Tôi không thể cho bạn một công thức thành công, nhưng tôi có thể cho bạn một công thức cho sự thất bại, đó là: cố gắng làm vừa lòng mọi người.

Herbert Bayard Swope

 
 
 
 
 
Tác giả: Tobias Wolff
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 22
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1271 / 36
Cập nhật: 2017-08-29 15:44:10 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Giữa Sa Mạc, 1968
rystal đang ngủ khi họ ra khỏi địa phận bang Colorado. Mark đã hứa sẽ dừng xe để chụp mấy tấm ảnh nhưng vào lúc đó, anh chỉ nhìn cô rồi lái tiếp. Mặt Krystal đã phù lên vì cái nóng trong xe. Tóc cô – đã được cắt ngắn cho mùa hè – rủ ướt trên trán, chỉ có một vài lọn là bị gió thổi phơ phất. Hai tay cô khoanh lại trên bụng và vì thế mà trông cô càng có vẻ bụng mang dạ chửa.
Lốp xe nghiến ken két trên những vỉ kim loại lát sàn cầu. Dòng sông trải dài ở hai bên cầu với một màu xanh giống với màu trời. Mark nhìn thấy bóng cây cầu trên dòng nước với những chiếc xe chạy xuyên qua những rầm cầu và mặt nước lấp lánh phía dưới sàn cầu. Rồi sau đó, lốp xe yên lặng. California rồi – Mark nghĩ – và trong một lúc lâu, anh cảm thấy hài lòng đúng như anh đã mường tượng.
Nhưng cảm giác đó nhanh chóng biến mất. Anh đã không giữ lời hứa và anh chắc chắn sẽ phải nghe những lời phàn nàn khi Krystal thức dậy. Anh suýt quay xe lại. Nhưng rồi anh không muốn phải dừng xe, bế thằng Hans lên vai và nhìn Krystal chĩa máy ảnh vào anh một lần nữa. Cho đến lúc này, Krystal đã có hàng trăm bức ảnh của anh, của anh với Hans trên vai, đứng trước các rặng núi, các thác nước, các thân cây nổi tiếng và đứng trước ba cái ô tô mà họ đã sở hữu kể từ lúc về Mỹ.
Mark không ăn ảnh. Anh luôn luôn trông rầu rĩ trong các bức ảnh. Nhưng đấy là một ấn tượng sai lầm. Một trung sĩ trong trung đội cũ của Mark đã mô tả về anh như thế này – và anh thích cách mô tả đó: “tự do, da trắng, 21 tuổi”. Mark chính xác là như thế. Mọi thứ đều còn ở phía trước với anh. Anh chỉ cần một cơ hội.
Hai con diều hâu đang lượn trên đầu, đổ những cái bóng khổng lồ trên mặt cát bị hun nóng. Một cái “vòi rồng” cát nhỏ chạy ngang qua mặt đường và biến mất sau một tấm pa-nô. Tấm pa-nô có hình của Eugene McCarthy với mái tóc bay quanh hàm râu quai nón. McCarthy đang cười to; bên dưới là dòng chữ “Một hơi thở mới”. Rõ ràng đây là California bởi vì ở Arizona thì một tấm biển quảng cáo có hình McCarthy sẽ không đứng vững quá 5 phút. Tấm biển này cũng có vài viên đạn bắn xuyên qua, nhưng ở Arizona, chắc chắn là người ta đã đốt cháy nó hoặc cho nó nổ tung. Dân Arizona lạc hậu kinh người.
Ở phía xa, những ngọn núi trơ trụi và có một màu xanh da trời. Mark vượt qua tấm biển chỉ đường vào một thị trấn có tên Blythe. Anh nghĩ đến việc dừng xe đổ xăng nhưng xe vẫn còn nửa bình và anh không muốn đánh thức Krystal hay Hans dậy. Anh tiếp tục lái xe vào sa mạc.
Họ sẽ tới Los Angeles vào trước bữa tối. Mark có một chiến hữu sống ở đó và anh ta đã đồng ý cho họ ở nhờ bao lâu tùy ý. Bạn anh nói, nhà rất rộng. Anh ta đang trông nhà cho bố mẹ trong lúc họ suy nghĩ xem có nên li dị hay không.
Mark chắc chắn anh sẽ tìm thấy công việc gì đó thú vị ở Los Angeles. Một việc gì đó trong ngành giải trí. Anh đã tham gia nhiều vở kịch hồi còn học trung học và hát cũng tương đối tốt. Nhưng tài năng lớn nhất của anh là giả giọng người khác. Anh có thể giả giọng bất cứ ai. Ở Đức, anh đã giả giọng một người miền Nam trong đại đội của anh chính xác đến nỗi sau một vài tuần, người kia đã xin chuyển sang đơn vị khác. Mark biết là anh đã đi quá đà. Anh dừng lại và sau đó người kia cũng rút đơn xin chuyển.
Anh giả giọng bố anh, Dutch, là giống nhất. Đôi khi, chỉ để cho vui, Mark gọi mẹ anh và nói chuyện với bà bằng cái giọng chậm rãi, nặng nề của bố anh; ông lúc nào cũng kéo dài các từ, như xe kéo hàng vậy. Lần nào mẹ anh cũng mắc lừa. Mark cứ tiếp tục cho đến lúc anh chán và sẽ đột ngột nói câu gì đó đại loại như “Mà này, Dottie, chúng ta phá sản rồi”. Thế là mẹ anh nhận ra và phá lên cười. Không như bố anh, mẹ anh là người biết đùa.
Một chiếc xe tải vụt qua. Tiếng động cơ đánh thức Hans dậy nhưng Mark ngoái ra phía sau, lấy mép tấm chăn sa-tanh vuốt vuốt lên má thằng bé. Hans đút ngón tay vào miệng; rồi nó quay mông ra ngoài và tiếp tục ngủ.
Mặt đường rung rinh hơi nóng. Cứ như thể con đường đang bập bềnh trên mặt sa mạc. Mark hát theo radio; anh đã vặn nó to lên kể từ khi tín hiệu sóng cứ yếu dần. Thế rồi radio đột nhiên ré lên. Anh vội vặn nó nhỏ xuống nhưng quá muộn. Hans đã thức dậy và bắt đầu ọ ẹ. Mark lại vuốt má thằng bé bằng tấm chăn. Hans đẩy tay Mark ra, nói “Không!” Đấy là từ duy nhất mà thằng bé biết. Mark liếc ra phía ra. Hans đã ngủ úp mặt trên một cái ô tô đồ chơi và những bánh xe đã để lại bốn vết hằn đỏ trên mặt thằng bé. Mark vuốt má Hans. “Sắp rồi”, anh nói. “sắp rồi, Hans ạ”. Anh không có ý gì cả, anh chỉ muốn ra vẻ vui vẻ.
Krystal cũng đã thức giấc. Trong một lúc, cô không cử động cũng không nói gì. Rồi cô lắc lắc đầu. “Nóng quá”, Krystal. Cô cầm cái đồng hồ đeo ở cổ lên rồi nhìn Mark. Anh vẫn nhìn thẳng xuống mặt đường phía trước. “Dậy rồi hả?”, anh nói. “Khiếp, em ngủ như chết”.
“Chụp ảnh”, Krystal nói. “Mark, ảnh!”
“Chẳng có chỗ nào để dừng lại cả”, anh nói.
“Nhưng anh đã hứa với em”.
Mark nhìn Krystal rồi nhìn ngược lại con đường. “Anh xin lỗi”, anh nói. “vẫn còn đầy sông mà”.
“Nhưng em muốn cái sông đó”, Krystal nói và quay mặt đi. Mark biết là vợ anh sắp khóc. Anh thấy mệt mỏi. “Được rồi”, anh nói. “Em có muốn anh quay lại không?” Anh giảm tốc độ để ra ý anh thực sự sẵn sàng quay lại. “Nếu em muốn thế thì em chỉ cần bảo anh”.
Krystal lắc đầu.
Mark tăng ga.
Hans đã bắt đầu đạp lưng ghế. Mark không nói gì. Ít nhất trò đó cũng làm Hans yên lặng được một lúc. “Nghe này hai mẹ con”, Mark nói. “Bố cá 10 đô là chúng ta đến bể bơi của chú Rick trước sáu giờ”. Hans đá mạnh vào lưng ghế và anh có thể cảm thấy cú đá ở xương sườn. “10 đô!” Mark nói. “Có ai cá không?” Anh liếc nhìn Krystal; hai môi cô đang run run. Anh vỗ vỗ vào lưng ghế của vợ ở cạnh. Cô ngập ngừng, rồi ngả đầu vào anh, như anh đã đoán trước. Krystal không bao giờ thù dai. Anh khoác tay qua vai vợ.
“Sa mạc rộng quá”, Krystal nói.
“Ừ”.
“Chẳng có cây cối gì cả. Em chẳng bao giờ tưởng tượng nó thế này”.
Hans đã dừng đá để túm tai Mark. Krystal cười và kéo Hans từ trong ghế sau lên lòng cô. Thằng bé lập tức cong người tuồn xuống sàn xe và bắt đầu nghịch cái cần số.
“Em phải đi rồi”, Krystal nói. Cô vỗ vỗ vào bụng. “Em bé có vẻ rất thích ngồi đè lên bàng quang của em”.
Mark gật đầu. Krystal biết cách mô tả cái mà mẹ anh hay gọi là “máy bơm” và khi cô có bầu, cô thích mô tả tỉ mỉ cho Mark nghe những gì đang xảy ra bên trong. Điều này làm Mark thấp thỏm.
“Đợi đến trạm xăng tới”, anh nói. “Xăng cũng sắp hết rồi”.
