Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Chương 7: Vua Trắng
H
arry gật đầu với một khách quen trong quán và ngồi xuống bàn bên dưới ô cửa sổ hẹp, gắn kính lượn sóng, nhìn ra đường Waldemar Thranes. Trên bức tường sau lưng anh treo một bức tranh lớn vẽ một ngày nắng ở Youngstorget, có những người đàn bà cầm dù được vui vẻ đón chào bởi cánh đàn ông đội mũ chóp cao đang dạo chơi. Khác một trời một vực thứ ánh sáng ảm đạm vĩnh viễn của mùa thu và sự tĩnh lặng gần như thành kính của buổi chiều trong quán Schrøder.
“Rất vui vì ông đã tới,” Harry nói với người đàn ông to béo đã ngồi sẵn ở bàn. Dễ thấy là ông ta không phải khách quen. Không phải bởi chiếc áo vest vải tuýt sang trọng, cũng không phải bởi cái nơ bướm màu đỏ chấm bi, mà bởi vì ông ta đang khuấy một tách trà trắng đặt trên miếng lót sặc mùi bia và lốm đốm vết cháy đen vì tàn thuốc lá. Vị khách khác thường này là Stale Aune, nhà tâm lý học hàng đầu trong cả nước và là chuyên gia mà cảnh sát thường xuyên phải nhờ vả. Họ nhiều lúc cũng hài lòng nhưng đôi khi cũng phải hối tiếc vì Aune là một người cực kỳ chính trực, luôn bảo vệ sự liêm khiết của mình và trong một phiên tòa sẽ không bao giờ tuyên bố bất cứ điều gì mà ông không thể chứng minh đầy đủ bằng những chứng cứ khoa học. Tuy nhiên, vì ít khi có bằng chứng trong tâm lý học nên những nghi ngờ mà ông gieo xuống thường có lợi cho bị cáo và nhân chứng của bên khởi tố lại trở thành bạn thân thiết của bên bị khởi tố. Harry với tư cách là một sĩ quan cảnh sát, đã sử dụng chuyên môn của Aune trong những vụ sát nhân lâu đến mức anh xem ông như đồng nghiệp. Còn với tư cách một kẻ nghiện rượu, Harry tin tưởng người đàn ông tốt bụng, thông minh và ngạo mạn một cách vừa phải này tới mức nếu bị dồn thì hẳn là anh sẽ gọi ông là bạn.
“Vậy đây là nơi ẩn náu của anh hả?” Aune hỏi.
“Vâng,” Harry nói, nhướn một bên mày với Maja đang đứng ở quầy, và cô ta đáp lại ngay lập tức bằng cách lao qua cánh cửa xoay để vào bếp.
“Anh cầm gì thế?”
“Ớt Nhật.”
Một giọt mồ hôi lăn xuống mũi Harry, đọng lại nơi chóp mũi trong một giây rồi rơi xuống khăn trải bàn. Aune nhìn vết ướt với vẻ kinh ngạc.
“Máy điều hòa ì ạch quá,” Harry nói. “Tôi vừa đi tập gym về.”
Aune nhăn mũi. “Là người làm khoa học, tôi nghĩ là mình phải tán dương anh, nhưng với tư cách là nhà triết học thì tôi sẽ thắc mắc tại sao anh lại bắt cơ thể mình phải trải qua một chuyện khó chịu đến vậy.”
Một bình cà phê bằng thép và một cái cốc đặt xuống trước mặt Harry. “Cảm ơn cô, Maja.”
“Mặc cảm tội lỗi cắn rứt,” Aune nói. “Một số người chỉ có thể đối phó với điều đó bằng cách tự trừng phạt bản thân. Giống như khi anh bị suy sụp ấy, Harry. Trong trường hợp của anh, rượu không phải nơi ẩn náu mà là cách tự trừng phạt nặng nhất.”
“Cảm ơn ông. Tôi đã nghe ông đưa ra chẩn đoán đó rồi.”
“Thế đó có phải là lý do tại sao anh tập nặng đến thế không? Cắn rứt lương tâm ấy?”
Harry nhún vai.
Aune hạ thấp giọng. “Có phải anh vẫn đang đau đầu vì vụ Ellen không?”
