Số lần đọc/download: 102 / 66
Cập nhật: 2020-06-24 21:49:52 +0700
Phần II - Chương 8
C
ách nhà Parker khoảng một dặm, nơi con đường chia ngả, người ta đã dựng một cửa hàng, và kịp thêm một nhà bưu điện, giúp Durilgai đủ hạ tầng để tồn tại, hai tòa nhà này chứng minh điều đó. Và khi những người dân đã lấy được lòng tin, họ lê bước dọc theo những con đường thẳng đầy bụi bặm đến làng mình và xuôi theo những con hẻm ngoằn ngoèo đầy sỏi đá, đàn bà thì la cà mua sắm, còn đàn ông, chẳng có mấy lý do, chỉ để đi giết thời gian.
Mùa hè là mùa của bụi trắng và cát vàng. Trong ánh chói lòa của bầu trời và sắt thép, trong mùi hương của bạch đàn khô và kiến bị nghiền nát, đám đàn ông xo vai, nheo mắt nhìn khi họ tựa người vào những cột hàng hiên của cửa hàng bách hóa hoặc ngồi thẳng thớm. Một số người phô bày cái trán loang lổ màu sắc trong bóng râm, thà chịu đựng lũ ruồi hơn là đội mũ nỉ ướt. Trên hàng hiên cửa hàng, không khí trở nên khẩn trương sau giờ nghỉ ngơi. Lời nói ba hoa bốc phét, không ai kiểm soát cả, vì thời gian mênh mông; trong khi có những người không nói chuyện, những người im lặng, những người kín đáo hơn, lấy gậy hay roi viết lên bụi hoặc xóa đi, rồi viết bằng những mật mã riêng của mình, sau đó ngước cặp mắt nhợt nhạt nhìn lên.
Vào giai đoạn này của sự tồn tại, bộ mặt đơn giản của cửa hàng ở Durilgai vẫn rực lên màu sơn nâu. Đó là một trò chơi trẻ con làm bằng gỗ và sắt. Nhiều mặt hàng khiêm tốn đứng trang trọng trong tủ kính, xô và bấc đèn, chổi làm từ cây kê, cán rìu và hàng len móc. Không có hàng dễ hư hỏng trong tủ kính là chính sách của người chủ cửa hàng, người đã sắp xếp chúng một cách vất vả. Chúng trông không nhuốm màu thời gian và mang vẻ vĩnh hằng. Chắc hẳn một người thợ vẽ vụng về chưa học được thói dối trá của nghệ thuật, đã vẽ chúng trên mảnh gỗ lót.
Cửa hàng này, hay còn gọi là tiệm tạp hóa, như người ta vẫn gọi, ngay từ đầu thuộc về ông Denyer, một con người hơi đỏm dáng, nhưng tốt bụng, cầu nguyện và nuôi gà ri để mua vui. Ông Denyer thích đi giữa đàn gà, nhìn xuống chúng và mỉm cười trước sự gọn gàng của đàn gà qua cặp kính dầy cộm. Thực ra ông ta là sự bổ sung cho cửa hàng, được tạo ra một cách đơn giản, thậm chí còn vụng về nữa. Nhưng ông ta sẽ chịu đựng. Ai đi xe từ Durilgai dọc theo con đường đến Bangalay, khi quay lại nhìn đều thấy ông Denyer, đứng lì với thái độ giản dị, bên quầy hoặc bên lối cửa ra vào. Cảnh này lại nằm cố định trong cảnh quang, gồm những ngọn đồi thoai thoải xanh rì, hoặc đến cuối mùa thì thành xơ xác. Bên cạnh cửa sổ có cây liễu bách do chính ông Denyer trồng, đầu mùa hè nó phe phẩy những lá nhạt màu hồng xỉn, nhưng đến cuối mùa hè lại ủ rũ thành từng chùm bám bụi đất màu hồng. Khi thân cây to lên, những chùm lông của loại cây liễu bách thẳng tắp này trở thành một cái gì đó khiến ta phải tìm kiếm. Những người khách lạ thường hỏi ông Denyer cây của ông ta là cây gì, nhưng đó lại là điều ông ta không biết. Ông mỉm cười. Ông ta nói mình mua vì muốn có một cái cây, nên ông ta phải trồng cái gì đó, và chính vì thế nên có cây kia. Song đôi kính dày cộm của ông ta rõ ràng là hài lòng.