Mark rẽ vào một lối ra khỏi xa lộ có tấm biển “Có xăng”. Không thấy nói đến việc có thị trấn nào ở quanh hay không. Con đường hướng về phía bắc qua một vùng đất trắng khô, nứt nẻ. Có vẻ như con đường sẽ dẫn họ tới một ngọn núi cô độc ở phía xa – một ngọn núi làm Mark nghĩ đến một con tàu khổng lồ đang chìm. Mặt nước giả tưởng lóng lánh trên sa mạc. Những con thỏ nhảy qua nhảy lại trên mặt đường. Cuối cùng, họ đến trạm xăng – một tòa nhà xi măng không vôi ve với một vài chiếc xe tải nhỏ đỗ phía trước.
Bốn người đàn ông ngồi trên một cái ghế trong bóng mát căn nhà. Họ theo dõi xe của Mark tạt vào.
“Cao bồi”, Krystal nói. “Nhìn kìa Hans, cao bồi kìa”.
Hans đứng lên trên hai chân Krystal và nhìn qua cửa sổ.
Krystal nghĩ tất cả những ai đội mũ cao bồi đều là cao bồi thật. Mark đã cố giải thích cho vợ anh hiểu rằng cái mũ chỉ là chuyện ăn mặc, nhưng vợ anh nhất quyết không chịu hiểu. Anh dừng xe ở một trụ xăng rồi tắt máy.
Những người đàn ông nhìn họ chằm chằm; khuôn mặt họ khuất dưới vành mũ rộng. Trông họ như thể đã ngồi đấy từ rất lâu rồi. Một người đứng dậy khỏi ghế và tiến về phía Mark. Anh ta cao và có một cái bụng không hề hợp với khổ người xương xương của anh ta. Anh ta cúi người xuống nhìn vào trong xe. Anh ta có một đôi mắt đen nhỏ và không có lông mày. Khuôn mặt anh ta đỏ như thể anh ta đang tức giận một điều gì đó.
“Xăng thường”, Mark nói. “Đổ đầy bình cho tôi”.
Người đàn ông nhìn chằm chằm vào bụng Krystal một cách không giấu diếm. Anh ta đứng thẳng người lên rồi bước ngang qua chỗ mấy người đàn ông về phía cửa vào tòa nhà. Anh ta thò đầu vào trong kêu to. Rồi anh ta lại ngồi xuống ghế. Người đàn ông cạnh anh ta lẩm bẩm gì đó. Những người còn lại phá lên cười.
Một người đội mũ cao bồi khác từ trong căn nhà đi ra và vòng tới phía sau xe của Mark.
“Mark!”, Krystal gọi.
“Anh biết rồi”, Mark nói. “Nhà vệ sinh”. Khi anh ra khỏi xe, cái nóng làm anh ngạc nhiên; hơi nóng ập xuống người anh như mưa.
Người bơm xăng nói, “Anh có cần tra dầu hay gì khác không?” và lúc đó Mark mới nhận ra đó là một người đàn bà. Chị ta nhìn xuống cái vòi bơm nên Mark không nhìn được mặt chị ta, chỉ thấy chỏm mũ. Hai tay chị ta đen dầu mỡ. “Vợ tôi muốn dùng nhà vệ sinh”, Mark nói.
Người đàn bà gật đầu. Khi bình xăng đã đầy, chị ta đập vào nóc xe. “Được rồi”, chị ta nói và đi về phía tòa nhà.
Krystal mở cửa xe, đẩy hai chân ra rồi nhổm mạnh người về phía trước để đứng dậy trong ánh nắng. Cô đứng đó một lúc, chớp chớp mắt. Bốn người đàn ông nhìn cô. Mark cũng nhìn. Anh biết là vợ anh đang có bầu nhưng trông cô vẫn quá béo. Hai cánh tay trần của Krystal đỏ lên vì cái nóng. Mặt cô cũng vậy. Trông cô giống như một cô phục vụ bia tươi ở quán Biergarten mà họ thường tới uống. Anh ước gì những người đàn ông kia đã thấy cô khi cô mặc cái váy đen, xõa mái tóc dài, hồi mà họ mới quen nhau.
Krystal lấy một tay che mắt khỏi nắng. Cô lấy tay kia kéo cái áo khỏi dính vào người. “Lại sa mạc”, cô nói. Cô nhấc Hans ra khỏi xe và bế thằng bé về phía tòa nhà nhưng thằng bé vùng được ra và chạy về phía cái ghế dài. Nó đứng lại trước mặt những người đàn ông, chỉ mặc mỗi cái bỉm trên người.
“Lại đây con” Krystal nói. Khi thằng bé không làm theo, cô bắt đầu bước về phía nó, rồi cô nhìn mấy người đàn ông và dừng lại.
Mark bước tới. “Đi nào Hans”, anh nói và nhấc thằng bé lên, đồng thời cảm thấy sự dịu dàng bất thần của mình tan biến khi thằng bé bắt đầu giãy dụa.
Người đàn bà dẫn Krystal và Hans vào trong tòa nhà, rồi trở ra và đứng cạnh đống củi vụn cạnh cửa ra vào. “Hans”, chị ta nói. “tên nghe lạ nhỉ”.
“Đấy là tên bố vợ tôi”, Mark nói, và đúng là như thế. Bố vợ anh đã chết ngay trước khi thằng bé ra đời; nếu không Mark không đời nào đồng ý cái tên đó. Ngay cả người Đức cũng không còn đặt tên con là Hans nữa.
Một người đàn ông gẩy mẩu thuốc lá về phía ô tô của Mark. Nó rơi ngay gần xe và cứ nằm đó, vẫn còn đang cháy. Mark coi đấy là một lời phán xét về cái xe. Cái xe còn tốt, một chiếc Bonneville đời 1958 mà anh đã mua cách đây hai tuần, sau khi chiếc Ford bắt đầu bốc khói động cơ. Cái xe cũ nhưng người chủ cũ đã lau chùi nó rất nhiều nên bây giờ trông nó sáng loáng khắp nơi. Chiếc xe trông ngớ ngẩn bên cạnh những chiếc xe bán tải móp méo đã tróc sơn và có cả giá để súng săn. Mark ước gì anh đã đổ xăng ở Blythe.
Krystal bước ra khỏi tòa nhà, bế theo Hans. Cô đã chải đầu và trông tươm tất hơn.
Mark mỉm cười với vợ. “Xong rồi chứ?”
Krystal gật đầu. “Cảm ơn chị”, cô nói với người phụ nữ.
Mark cũng muốn đi vệ sinh nhưng anh muốn rời khỏi đây. Anh nổ máy xe, Krystal ngồi sau. Cô cười sâu trong cổ họng. “Giá mà anh nhìn thấy”, cô nói. “Họ có một cái xe máy trong phòng ngủ”. Krystal hẳn nghĩ cô đang nói thầm nhưng với Mark, mỗi lời nói của vợ anh nghe như một tiếng gào. Anh không nói gì. Anh chỉnh lại tấm che nắng trong lúc Krystal đặt Hans vào băng sau. “Chờ em đã”, Krystal nói và ra khỏi xe. Tay vợ anh cầm theo máy ảnh.
“Krystal”, Mark nói.
Krystal chĩa máy ảnh về phía bốn người đàn ông. Khi cô bấm máy, đầu họ giật một cái. Krystal gẩy phim lên rồi lại ngắm.
“Krystal, vào xe đi!”
“Rồi, rồi”, Krystal nói nhưng cô vẫn chĩa máy, người ngả vào cửa xe, đầu gối hơi chùng xuống. Cô chụp một tấm nữa rồi tuồn vào trong xe. “Được rồi”, cô nói. “Cao bồi cho Reiner”.
Reiner là em trai Krystal. Có lần cậu ta đã lái xe 60 dặm để xem phim Shane.
Mark không dám nhìn về phía băng ghế. Anh tra chìa khóa vào ổ khóa và liếc con đường. Anh vặn chìa khóa. Xe không nổ.
Mark chờ một giây. Rồi anh thử lại lần nữa. Xe vẫn không nổ. Ổ khóa điện kêu tích tích tích nhưng chỉ có thế. Mark tắt máy, ba người ngồi lặng đi. Ngay cả Hans cũng yên lặng. Mark cảm thấy những người đàn ông đang quan sát anh. Đó là lý do tại sao anh không đập đầu vào vô lăng. Anh nhìn thẳng ra phía trước, giận điên người khi thấy nước mắt đang ngân ngấn dâng lên, làm mờ đường chân trời, tòa nhà, hình dạng những chiếc xe tải và cả dáng cái người đang tiến về phía xe của họ.
Chính là người đàn bà lúc nãy. Chị ta cúi người xuống. “Sao thế?” chị ta nói. “Có chuyện gì à?” Chị ta phả hơi rượu whiskey vào đầy xe.
Trong gần nửa tiếng đổng hồ, người đàn bà xem xét động cơ xe. Chị ta yêu cầu Mark bật khóa điện trong lúc chị ta nhìn, rồi bật thêm nhiều lần trong lúc chị ta làm gì đó dưới nắp máy. Cuối cùng, chị ta kết luận rằng vấn đề nằm ở đi-na-mô. Chị ta không thể sửa được đi-na-mô và cũng không có phụ tùng thay thế. Mark sẽ phải mua một cái ở Indio hay Blythe mà cũng có thể là ở tận Palm Springs. Tìm đi-na-mô cho đúng loại xe đã cũ đến 10 năm thế này không dễ. Nhưng chị ta nói chị ta có thể gọi điện hỏi hộ.
Mark ngồi chờ trong xe. Anh cố gắng làm ra vẻ như mọi chuyện đều ổn nhưng khi Krystal nhìn anh, cô tắc lưỡi thông cảm và bóp cánh tay anh. Hans đang ngủ trong lòng Krystal. “Mọi việc sẽ ổn thôi”, Krystal nói.
Mark gật đầu.