Harry vụt ngước lên và bắt gặp ánh mắt của Aune. Anh chậm rãi đưa cốc cà phê lên môi và nhấp một hơi dài rồi nhăn mặt lại đặt xuống. “Không, không phải là vụ của Ellen Gjelten. Chúng tôi chẳng đi tới đâu cả, nhưng không phải là vì chúng tôi kém cỏi. Điều đó thì tôi biết chắc. Rồi sẽ có đầu mối mới. Chúng tôi chỉ việc chờ thời cơ thôi.”
“Tốt,” Aune nói. “Cái chết của Ellen không phải do lỗi của anh. Hãy nghĩ đến điều đó trước hết. Và chớ quên rằng tất cả các đồng nghiệp của anh đều coi như thủ phạm đã bị bắt.”
“Có lẽ vậy, mà cũng có lẽ không. Hắn ngỏm rồi còn đâu mà trả lời.”
“Đừng để điều đó trở thành một ám ảnh, Harry.” Aune thò hai ngón tay vào túi áo gi lê vải tuýt lôi ra một chiếc đồng hồ bỏ túi bằng bạc và liếc nhanh. “Nhưng tôi không nghĩ là anh muốn nói chuyện về tội lỗi đâu nhỉ?”
“Không, không hề.” Harry lôi một xấp ảnh chụp từ túi áo trong của anh ra. “Tôi muốn biết ông nghĩ gì về chuyện này.”
Aune chìa tay ra cầm lấy rồi lật qua xấp ảnh. “Trông như là một vụ cướp ngân hàng. Theo tôi hiểu thì đây không phải là việc của Đội Hình sự.”
“Cứ xem tấm ảnh tiếp theo rồi ông sẽ hiểu.”
“Thật vậy sao? Hắn giơ một ngón tay về phía máy quay này.”
“Xin lỗi, tấm kế tiếp cơ.”
“Ồ. Có phải cô ta…?”
“Đúng, ông hầu như không thấy được tia lửa lóe lên vì đây là một khẩu AG3, nhưng hắn vừa bắn xong. Nhìn đi, viên đạn vừa xuyên qua trán của người phụ nữ đó. Trong bức ảnh kế tiếp nó đã chui ra phía sau đầu cô ta và găm vào tấm gỗ bên cạnh vách ngăn bằng kính.”
Aune đặt mấy tấm ảnh xuống. “Tại sao anh cứ phải đưa cho tôi xem những tấm ảnh rùng rợn thế hả, Harry?”
“Để cho ông hiểu lý do của cuộc trò chuyện hôm nay. Xem tấm kế tiếp đi.”
Aune thở dài.
“Tên cướp vớ lấy tiền ở đó,” Harry nói và chỉ tay. “Tất cả những gì hắn phải làm bấy giờ là tẩu thoát. Hắn là một tên chuyên nghiệp, bình tĩnh, chính xác và không có lý do gì để dọa dẫm ai hay bắt ép ai phải làm gì. Nhưng hắn lại trì hoãn việc tẩu thoát lại vài giây để bắn chết nhân viên giao dịch của ngân hàng. Đơn giản là vì người trưởng chi nhánh chậm mất sáu giây khi lấy tiền ra khỏi cây ATM.”
Aune cứ chậm lãi dùng thìa khuấy thành hình số tám trong cốc trà. “Và bây giờ anh đang tự hỏi động cơ của hắn là gì?”
“Ừ, vụ nào chẳng có động cơ, nhưng khó mà biết được ta phải nhìn vào khía cạnh nào thì hợp lý. Giả thuyết đầu tiên của ông là gì?”
“Rối loạn nhân cách nghiêm trọng.”
“Nhưng mọi chuyện khác hắn làm đều có vẻ rất có lý.”
“Một người bị rối loạn nhân cách không có nghĩa là ngu ngốc. Những người mắc phải bệnh này thực hiện được mục tiêu của mình tốt y như người bình thường, mà thường là tốt hơn. Họ chỉ khác với chúng ta ở chỗ họ muốn những điều khác.”
“Thế còn ma túy? Có loại ma túy nào khiến một người vốn dĩ bình thường trở nên hung hăng đến mức muốn giết người không?”
Aune lắc đầu. “Ma túy sẽ chỉ làm nặng thêm hay yếu đi những khuynh hướng tiềm tàng thôi. Một kẻ say rượu mà giết vợ mình thì khi tỉnh hắn cũng có xu hướng đánh đập cô ta. Vụ giết người cố ý như thế này thì hầu như luôn được thực hiện bởi những người có tố chất đặc biệt.”
“Vậy ông đang muốn nói rằng gã này tâm thần nặng?”
