Bi kịch trong cuộc đời không phải là ở chỗ không đạt được mục tiêu, mà là ở chỗ không có mục tiêu để vươn tới.

Benjamin Mays

 
 
 
 
 
Tác giả: Alan Bradley
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Sweetness At The Bottom Of The Pie [Flavia De Luce #1]
Dịch giả: Khánh Thủy
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1207 / 27
Cập nhật: 2016-06-27 10:56:59 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8
húa ơi!” Mary thốt lên khi tay chị mò mẫm bên dưới bàn và lôi ra một chiếc giỏ đựng rác hình tròn làm bằng kim loại. “Suýt nữa tôi quên mất cái này. Bố tôi sẽ đánh tôi nhừ đòn nếu ông phát hiện tôi vẫn chưa đổ rác. Lúc nào ông cũng nói này nọ về mầm bệnh, mặc dù khi nhìn ông cô sẽ không nghĩ thế đâu. May là tôi nhớ ra giỏ rác này trước khi... ôi Chúa ơi! Cô nhìn mớ rác này mà xem!”
Chị ta nhăn nhó mặt mày và giơ thẳng giỏ rác ra cách xa mặt. Tôi hé mắt nhìn - ngập ngừng thôi - vào bên trong. Bạn sẽ không bao giờ biết mình sẽ nhìn thấy gì khi bạn dí sát mũi vào thùng rác của người khác.
Đáy giỏ là những mẩu vụn còn sót lại của một chiếc bánh ngọt: không có hộp đựng, chỉ là các mẩu vụn còn vương vãi, có lẽ vì có người đang ăn bánh thì no bụng. Khi tôi thò tay vào lấy một mẩu bánh ra, chị Mary khịt mũi kinh tởm và quay mặt đi.
“Chị nhìn này,” tôi nói, “Đây là mẩu vỏ bánh, chị thấy không? Có màu nâu vàng, vì được nướng trong lò, với chút ít bột nữa, có thể là bột được trang trí ngoài vỏ bánh. Các mẩu vụn khác là phần đáy bánh: trông trắng hơn và mỏng hơn. Cũng không được xốp lắm, đúng không?”
“Nhưng,” tôi nói thêm, “tôi đói quá. Món gì cũng sẽ ngon hết nếu cả ngày chị chưa được miếng gì vào bụng.”
Tôi đưa mẩu bánh lên và há miệng ra, giả vờ như sắp nuốt gọn nó.
“Cô Flavia!”
Tôi dừng lại khi món bánh vụn đang đi nửa đường để chui tọt vào cái miệng há to của tôi.
“Hở?”
“Trời ơi, cô thật là!” Mary nói. “Bỏ đi. Tôi đi đổ ngay đây.”
Có gì đó nói với tôi rằng đây là một ý tưởng tồi tệ. Có gì đó khác nói với tôi rằng miếng bánh bị moi ruột này là bằng chứng không nên đụng chạm đến trước khi Thanh tra Hewitt và hai viên Hạ sĩ tìm ra nó. Thật ra là tôi cũng cân nhắc việc này trong một giây.
“Chị có giấy không?” tôi hỏi.
Mary lắc đầu. Tôi mở cửa tủ và kiễng chân lên, tay sờ khắp chiếc giá cao nhất. Đúng như tôi nghĩ, một tờ báo được trải ngang giống một lớp lót tạm thời ngăn các ngăn với nhau. Lão Tully Stoker, cầu Chúa phù hộ cho lão!
Cẩn thận không làm vỡ các mẩu bánh vụn, tôi nhón lấy mẩu bánh to hơn và chầm chậm cho vào tờ Daily Mail rồi gói lại thành gói nhỏ gọn gàng. Mary lo lắng đứng nhìn và không nói câu gì.
“Để kiểm tra trong phòng thí nghiệm,” tôi nói một cách ám muội. Nói thật là tôi cũng chưa có ý tưởng gì với mẩu bánh kinh tởm này. Rồi tôi sẽ nghĩ sau còn bây giờ tôi phải cho Mary biết ai là người chịu trách nhiệm.