Người đàn bà quay lại xe và Mark bước ra ngoài để gặp chị ta.
“Anh may đấy”, chị ta nói và đưa cho anh một mẩu giấy trên đó có một dòng địa chỉ. “Ở Indio không có nhưng mà người này ở Blythe có thể giúp anh. Anh phải trả hai đôla cho cú điện thoại”.
Mark mở ví lấy tiền trả cho người đàn bà. Anh còn sáu mươi lăm đô – đấy là toàn bộ số tiền còn lại từ khoản tiền giải ngũ. “Một cái đi-na-mô bao nhiêu tiền?”, anh hỏi.
Chị ta đóng nắp máy xe lại. “Năm mươi sáu đô, tôi nghĩ thế”.
“Lạy Chúa!” Mark nói.
“Họ có cái cho anh thay là còn may chán rồi”.
“Tôi nghĩ thế’, Mark nói. “Nhưng mà có vẻ quá đắt. Chị có thể nối điện cho xe tôi được không?”
“Nếu anh có cáp. Dây của tôi cho mượn mất rồi”.
“Tôi không có”, Mark nói. Anh nheo mắt nhìn mặt trời. Mặc dù anh không nhìn thẳng vào những người đàn ông ngồi trên ghế, anh biết họ vẫn đang theo dõi anh và anh biết chắc họ đã nghe được toàn bộ câu chuyện. Anh cũng chắc chắn họ có dây cáp trong xe. Những người lái xe tải luôn mang theo mấy thứ đồ đó. Nhưng nếu họ đã không muốn giúp thì anh cũng sẽ không hỏi.
“Tôi đoán là tôi có thể đi bộ ra xa lộ rồi đi nhờ xe ai đó”, Mark nói to hơn anh dự định.
“Nếu anh muốn”, người đàn bà nói.
Mark ngoái nhìn Krystal. “Vợ tôi ở đây có được không?”
“Thì chắc cô ấy phải ở lại thôi”, người đàn bà nói. Chị ta bỏ mũ ra mà lấy ống tay áo gạt ngang lông mày. Tóc chị ta thuần một màu vàng, được buộc lại lỏng lẻo và lấp loáng dưới nắng. Mắt chị ta có một màu xanh nhạt lạ lùng. Chị ta đội lại mũ lên đầu và chỉ cho Mark đường tới cửa hàng bán đồ. Chị ta yêu cầu anh nhắc lại đường đi. Rồi anh quay lại xe.
Krystal nhìn thẳng về phía trước và cắn môi khi Mark giải thích tình hình. “Ở đây á”, vợ anh nói. “Anh định để bọn em ở lại đây á?”
Hans đã lại tỉnh dậy. Thằng bé giật cái núm chỉnh tiếng radio ra và đập nó vào thành xe.
“Chỉ vài tiếng thôi”, Mark nói; mặc dù anh biết là sẽ mất nhiều thời gian hơn thế.
Krystal không chịu nhìn anh.
“Chả còn cách nào khác cả”, anh nói.
Người đàn bà vẫn đứng cạnh Mark từ nãy. Chị ta đẩy anh sang một bên rồi mở cửa xe. “Cô đi với tôi”, chị ta nói. “Cô và thằng nhóc nữa”. Chị ta giơ tay ra. Hans lập tức theo chị ta và nhìn xuyên qua vai chị ta về phía những người đàn ông ngồi trên ghế. Krystal chần chừ rồi cũng ra khỏi xe, bỏ mặc bàn tay Mark đã chìa ra để giúp cô.
“Nhanh thôi mà”, anh nói. Anh mỉm cười với Hans. “Nhanh thôi mà Hansy” anh nói và quay người bước về phía đường cái.
Người phụ nữ đi vào trong nhà cùng với Hans. Krystal đứng cạnh ô tô nhìn Mark đi xa dần, cho đến lúc dáng người anh bắt đầu nhòe dần trong hơi nóng rồi hoàn toàn biến mất. Trông như thể cô đang nhìn một người chìm dần xuống dưới mặt nước hồ.
Những người đàn ông nhìn chằm chằm vào Krystal khi cô bước về phía tòa nhà. Cô thấy mình nặng nề và hơi xấu hổ.
Người đàn bà đã kéo hết rèm xuống. Bên trong căn nhà tối mờ, yên tĩnh, và mát mẻ. Krystal có thể nhận ra hình dáng các đồ vật nhưng không thể nhìn được màu của chúng. Căn nhà có hai phòng. Một phòng có một chiếc giường và một chiếc xe máy. Phòng thứ hai, lớn hơn, có một chiếc sô-pha và những cái ghế ở một bên phòng; còn phía bên kia là tủ lạnh, bếp, với một cái bàn.
Krystal ngồi xuống cạnh bàn; Hans ở trong lòng cô. Trong lúc này, người đàn bà rót Pepsi từ trong một chai lớn vào ba cái cốc đầy đá. Chị ta bỏ mũ ra và ánh sáng yếu ớt chiếu ra từ cái tủ lạnh đang để ngỏ làm nên một quầng sáng quanh mặt và tóc chị ta. Thông thường, Krystal hay so sánh mình với những phụ nữ khác, nhưng với người đàn bà này, cô chỉ nhìn với một sự tò mò ngây thơ, gần như bản năng.
Người đàn bà lấy một cái chai nhỏ hơn từ trên nóc tủ lạnh. Chị ta lắc lắc cổ chai. “Chắc cô chả muốn uống cái này”, chị ta nói. Krystal lắc đầu. Người đàn bà rót một ít rượu vào cốc của mình rồi đẩy hai cốc còn lại ngang qua bàn. Hans uống một hơi rồi bắt đầu giả làm tiếng động cơ ca-nô.
“Cái anh chàng!” người đàn bà nói.
“Cháu tên là Hans”.
“Không phải thằng nhóc này”, người đàn bà nói. “Cậu kia cơ”.
“À, Mark”, Krystal nói. “Mark là chồng tôi”.
Người đàn bà gật đầu và uống một ngụm. Chị ta ngả người dựa vào lưng ghế. “Thế vợ chồng cô đang đi đâu?”
Krystal kể với chị ta về Los Angeles, về việc Mark định tìm việc trong ngành giải trí. Người đàn bà mỉm cười và Krystal băn khoăn không biết cô có diễn đạt chính xác ý mình không. Ở trường, cô đã học khá tốt môn tiếng Anh và những anh chàng người Mỹ mà cô từng nói chuyện thường khen cô, nhưng trong hai tháng ở với bố mẹ Mark ở Phoenix, cô đã mất tự tin. Dutch và Dottie luôn có vẻ kinh ngạc khi nghe cô nói và bản thân cô cũng chẳng hiểu những gì họ nói, mặc dù cô luôn giả vờ là cô có hiểu.
Người đàn bà tiếp tục mỉm cười, nhưng miệng chị ta có một vẻ căng thẳng nào đó khiến cái cười trông có phần khổ sở. Chị ta uống một ngụm nữa.
“Chồng cô làm gì?” chị ta hỏi.
Krystal cố nghĩ xem cô nên giải thích thế nào về công việc của Mark. Khi cô gặp anh lần đầu, anh đang ngồi bệt trên sàn ở một bữa tiệc còn những người xung quanh anh đang cười. Cô cũng đã cười mặc dù cô không hiểu tại sao. Đấy là một tài năng của Mark. Rất khó diễn tả thành lời.
“Mark là ca sĩ”, Krystal nói.
“Ca sĩ”, người đàn bà nói. Chị ta nhắm mắt lại và ngả đầu ra sau rồi bắt đầu hát. Hans ngừng ngọ nguậy để quan sát chị ta.
Khi người đàn bà hát xong, Krystal nói “Hay lắm” và gật gật đầu mặc dù cô không theo được bài hát và ghét loại nhạc đó – nghe nó như là hát yodeling.
“Chồng tôi lúc nào cũng thích nghe tôi hát”, người đàn bà nói. “Tôi đoán là tôi đã có thể trở thành ca sĩ nếu tôi muốn”. Chị ta uống cạn cốc của mình và nhìn vào cái cốc rỗng.
Từ bên ngoài, Krystal nghe thấy tiếng những người đàn ông ngồi trên ghế – họ nói to và liên tục. Một người trong số họ cười lớn.
“Hồi lễ prom của chúng tôi, Del Ray đã tới hát”, người đàn bà nói.
Cánh cửa mở toang. Người đàn ông đã nhìn chằm chằm vào bụng Krystal lúc nãy đi rầm rập vào bếp và lại nhìn chằm chằm vào cô. Ông ta quay người rồi bắt đầu lôi chai Pepsi ra khỏi tủ lạnh. “Webb, anh nghĩ sao?”, người đàn bà nói. “Chồng cô này là ca sĩ đấy”. Chị ta vươn tay xoa dọc sống lưng ông ta. “Chắc phải đi kiếm cái gì ăn tối”, chị ta nói. “trừ khi anh lại muốn ăn thịt thỏ”.
Người đàn ông đá cái cửa tủ lạnh sập lại rồi bước ra khỏi bếp, tay cầm theo chai lọ lỉnh kỉnh. Hans tuột xuống sàn chạy theo ông ta.
“Hans!” Krystal gọi.
Người đàn ông dừng lại nhìn thằng bé. “Phải”, ông ta nói. “Đi với ta”.
Đấy là lần đầu Krystal nghe tiếng ông ta. Giọng ông ta mỏng và khô. Ông ta trở ra ngoài cùng với Hans.
Đôi giày mà Mark đang đi đã cũ và lỏng. Nó chỉ thoải mái ở trong ô tô; còn bên ngoài, chân anh bắt đầu nóng bỏng chỉ sau vài phút đi bộ. Mắt anh cũng rát, vì mồ hôi và vì mặt trời chói chang đang rọi thẳng vào mặt anh.