“Hoặc là đã được lập trình từ trước.”
“Lập trình trước ư?”
Aune gật đầu. “Anh có nhớ tên cướp không bao giờ bị bắt, Raskol Baxhet không?”
Harry lắc đầu.
“Dân Di gan,” Aune nói. “Có nhiều lời đồn đoán về nhân vật bí ẩn này suốt nhiều năm. Hắn được cho là kẻ chủ mưu đứng sau tất cả những vụ cướp xe chở tiền và các tổ chức tài chính ở Oslo trong thập niên 1980. Phải mất nhiều năm cảnh sát mới chấp nhận là hắn có thật, nhưng ngay cả khi ấy, họ cũng không bao giờ thu được bất cứ bằng chứng nào chống lại hắn.”
“Giờ thì tôi đã mang máng nhớ ra rồi,” Harry nói. “Nhưng tôi tưởng hắn đã bị bắt cơ mà.”
“Nhầm. Người ta chỉ mới tóm được hai tên cướp đã cam kết sẽ cung cấp những chứng cứ chống lại Raskol, nhưng chúng đã biến mất trong những hoàn cảnh lạ lùng.”
“Không có gì là bất thường,” Harry nói, lôi ra một bao thuốc lá Camel loại hai mươi điếu.
“Bất thường ở chỗ lúc đó chúng đang ngồi tù.”
Harry khẽ huýt sáo. “Tôi vẫn nghĩ hắn đã tàn đời ở đó.”
“Đúng thế”, Aune nói. “Nhưng hắn không bị bắt. Raskol ra đầu thú. Một hôm, hắn đi đến bàn lễ tân ở Sở Cảnh sát, bảo hắn muốn thú tội về một chuỗi các vụ cướp ngân hàng trước kia. Đương nhiên, chuyện đó gây ra một cơn chấn động dữ dội. Không ai hiểu gì, còn Raskol thì từ chối không giải thích tại sao hắn lại ra đầu thú. Trước khi vụ đó được đưa ra xét xử, người ta gọi cho tôi đến kiểm tra xem tâm thần của hắn có bình thường không và đảm bảo những lời thú nhận của hắn sẽ có giá trị. Raskol đồng ý nói chuyện với tôi với hai điều kiện. Một là, hai chúng tôi sẽ chơi một ván cờ - đừng hỏi tôi là tại sao hắn biết tôi vẫn chơi cờ. Và, hai là, tôi mang theo bản dịch tiếng Pháp của cuốn Binh pháp, một cuốn sách cổ của Trung Hoa về các chiến lược quân sự.”
Aune mở hộp thuốc lá hai đầu nhãn hiệu Nobel Petit.
“Tôi đặt mua một cuốn sách từ bên Pháp và mang theo một bộ cờ vua. Tôi được cho vào phòng giam của hắn, và được đón chào bởi một người có vẻ ngoài của một thầy tu. Hắn hỏi mượn tôi cái bút, rồi giở sách ra và hất đầu ra hiệu cho tôi xếp bàn cờ. Tôi bày các quân cờ ra và khai cuộc với thế cờ mở màn kiểu Reti - tức anh sẽ không tấn công đối thủ cho đến khi nào kiểm soát được khu vực trung tâm, thường có hiệu quả đối với các kỳ thủ hạng trung. Lúc đó, không thể nhìn thấy ý định của tôi chỉ qua một nước đi, nhưng gã Di gan đó ngước mắt lên khỏi cuốn sách và nhìn vào bàn cờ, vuốt chòm râu dê, nhìn tôi mỉm cười tinh quái, hí hoáy viết gì đó vào cuốn sách…”
Một chiếc bật lửa màu bạc bùng cháy ở phần đuôi điếu thuốc lá hai đầu.
“… rồi lại đọc tiếp. Tôi bèn hỏi: Anh không định đi một nước cờ nào sao? Tôi nhìn bàn tay hắn hí hoáy viết bằng cây bút của tôi trong lúc miệng trả lời: Tôi không cần. Tôi đang viết về kết thúc của cuộc chơi này, từng nước một. Ông sẽ đá đổ quân vua của ông. Tôi giải thích rằng hắn sẽ không thể nào biết được cuộc đấu này sẽ diễn ra như thế nào chỉ sau một nước cờ. Hắn bảo: Ông cá không? Tôi cố gắng cười xòa để xí xóa, nhưng hắn cứ nhất quyết đòi cá bằng được. Tôi đành phải đồng ý cá một trăm để hắn có tâm lý thoải mái cho cuộc phỏng vấn của tôi. Hắn đòi xem tờ tiền nên tôi phải đặt nó xuống bên cạnh bàn cờ nơi hắn có thể nhìn thấy. Hắn giơ tay lên như thể định đi nước của hắn, rồi mọi chuyện xảy ra rất nhanh.”