Trong cả quận, tên của các vật không quan trọng mấy. Con người ta sống. Hầu như không ai thắc mắc về mục đích sống. Con người ta sinh ra. Con người ta sống. Hàng đàn trẻ em người Ai-len mũi thò lò, đen nhẻm, và người Scotland tóc hung, ghẻ lở đổ ra từ bụi rậm, ùa ra từ những lối mòn nhập vào những con đường lớn, chẳng bao lâu đã trở thành những nam nữ thanh niên thon thả, đi quanh quẩn, tránh mặt nhau, rồi lại gặp nhau, tay nắm chặt tay, quyện hơi thở vào nhau trong những buổi tối nóng bức. Những mô hình mới của cuộc sống, của đồng cỏ, sân và vườn cây, còn để lại dấu vết bên sườn đồi và những máng rãnh nhỏ. Nhưng chưa đâu. Đúng lúc. Khoảng thời gian chậm rãi, vào những ngày hè nóng nực.
Ngay cả cái trạm bưu điện ở Durilgai mặc dù chẳng liên hệ mấy với thế giới bên ngoài, hay có hoạt động gì khác, cũng vẫn đứng yên. Trạm bưu điện, đối diện cửa hàng Denyer, bên cạnh biển chỉ đường sắp bị mối xông, không bề thế bằng. Tầm quan trọng của nó chẳng rõ ràng tý nào.
Trạm bưu điện là một căn nhà tranh kêu cót két, bên cạnh có một cái cửa sập để bà Gage đẩy những bức thư qua hay thò bộ mặt tuyệt vọng của mình ra nói với theo những tấm lưng đang rời khỏi trạm mấy lời nhận xét cuối cùng về thời tiết, chắn giữa bà ta và sự im lặng. Bà đội một cái mũ bẹt, giống như lá cọ khô, và tay áo giấy nâu. Trong văn phòng đó, dĩ nhiên đó là thế, ta cũng có thể nhìn thấy những mô hình người của thợ may, trên đó bà trưởng trạm bưu điện khâu vội những chiếc áo choàng vải bông cho bất cứ ai cần đến. Những rẻo vụn vứt lung tung thành đống và một củ cà rốt mịn như nhung màu cam bám đầy bụi mài, lại có cả bụi đường bám đầy những lọ mực và dính bê bết mực dấu bưu điện, và bụi phủ cả trên những tờ giấy văn phòng nghe lạo xạo, hoặc bay tứ tung mỗi khi có gió.
Bà Gage lúc nào cũng lăng xăng đi lại, tháo cái dây buộc bó thư hay tìm kiếm cái gì đó. Vào những ngày Chủ nhật, bà đánh xe đi chơi, cổ choàng một bộ lông cáo đỏ và một con chó xanh xám chạy phía dưới chiếc xe, rồi bà ta gò cương ngựa, nói chuyện bằng một giọng đố kị, vô ý làm lộ ra cả hàm răng.
Bà trưởng trạm bưu điện có một ông chồng vô tích sự. Cũng không rõ như thế nào, chỉ biết là ông ta không làm ra tiền, và có lần đã vẽ một bức tranh về một cái hàng rào gỗ lâu năm với vài ba cái cây chết ở đằng sau, khiến người ta thắc mắc. Cách kiếm tiền của ông Gage thì đa dạng và huyền bí. Đôi lúc ông ta ở nhà, đôi lúc không. Ông ta là một cái bóng mặc áo may-ô.