Khi đặt giỏ rác xuống sàn nhà, tôi giật bắn mình trước một chuyển động hết sức khẽ khàng ở tít dưới đáy giỏ và tôi không ngại ngần thừa nhận ruột gan mình lộn tùng phèo hết cả lên. Cái gì trong đó vậy? Côn trùng ư? Hay là chuột? Không thể nào: chắc chắn là tôi không thể bỏ qua một thứ to đến thế được.
Tôi thận trọng liếc nhìn giỏ rác, và đúng rồi, có cái gì đó đang chuyển động ở tít dưới đáy giỏ. Một cái lông! Và nó chuyển động khẽ thôi, gần như không thể nhận thấy được, theo sự chuyển động của không khí trong phòng; nó lay động giống chiếc lá úa trên cây - giống y các sợi tóc đỏ của xác chết đó lay động trong gió sớm.
Có phải ông ta mới chết hồi sáng nay không? Thế mà cứ như cả một thế kỷ đã trôi qua từ lúc sự việc khó chịu ấy xảy ra ở trong vườn. Khó chịu ư? Flavia, mày nói dối đấy nhé!
Mary kinh ngạc nhìn tôi khi tôi thò tay vào giỏ lấy sợi lông ra và một chút vỏ bánh còn dính vào phần sau của chiếc lông.
“Chị thấy cái này không?” Tôi nói và giơ chiếc lông ra trước mặt Mary. Chị ta co rúm người lại giống hệt Dracula thường làm khi bạn lấy cây thập giá dọa nó. Nếu chiếc lông này vô tình rơi vào giỏ rác, nó sẽ không dính chặt vào bánh như thế này.
“Một đàn chim nướng trong một chiếc bánh[29],” tôi trích dẫn. “Chị thấy chứ?”
“Cô nghĩ thế sao?” Mary hỏi, đôi mắt mở to như hai chiếc đĩa lót tách.
“Đúng chóc, thám tử Sherlock ấy,” tôi nói. “Nhân bánh là nguyên cả con chim, và tôi còn đoán được là loại chim gì cơ.”
Tôi giơ chiếc lông ra trước mặt chị. “Thật là món ăn tuyệt hảo để dâng lên cho Đức Vua,” tôi nói, và lần này chị ta cười nhăn nhở với tôi.
Tôi sẽ làm y như thế này với Thanh tra Hewitt. Đúng rồi! Tôi sẽ phá án vụ này và nói cho ông ta biết từng mẩu từng chút thông tin hân hoan này.
“Cháu không cần phải ra đây nữa,” ông ta nói với tôi như thế trong vườn đấy. Đúng là câu nói chết tiệt!
Hứ, tôi sẽ cho ông ta thấy vài mánh lới cho biết mặt!
Có điều gì đó nói với tôi rằng Na Uy là thông tin quan trọng. Ned chưa từng đến Na Uy, mà anh ta cũng thề là không để con chim dẽ giun trên bậc cửa, và tôi tin anh ta, vì vậy anh ta nằm ngoài vòng nghi vấn - ít nhất là tính đến thời điểm này.
Kẻ lạ mặt đó đến từ Na Uy. Và rất có thể kẻ lạ mặt đó đã mang theo con chim dẽ giun đến đây.
Trong một chiếc bánh.
Đúng rồi! Dễ hiểu chưa! Còn cách nào hay hơn để đưa lậu trót lọt một con chim chết qua cửa hải quan?
Và bỗng nhiên tôi nhìn thấy toàn bộ sự việc, thấy sự việc trải rộng dưới chân giống như một người nhìn thấy toàn cảnh khi đứng trên đỉnh núi. Cái cách mà mẹ Harriet đã phải...
Giống như con đại bàng nhìn thấy con mồi.
Tôi sướng run lên. Nếu kẻ lạ mặt đó đến từ Na Uy, vứt xác con chim chết trên bậc cửa nhà tôi trước giờ ăn sáng, và lại xuất hiện trở lại trong phòng làm việc của bố vào lúc nửa đêm, chắc chắn ông ta phải ở đâu đó không xa. Một nơi đủ để đi bộ đến Buckshaw. Một nơi rất giống căn phòng này, ngay trong quán trọ Vít Vìn Vịt đây.