“Cờ chớp nhoáng à?”
Aune mỉm cười và trầm ngâm, nhả một vòng khói lên trần. “Loáng một cái, tôi đã bị siết chặt bởi một cánh tay như gọng kìm, đầu bị ép ngửa ra sau để mặt hướng lên trần nhà, và một giọng nói thì thầm vào tai tôi: Ông có cảm thấy lưỡi dao không, Gadjo? Đương nhiên là tôi cảm thấy nó chứ, cái miếng thép mỏng như lưỡi lam, sắc lẹm đang gí sát vào họng tôi, đe dọa cứa vào da thịt tôi bất cứ lúc nào. Anh đã bao giờ trải qua cảm giác đó chưa, Harry?”
Bộ não của Harry hối hả lướt qua những kinh nghiệm tương tự, nhưng không tìm thấy lần nào hoàn toàn giống vậy. Anh lắc đầu.
“Có cảm giác, như lời nhiều bệnh nhân của tôi đã nói, rõ rành rành. Tôi sợ đến mức suýt tè ra quần. Rồi hắn thì thào vào tai tôi: Hất đổ quân vua của ông đi, Aune. Hắn nới lỏng tay siết một chút để tôi có thể giơ tay lên hất văng quân cờ. Rồi hắn lại đột ngột thả tôi ra cũng nhanh y như vậy. Hắn quay về chỗ ngồi của mình bên kia bàn và đợi tôi đứng dậy lấy lại hơi. Chuyện quái quỷ gì thế? Tôi rên lên. Đó là một vụ cướp ngân hàng đấy, hắn đáp. Đầu tiên là lên kế hoạch, rồi sau đó là thực hiện. Rồi hắn cho tôi xem những gì hắn đã ghi vào cuốn sách. Tôi chỉ nhìn thấy mỗi nước cờ duy nhất tôi đã đi và dòng chữ Vua trắng đầu hàng. Rồi hắn hỏi: Chuyện này đã trả lời được những câu hỏi của ông chưa, Aune?”
“Ông bảo sao?”
“Chẳng bảo gì cả. Tôi hét lên gọi lính gác tới. Tuy nhiên, trước khi anh ta vào, tôi vẫn cố hỏi Raskol câu cuối cùng, vì tôi biết tôi sẽ phải vò đầu bứt tai mà nghĩ về nó nếu tôi không có được câu trả lời ngay lúc đó. Tôi hỏi: Liệu anh có làm chuyện đó không? Liệu anh có cứa cổ tôi nếu tôi không đầu hàng? Chỉ để thắng một ván cược ngớ ngẩn?”
“Thế hắn trả lời ra sao?”
“Hắn cười và hỏi tôi có biết lập trình trước là thế nào không?”
“Vậy sao?”
“Chỉ mỗi thế thôi. Rồi cửa mở và tôi rời khỏi đó.”
“Nhưng hắn nói lập trình trước nghĩa là sao?”
Aune đẩy tách trà ra xa. “Anh có thể lập trình trước cho bộ não của mình tuân theo một mô thức hành động cụ thể nào đó. Bộ não sẽ gạt bỏ tất cả những phản xạ khác và đi theo những quy tắc đã định trước, dù cho có chuyện gì xảy ra. Sẽ có ích trong những tình huống mà phản xạ tự nhiên của bộ não là hoảng sợ. Như là khi dù không mở. Khi đó, tôi hy vọng là những người nhảy dù đã lập trình trước thao tác xử lý trong tình huống khẩn.”
“Hoặc là binh lính đang chiến đấu.”
“Chính xác. Tuy nhiên, có những phương pháp có thể lập trình con người tới một mức độ mà họ đi vào một trạng thái thôi miên nào đó, không hề bị tác động bởi ngay cả những tác nhân mạnh nhất từ bên ngoài, và họ trở thành những rô bốt sống. Thực tế thì đây là giấc mơ của mọi vị tướng, dễ thực hiện đến đáng sợ, miễn là anh biết các kỹ thuật cần thiết.”
“Có phải ông đang ám chỉ thuật thôi miên không?”