Nếu có ai bắt chuyện, ông ta sẽ ngẩng lên trước khi nghe và nói “À, được, được, để tôi chạy đi tìm bà Gage cho.” Rồi ông ta thực hiện ngay, một cách lén lút cứ như mình là người được làm phước cho ở trọ trong căn nhà ấy. Đó là nhà của bà trưởng trạm bưu điện.
Có lần ông Gage nằm bò ra đất, chăm chú quan sát vào một con kiến đến nỗi hai mắt lồi ra, thế là làn sóng nâu bập bềnh nuốt chửng lấy ông, hai cánh tay bám vào đất, ở một góc độ cố định, lớp thịt xám xịt của chúng run rẩy. Khi tỉnh lại, có con chim ruồi trong bụi cây rậm rạp, và chị Parker đang đi lại.
- Có chuyện gì thế? - Chị nói.
- Không, - ông ta nói. Tôi đang nhìn con kiến.
- À, - chị nói có vẻ ngờ vực, liếm đôi môi nóng và bụi bặm.
Chị không hạch vấn thái độ của ông ta thêm, khiến ông ta kinh ngạc.
Có lẽ chị bị đãng trí, hoặc có lẽ do nóng nực. Vì bỏ qua cơ hội để hủy diệt người khác là một việc không bình thường. Và nhẽ ra chị có thể lấy chân di nát trạng thái mê loạn còn lại trong cái mẩu xác kiến của ông ta.
Còn ông ta vẫn quỳ đó nhìn chị, thân gầy gò trong chiếc áo may-ô, nhưng sự dữ dội của đôi mắt xuyên thấu bộ mặt vô tri vô giác của chị, vào những nơi tối tăm hơn, như thể cả đây cũng là điều bí ẩn ông ta phải lý giải, giống như linh hồn của con kiến.
Amy Parker, người đang ngập ngừng nửa muốn dừng lại để thỏa mãn nhu cầu chưa thể hiện rõ của con người đang quỳ gối này, nửa lại muốn leo tiếp con dốc, lúc này đã là một người phụ nữ đương độ chín. Bộ mặt nhọn hoắt cùng đôi má xương xương tràn đầy những khát vọng gần được thỏa mãn. Chị có màu da bánh mật vào mùa hè. Đôi cánh tay dần rắn rỏi có thể nâng những vật nặng khi không có người đàn ông nào làm, nhưng nhìn đôi cánh tay đó vấn tóc thì hay hơn. Cả cái lưng khỏe màu bánh mật với đôi cánh tay giơ lên là một bình hoa tròn đầy. Người chị tỏa ra ánh sáng màu mật óng đặc quánh của những ngày hè ngột ngạt.
- Có bà Gage ở đấy không ông? - Chị Parker hỏi.
- Có, có, - người chồng bà trưởng trạm bưu điện trả lời. - Bà ấy trong văn phòng hay quanh quẩn phía sau nhà. Kìa, bà ta kia kìa. Chắc bà ấy đang lọc thư.
Ông ta bứt một lá cỏ vàng.
- Thế ông chưa định đứng dậy à, - Chị Parker hỏi. - Quỳ mãi thế khó chịu lắm.
- Không sao, - ông ta nói.
Rồi ông ta đứng dậy, đi sâu nữa vào trong bụi cây kéo lê cả cọng cỏ vàng.
Sau khi người chồng bà trưởng trạm điện đứng dậy đi rồi, chị Parker tiếp tục leo lên đồi. Nếu có người cùng đi, hẳn chị đã cắc cớ về thái độ của ông Gage, nhưng đi một mình trong cái nóng của ngày hè, nên ông ta là một đứa bé, một con vật, hoặc một hòn đá, chị chẳng thể náu mình được. Những mảnh đời mơ màng mà chị đã sống nay nổi lên và trộn lẫn với ánh sáng chói chang. Chị ngẩng lên nhìn mặt trời là chồng chị, nhưng vì bị lóa mắt nên chị không biết rằng bụi cây đã nhìn thấy sự lõa lồ của chị.
