Nguyên tác: The Cat Who Went To Heaven
Số lần đọc/download: 1266 / 21
Cập nhật: 2017-05-20 08:49:25 +0700
7
T
rong những ngày sau đó chàng họa sĩ vẽ những vị thần khác nhau trên trái đất và các vị thần trên trời và những đệ tử đến tiễn biệt Đức Phật. Có lúc chàng vẽ thật dễ dàng, có lúc thật khó khăn; có lúc chàng họa sĩ hài lòng với những gì chàng đã vẽ, có lúc chàng khinh ghét nó. Lẽ ra chàng đã gầy đi rất nhiều nếu như bà lão giúp việc không dỗ dành chàng vào những lúc sáng sớm và chiều tối, khi thì một chén canh, khi thì một chiếc bánh xếp nóng. May đi lại trong nhà rất khẽ, bộ ria mép của nó rung rung vì hân hoan. Những ngày này cô mèo cũng được ăn uống đầy đủ. Bộ lông của nó sáng mượt như lụa. Hai hàng ria nhỏ của nó phản chiếu lóng lánh. Bất cứ khi nào bà giúp việc quay lưng đi là nó lao nhanh vào phòng để xem chàng họa sĩ cùng với cây cọ vẽ và bức tranh đầy bí ẩn.
“Nó làm tôi lo lắng, thưa cậu chủ,” bà lão giúp việc nói, khi bà thấy cô mèo ngồi yên vị ngay sau ống tay áo chàng họa sĩ lần thứ hai mươi trong ngày. “Nó không giống một con mèo chút nào. Nó không nghịch phá mấy cây cọ vẽ, điều đó thì tôi có thể hiểu. Vào ban đêm tôi nhớ lại tất cả những gì cậu nói khi tôi mang nó về nhà trong chiếc giỏ. Nếu đúng nó là một con mèo độc ác và làm hỏng bức tranh của cậu, thì tôi thật không còn mặt mũi nào nhìn cậu.”
Chàng họa sĩ lắc đầu. Một ý tưởng mới vừa xuất hiện và đầu óc chàng quá bận tâm suy nghĩ nên không thể nói chuyện được.
“May sẽ không gây ra rắc rối gì,” chàng lầm bầm trong miệng trước khi chàng quên khuấy tất cả mọi chuyện, bà lão, con mèo và ngay cả bàn tay đang cầm cọ của chính mình.
“Tôi thật sự hy vọng là như vậy,” bà giúp việc lo lắng nói. Bà ôm May lên, giờ đây cô mèo đã được mang một yếm hoa quanh cổ bằng một sợi dây lụa đỏ và trông như một con mèo quý phái. Phải mất ít nhất nửa tiếng May mới có thể thoát ra khỏi nhà bếp. Nó thấy cậu chủ của mình vẫn đang còn trầm ngâm suy tư, và đến ngồi sau lưng chàng họa sĩ như mội điểm sáng dưới hình bóng của chàng. Sau khi đã vẽ xong các vị thần và con người, chàng họa sĩ sắp sửa bắt đầu vẽ những con vật đã đến chào tạm biệt Đức Phật truớc khi ngài nhập Niết bàn. Chàng đang suy nghĩ xem con vật nào phải được vẽ trước - có lẽ con voi trắng, vì nó là biểu tượng của con vật vĩ đại nhất trong những loài thú, và là một biểu tượng của Đức Phật; có lẽ là con ngựa đã phục vụ ngài hay con sư tử, bởi vì những tín đồ đi theo ngài đôi khi gọi Đức Phật là sư tử giữa nhân loại. Lúc này chàng họa sĩ nghĩ đến việc Đức Phật yêu thương những con vật nhỏ bé, khiêm nhường như thế nào và chàng nhớ đến một câu chuyện.
Có một lần Đức Phật đang ngồi thiền định dưới một gốc cây, trên đầu là tán lá cây che bớt ánh mặt trời chói chang. Trong khi Người ngồi như vậy hàng mấy giờ liền, bóng râm của cây dần dần dịch chuyển ra xa và ánh nắng đổ lửa chiếu thẳng xuống chiếc đầu trần của ngài. Vì đang tập trung suy nghĩ về những vấn đề quan trọng nên Đức Phật chẳng để ý, nhưng những con sên nhỏ bé nhìn thấy và chúng lo lắng cho sức khỏe của ngài. Chúng bò ra khỏi bóng râm mát mẻ của mình, và tập họp lại thành một vòng tròn trên đầu ngài, dùng thần xác chúng để che chở cho ngài cho đến khi mặt trời khuất hẳn.
Chàng họa sĩ nghĩ, “Loài sên là loài vật đầu tiên hy sinh thân mình cho Đức Phật. Vì vậy vẽ chúng vào trong tranh trước là hoàn toàn thích hợp.”