“Tôi thích gọi nó là lập trình trước. Nghe có vẻ đỡ bí ẩn hơn. Đó là vấn đề mở và đóng các con đường của phản xạ thôi. Nếu thông minh, anh có thể dễ dàng lập trình cho bản thân mình, gọi là tự thôi miên. Nếu Raskol đã tự lập trình bản thân để giết tôi nếu tôi không chịu đầu hàng thì hẳn là hắn sẽ tự ngăn mình thay đổi ý định.”
“Nhưng hắn đã không giết ông mà.”
“Tất cả các chương trình đều có một nút thoát, một mật khẩu để đưa anh ra khỏi trạng thái thôi miên. Trong trường hợp này, có lẽ là việc tôi hất đổ quân vua.”
“Ừm. Nghe thú vị đấy.”
“Và giờ thì tôi đã đi đến kết luận…”
“Tôi nghĩ là tôi đã hiểu,” Harry nói. “Tên cướp ngân hàng trong xấp ảnh có thể đã tự lập trình bản thân là sẽ bắn nếu trưởng chi nhánh không làm khớp với giới hạn thời gian.”
“Các quy tắc của việc lập trình trước đều phải đơn giản,” Aune nói, thả mẩu thuốc lá vào cốc trà rồi úp cái đĩa lên trên. “Để anh rơi vào trạng thái mê muội, chúng phải thiết lập một hệ thống nhỏ, nhưng logic và khép kín, khước từ mọi suy nghĩ khác.”
Harry đặt đồng năm mươi krone bên cạnh cốc cà phê và đứng dậy. Aune lặng lẽ quan sát trong lúc anh thu lại hết những tấm ảnh rồi mới nói. “Anh không tin một lời nào tôi nói, phải không?”
“Không.”
Aune đứng dậy cài cúc áo vest che bụng lại. “Vậy thì anh tin vào điều gì?”
“Tôi tin vào cái mà kinh nghiệm dạy cho tôi.” Harry nói. “Những tên tội phạm đó rốt cuộc thì cũng ngu như tôi thôi, hành động vì những lựa chọn dễ dãi và có những động cơ chẳng có gì phức tạp. Tóm lại, mọi chuyện luôn đúng với vẻ bề ngoài của chúng. Tôi dám cá tên cướp đó hoặc đang phê lòi hoặc là đang sợ chết khiếp. Việc làm của hắn cực kỳ điên rồ và từ đó tôi kết luận rằng hắn là thằng ngu. Thử nghĩ về cái gã Di gan mà rõ ràng ông cho là hết sức thông minh đi. Hắn bị bóc lịch bao lâu vì tội dùng dao tấn công ông?”
“Không ngày nào,” Aune đáp, miệng cười giễu cợt.
“Sao?”
“Người ta không hề tìm thấy con dao nào cả.”
“Tôi tưởng ông kể là ông bị khóa trong phòng giam của hắn.”
“Anh đã bao giờ nằm úp sấp trên bãi biển và bị đám bạn đi cùng bảo anh phải nằm im vì họ đang dứ than nóng phía trên lưng anh chưa? Rồi anh nghe thấy ai đó kêu ối và ngay sau đó anh cảm thấy than đang cháy trên lưng mình?”
Bộ não của Harry lại sục tìm trong cái kho ký ức về những ngày nghỉ lễ của anh. Không mất nhiều thời gian lắm. “Chưa.”
“Nhưng hóa ra chỉ là một trò bịp; đó chỉ là những viên nước đá.”
“Thì sao?”
Aune thở dài. “Thỉnh thoảng tôi vẫn thắc mắc anh đã làm gì suốt ba mươi lăm năm qua trong lúc nói là mình vẫn đang sống, Harry ạ.”
Harry xoa mặt. Anh cảm thấy mệt mỏi. “OK, Aune, ý ông là gì?”
“Ý tôi là một kẻ giỏi lừa gạt sẽ có thể khiến anh tin rằng mép của tờ một trăm krone là một lưỡi dao.”
○○○
Cô gái tóc vàng nhìn thẳng vào mắt Harry và hứa hẹn với anh sẽ có nắng mặc dù sau đó trời sẽ nhiều mây. Harry nhấn nút OFF và tấm ảnh thu lại thành một chấm nhỏ sáng chói nằm chính giữa màn hình 14 inch. Nhưng khi anh nhắm mắt lại, thì hình ảnh của Stine Grette lại hiện ra trên võng mạc của anh, và anh nghe thấy tiếng của người phóng viên vẳng lên “… đến nay cảnh sát vẫn chưa tìm ra kẻ tình nghi nào trong vụ án này.”