Giờ thì tôi đã biết chắc chắn một điều: xác chết trong vườn dưa là ông Sanders. Không còn nghi ngờ gì về điều đó nữa.
“Mary ơi!”
Lại là tiếng lão Tully rống lên như con bò đực, và lần này có vẻ lão ta đang đứng ngay ngoài cửa.
“Con ra đây bố ơi!” Mary hét ầm lên và túm vội lấy giỏ đựng rác.
“Cô đi đi,” chị ta nói thầm. “Đợi năm phút nhé, sau đó đi xuống cầu thang sau, lối tôi với cô đi lên ấy.”
Chị ta đi mất, và một giây sau, tôi nghe thấy tiếng chị giải thích với lão Tully trong hành lang là chị chỉ muốn lau chiếc giỏ lần nữa cho sạch, vì có người vứt đầy rác trong đó.
“Bố ơi, mình không muốn khách bị chết vì vi khuẩn khi họ đến trọ ở Mười Ba Con Vịt, phải không ạ?”
Chị ta học bài nhanh lắm.
Trong khi chờ đợi, tôi nhìn chiếc rương đựng đồ thêm một lần nữa. Tôi rờ các ngón tay dọc theo các mẩu giấy dán nhiều màu, cố hình dung xem chúng ở đâu trong những cuộc hành trình đó, và ông Sanders làm gì tại mỗi thành phố đó: Paris, Rome, Stockholm, Amsterdam, Copenhagen, Stavanger. Tờ nhãn Paris có màu đỏ, trắng và xanh nước biển, và Stavanger cũng vậy.
Có phải Stavanger ở Pháp không? Tôi băn khoăn quá.
Nghe không giống Pháp lắm. Tôi sờ vào tờ giấy dán và nó nhăn lại bên dưới ngón tay tôi: như những gợn nước ngay trước mũi tàu.
Tôi lặp lại hành động đó trên các miếng giấy dán khác. Chúng đều bám chặt xuống mặt rương, phẳng nhẵn y như tấm nhãn trên chai xyanua.
Quay lại với miếng giấy dán Stavanger. Nó có vẻ nhăn hơn các miếng dán khác: hình như bên dưới nó có cái gì đó.
Máu chạy o o trong tĩnh mạch tôi giống như nước quay trong máy xay.
Tôi lại tò mò mở chiếc rương ra và lấy hộp dao cạo trong ngăn. Khi lấy dao cạo ra, tôi thầm nghĩ phụ nữ mới may mắn làm sao - ngoại trừ những người như cô Pickery ở thư viện - khi họ không phải cạo râu. Là phụ nữ dù không phải mang theo dao cạo đi khắp nơi, thì cũng có ối chuyện phải lo rồi.
Cẩn thận cầm lưỡi dao cạo giữa ngón cái và ngón trỏ (sau vụ tai nạn với đồ thủy tinh tôi được giáo huấn đầy đủ về các vật sắc) tôi rạch một đường nhỏ dọc theo tờ giấy dán, cẩn thận tối đa để rạch chính xác vào đường gờ giữa màu xanh và màu đỏ chạy gần như khắp chiều rộng tờ giấy.
Khi tôi nhấc tờ giấy lên theo vết rạch, có gì đó trượt ra ngoài và rơi xuống sàn nhà. Đó là một phong bì làm bằng giấy đục mờ, rất giống với những chiếc phong bì tôi nhìn thấy trong túi đựng đồ của Hạ sĩ Graves. Bên trong có thứ gì đó hình vuông lấp ló. Tôi mở phong bì và gõ nhẹ ngón tay lên. Một thứ rơi vào lòng bàn tay tôi: thật ra phải là hai thứ mới đúng.
Hai con tem thư. Hai con tem màu cam sáng, mỗi con đều nằm trong bao đựng nhỏ xíu mở hờ. Chúng rất giống con tem Penny Black được gắn trên mỏ con chim dẽ giun. Lại là khuôn mặt của nữ hoàng Victoria. Thất vọng quá!