Trong một lúc, anh hát hết bài này đến bài khác, nhưng rồi sau một vài bài, cổ họng anh bắt đầu khàn vì khô nên anh ngừng hát. Đằng nào thì hát về Camelot ngay giữa sa mạc cũng có vẻ ngớ ngẩn – vừa ngớ ngẩn lại vừa hơi sợ bởi vì giọng anh nghe quá nhỏ nhoi ở đây. Anh tiếp tục bước.
Dưới chân anh, mặt đường dinh dính và đôi giày của anh tạo ra những tiếng rin rít sau mỗi bước chân. Anh nghĩ đến chuyện đi bộ ngoài lề đường thay vì trên đường nhưng anh lại sợ có thể bị rắn cắn.
Mark đã muốn cố gắng tươi tỉnh nhưng anh không khỏi nghĩ tới việc bây giờ họ sẽ không thể tới Los Angeles trước bữa tối. Họ sẽ tới nơi khi đã khuya, giống như mọi lần; xe của họ chất đầy đồ, Mark sẽ cố gắng vác đồ ra khỏi xe còn Krystal sẽ đứng hoang mang trong ánh đèn xe và Hans thì ngủ gục trên vai Krystal. Bạn anh sẽ mặc quần áo ngủ. Họ sẽ cố gắng đùa nhau nhưng Mark sẽ quá bận rộn. Rồi sau khi họ trải giường cho Krystal và lắp được cái cũi cho Hans (mà chuyện này thì luôn mất rất nhiều công vì một nửa số ốc vít sẽ bị rơi mất) thì Mark và bạn anh sẽ vào bếp, uống một chai bia và cố gắng nói chuyện nhưng rồi họ sẽ chỉ có ngáp vào mặt nhau. Sau đó họ sẽ đi ngủ.
Mark có thể nhìn thấy trước mọi việc. Dù họ có làm gì, rút cục thì mọi chuyện luôn diễn ra như thế. Chẳng có cách nào thay đổi cả.
Một chiếc xe tải vượt qua anh ở chiều ngược lại. Hai người đàn ông trong xe đội mũ cao bồi. Họ liếc nhìn Mark rồi nhìn thẳng về phía trước. Anh dừng lại nhìn chiếc xe biến mất trong hơi nóng.
Anh quay người rồi tiếp tục bước đi. Những miếng kính vỡ sáng loáng dọc con đường.
Nếu Mark sống ở đây và tình cờ lái xe dọc đường này mà lại nhìn thấy ai đó đi bộ một mình thì anh sẽ dừng xe và hỏi xem mọi việc có ổn không. Anh tin vào việc giúp người khác.
Nhưng anh không cần họ. Anh có thể xoay xở được, như anh đã xoay xở mà không cần đến Dutch và Dottie. Anh sẽ làm việc này một mình; và một ai đó hẳn sẽ ước là họ đã giúp anh. Một ngày nào đó, anh sẽ tới một nơi như Las Vegas, sẽ trình diễn ở một trong những câu lạc bộ lớn. Và rồi, đến cuối mùa diễn, anh sẽ mua vé máy bay cho Dutch và Dottie tới xem sô diễn lớn của anh – sô diễn cuối cùng. Anh sẽ mua vé hạng nhất cho họ và đặt cho họ khách sạn sang nhất Vegas, như khách sạn The Sands hay gì đó, và sẽ cho họ ngồi ngay hàng ghế đầu. Và khi sô diễn đã xong, khi tất cả mọi người đều phát cuồng, đều huýt sáo và dậm chân xuống sàn thì anh sẽ mời Dutch và Dottie lên sân khấu. Anh sẽ đứng giữa họ, cầm tay họ; rồi khi tất cả những tiếng vỗ tay đã lắng xuống và mọi người mỉm cười nhìn lên anh từ các bàn ăn, anh sẽ đưa tay Dutch và Dottie lên qua đầu anh; anh sẽ nói “Các bạn, tôi chỉ muốn giới thiệu bố mẹ tôi với các bạn và kể cho các bạn biết họ đã làm gì cho tôi”. Rồi anh sẽ dừng lại một giây, và sẽ sắm một vẻ mặt thật nghiêm trọng. “Thật khó có thể kể cho các bạn biết họ đã làm gì cho tôi”, anh sẽ nói, rồi dừng lại cho thêm phần long trọng, “bởi vì họ chẳng làm bất cứ thứ gì cho tôi cả. Họ không mảy may làm bất cứ điều gì cho tôi”. Rồi anh sẽ thả rơi tay họ và nhảy xuống khỏi sân khấu, bỏ mặc họ đứng đó.
Mark bước nhanh hơn, người đổ về phía trước, mắt nhíu lại vì nắng. Hai tay anh vung lên vung xuống trong lúc bước đi.
Không, anh sẽ không làm thế. Người ta có thể hiểu sai. Một vụ như thế có thể làm sự nghiệp của anh lụn bại. Anh sẽ làm một cú hay hơn thế. Anh sẽ đứng trên sân khấu và sẽ kể cho toàn thế giới biết rằng nếu không có sự hỗ trợ của bố mẹ anh, nếu không có niềm tin và tình yêu của họ, vân vân và vân vân, thì anh hẳn đã bỏ cuộc từ lâu.
Phải, cái vụ này hay ở chỗ nó hoàn toàn không đúng. Bởi vì Dutch và Dottie sẽ không bao giờ giúp đỡ anh trừ khi anh ở lại Phoenix và kiếm “một công việc thật sự”. Ví dụ như môi giới nhà đất. Nhưng dĩ nhiên không ai biết điều này, trừ Dutch và Dottie. Họ sẽ đứng trên sân khấu lắng nghe tất cả những lời dối trá đó, và anh càng ca ngợi họ thì trông họ sẽ càng giống như những ông bố bà mẹ mà họ lẽ ra phải trở thành nhưng lại đã không trở thành, và họ sẽ càng cảm thấy xấu hổ và họ sẽ càng biết ơn Mark đã không lật tẩy họ.
Anh có thể nghe thấy những tiếng lao xao khẽ trong không khí nóng bỏng – tiếng gì đó như tiếng vỗ tay. Anh bước nhanh hơn. Anh hầu như không còn cảm thấy bàn chân đang bỏng rát. Cái tiếng lao xao ngày một to hơn và Mark nhìn lên. Phía trước mặt anh, cách chỉ chừng hơn 100 thước là thấy xa lộ; anh không chỉ nhìn thấy con đường mà cả một đoàn xe tải dài đang chạy xuyên qua sa mạc; cả đoàn xe như đang trôi về phía tây trong màn khói xả màu xanh da trời.
Người đàn bà nói với Krystal rằng tên chị ta là “Hope”.
“Hope”, Krystal nói. “Cái tên mới hay làm sao!”
Họ đang ở trong phòng ngủ. Hope đang sửa cái xe máy. Krystal nằm trên giường, gối chèn xung quanh; cô nhìn Hope đi đi lại lại quanh cái xe rồi lại tới chỗ ly nước đá. Hans vẫn ở bên ngoài với những người đàn ông.
Hope uống một ngụm nước. Chị ta lắc đá trong cốc và nói, “Cũng chẳng biết đâu, cô ạ”.
Krystal cảm thấy đứa bé đang xoay trong bụng. Cô vòng tay ngang bụng và chờ cho bụng nhô lên.
Trong phòng, tất cả điện đã tắt chỉ trừ một ngọn đèn trên sàn nhà, cạnh chỗ Hope. Phụ tùng xe rải khắp nơi và không khí sặc mùi dầu. Hope nhặt một bộ phận lên, nhìn nó, rồi lấy một cái giẻ lau từ trên xuống. “Tôi đã kể với cô là hồi lễ prom, Del Ray có đến đây hát nhỉ” Hope nói. “Không biết là cô có nghe nói tới Del Ray bao giờ không chứ bọn con gái ở đây thì phát điên vì Del Ray. Tôi từng có một cái gối Del Ray mà tối nào tôi cũng ôm. Nhưng rồi Del Ray đến và hóa ra anh ta chỉ cao có từng này”. Hope để tay cách sàn nhà chừng mấy chục phân. “Thật chứ”, chị ta tiếp. “Tôi thì tôi chả bao giờ để mắt được đến người đàn ông nào không thể bảo vệ tôi khi cần. Tôi không có ý hạ thấp ai cả”, chị ta thêm.
Krystal không hiểu Hope nói gì nên cô mỉm cười.
“Cô nhìn Webb ấy”, Hope nói. “Webb có thể giết người vì tôi. Lão ấy đã từng suýt làm thế đấy. Lão ấy suýt đánh chết con người ta”.
Cái này thì Krystal hiểu. Cô cảm thấy chuyên này có thật. Cô liếm đôi môi khô. “Ai cơ?”, cô hỏi. “Anh ấy đánh ai?”
Hope ngẩng lên từ cái phụ tùng mà chị ta đang lau. “Chồng tôi”.
Krystal đợi, không rõ là cô có nghe nhầm hay không.
“Hồi trước, Webb và tôi không rời được nhau ra. Lúc nào mà chúng tôi không ở cạnh nhau, mà thường là thế, thì chúng tôi theo dõi xem người kia làm gì. Webb thường hay lái xe ngang qua nhà tôi suốt cả ngày rồi lại đi theo tôi khắp nơi. Thỉnh thoảng, lão ấy còn đi theo tôi cùng với cả vợ ở trong xe”. Hope cười. “Đúng là chuyện trớ trêu!”
Đứa bé trong bụng đang đè vào cột sống Krystal. Cô khẽ xoay người. Hope nhìn cô.
“Chuyện dài lắm”.
“Chị kể em nghe đi”.
Hope đứng dậy đi vào bếp. Krystal nghe thấy tiếng lạo xạo của khay đá. Cô thấy dễ chịu khi được nằm trong căn phòng tối và mát mẻ này.