Anh lại mở mắt ra và nhìn hình ảnh phản chiếu trên nền màn hình đã tắt. Chính anh, cái ghế bành có tựa lưng cao đã cũ, màu xanh lục nhãn hiệu Elevator và cái bàn uống nước trống trơn, được trang trí bằng những vệt tròn do đáy cốc và chai để lại. Mọi thứ vẫn y nguyên như trước. Cái ti vi xách tay vẫn nằm trên cái giá ở giữa sách hướng dẫn du lịch Thái Lan của Lonely Planet và bản đồ các tuyến đường ở Na Uy từ hồi anh về sống ở đây đến giờ, và nó chưa hề xê xích một mét nào suốt mấy năm qua. Anh đã đọc về chứng bệnh Chán Sau Bảy Năm và chuyện người ta thường bắt đầu muốn một nơi ở mới. Hoặc một công việc mới. Hoặc bồ mới. Anh chẳng hề nhận thấy điều gì như vậy, mà anh vẫn làm công việc cũ suốt gần mười năm qua. Harry nhìn xuống chiếc đồng hồ đeo tay. Anna hẹn tám giờ.
Về chuyện tình cảm thì những mối quan hệ của anh chẳng bao giờ kéo dài đủ lâu để anh kiểm nghiệm lý thuyết này. Ngoại trừ hai mối tình lẽ ra đã có thể kéo dài lâu đến thế, chuyện yêu đương của Harry thường đột tử vì cái mà anh gọi là bệnh Chán Sau Sáu Tuần. Liệu có phải sự ngần ngại dính líu sâu là do kết cục bi thảm sau hai lần yêu hai người đàn bà không, anh cũng chẳng rõ. Hay là chính hai tình yêu không gì lay chuyển nổi của anh - điều tra những vụ giết người và rượu - là thủ phạm? Dù sao đi nữa thì trước khi gặp Rakel hai năm trước, anh đã bắt đầu ngả về quan điểm cho rằng anh không hợp với những mối tình bền lâu. Anh nghĩ về căn phòng ngủ rộng rãi, thoáng mát của cô ở Holmenkollen. Những tiếng rì rầm hiểu ngầm mà họ thốt ra tại bàn ăn sáng. Bức tranh của Oleg trên cửa tủ lạnh, ba người đang nắm tay nhau, một trong số đó cao ngồng, cao ngang vầng mặt trời màu vàng trên nền trời trong xanh, bên dưới đề chữ HARY.
Harry đứng lên khỏi ghế, tìm mẩu giấy có ghi số điện thoại của cô để bên cạnh cái máy trả lời tự động và bấm số vào di động. Điện thoại đổ bốn hồi chuông mới thấy giọng trả lời vang lên bên kia đầu dây.
“Chào anh, Harry.”
“Chào em. Sao em biết là anh?”
Một tiếng cười trầm, khẽ. “Anh đi đâu mất tiêu suốt mấy năm qua vậy, Harry?”
“Nay đây mai đó. Sao em lại hỏi thế? Anh lại nói gì ngu ngốc à?”
Cô lại bật cười to hơn.
“À, em thấy số của anh hiển thị trên màn hình. Anh ngốc quá.”
Harry nghe thấy mình nói năng chẳng ra đâu vào đâu, nhưng không sao. Quan trọng nhất là phải nói được chuyện anh cần nói rồi cúp máy. Thế là xong. “Nghe này, Anna, về cuộc hẹn của chúng ta tối nay…”
“Đừng có trẻ con thế, Harry!”
“Trẻ con ư?”
“Em đang làm món cà ri ngon nhất thiên niên kỷ đây. Nếu anh lại sợ là em sẽ dụ dỗ anh, thì em phải làm cho anh thất vọng đấy. Em chỉ nghĩ là chúng ta nợ nhau vài tiếng ngồi bên bàn ăn và chuyện phiếm thôi. Nhớ lại ngày xưa. Xóa bỏ các hiểu lầm. Hoặc có lẽ là không. Có lẽ là cười với nhau nữa. Anh có nhớ món ớt Nhật không?”
“Ờ, có.”
“Tuyệt. Tám giờ đúng nhé?”
“Ừm…”
“Tốt.”
Harry đứng đó, trân trân nhìn cái điện thoại.