Tôi đoán chắc bố sẽ vô cùng sung sướng trước vẻ hoàn hảo tinh khôi của hai con tem này, niềm say mê đối với nét khắc, niềm hân hoan đối với lỗ châm kim và niềm hạnh phúc đối với lớp keo dán. Nhưng đối với tôi, chúng chẳng khác gì hai con tem bình thường để tôi dán vào phong bì thư gửi cho dì Felicity ở tít tận Hampshire để cảm ơn dì vì đã tặng cho tôi món quà Giáng sinh là cuốn sách Neddy the Squirrel Annual.
Khoan đã, có gì phiền hà mà phải đặt hai con tem về vị trí cũ chứ? Nếu ông Sanders và xác chết trong vườn nhà tôi là một, và tôi biết chắc chắn họ là một, thì ông ta đâu còn cần hai con tem này nữa!
Không, tôi thầm nghĩ, tôi sẽ giữ chúng. Biết đâu có một ngày chúng lại tỏ ra hữu ích khi tôi cần phải trao đổi với bố để trót lọt một vụ nào đó, vì bố không thể cùng lúc nghĩ về hình phạt và về các con tem.
Tôi nhét chiếc phong bì vào túi quần, liếm ngón tay trỏ và làm ẩm gờ bên trong của khe hở của tờ giấy dán trên mặt rương. Sau đó, tôi dùng ngón tay cái miết nó kín mít. Sẽ không có ai, ngay cả Thanh tra Fabian[30], có thể ngờ là nó đã từng bị rạch ra.
Thời gian của tôi đã hết. Tôi nhìn căn phòng lần cuối cùng, lẻn vào hành lang tối mờ như Mary hướng dẫn, rồi cẩn thận bước về phía cầu thang sau.
“Mary, mày vô dụng chẳng khác gì một con bò! Thiên thần thổ địa ơi, tao thì phải làm trăm công nghìn việc còn mày chỉ biết đâm đầu vào một cái giỏ rác nhỏ như lòng bàn tay hả?”
Lão Tully thình lình quay trở lại lối sau: chỉ còn một khúc rẽ nữa của cầu thang là tôi và lão sẽ mặt đối mặt!
Tôi nhanh chân nhón bước sang hướng khác, qua những lối rẽ uốn lượn như mê cung trong hành lang. Một thoáng sau, tim còn đang đập thình thịch, tôi thấy mình đứng trên đỉnh cầu thang hình chữ L dẫn đến lối vào cửa trước. Trong tầm mắt của mình, tôi không thấy ai bên dưới.
Tôi nhón chân đi xuống, bước từng bước thật chậm.
Một hành lang dài dằng dặc, treo vô số tranh ảnh bị ố màu, được sử dụng như tiền sảnh, và ở đó, bao nhiêu thế hệ đã hy sinh để lại linh hồn ám khói của mình bám vào tường. Khung cảnh ảm đạm này chỉ sáng lên đôi chút nhờ một khoảng nắng rọi vào qua cánh cửa trước để mở.
Bên tay trái tôi là chiếc bàn nhỏ với một chiếc điện thoại, một cuốn danh bạ, một bình hoa bướm màu hoa cà và màu đỏ, cùng một cuốn sổ. Sổ khách!
Đây rồi:
Ngày 2 tháng Sáu. 10 giờ 25 sáng. F.X. Sanders.
London.
Không có vị khách nào đăng ký ở một ngày trước đó, và từ đó đến giờ cũng không có ai.
Nhưng London ư? Thanh tra Hewitt nói là người đàn ông đã chết kia đến từ Na Uy, và tôi biết rằng, giống như Vua George, Thanh tra Hewitt không phải người nói bông đùa.
Ừm, chính xác thì ông ta cũng không nói vậy: ông ta nói là người chết đó mới đến từ Na Uy cơ mà, và điều này hoàn toàn khác biệt.
Trước khi tôi kịp nghĩ chuyện này cho thấu đáo, từ phía trên lại vang lên tiếng rầm rầm. Lại là lão Tully: lão Tully xó xỉnh nào cũng thấy mặt. Qua giọng nói của lão, tôi hiểu rằng Mary vẫn đang phải hứng chịu cơn thịnh nộ tồi tệ nhất.
“Con ranh, đừng có nhìn tao như thế, nếu không mày sẽ phải hối tiếc đấy.”