Hope quay trở lại và ngồi xuống sàn nhà. “Chuyện dài lắm”, chị ta nói rồi uống một ngụm. “Chuyện này xảy ra ở rạp chiếu phim. Tôi với chồng tôi đang đi ra khỏi rạp thì Webb nhìn thấy chồng tôi vòng tay ôm eo tôi, thế là lão ấy nổi điên lên. Tôi kể cô nghe, sau đấy hai bên đánh nhau vài lần. Chồng tôi có sáu anh em trai, hai người là cảnh sát. Bọn tôi phải chạy trốn khỏi đó, phải bỏ chạy ấy. Chả mang theo cái gì ngoài quần áo trên người. Chúng tôi chưa bao giờ quay lại đó. Mà cũng sẽ chả bao giờ quay lại”.
“Chả bao giờ”, Krystal nói. Cô mê cái âm thanh này. Nghe như là Beethoven đang dứ nắm đấm lên trời.
Hope lại nhặt cái giẻ lên nhưng chị ta không làm gì với nó cả. Chị ta dựa vào tường, phía ngoài quầng sáng của cây đèn.
“Chị có cháu nào không?” Krystal hỏi.
Hope gật đầu và giơ hai ngón tay lên.
“Không được gặp lại bọn trẻ chắc là khó lắm nhỉ”.
“Chúng sẽ ổn thôi”, Hope nói. “Cả hai đứa đều là con trai”. Chị ta sờ soạng dưới sàn nhà và tìm thấy cái phụ tùng mà chị ta đã đang lau; rồi chị ta tiếp tục lau nó mà không nhìn.
“Em thì không thể nào bỏ Hans được”, Krystal nói.
“Chắc chắn là cô có thể đấy”, Hope nói. Chị ta ngồi, hai tay đặt trên lòng. Hơi thở của chị ta sâu và chậm rãi; và Krystal nhận ra chị ta đang nhắm mắt. Chị ấy đang ngủ hoặc là đang mơ màng – rất có thể là về người đàn ông bên ngoài cửa.
Máy điều hòa đột nhiên bị tắt. Krystal nằm trong bóng tối nghe những âm thanh mà cái máy điều hòa đã làm át đi lúc trước – tiếng côn trùng rả rích, tiếng rì rầm của những người đàn ông. Đứa bé trong bụng đã yên lặng. Krystal nhắm mắt lại. Cô thấy mình trôi nổi, và trong lúc trôi nổi, cô nhớ đến Hans. Hans, cô nghĩ. Rồi cô ngủ thiếp đi.
Mark đã tưởng là khi anh tới xa lộ, sẽ có ai đó cho anh đi nhờ xe ngay tức khắc. Nhưng xe cứ thế chạy qua và một vài người lái xe nhìn anh cau có như thể họ giận anh vì đã muốn đi nhờ xe và đã đặt họ vào tình thế khó xử.
Mặt anh cháy nắng và cổ họng anh khô đến nỗi nuốt nước bọt cũng đau. Hai lần, anh phải rời khỏi mặt đường để vào đứng trong bóng râm của một tấm biển quảng cáo. Những chiếc xe nối nhau chạy ngang qua anh suốt một tiếng đồng hồ; xe từ Wisconsin, từ Utah, từ Washington và Georgia, nói chung là khắp mọi nơi. Mark cảm thấy như cả nước Mỹ đã quay lưng lại với anh. Anh chợt nghĩ rằng anh có thể chết ở chỗ này.
Cuối cùng, một chiếc xe dừng lại. Đấy là một cái xe đám ma. Mark lưỡng lự, rồi chạy tới.
Có ba người ngồi trên ghế trước – một người đàn ông ngồi giữa hai người phụ nữ. Chỗ ngồi ở phía sau đầy các loại dụng cụ điện. Mark đẩy các dây diện sang một bên và ngồi bắt chéo chân trên sàn. Gió từ máy điều hòa phả vào anh như một dòng nước lạnh.
Người lái xe cho xe chạy tiếp.
“Chào mừng anh đã lên xe đám ma”, người đàn ông ngồi giữa quay đầu nói. Ông ta đã cạo nhẵn đầu, chỉ chừa lại một dải tóc ở ngay chính giữa đỉnh đầu. Đấy là kiểu đầu Mohawk đầu tiên mà Mark nhìn thấy ở một người thật. Lông mày ông ta có màu cà rốt, giống hệt như màu tóc. Tàn nhang phủ đầy mặt ông ta, thậm chí cả phần đầu đã cạo trọc.
“Xe đám ma, xe nhà đòn, xe nhà táng”, người phụ nữ lái xe nói.
“Chắc anh tưởng là anh sẽ phải ngồi chung xe với một cái xác ướp lạnh”, người đàn ông nói.
Mark nhún vai. “Tôi thà ngồi chung xe với một cái xác ướp lạnh còn hơn là bị chết nóng”.
Người đàn ông cười lớn và đập đập vào lưng ghế. Những người phụ nữ cũng cười. Người phụ nữ không lái xe quay ra sau mỉm cười với Mark. Cô ta có một khuôn mặt tròn, dịu dàng. Môi cô ta đầy đặn. Cô ta đeo một vòng vàng nhỏ trên mũi. “Chào”, cô ta nói.
“Nhân nói chuyện ướp lạnh”, người đàn ông nói. “Có một thùng ở ngay sau lưng anh đấy”.
Mark lấy một lon bia ra khỏi thùng đá và uống một ngụm dài, đầu ngả ra sau, mắt nhắm lại. Khi anh mở mắt ra, người đàn ông đang nhìn anh. Họ giới thiệu tên với nhau, trừ người phụ nữ lái xe. Chị ta không hề nhìn Mark, cũng không nói chuyện mà chỉ lầm bầm một mình. Người đàn ông có tên là Barney; cô gái đeo khuyên mũi tên là Nance và rất có khiếu hài hước. Cô ta bắt được tất cả những gì Mark nói. Sau một lúc, cái khuyên mũi không còn làm anh bận tâm.
Khi Barney nghe Mark kể rằng anh từng trong quân đội, ông ta lắc đầu. “Bỏ qua”, ông ta nói. “Barney đây không chơi mấy trò bắn nhau đấy. Tôi không muốn nhìn thấy mình phọt óc ra”.
“Óc, cóc, xóc, tóc”, người phụ nữ lái xe nói.
“Thôi đi” Barney nói với chị ta. Ông ta quay sang Mark. “Thế ở đó thế nào?”
Mark nhận ra Barney ám chỉ Việt Nam. Mark chưa tới Việt Nam. Anh đã được lệnh phải đi nhưng rồi người ta hủy lệnh ngay trước khi anh phải xuống tàu và lệnh đó không bao giờ được phục hồi, anh cũng không hiểu tại sao. Giải thích chuyện này quá phức tạp, thế nên anh chỉ nói “Nói chung là tệ” và không nói gì thêm.
Nhắc đến Việt Nam làm cho họ thấy thân nhau hơn. Họ uống bia và nhìn sa mạc lướt qua. Rồi Barney bóp bẹp lon bia và ném ra ngoài cửa sổ. Khí nóng phà vào mặt Mark. Anh nhớ ra ở bên ngoài nóng như thế nào; anh thấy mừng là anh đang ngồi đây.
“Tôi có thể làm một lon nữa”, Nance nói.
“Có ngay”, Barney nói. Ông ta quay ra sau và nhờ Mark lấy thêm vài lon. Trong lúc Mark lấy bia ra khỏi thùng, Barney vừa theo dõi anh vừa gõ gõ những ngón tay trên thành ghế như thể đang chơi đàn. “Anh đến Blythe làm gì?”, Ông ta hỏi.
“Ở Blythe có Smythe”, người phụ nữ lái xe nói.
“Thôi đi nào”, Nance nói với chị ta.
“Tôi cần một bộ phận cho xe ô tô”, Mark nói. Anh đưa bia cho Barney. “Một cái đi-na-mô. Xe ô tô của tôi không chịu nổ”.
“Xe anh ở đâu?”, Barney hỏi.
Mark chỉ ngón tay về phía sau lưng. “Chỗ đó. Tôi cũng chả biết tên. Nó là cái trạm xăng rẽ xuống từ xa lộ”.
Nance đang theo dõi anh. “Này”, cô ta nói. “Cứ mỉm cười như thế nhé. Anh đừng bao giờ thôi mỉm cười”.
Barney nhìn Nance rồi nhìn Mark. “Với tôi thì”, ông ta nói. “có những chỗ có thể đến, có chỗ thì tôi không bao giờ đến. Tôi không đến Rochester. Tôi cũng chẳng đến Blythe”.
“Chắc chắn là anh không đến Blythe rồi”, Nance nói.
“Chắc chắn thế, Barney nói. Rồi ông ta liệt kê một số nơi mà ông ta sẽ đến. Họ đang trên đường tới một trong các nơi đó – San Lucas; nó ở trên núi, phía trên Santa Fe. Họ thuộc một đoàn làm phim cao bồi miền Tây ở đó. Họ đã quay một bộ phim khác cũng ở đó cách đây một năm và đây là phần tiếp theo. Barney là người phụ trách âm thanh; Nance làm hóa trang. Họ không nói gì về người lái xe.
“Cái chỗ đó đẹp không tưởng tượng nổi”, Barney nói. Ông ta dừng lại rồi lắc đầu. Mark chờ ông ta mô tả San Lucas nhưng ông ta chỉ lắc đầu và nói. “Thật là không tưởng tượng nổi”.
“Thật đấy”, Nancy nói.
Hóa ra, ngôi sao trong phim họ đang làm là Nita Damon. Thật là một sự trùng hợp vì Mark đã thấy Nita Damon cách đây khoảng 6 tháng trong một buổi biểu diễn ở Đức; Nina đến đó biểu diễn phục vụ quân đội.
