The secret of getting ahead is getting started. The secret of getting started is breaking your complex overwhelming tasks into small manageable tasks, and then starting on the first one.

Mark Twain

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Lê Hữu Mạnh
Upload bìa: Son Vo Di
Số chương: 29
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 7242 / 68
Cập nhật: 2016-04-22 16:44:13 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 8: Dấu Hiệu Của Thần Chết
ụ Pierre vuốt ve đầu Kazan và cho nó một miếng thịt. Lát sau Joan cũng bước ra, để yên cho cháu bé ngủ thêm. Nàng chạy đến hôn bố rồi, quì xuống trước mặt Kazan, nàng lại bắt đầu nói với nó, với giọng nàng đã nói với con.
Khi Joan đứng dậy, duyên dáng, nhảy đến giúp bố, Kazan cũng đi theo. Thấy Kazan bây giờ đã gần đứng vững, Joan mừng quá reo lên.
Hôm ấy bắt đầu một cuộc hành trình đặc biệt. Thoạt tiên cụ Pierre bỏ hết đồ đạc trong xe ra, chỉ để lại cái lều gấp gọn, chắn, thức ăn và cái ổ ấm bằng lông thú cho Joan. Rồi cụ quàng lên vai một sợi dây cương và gò lưng kéo cái xe trên tuyết. Kazan vẫn bị buộc, lững thững theo sau.
Cụ Pue không ngừng ho và khạc ra huyết. Joan hết sức lo ngiại.
- Bố bị cảm lạnh, chứ không sao cả - cụ Pierre nói - Về nhà bố cứ ở trong nhà đủ một tuần là hết thôi.
Cụ nói dối. Mỗi lần ho, cụ lại ngoảnh mặt đi, lau vội mồm và râu, không để Joan trông thấy những vệt đỏ.
Joan chẳng nghĩ ngợi gì cả và có ngờ đâu bố lại giấu mình. Nhưng Kazan, với cái tri thức kì lại của thú vật, mà con người không giải thích nổi vẫn gọi là bản năng, nếu biết nói, thì nó đã nói rõ ra cái điều cụ Pierre Radisson giấu.
Nó đã từng nghe nhiều người ho như thế, tổ tiên chó của nó cũng đã từng nghe khi kéo những chiếc xe trượt, và trong trí óc, nó tin chắc là điều bất hạnh nhất định sẽ xảy ra.
Đã bao lần, tuy không vào, nó cũng đánh hơi được cái chết trong những lều người da đỏ và trong những chòi gỗ người da trắng. Cũng như khi đoán được bão táp và lửa cháy từ xa, nhiều khi nó đã đánh hơi được mùi chết, mặc dầu cái chết chỉ mới lảng vảng xung quanh những con người sắp lìa đời. Và trong khi nó theo xe, sau lưng cụ Pierre, thì dấu hiệu của thần chết như lởn vởn trên không, dường như nói với nó rằng cái chết đã gần rồi, rằng trên mỗi bước đi cái chết có thể đến với cụ Pierre bất cứ lúc nào.
Kazan ở trong một trạng thái bứt rứt lạ lùng, khác thường. Mỗi lần chiếc xe dừng nghỉ, nó lại bồn chồn đến hít chú bé sơ sinh được phủ kín trong tấm lông mèo rừng. Joan vội chạy ngay đến để dè chừng con vật, và vuốt vuốt cái đầu lông xám của nó. Thế là nó cảm thấy yên tâm, và trong thâm tâm nó cảm thấy vui vui một niềm hân hoan thầm kín. Điều quan trọng duy nhất mà Kazan hiểu được một cách rõ ràng, trong ngày đầu tiên ấy, là người thiếu phụ rất quí chú bé trong xe vì nàng luôn luôn nâng niu và ngọt ngào hỏi chuyện chú. Nó càng quan tâm thích thú chú bé bao nhiêu thì người thiếu phụ càng như bằng lòng sung sướng bấy nhiêu.
Tối đến, lều lại được dựng lên như thường lệ và cụ Pierre lại ngồi khá lâu bên đống lửa. Nhưng cụ không hút thuốc. Cụ nhìn đăm đăm vào ngọn lửa. Cuối cùng, lúc quyết định vào lều với Joan, cụ liền cúi xuống xem xét những vết thương của Kazan.
- Khá rồi con ạ, con đã khoẻ nhiều. Đến mai con phải quàng đai giúp ta. Chiều mai mình phải đến được sông. Nếu không…
Cụ không nói hết câu và cố nén cơn ho xé ngực, rồi bước vào lều.