Còn lúc này lão ta đang bước huỳnh huỵch xuống cầu thang chính! Chỉ vài giây nữa thôi lão sẽ nhìn thấy tôi. Ngay khi tôi định chạy trốn ra cửa trước, thì một chiếc xe taxi mòn vẹt màu đen đỗ xịch ngay trước cửa, nóc xe chất đồ đạc cao ngất, và ba chiếc chân gỗ của giá máy ảnh thò ra khỏi cửa xe.
Lão Tully bị xao nhãng mất một giây.
“Ông Pemberton đến rồi,” lão ta nói nhỏ nhẹ đúng kiểu đóng kịch. “Ông ấy đến sớm. Con gái, bố đã nói với con rồi phải không? Giờ con nhanh nhanh chân lên và bỏ mấy tấm ga bẩn này đi để bố gọi Ned nhé.”
Thế là tôi chạy thật nhanh trở lại, qua các bức tranh ảnh, vào hành lang sau, và ra sân.
“Ned ơi! Ra chuyển hành lý cho ông Pemberton.”
Lão Tully ở ngay sau lưng tôi: lão đi theo tôi ra phía sau của quán trọ. Mặc dù hai mắt bị lóa vì mặt trời chói lọi, tôi thấy Ned không còn ở đó. Chắc hẳn anh ta đã bốc xong đống hàng trong xe tải và quay đi làm việc khác rồi.
Không cần nghĩ gì thêm, tôi nhảy vọt lên thùng xe tải, nằm bẹp dí người xuống và ép người thật chặt phía sau đống pho mát.
Hé mắt nhìn giữa các khối hàng, tôi nhìn thấy lão Tully bước vào sân quán trọ, mắt dáo dác tìm kiếm, rồi dùng tạp dề lau lau khuôn mặt đỏ ngầu. Lão ta mặc sẵn quần áo để đi nốc bia. Chắc là quán rượu mở cửa rồi đấy, tôi thầm nghĩ.
“Ned!” Lão la lớn.
Tôi thừa biết rằng khi lão đứng trong ánh nắng rực rỡ như thế, lão không thể nhìn thấy tôi bên trong thùng xe tải tối mờ. Tôi chỉ việc nằm bẹp xuống và giữ im lặng.
Tôi đang nghĩ đến điều đó thì có thêm hai giọng nói nữa vang lên cùng với tiếng rống của lão Tully.
“Chào anh Tully,” một giọng nói vang lên. “Cám ơn đã mời bia.”
“Anh bạn,” là một giọng nói khác. “Hẹn gặp vào thứ Bảy tới nhé.”
“Nhớ nói với George là cậu ta có thể bán cả khố đi mà đặt cược vào con Seastar nhé.”
Đây là một trong những điều ngớ ngẩn của đàn ông khi họ chỉ nói với nhau mấy từ cuối cùng của một câu. Kiểu nói chuyện này chẳng có gì hay ho cả. Vậy mà họ vẫn cười ha hả, hình như còn vỗ đùi đen đét trước lời nhận xét dí dỏm đó, và chỉ một giây sau tôi bỗng cảm thấy chiếc xe bật lò xo lên khi hai người đàn ông đó nặng nề bước lên xe. Sau đó, tiếng động cơ kêu lên kèn kẹt và chúng tôi bắt đầu di chuyển - lùi về phía sau.
Lão Tully dùng tay ra hiệu cho chiếc xe khi nó lùi lại, ra dấu về khoảng trống thùng xe và tường sân. Lúc này tôi không thể nhảy xuống xe mà không nhảy vào giữa hai cánh tay của lão được. Tôi phải đợi cho đến khi xe đi ra khỏi lối đi có mái vòm và rẽ ra đoạn đường thoáng.
Hình ảnh thoáng qua cuối cùng của tôi về khoảng sân đó là lão Tully đi bộ trở vào phía cửa và Gladys vẫn dựa vào đống củi ban đầu.