“Hay nhỉ”, Nance nói. Cô ta và Barney nhìn nhau.
“Anh nên quên Blythe đi”, Barney nói.
Mark cười to.
Nance đang nhìn anh chằm chằm. “Marco” cô ta nói. “Anh không phải là Mark; anh là Marco”.
“Anh nên đi với chúng tôi”, Barney nói. “Cứ cưỡi cái xe đám ma tốc hành này”.
“Thật đấy”, Nance nói. “San Lucas đẹp không tưởng tượng nổi”.
“Một thành phố hội hè”, Barney nói.
“Chúa ơi”, Mark nói. “Không, tôi không thể”.
“Dĩ nhiên là anh có thể’, Barney nói. “Lincoln còn giải phóng được nô lệ cơ mà, đúng không? Tính chuyện cái xe của anh sau”.
Mark cười. “Thôi nào”, anh nói. “Đến đó thì tôi biết làm gì?”
Barney nói “Anh nói là việc làm hả?”
Mark gật đầu.
“Quá đơn giản”, Barney nói. Ông ta nói với Mark rằng ở đó lúc nào cũng có việc gì đó để làm. Những người hẹn đến rồi không đến, những người bỏ việc, những người bị ốm – lúc nào cũng cần người làm việc. Một khi anh đã tìm được một việc tốt thì anh cứ thế mà làm thôi.
“Ý anh là tôi sẽ làm việc cho bộ phim? Cho đoàn làm phim?”
“Dĩ nhiên rồi”, Barney nói. “Tôi đảm bảo đấy”.
“Chúa ơi”, Mark nói. Anh nhìn Barney rồi nhìn Nance. “Tôi cũng chẳng biết nữa”, anh nói.
“Thôi cũng chả sao”, Barney nói. “Tôi hiểu”.
“Barney hiểu”, Nance nói.
“Nhưng anh mất gì nào?”, Barney nói.
Mark không nói gì.
Barney nhìn anh. “Marco”, Barney nói. “Chắc là trong cái xe cũ đấy có giấu cái gì hả?”. Khi Mark không trả lời, ông ta cười. “Đấy là chuyện cũ rồi”, ông ta nói. “Chuyện cũ bỏ qua. Cuốn theo chiều gió rồi”.
“Tôi phải nghĩ đã”, Mark nói.
“Rồi, cứ nghĩ đi”, Barney nói. “Anh có thể nghĩ từ giờ đến Blythe”. Ông ta quay đi. “Đừng làm tôi thất vọng”.
Nance gửi anh một cái nhìn dài, nghiêm trọng. Rồi cả cô ta cũng quay đầu đi. Chỉ còn có thể nhìn thấy chỏm đầu cô ta phía trên lưng ghế.
Sa mạc tiếp tục trôi qua cửa sổ, chỗ nào cũng như chỗ nào. Con đường trông loáng dầu. Mark cảm thấy bồn chồn, anh thấy mình hứng khởi.
Đầu tiên anh nghĩ anh sẽ lấy địa chỉ ở San Lucas rồi sẽ lái tới đó cùng với Krystal và Hans sau khi họ sửa xong xe. Nhưng rồi anh sẽ không có đủ tiền xăng xe, chưa nói tới thức ăn và tiền khách sạn và một chỗ để ở khi họ tới đó. Anh sẽ lỡ mất cơ hội của anh.
Bởi vì cốt lõi của chuyện này là thế: một cơ hội.
Chả nên tự dối bản thân làm gì. Anh có thể tới Los Angeles và lang thang khắp các đường phố hàng tháng trời, thậm chí hàng năm trời mà không bao giờ có việc. Anh có thể phải đứng ngoài những cánh cửa đóng và phải la liếm những kẻ vớ vẩn và rồi ngồi trong những cái ghế nhựa đến nửa cuộc đời mà không bao giờ tiến gần được tới cái điểm anh có thể có ở hiện tại: một công việc được đảm bảo ở Thành phố Hội hè.
Los Angeles sẽ chẳng đi đến đâu cả. Mark có thể thấy trước điều đó. Anh sẽ phải mượn tiền từ bạn anh và rồi bắt đầu buôn lậu và rồi anh sẽ chẳng được ai để ý vì anh đói và chẳng ai lại để ý đến người đói. Những người đói luôn bị bỏ qua. Giống như Dutch đã nói – chó thì cắn áo rách.
Anh sẽ bần cùng rồi tiền sẽ hết, giống như những khoản tiền trước đây của anh cũng đã bốc hơi. Krystal sẽ trở nên lo lắng và rầu rĩ. Rồi sau một vài tuần, Mark và bạn anh sẽ chả còn gì để nói với nhau, và bạn anh sẽ phát ngán việc ở chung với một người mà anh ta không thân lắm, lại còn một đứa bé suốt ngày hò hét và một cô vợ bụng mang dạ chửa rầu rĩ. Bạn anh sẽ bịa ra chuyện gì đó để tống cổ anh đi – ví dụ như anh ta sẽ bảo bạn gái anh ta muốn chuyển vào, hay bố mẹ anh ta quyết định không li dị nhau. Đến lúc đó, Mark sẽ không còn đồng nào. Krystal sẽ nổi điên và có thể là phải đi đẻ.
Và rồi sau đó thì sao? Thì sao?
Mark biết chứ. Anh sẽ phải bò trở lại nhà của Dutch và Dottie.
Không, ồ không không. Con đường duy nhất mà anh trở lại Phoenix là trong một cái quan tài.
Người lái xe bắt đầu lẩm bẩm một mình và Barney đã lấy ngón tay cốc lên đầu chị ta. “Có muốn tôi lái không?”, ông ta nói. Nghe như một lời hăm dọa. Người phụ nữ không nói gì nữa. “Rồi”, Barney nói. “Năm dặm nữa là tới Blythe”, ông ta nói mà không ngoái đầu lại.
Mark nhìn ra ngoài cửa sổ. Anh không sao xua được ý nghĩ anh đang có những gì anh cần. Một cơ hội để chứng minh khả năng của anh. Chắc chắn là anh sẽ có thời gian vui vẻ, tất nhiên rồi, nhưng cơ bản là anh sẽ đến làm việc đúng giờ mỗi sáng. Anh sẽ làm những gì người ta bảo anh và làm tốt. Anh sẽ mở to mắt và ngậm miệng, và sau một thời gian, người ta sẽ để ý đến anh. Anh sẽ không cố gắng chứng tỏ gì cả, nhưng rồi thỉnh thoảng, ở bữa tiệc này hay tiệc khác, anh sẽ hát một hai bài, hoặc là giả giọng một diễn viên nào đó. Anh có thể nghe thấy Nita Damon cười và nói “Đừng nói nữa, Mark, đừng nói nữa”.
Mark nghĩ, anh có thể gọi cho Krystal và sắp xếp để gặp vợ anh ở nhà bạn anh trong vòng một hoặc hai tháng nữa, sau khi họ đã quay xong bộ phim. Lúc đó, Mark đã có cái gì đó trong tay. Anh có thể tự đứng được. Nhưng như thế cũng không ổn. Anh không biết phải gọi cho Krystal thế nào. Cô ấy không có tiền. Cô ấy sẽ không đồng ý.
Mark sẽ không tự dối mình. Nếu anh bỏ Krystal và Hans ở đó, cô ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho anh. Nếu anh bỏ họ bây giờ, anh sẽ bỏ họ vĩnh viễn.
Không làm thế được, anh nghĩ. Nhưng anh biết điều này không đúng. Anh có thể bỏ họ. Người ta vẫn bỏ rơi nhau và vẫn bị bỏ rơi suốt đó thôi. Chuyện đó thật kinh khủng; nhưng mà nó vẫn cứ xảy ra và người ta vẫn tồn tại như người ta đã tồn tại qua những thứ còn kinh khủng hơn. Krystal và Hans cũng sẽ tồn tại. Khi Krystal hiểu ra chuyện, cô ấy sẽ gọi điện cho Dutch; ông ấy chắc chắn sẽ nổi cơn tam bành, dĩ nhiên rồi, nhưng sau đó sẽ bảo bọc họ. Ông ấy chả có lựa chọn nào khác. Và rồi bốn đến năm năm nữa, mọi người sẽ chỉ coi chuyện xảy ra hôm nay như một ký ức khó chịu.
Krystal rồi sẽ ổn thôi. Đàn ông thích cô ấy. Ngay cả Dutch cũng thích cô ấy mặc dù ông ấy đã kịch liệt phản đối đám cưới. Sớm hay muộn, cô ấy cũng sẽ gặp một người đàn ông tử tế có thể chăm sóc cho cô ấy. Cô ấy, Hans và đứa bé trong bụng sẽ có thể ngủ ngon giấc mà không phải lo lắng chuyện gì sẽ xảy ra ngày mai. Họ không cần Mark. Không có anh, họ sẽ có một cuộc đời tốt hơn so với việc anh và Krystal tiếp tục sống với nhau.
Đây là một ý nghĩ mới với Mark và nó làm anh cảm thấy bực bội khi nhận ra anh chẳng mấy quan trọng với Krystal. Từ trước tới giờ, anh đã luôn mặc định rằng chuyện họ là vợ chồng là duyên số và rằng khi anh cưới Krystal, anh đã hoàn thành một đòi hỏi nào đó của vũ trụ. Nhưng nếu như họ có thể sống không có nhau, thậm chí sống tốt hơn khi rời nhau ra, thì điều anh nghĩ không đúng và chưa bao giờ đúng cả.
