẽ tổng hợp lại các suy nghĩ để chuẩn bị cho anh đến Great Holling.”
Ông ta luôn gọi nó là nhà bà Unsworth. Mỗi lần ông gọi vậy, tôi lại nhớ chính mình cũng từng nghĩ về nó như thế. Và nay tôi đã bắt đầu gọi nó là nhà.
Tổng hợp suy nghĩ hóa ra có nghĩa là Poirot đứng bên ngọn lửa lò sưởi trong căn phòng khách nồng nặc mùi oải hương và đọc cho tôi ghi lại. Còn tôi thì ngồi trên chiếc ghế gần đó, ghi chép từng lời mà ông nói. Tôi chưa từng nghe ai nói năng một cách lớp lang hoàn hảo như thế. Tôi đã thử phản đối việc ông bắt tôi ghi lại những điều mà tôi đã biết rõ, và hậu quả là tôi nhận một bài giáo huấn dài, đầy sốt sắng, với chủ đề tầm quan trọng của phương pháp. Có vẻ như bộ não gối-gài-kim của tôi không thể trông cậy có thể nhớ được gì, cho nên tôi phải ghi ra để mà còn tham khảo.
Sau khi đọc danh sách mọi điều chúng tôi đã biết, Poirot lặp lại quy trình đó cho mọi điều chúng tôi chưa biết và hy vọng sẽ biết. (Tôi đã cân nhắc việc viết ra hai bản danh sách, nhưng không muốn làm phiền và chọc tức người khác giống như tôi đã bị làm phiền và chọc tức.)
Nói cho công bằng với Poirot, sau khi tôi viết ra và xem lại những gì mình viết, tôi cảm thấy sáng tỏ hơn nhiều điều: sáng tỏ và cực kỳ não lòng. Tôi đặt bút xuống và thở dài, nói: “Tôi không chắc mình có muốn mang theo bản danh sách bất tận những câu hỏi này không. Chúng không có lời giải và có lẽ chẳng hy vọng có lời giải.”
“Anh thiếu tự tin rồi, Catchpool.”
“Phải. Biết làm sao được?”
“Tôi không biết. Đó không phải là vấn đề của tôi. Tôi không lo lắng sẽ gặp phải một vấn đề mà tôi không thể tìm ra lời giải.”
“Ông có nghĩ ông sẽ tìm ra lời giải cho vấn đề đó không?”
Poirot mỉm cười. “Anh muốn tôi động viên anh tin vào tôi, vì anh không tự tin vào bản thân chứ gì? Mon ami, anh biết nhiều hơn anh tưởng đấy. Anh có nhớ lúc anh nói đùa ở khách sạn về việc ba nạn nhân đến vào hôm thứ tư, một ngày trước các án mạng? Anh đã nói: ‘Cứ như họ đã nhận thư mời đến trình diện kẻ giết hại mình vậy, kẻ đã nói: Xin vui lòng đến trước một ngày, để thứ năm có thể dành trọn cho việc lấy mạng quý vị’.”
“Vâng, vậy thì sao?”
“Câu đùa của anh gắn với ý tưởng rằng việc bị giết là một hoạt động quá nhiều trong cùng một ngày – đi tàu hỏa băng qua cả đất nước và bị giết trong cùng một ngày, quá nhiều đối với bất kỳ ai! Và tên hung thủ không muốn các nạn nhân của hắn phải vất vả quá mức! Điều này thật buồn cười!”
Poirot vuốt ria, như thể ông hình dung rằng việc phá lên cười sẽ làm rã rượi bộ ria của ông vậy.
“Anh bạn ạ, những lời của anh đã khiến tôi tự hỏi: do việc bị giết chẳng đòi hỏi nỗ lực nào từ nạn nhân và do chẳng có hung thủ nào lại chu đáo đến thế với những người mà hắn định đầu độc, vậy thì tại sao hắn không giết ba nạn nhân ngay trong tối thứ tư?”
“Hắn bận gì đó vào tối thứ tư chăng?” tôi nói.
“Thế thì tại sao lại không thu xếp để ba nạn nhân đến khách sạn vào sáng và chiều thứ năm thay vì sáng và chiều thứ tư? Hung thủ vẫn có thể giết họ vào khoảng thời gian đó mà, n’est-ce pas? Tối thứ năm, từ 7 giờ 15 đến 8 giờ 10.”