Kazan nằm một mình, cảnh giác vểnh tai, mắt đầy lo ngại. Nó không muốn cụ Pierre chui vào lều. Vì hơn bao giờ hết, cái chết bí hiểm hình như đang lởn vởn quanh con người kia.
Đêm hôm ấy, ba lần nó nghe tiếng Sói Xám gọi và không thể nào không đáp lại. Như hôm qua vào lúc hừng đông, Sói Xám đã quay lại, đến gần chỗ cắm trại, Kazan giằng mãi dây và khóc lóc, hy vọng người bạn đường thương hại, đến nằm bên cạnh mình. Nhưng lúc này, trong lều cụ Pierre đã cựa quậy và lên tiếng, Sói Xám, đang định liều, vội chạy trốn mất.
Sáng hôm sau, mặt cụ già càng hóp sâu và đôi mắt càng đỏ ngầu. Ho có giảm phần dữ dội. Chỉ nghe như tiếng khò khè bên trong báo hiệu một sự tan rã của cơ thể. Và lúc nào cụ Pierre cũng đưa hai bàn tay lên ngực.
Tinh mơ, khi trông thấy bố, Joan tái cả mặt. Trong mắt nàng không phải lo lắng nữa mà là sự kinh hoàng. Nàng vội ôm choàng lấy cổ bố khiến cụ phải cười to và càng ho mạnh, để chứng tỏ là đôi lá phổi trong lồng ngực của mình còn tốt.
- Bố sắp khỏi rồi - cụ nói – con thấy đấy. Cảm đã qua. Nhưng con ạ, như bố con ta đều biết, sau đó bao giờ sức khoẻ cũng giảm sút nhiều và mắt cũng đỏ.
Ngày tiếp theo lạnh lẽo ảm đạm, gần như không có ánh sáng. Cụ Pierre và Kazan cùng kéo chung chiếc xe. Joan đi bộ bước theo sau, giẫm đúng lên dấu chân đi trước. Kazan cố hết sức kéo không nghỉ, và cụ Pierre không phải dùng đến roi da. Nhưng chốc chốc cụ lại thân ái vuốt chiếc găng một ngón lên đầu và lưng nó. Trời mỗi lúc một tối sầm, trên các ngọn cây tiếng rít vi vu báo hiệu sắp có bão.
Mặc trời tối, mặc bão tuyết đến gần, cụ Pierre vẫn không chịu dừng lại cắm lều.
- Bằng giá nào - cụ lẩm bẩm một mình – cũng phải đến được sông, đúng thế, bằng bất cứ giá nào…
Cụ thúc Kazan để nó nỗ lực cố gắng, còn cụ thì cảm thấy sức lực mình suy sụp dần dần dưới bộ đai cương.
Bão tuyết đã nổi lên khi cụ Pierre dừng lại vào lúc giữa trưa để đốt lửa cho tất cả sưởi ấm một tí. Từ trên trời, tuyết đổ xuống như một trận hồng thuỷ trắng dày đến mức cách năm mươi bước chẳng còn nhìn thấy gì nữa. Joan ngồi thu lu, run cầm cập, bên cạnh bố, hai tay ôm chặt lấy con. Để cho nàng vững dạ, cụ Pierre làm ra vẻ rất vui, cười cười nói nói. Nghỉ ngơi được một tiếng, cụ lại thắng đai cương vào Kazan và cũng lấy đai buộc quanh mình như nó, vì quàng vào ngực đau quá.
Trời gần như tối mịt, bốn bề vắng lặng như tờ, đoàn lữ khách, vẫn thất thểu trong rừng, tiến bước một cách khó nhọc. Cụ Pierre luôn luôn nhìn vào la bàn cầm tay.
Xế chiều đã lâu, cây cối thưa dần và một cánh đồng khác bỗng hiện ra phía dưới. Cụ Pierre mừng rỡ đưa ngón tay trỏ về phía ấy. Nhưng giọng cụ yếu đi và khản đặc, lúc cụ nói với Joan:
- Giờ thì ra có thể cắm trại lại đây, chờ cho tan cơn bão tuyết.
Cụ căng lều dưới một rặng thông um tùm cuối cùng rồi nhặt củi để đốt lửa. Joan phụ với bố. Ăn xong bữa ăn có thịt rán, bánh bít-cốt và đun cà phê uống,, Joan mệt lử nằm lăn ra trên lớp cành thông cùng với đứa con quấn chặt trong mấy cái chăn và da thú. Tối hôm ấy, nàng không đủ sức nói với Kazan vài lời âu yếm nữa.