Họ không cần nhau. Chẳng có lí do gì mà phải ở với nhau cả. Thế thì tất cả những cái này là cái gì? Nếu anh không thể làm cho vợ anh hạnh phúc thì sống với nhau làm gì? Họ chỉ lôi nhau xuống như hai người không biết bơi sắp chết đuối. Nếu họ may mắn, họ có thể kéo dài việc này cho đến lúc họ già đi trong cùng một mái nhà.
Thế này không được. Cô ấy đáng được hưởng những điều tốt hơn và anh cũng thế.
Mark cảm thấy anh đã bị lừa dối. Không phải bởi Krystal – cô ấy không bao giờ làm thế; mà bởi tất cả những người đã từng kết hôn; họ đã biết sự thật mà không chịu nói ra. Sự thật là, khi người ta kết hôn, người ta phải từ bỏ lần lượt từng thứ một. Không bao giờ ngừng từ bỏ. Người ta phải từ bỏ cuộc sống của mình – cái cuộc sống đặc biệt mà người ta dự định có – và rồi lạc vào một cuộc sống mà họ chẳng bao giờ mường tượng là mình sẽ có hoặc muốn có. Và chẳng ai biết đích xác chuyện gì đang xảy ra. Người ta từ bỏ cuộc sống của mình mà không cả biết điều đó.
“Đến Blythe rồi”, Barney nói.
Mark nhìn xuống thị trấn từ trên đường. Những dòng khí nóng chập chờn trên các mái nhà.
“Blythe rồi”, Barney lại nói. “Một, hai, ba, đi nhé”.
Krystal thức giấc và bật dậy, hai mắt chớp chớp trong bóng tối. “Hans!”, cô thì thầm.
“Nó chơi bên ngoài”, Hope nói. Chị ta đang đứng cạnh cái đèn và đang nhồi đạn vào một khẩu súng săn. Bóng của chị ta đung đưa trên tường nhà. “Tôi sẽ đi kiếm bữa tối cho chúng ta”, chị ta nói. “Cô cứ nằm nghỉ đi. Thằng bé ổn cả”. Hope lắp xong đạn vào súng rồi nhét thêm mấy viên vào túi quần bò.
Krystal nằm trên giường, vừa bồn chồn vừa khát nước nhưng cô không muốn nhỏm dậy. Những người đàn ông đã bật đài lên. Một bài hát nỉ non đang được mở; giống như bài hát mà Hope đã hát trong bếp. Krystal chưa được nghe một chút nhạc tử tế nào đã mấy tháng nay, kể từ ngày cô rời nhà. Đó là một ngày đầu xuân ấm áp – ánh nắng lấp lánh qua những tán cây mọc dọc con đường. Ôi những cái cây. Và những dòng suối đầy ắp nước tan ra từ tuyết.
“Ôi Chúa”, Krystal nói.
Cô nhổm người lên và nâng rèm cửa sổ lên để nhìn ra sa mạc và những quả núi. Cô thấy Hope đang đi về phía sa mạc với khẩu súng săn. Ánh nắng đã dịu hơn trước, vẫn còn sáng trắng nhưng không còn quá gắt. Những đỉnh núi đã có một quầng mầu hồng bao phủ.
Krystal nhìn ra ngoài cửa sổ. Làm sao người ta có thể sống ở một chỗ như thế này nhỉ? Hoàn toàn không có gì, không có một thứ gì tồn tại. Trong suốt những ngày sống ở Phoenix, Krystal đã cảm thấy một sự trống rỗng lớn xung quanh cô, nơi cô chẳng có nghĩa gì hơn một hòn đá hay một cái cây khô; nhưng bây giờ, cô đang ở ngay chính trung tâm của sự trống rỗng đó. Cô nghĩ có lẽ cô sẽ khóc nhưng rồi từ bỏ ý nghĩ đó. Cô không cả quan tâm nổi tới nó.
Krystal nhắm mắt lại, đầu tựa vào kính cửa sổ.
“Mình sẽ đọc một bài thơ”, Krystal nghĩ, “và khi bài thơ hết thì anh ấy sẽ về tới đây”. Đầu tiên, cô chỉ đọc thầm, bởi vì cô đã cố gắng chỉ nói tiếng Anh, nhưng rồi dần dần, cô lẩm nhẩm một bài thơ của Heine mà những bà sơ đã dạy cô thuộc lòng hồi còn ở trường dòng – bài thơ duy nhất mà cô nhớ được. Cô đọc bài thơ rồi mở mắt ra. Mark không có ở đó. Như thể cô đã thực sự tin rằng anh sẽ ở đó, Krystal lấy chân đạp vào tường. Cái đau làm cô nhận rõ rằng cô đã cố tình giả vờ không biết: Mark chưa bao giờ ở đó và có thể sẽ không bao giờ ở đó vào những thời khắc quan trọng.
Cái cửa sổ âm ấm dưới trán Krystal. Cô nhìn Hope đi xa dần xa dần, rồi dừng lại và giương súng. Một giây sau, Krystal nghe một tiếng bùm và cảm thấy tấm kính rung lên dưới da cô.
Mark bắt đầu mỏi vì ngồi bắt chéo chân trên sàn xe. Anh duỗi chân ra và nghe người phụ nữ lái xe lẩm bẩm một mình; anh cố gắng tập trung để hiểu được những điều chị ta nói. Thỉnh thoảng cũng có vần vè nhưng nói chung chúng không có ý nghĩa gì cả. Mọi cố gắng tạo nghĩa đều vỡ vụn thành sự vô nghĩa.
Cái xe đám ma vẫn tiếp tục chạy nhanh như thể đang đua xe. Người lái xe vượt qua tất cả những chiếc xe họ gặp trên đường. Chị ta đổi làn chẳng vì lí do gì. Mark cố tìm một khoảng trống giữa những câu lầm bầm để nói gì đó để cảnh báo chị ta, ví dụ như nói cảnh sát ở đây rất khó tính. Chiếc xe chạy ngày càng nhanh hơn. Anh hy vọng Barney sẽ bảo chị ta ngừng nói và đi chậm lại, hoặc là sẽ lái thay chị ta một đoạn, nhưng ông ta chẳng nói gì và Nance cũng không. Cô ta đã biến mất hoàn toàn và tất cả những gì Mark nhìn thấy từ Barney là một chỏm tóc.
“Này”, Mark nói. “Sao phải vội thế?”
Người lái xe dường như không nghe thấy anh. Chị ta vượt qua một chiếc xe khác và tiếp tục lẩm bẩm một mình. Chị ra đang bám vào vô lăng chặt đến nỗi những đốt ngón tay của chị ta ngả màu trắng.
“Chị nên đi chậm lại”, Mark nói.
“Ị ên i ậm ại”, chị ta nói.
Mark thò đầu qua lưng ghế để kiểm tra tốc độ xe và Nance ngước nhìn lên từ việc cô ta đang làm cho Barney. Mắt cô ta gặp mắt anh, và cô ta giữ ánh nhìn của anh trong lúc vẫn tiếp tục việc kia một cách uể oải, chậm chạp. Mark giật lùi lại sau như thể bị đánh. “Dừng xe lại”, anh nói.
“Dừng cảnh sát lại”, người lái xe nói. “Dừng chiến tranh lại”.
“Dừng xe lại”, Mark nhắc lại.
“Nào nào”, Barney nói. “Sao thế hả?” Giọng ông ta ngái ngủ, xa xôi.
“Tôi muốn xuống”, Mark nói.
“Không, anh không muốn xuống” – Barney nói. “Anh đã quyết định rồi, có nhớ không? Anh là Marco”. Mark nghe tiếng Nance thì thầm. Rồi Barney nói “Này Marco, trèo lên trên này đi. Giờ anh cùng hội với chúng tôi”.
“Dừng xe lại”, Mark nói. Anh thò tay lên và bắt đầu cốc vào đầu người phụ nữ lái xe, đầu tiên chỉ nhẹ nhàng, rồi mạnh hơn. Anh có thể nghe tiếng đốt tay anh gõ xuống sọ chị ta. Chị ta phanh gấp rồi dừng xe lại. Mark nhìn ra sau. Một chiếc xe đang lao đến chỗ họ. Cái xe vội ngoặt sang làn bên cạnh và phóng vượt qua, còi xe kêu ầm ỹ.
“Được thôi, Mark”, Barney nói. “Chào. Anh đã làm hỏng bét mọi chuyện”.
Mark mò mẫm qua đống dụng cụ và dây rợ để ra khỏi xe. Khi anh đóng thành xe lại, chiếc xe lập tức vọt đi. Mark băng qua đường và nhìn theo chiếc xe đám ma cho đến lúc nó biến mất. Con đường hoàn toàn vắng lặng. Anh quay đầu và bước về phía Blythe.
Một vài phút sau, một người đàn ông dừng lại cho anh đi nhờ xe. Ông ta thích Mark và đưa anh tới tận cửa hàng. Họ đang chuẩn bị đóng cửa nhưng Mark giải thích mọi chuyện và người chủ cửa hàng cho anh vào. Ông ta tìm thấy cái máy đánh điện cho anh. Cộng với thuế, cái máy lên tới bảy mươi mốt đôla.
“Tôi tưởng là chỉ có năm mươi sáu đô”, Mark nói. “Bảy mốt”, người đàn ông nói.
Mark nhìn chằm chằm vào cái máy đánh điện. “Tôi chỉ còn sáu lăm đô”.
“Xin lỗi”, người đàn ông nói. Ông ta đặt hai tay lên quầy và chờ đợi.
“Xin ông nghe tôi”, Mark nói. “Tôi mới về từ Việt Nam. Tôi và vợ tôi đang trên đường tới Los Angeles. Khi nào tới nơi, tôi sẽ gửi trả ông nốt chỗ còn lại. Tôi sẽ gửi bưu điện ngay sáng mai, tôi thề”.
Người đàn ông nhìn anh. Mark thấy là ông ta lưỡng lự. “Tôi có một công việc ở đó”.