Tôi cố không bộc lộ vẻ bất bình. “Ông phức tạp hóa mọi việc rồi, ông Poirot ạ. Nếu các nạn nhân quen biết nhau thì biết đâu họ có lý do để ở London trong hai đêm, một lý do không liên quan gì đến hung thủ. Hắn chọn giết họ đêm thứ hai vì như vậy thuận tiện hơn cho hắn. Hắn đâu mời họ đến Bloxham. Hắn chỉ đơn giản biết họ sẽ đến đó, và đến khi nào. Ngoài ra…” tôi khựng lại. “Thôi bỏ đi. Điều đó thật ngốc nghếch.”
“Nói cho tôi nghe điều ngốc nghếch đó đi,” Poirot ra lệnh.
“Được thôi, có thể hung thủ bẩm sinh là một tay rất giỏi lên kế hoạch, sắp xếp. Hắn không có kế hoạch ra tay trong cái ngày mà hắn biết các nạn nhân đến London để phòng hờ tàu của họ bị hoãn chuyến.”
“Có lẽ hung thủ cũng phải di chuyển đến London, từ Great Holling hay nơi nào đó. Cũng có thể hắn ta – hay ả ta, vì đó có thể là phụ nữ – không muốn thực hiện một cuộc hành trình dài và mệt mỏi, rồi tiến hành ba án mạng trong cùng một ngày.”
“Ngay cả như vậy đi nữa, các nạn nhân vẫn có thể đến vào thứ năm, đúng không?”
“Đúng,” Poirot nói đơn giản. “Chúng ta biết họ đã đến một ngày trước đó, tức thứ tư. Cho nên, tôi bắt đầu thắc mắc: phải chăng có việc gì đó cần phải diễn ra trước khi các án mạng được tiến hành? Nếu vậy, có lẽ hung thủ không cần phải đến đây từ xa, mà sống ở ngay tại London này.”
“Có thể,” tôi nói. “Tất cả những điều đó chẳng qua chỉ là một cách nói lê thê rằng chúng ta không có ý tưởng mảy may nào về việc gì đã xảy ra và tại sao. Theo tôi nhớ, tình trạng hiện nay cũng y như bản đánh giá tình hình.”
“Gì vậy, mon ami?”
“Tôi đã không có đủ dũng khí để nói với ông trước đây, và tôi biết ông sẽ không thích điều này. Những chữ khắc trên những chiếc khuy măng-xét… Ông đã hỏi Henry Negus về PIJ. Tôi không nghĩ đó là tên viết tắt của kẻ sở hữu những chiếc khuy măng-xét. Tôi nghĩ tên viết tắt của hắn phải là PJI. Ông xem đây.” Tôi vẽ lại dòng chữ viết tắt lên mặt sau một trong những mẩu giấy tờ của tôi. Cố lục lại trí nhớ, tôi ráng lặp lại cách thức các chữ cái thể hiện trên những chiếc khuy măng-xét. “Ông có thấy chữ ‘I’ lớn hơn đáng kể so với chữ ‘P’ và chữ ‘J’ ở hai bên không? Đó là một phong cách phổ cập của khắc chữ. Chữ lớn hơn nằm ở giữa thể hiện họ.”
Poirot chau mày và lắc đầu. “Các chỗ viết tắt bị cố tình viết sai trình tự sao? Tôi chưa bao giờ nghe chuyện này. Ai lại có ý tưởng kỳ cục thế? Thật là vớ vẩn!”
“Đó là một phong cách phổ biến, tôi e là vậy. Tin tôi đi. Các đồng nghiệp nơi tôi làm đều có khuy măng-xét ghi tên tắt theo lối đó.”
“Incroyable. Người Anh thật chẳng có ý niệm gì về trật tự cả.”
“Vâng, cứ cho là thế đi… Nhưng PJI là kẻ mà chúng ta sẽ phải hỏi thăm khi đến Great Holling chứ không phải là PIJ.”
Đó là một nỗ lực yếu ớt mà Poirot đã nhìn thấu ngay tức thì. “Anh, bạn tôi ơi, chỉ mình anh đến Great Holling, chứ không phải chúng ta,” ông nói. “Còn Poirot tôi sẽ ở lại London.”