Cụ Pierre vẫn ngồi trên xe một lúc nữa, im lặng thức canh chừng bên đống lửa, chợt đôi mắt tinh nhanh của Kazan trong thấy cụ rùng mình, rồi đứng lên đi về phía lều. Cụ vạch tấm vài lều ra, thò đầu và vai vào trong.
- Con ngủ đấy à, Joan?
- Chưa bố ạ … Nhưng cũng sắp … Bố sắp vào chứ?
- Ờ, bố hút xong điếu thuốc đã. Con thấy người có khoẻ không?
- Không sao … bố ạ. Chỉ nhọc quá thôi… và buồn ngủ lắm!
Cụ Pierre cười âu yếm, trong khi cổ họng ngứa quá thể.
- Joan này, nghe bố nói đây. Ta đã về gần đến nhà rồi. Con sông vùng ta, sông Hải Ly, chảy ở cuối cánh đồng trước mặt. Nếu bố có mệnh hệ nào, và nếu mai, bố giả dụ thế thôi, con chỉ còn lại một mình, thì con cứ đi thẳng là đến chòi nhà mình. Không hơn mười lăm dặm đâu. Con nghe rõ bố nói đấy chứ?
- Thưa bố vâng ạ… Nhưng bố vào ngủ đi, con van bố. Bố mệt lắm rồi… Bố cũng hơi ốm đấy.
- Bố kéo nốt tẩu thuốc – và cụ nhấn mạnh – Joan này, bố dặn con phải đặc biệt lưu ý đến những túi không khí, bên dưới tuyết ấy. Dưới đó hoàn toàn là chân không thôi. Chú ý một tí là đoán thấy dễ dàng. Chỗ nào có chúng thì màu tuyết trắng hơn những chỗ khác của băng, và nom nó lỗ chỗ như cao su xốp.
- Vâ…âng…
Cụ Pierre quay ra, đến bên đống lửa và Kazan
- Ngủ ngon, nhé con - cụ nói - Nằm bên con, bên cháu, ta thấy dễ chịu hơn. Thôi còn một ngày nữa. Mười lăm dặm nữa…
Kazan thấy cụ chui vào lều. Nó lồng lộn giật thật mạnh sợi xích, đến nỗi tắc cả thở. Chân nó, lưng nó co dúm cả lại. Trong lều có Joan và chú bé. Nó biết cụ Pierre không làm gì hại đến hai mẹ con nàng. Nhưng nó cũng biết là cùng với cụ, một cái gì thảm khốc và không tránh khỏi đang ở bên cạnh mẹ con nàng. Nó chỉ muốn cụ già cứ ở bên đống lửa. Như thế, nó có thể nằm dài trên tuyết vừa ngủ yên, vừa quan sát cụ.
Trong lều im phăng phắc.
Tiếng Sói Xám lại vẳng lên, gần hơn hôm qua. Hơn cả những đêm khác, Kazan chỉ những ước ao có Sói Xám nằm bên cạnh mình. Nhưng nó cố im tiếng, không đáp lại. Nó không dám phá tan cái không khí tĩnh mịch trong lều. Rã rời và đau như dần vì chặng đường trong ngày, với những vết thương tái phát, nó nằm xoài trên tuyết khá lâu mà không buồn ngủ.
Quãng nửa đêm, ngọn lửa tắt. Trên các ngọn cây, gió đã lặng. Những đám mây mờ đục vẫn che kín bầu trời, cuộn thành những mớ dầy, như một tấm màn màu kim khí mờ nhạt. Xa xa, phía chòm sao thất tinh, vẳng đến một tiếng sắc nhọn, đơn điệu y hệt tiếng một điệu nhạc trời huyền bí, du dương của bình minh Bắc cực. Đồng thời rét buốt hơn và nhiệt kế không ngừng tụt xuống rất nhanh. Đêm hôm ấy Sói Xám, không chỉ dựa vào khứu giác, đã táo bạo lần mò như một cái bóng theo vết chiếc xe.
Và giọng Sói Xám lại vọng đến tai Kazan.
Sói Xám đã dừng lại, cứng đờ và run rẩy, bốn chân run bần bật, gửi qua khọng trung cái tin thảm khốc. Nhận được tin, lập tức Kazan cũng cất tiếng tru lên như một con chó rừng miền bắc, trước chiều lều thổ dân da đỏ, nơi chủ chúng vừa hắt hơi thở cuối cùng.
Cụ Pierre Radisson đã giã biệt cõi trần.
Kazan (Ca Dăng) Kazan (Ca Dăng) - James Oliver Curwood Kazan (Ca Dăng)