Khi chiếc xe đột ngột rẽ và tăng tốc, tôi đập đầu và một đống pho mát Wensleydale đang bị đổ xuống, và theo đà, tôi trượt dài trên thùng ô tô bằng gỗ thô ráp. Đúng lúc tôi gắng sức giữ cho thăng bằng thì con đường cao tốc sau lưng tôi thấp thoáng hiện ra với những bờ giậu xanh xanh, và Bishop’s Lacey lùi xa dần, xa dần.
Flavia ơi, mày thỏa mãn rồi nhé, giờ thì mày có thể không bao giờ nhìn thấy gia đình mày nữa đâu.
Ban đầu, ý nghĩ này mới hấp dẫn làm sao, nhưng tôi nhanh chóng nhận thấy tôi sẽ nhớ bố - ít nhất cũng nhớ một chút. Riêng đối với Ophelia và Daphne thì tôi sẽ sớm học cách sống sung sướng mà không cần đến họ.
Hiển nhiên Thanh tra Hewitt sẽ đưa ngay ra kết luận rằng tôi là kẻ gây ra tội giết người, đến nỗi phải bỏ xứ mà đi, và tôi đang tẩu thoát bằng đường biển đến British Guiana[31]. Chắc chắn ông ta sẽ cảnh báo cho tất cả các cảng biển để tìm kiếm một con nhỏ phạm tội giết người, dù nó mới mười một tuổi, buộc tóc đuôi sam và mặc áo may liền quần.
Một khi có chút manh mối, cảnh sát sẽ cho chó săn đi tìm một kẻ chạy trốn có mùi giống mùi pho mát. Tôi cần phải tìm một chỗ để tắm, có thể là: một con suối gần đồng để giặt giũ và hong khô quần áo trên bụi cây mâm xôi. Đương nhiên là bọn họ sẽ phỏng vấn lão Tully, tra tấn Ned và Mary, và tìm cho ra cách tôi trốn thoát khỏi Mười Ba Con Vịt.
Á à, Mười Ba Con Vịt.
Tôi tự hỏi tại sao người lại đặt tên cho các quán trọ và các nhà công cộng lại không có chút sáng tạo nào đến vậy? Có lần cô Mullet nói với tôi rằng Mười Ba Con Vịt được đặt tên vào thế kỷ thứ mười tám, bởi một ông địa chủ khi ông này đếm được mười hai con vịt đực đi lạc từ các làng kế bên sang và ông ta cộng thêm một con nữa cho thành mười ba.
Tại sao ông ta không đặt một cái tên có giá trị thực tế hơn, ví dụ Mười ba Nguyên tử Cacbon chẳng hạn? Hay một cái tên gợi nhớ về sự kiện nào đó? Có mười ba nguyên tử các bon trong hợp chất tridecyl, và hydrua của nó là metan. Quả là một cái tên quá hay ho để đặt cho một quán rượu!
Cái tên Mười Ba Con Vịt, nên để người ta đặt tên cho một chuồng vịt thì hơn!
Tôi vẫn đang ngẫm nghĩ về tridecyl thì qua cánh cửa hậu của chiếc xe, hình ảnh một hòn đá tròn tròn, được quét vôi trắng thoáng lướt qua. Trông quen quá, và tôi nhận ra ngay lập tức đó là mốc giới chỉ lối rẽ sang Doddingsley.
Nửa dặm đường nữa, lái xe bắt buộc phải dừng xe - dù chỉ trong một tích tắc - trước khi rẽ phải sang St. Elfrieda hoặc rẽ trái sang Nether Lacey.
Tôi trượt xuống mép thùng xe đang mở khi phanh kêu ken két và xe bắt đầu chạy chậm lại. Một tích tắc sau, giống như lính đặc công nhảy xa khỏi quả bom Whitley, tôi trượt xuống khỏi cửa hậu và nhảy xuống, tứ chi đều chạm đất.
Không thèm ngoảnh lại nhìn, gã tài xế rẽ sang trái và khi chiếc xe tải nặng nề cùng với đống pho mát ì ạch đi xa dần trong đám bụi, tôi đi bộ về nhà.
Sẽ là một chuyến đi bộ xuyên đồng cực kỳ xa xôi mới về đến Buckshaw.
Kỳ Án Chim Dẽ Giun Kỳ Án Chim Dẽ Giun - Alan Bradley Kỳ Án Chim Dẽ Giun