Thế là, sau khi suy nghĩ về những con sên mà chàng đã từng thấy trong những lần đi dạo, chiếc vỏ ốc chúng đeo trên lưng, và những chiếc tua nhỏ phía trước, thân mình của chúng trông như một chiếc lá ướt màu nhạt, và sống đời nhút nhát nhưng cần mẫn của chúng, chàng nhúng cây cọ vẽ vào nước suối, quẹt mực, và vẽ hình một con ốc sên.
May bước ra khói bóng chàng họa sĩ để nhìn hình con sên. Hàng ria của nó dựng đứng lên, nó đưa một móng chân lên như thể để vuốt ria, và đưa mắt nhìn chàng họa sĩ.
“Tôi chỉ đùa giỡn thôi, cậu chủ,” dường như nó muốn nói, “con sên đó trông cứ như thật.”
Rồi chàng họa lại ngồi xuống chiếu và nghiền ngẫm về loài voi. Chàng nghĩ đến kích thước và sức mạnh khổng lồ của loài voi và sự thông minh của chúng. Bản thân chàng chưa từng thấy một con voi, nhưng chàng đã được thấy những bức tranh voi do những họa sĩ Trung Quốc vẽ cách đây rất lâu, và giờ đây chàng nghĩ đến một con voi trắng đường bệ, với đôi mắt nhỏ hiền từ và cặp tai dài với vành tai màu hồng. Chàng nhớ rằng voi là một linh vật, và là biểu tượng của hoàng gia ở Ấn Độ. Chàng nghĩ đến câu chuyện mẹ của Đức Phật đã nằm mơ thấy một con voi trước khi sinh ngài.
Kế đến chàng nghĩ đến những chuyện còn kỳ lạ hơn nữa. Bởi vì trước khi Đức Phật đầu thai xuống trái đất làm hoàng tử Siddhartha, những tín đồ của ngài tin rằng ngài đã đầu thai vào đủ mọi hình hài khác nhau, và luôn thực hành từ bi và giảng dạy cho mọi người xung quanh. Chàng họa sĩ nhớ đến câu chuyện Đức Phật đã từng được sinh ra dưới hình hài một con voi, sống trên một rặng núi nhìn xuống sa mạc. Một hồ nước điểm đầy hoa sen là nguồn nước uống của voi và những cành cây trĩu nặng trái nghiêng mình trước nó. Nhưng một ngày nọ từ bãi cỏ trên cao, con voi nhìn thấy một nhóm đông người đi dưới sa mạc. Họ bước đi chậm chạp. Thỉnh thoảng một người lại té ngã và những người khác phải dừng lại để nâng anh ta đứng dậy. Tiếng than khóc và tuyệt vọng yếu ớt của họ vọng đến tai voi. Con voi vĩ đại động lòng trắc ẩn. Nó đi xuống vùng đất cát nóng như đốt của sa mạc đế gặp họ.
Đối với nhóm người lữ hành, sự xuất hiện của con voi dường như chỉ làm họ thêm sợ hãi, nhưng con voi trấn an họ bằng giọng nói của người. Họ kể cho con voi nghe rằng họ là những người chạy nạn bị một nhà vua xua đuổi ra ngoài vùng đất hoang vu để chết dần chết mòn. Nhiều người trong đoàn đã gục ngã mà không bao giờ đứng dậy được nữa.
Con voi nhìn họ. Họ đã yếu sức. Không có thực phẩm và nước họ sẽ chẳng bao giờ có thể băng qua được dãy núi để đến được vùng đất màu mỡ, an toàn phía bên kia núi. Nó có thể dẫn họ đến chỗ hồ nước của nó, nhưng họ không có đủ sức để hái được đủ nhiều trái cây để ăn. Mà họ thì cần có thức ăn để hồi phục sức lực ngay lập tức.
“Hãy can đảm,” con voi nói với họ, “đi về phía đó các bạn sẽ tìm thấy một hồ nước trong vắt [hỡi ôi! chính là hồ nước bình yên, quý báu của nó] và xa hơn một chút là một vách núi, ở dưới chân núi các bạn sẽ tìm thấy xác của một con voi vừa rớt xuống gần đây. Hãy ăn thịt voi và các bạn sẽ có đủ sức để đến được vùng đất bên kia núi.”
Nói rồi con voi chào họ và băng qua cát nóng để quay lại chỗ cũ. Trước khi bàn chân mệt mỏi của đoàn người đưa họ đến chỗ hồ nước và vách núi, con voi đã ném mình xuống dưới vực. Nó rơi xuống, tỏa sáng như một vầng trăng lớn đang lặn giữa những đám mây, và cây cối trong rừng phủ lên thân mình nó đầy hoa.