“Việc gì?”
“Tôi làm âm thanh”, Mark nói.
“Âm thanh. Tôi xin lỗi”, ông ta nói. “Tôi biết anh nghĩ là anh sẽ gửi tiền”.
Mark nài kéo một hồi nhưng không tích cực lắm bởi vì anh biết ông ta nói đúng: anh sẽ không gửi trả tiền. Anh đầu hàng và đi ra ngoài. Cửa hàng phụ tùng ở cạnh một cái bãi bỏ hoang đầy ô tô phế thải. Phía dưới con đường là một trạm xăng và một cửa hàng U-Haul. Khi Mark đi tới trạm xăng, một con chó đen xuất hiện ở bên kia bờ rào của cái bãi đất rồi lặng lẽ chạy song song với anh. Nếu Mark nhìn nó, con chó sẽ nhe răng ra gầm gừ.
Anh nóng và mệt. Anh có thể ngửi thấy mùi người mình. Anh nhớ tới cái mát mẻ trong chiếc xe đám ma và nghĩ, Mình đã làm hỏng bét mọi chuyện.
Có một cái bốt điện thoại ở bên ngoài trạm xăng. Mark đổi một ít tiền lẻ rồi đóng cửa lại. Anh muốn gọi bạn anh ở Los Angeles để tìm cách gì đó, nhưng anh đã để địa chỉ bạn anh trong ô tô và hóa ra số của bạn anh không có trong danh bạ. Anh thử giải thích tình huống với người trực máy tổng đài nhưng chị ta chẳng thèm nghe. Cuối cùng, chị ta cúp máy.
Anh nhìn qua màn hơi nóng về phía bãi xe bỏ không. Con chó vẫn đứng ở bờ rào quan sát anh. Anh nhận ra, điều duy nhất mà anh có thể làm là tiếp tục gọi tới Los Angeles cho đến khi anh gặp một người nào đó ở đầu bên kia. Hẳn phải có một ai đó trong toàn bộ loài người biết cảm thông với anh chứ.
Nhưng đầu tiên, anh sẽ gọi về Phoenix cho Dutch và Dottie. Anh sẽ giả giọng nghiêm trọng và nói với họ anh là trung sĩ Smythe – à không, Smythe. Trung sĩ Smythe thuộc vào đội cảnh sát tuần tra xa lộ và đang gọi cho ông bà để báo cáo một vụ tai nạn. Một vụ đụng xe đã xảy ra ở ngay gần Palm Springs. Tôi rất tiếc phải nói rằng – đến đây, giọng anh sẽ vỡ ra – không ai sống sót trong vụ tai nạn. Không, thưa bà, không có ai cả. Vâng, thưa bà, tôi chắc chắn. Tôi có mặt ở hiện trường. Tin tốt lành duy nhất mà tôi có thể nói với bà là không ai phải chịu đau đớn cả. Tất cả diễn ra trong chớp mắt, chỉ thế này thôi – và chỗ này anh sẽ bật ngón tay tách một cái vào ống nghe.
Anh nhắm mắt lại và nghe tiếng chuông điện thoại đổ trong căn nhà mát mẻ, yên tĩnh. Anh nhìn thấy mẹ anh ngồi trong căn bếp sơn xanh nhạt, vừa uống cà phê vừa lên một danh sách gì đó; anh thấy mẹ anh nhỏm dậy và thu dọn đầu mẩu thuốc lá, bật lửa, gạt tàn. Anh nghe tiếng giày của bà trên sàn đá khi bà đi tới điện thoại.
Nhưng người cầm máy là Dutch. “Tôi nghe”, ông nói.
Mark hít một hơi.
“A lô”, Dutch nói.
“Con đây”, Mark nói. “Bố, con đây, Mark đây”.
Krystal đang rửa mặt khi cô nghe tiếng súng nổ một lần nữa. Cô dừng lại để mặc nước chảy qua những kẽ tay rồi rửa nốt mặt và rời khỏi phòng ngủ. Cô muốn tìm Hans. Thằng bé lẽ ra phải được thay tã từ lâu rồi, và bây giờ đã gần đến giờ cho nó ăn. Cô nhớ nó.
Cô cẩn thận đi qua đống phụ tùng trên sàn nhà để vào phòng khách. Căn phòng gần như tối đen. Krystal bật đèn lên và đứng đó, tay vịn vào tường.
Tất cả mọi thứ trong phòng đều màu đỏ. Thảm trải sàn màu đỏ. Ghế và sa-lông màu đỏ. Những cái chụp đèn cũng màu đỏ và có nhiều những cái tua nhỏ xung quanh. Gối trên sa-lông có hình những trái tim và được bọc bằng một loại sa-tanh trông có vẻ ẩm ướt dưới ánh đèn; trong một khoảnh khắc, trông chúng như những quả tim thật.
Krystal nhìn căn phòng. Trong một tiểu thuyết nào đó, cô từng đọc được cụm từ “tổ ấm tình yêu” và cô đã mường tượng đến những bức tường ngập ánh sáng, những cây thông cao chạm tới ban-công bên ngoài. Nhưng cái này – cô nghĩ và nhìn căn phòng – cái này chính là tổ ẩm tình yêu. Thật kinh khủng, kinh khủng.
Krystal đi ra mở hé cửa. Một ai đó đang nằm trên ghế trước của chiếc xe, đôi chân trần thò ra ngoài cửa sổ, ủng của người đó ở trên mặt đất cùng với một đôi tất vàng vắt vẻo trên đôi ủng. Cô không thể nhìn thấy những người đàn ông trên ghế nhưng một người trong số họ cứ nói đi nói lại điều gì đó. Krystal không nghe rõ. Rồi cô nghe thấy Hans lập lại từ đó và những người đàn ông phá ra cười.
Cô mở cửa rộng hơn. Vẫn đứng trong nhà, cô nói “Hans, lại đây con”. Cô chờ. Cô nghe tiếng ai đó thì thầm. “Hans!” cô nói.
Thằng bé đi tới cửa. Mặt nó đầy bụi nhưng trông nó rất vui.
“Vào đi”, cô nói.
Hans ngoái đầu nhìn về phía sau rồi nhìn Krystal.
“Vào đi, Hans”, cô nói.
Thằng bé đứng đó. “Đồ chó cái!”, nó nói.
Krystal lùi lại một bước. “Không!”, cô nói. “Ồ, không, không, không. Đừng nói thế. Lại đây, con trai của mẹ”. Cô giơ hai tay ra.
“Đồ chó cái!” thằng bé lặp lại.
“Ôi!”, Krystal nói. Cô đẩy rộng cửa, bước tới chỗ Hans và tát mạnh vào mặt thằng bé. Cô tát mạnh. Nó ngồi bệt xuống, nhìn lên cô. Krystal chưa bao giờ làm thế. Cô cầm một tấm ván mỏng từ trong đống ván ở cạnh cửa. Ba người đàn ông ngồi trên ghế quan sát cô từ dưới vành mũ. “Ai dạy nó?” cô nói. “Ai trong các người dạy nó từ đó?” Khi họ không trả lời, cô đi tới cái ghế, vừa đi vừa chửi bằng tiếng Đức. Họ đứng lên và lùi lại. Hans bắt đầu khóc. Krystal quay lại thằng bé. “Im ngay”, cô nói. Thằng bé nấc lên một cái rồi im bặt.
Krystal quay lại những người đàn ông. “Ai dạy nó từ đó?”
“Không phải tôi”, Webb nói.
Những người kia chỉ đứng đó.
“Thật xấu hổ!” Krystal nói. Cô nhìn thẳng vào họ rồi bước tới chỗ cái xe. Cô đá văng đôi ủng ra. Cô cầm chặt tấm ván và đập mạnh hết sức vào đôi chân trần đang thò ra ngoài cửa sổ xe. Người đàn ông bên trong gào lên.
“Cút ra”, Krystal nói. “Cút ra ngay”.
Anh ta bò ra từ cửa bên kia và nheo mắt nhìn cô ngang qua nóc xe. Không có cái mũ cao bồi, trông mặt anh ta giống như một đứa trẻ đang phụng phịu – đỏ và phúng phính. Cô nhấc tấm ván lên và anh ta bắt đầu nhảy lò cò trên cát nóng về phía tòa nhà; tóc anh ta phập phềnh như một đôi cánh. Anh ta dừng lại trong bóng mát tòa nhà và ngoái nhìn, vẫn phải liên tục đổi chân. Anh ta tiếp tục quan sát Krystal. Hans cũng thế – thằng bé ngồi gần cửa. Cả những người đàn ông trên ghế. Tất cả họ quan sát xem cô sẽ làm gì tiếp theo.
Thế đấy, Krystal nghĩ. Cô ném tấm ván ra xa và một người đàn ông lùi lại. Krystal suýt bật cười. “Trông mình hẳn là giận dữ lắm”, cô nghĩ, “điên quá đi mất”, và khi cô nghĩ đến đây thì sự giận dữ rời khỏi cô. Cô cố gắng níu giữ đó nhưng nó biến mất ngay lúc cô biết đến sự hiện hữu của nó.
Cô lấy tay che nắng trên mắt và nhìn xung quanh. Những ngọn núi phía xa đổ bóng dài trên sa mạc. Sa mạc vắng tanh và tĩnh lặng. Không có bất cứ thứ gì chuyển động ngoài Hope đang đi bộ về phía họ với khẩu súng lủng lẳng sau lưng, đầu súng nhô lên khỏi bả vai chị ta. Khi Hope đến gần, Krystal vẫy tay và Hope giơ hai tay lên. Trong tay chị ta lủng lẳng hai con thỏ.
Chuyện Chúng Ta Bắt Đầu Chuyện Chúng Ta Bắt Đầu - Tobias Wolff Chuyện Chúng Ta Bắt Đầu