Thế là chàng họa sĩ dành một khoảng thời gian dài để nghĩ về trí thông minh, phẩm giá và sự tốt bụng của loài voi. Rồi chàng nhúng cây cọ vẽ vào nước suối, quẹt mực, và vẽ hình một con voi.
Ngay khi hình voi được vẽ xong, May liền bước ra khỏi bóng chàng họa sĩ và tròn xoe mắt nhìn con vật to lớn trên tấm lụa trắng. Rồi nó đưa mắt nhìn chàng họa sĩ. “Tôi không biết con vật này là con gì, thưa cậu chủ,” duờng như nó muốn nói, “nhưng chắc chắn là toàn thân tôi, từ đầu đến đuôi, tràn đầy sự kính trọng và sợ hãi.”
Rồi chàng họa sĩ lại ngồi xuống chiếu và suy nghĩ. Lần này chàng nghĩ về loài ngựa. Mặc dù chàng chưa bao giờ cưỡi chúng, nhưng chàng vẫn thường ngắm nhìn và khâm phục dáng điệu quý phái, đôi mắt sáng và chiếc cổ cong của chúng. Chàng thích cách chúng vẫy đuôi như vẫy cờ, và ngay cả trong chiến trận chúng cũng vẫn thận trọng trong từng bước chân để không làm bị thương bất kỳ ai đã ngã xuống. Chàng nghĩ về con Kanthaka của Siddhartha, lông trắng như tuyết, với bộ yên cương nạm đầy châu báu. Chàng nghĩ đến việc nó ngoan ngoãn và hoang dã như thế nào, đến việc nó đã đua tài cùng những con ngựa của các hoàng tử khác và đã đánh bại chúng, giúp hoàng tử chiếm được trái tim của công chúa Yosadhara. Rồi chàng tưởng tượng con Kanthaka trở về cung điện một mình không có chủ nhân, chiếc đầu đẹp đẽ của nó rũ xuống, vói bộ quần áo của Siddhartha buộc vào yên cương.
Kế đến chàng họa sĩ nhớ đến câu chuyện Đức Phật được sinh ra dưới hình hài một con ngựa, tuy nhỏ nhưng tràn đầy chí khí dũng mãnh nên đã được nhà vua xứ Benares chọn làm con chiến mã của ngài. Bảy nhà vua các nước khác dẫn binh mã đến chinh phục xứ Benares và dựng doanh trại vây quanh thành. Hiệp sĩ đứng đầu đội quân bị bao vây được nhà vua trao cho con chiến mã của mình để cưỡi và tấn công bất ngờ vào doanh trại quân địch, bắt sống từng vị vua một làm tù binh, sáu người tất cả. Trong khi bắt sống nhà vua thứ sáu thì con ngựa bị thương nặng. Vì thế chàng hiệp sĩ cưỡi bộ áo giáp của nó để khoác cho một con ngựa khác, chuẩn bị cho trận chiến thứ bảy cuối cùng.
Nhưng con chiến mã lên tiếng nói.
“Sứ mệnh của chúng ta sẽ thất bại,” nó nói lớn. “Một con ngựa khác không thể gây bất ngờ cho doanh trại địch. Hãy giúp tôi đứng dậy, thưa ngài; khoác lên mình tôi bộ giáp một lần nữa. Tôi sẽ hoàn tất những gì tôi đã bắt đầu!”
Mặc dù đã yếu sức vì bị mất nhiều máu, nhưng nó vẫn lao thẳng vào doanh trại thứ bảy như một con chim ưng lao xuống vồ mồi, và nhà vua thứ bảy cũng bị bắt sống. Nhà vua xứ Benares vui mừng ra đón họ tại cổng cung điện.
“Nhà vua vĩ đại,” con ngựa chiến nói “hãy tha mạng cho những tù binh của ngài!” Và rồi, trước khi những người hầu có thế tháo bỏ bộ áo giáp cho nó, con ngựa gục ngã chết ngay giây phút chiến thắng, dưới chân chủ nhân của mình.
Thế là sau khi suy nghĩ kỹ về lòng can đảm và sự cao quý của loài ngựa, chàng họa sĩ nhúng cây cọ vẽ vào nước suối, quẹt mực, và vẽ hình một con ngựa. Con ngựa vừa được vẽ xong thì May bước ra khỏi bóng chàng họa sĩ và xem xét bức hình một hồi lâu. Cô mèo đưa mắt nhìn chàng họa sĩ đầy ngưỡng mộ.
“Nếu một con ruồi đến đậu trên hình con ngựa của câu chủ,” dường như nó muốn nói, ‘chắc chắn con ngựa sẽ dậm vó chân và hất đầu. ”