Vì vậy chị đi tiếp, sờ tay vào hàng rào có ai đó phơi một cái da rắn kêu leng keng. Đó là hàng rào nhà bưu điện, nhà xí bị gió đánh bật nghiêng, và từ cái cửa sập, mặt bà trưởng trạm bưu điện đang ngó ra.
- Chị Parker, - bà Gage gọi to. - Thế nào, chị Parker, nóng đấy nhỉ? Chẳng có lấy tý gió. Chẳng có dấu hiệu mưa. Cả cái bể chứa nước đã gần cạn vì tôi dùng để tưới cà chua. Tôi muốn cà chua được tươi tốt.
Không ai trừ bà trưởng trạm bưu điện thấy khốn khổ vì thời tiết. Nét mặt bà thể hiện những ngày này đối với bà thật không thể chịu đựng nổi.
- Có thư từ gì cho chúng tôi không, bà Gage? - Chị Parker hỏi.
- Không có, chị ạ, - bà trưởng trạm bưu điện nói. Hình như không có. Tôi không nhớ nữa. Nhưng để tôi xem.
Rút mũ ra khỏi cái cửa sập, tiếng lá cọ khô nghe sột soạt.
- Ai mà biết, - bà ta nói, - ta có thể quên cái gì. Với cái thời tiết như thế này. Nó làm người ta điên đầu lên được.
Bà trưởng trạm bưu điện tháo dây buộc bó thư một cách vô cùng khéo léo. Liếm ngón tay cái vàng khè, động tác này của bà gần như một nghi thức chứ chẳng phải chỉ vì công việc quy định, nhằm an ủi người khẩn cầu khiêm nhường đang đứng hít mùi xi nóng chảy bốc lên từ điện thờ phía sau. Không lẽ nào một lá thư được nâng tựa bánh thánh ngang tầm mắt của bà trưởng trạm bưu điện lại có thể, về thực chất, thuộc về ai đó. Có nhiều lá thư không bao giờ thuộc về ai cả. Nhưng Amy Parker vẫn tiếp tục ngồi dự nghi thức này vì nó xảy ra trên đỉnh đồi, và thỉnh thoảng người ta gửi đến một quyển catalogue có cả tranh ảnh các đồ vật, có lần cả thư của bà thím Fibbens đọc cho một bà biết chữ viết hộ, về một chuyện bực mình nào đó.
- Không có đâu chị ạ, - bà Gage nói, - đúng như tôi nghĩ mà. Nóng nực thế này chẳng ai ngồi viết thư đâu. Mà lại có cả bão ở bờ biển phía bắc, một chàng trai bị sét đánh ngay trên lưng ngựa. Sét đánh vào bàn đạp sắt. Nghe nói anh ta mới có một đứa con sáu tháng. Anh ta làm nghề đốn gỗ. Chị hiểu chứ?
- Nên hiểu ra sao hả bà Gage? - Chị Amy Parker nói, lúc này cảm thấy mạnh mẽ hẳn lên.
Rồi chị bước đi đủng đỉnh.
Nhưng bà trưởng trạm bưu điện da vàng ệch lại thò đầu qua cửa sập làm xoắn cả mũ, mặt bà ta nom nhăn nhúm tuyệt vọng trước câu chuyện cảnh sét đánh và trước cảnh cô độc sắp xảy đến với chính mình.
- Nhưng cũng có ích cho người khác đấy, - bà ta gọi to. - Chị phải thừa nhận điều đó. Chính cơn mưa. Bể chứa nước khô cạn đến một nửa rồi, người ta nói đến chiều sẽ có gió nam thổi mạnh đấy. Nhưng không có mưa.
Túm chặt chiếc mũ trong làn gió của ngôn từ, người đàn bà tuyệt vọng lại là nạn nhân của chính bản chất của mình. Chắc hẳn bà ta sẽ nói: hỡi sấm sét, hãy giáng vào đầu ta, biến ta thành những ngọn lửa và ánh sáng chói lòa. Nhưng sấm sét là điều khủng khiếp. Vì vậy bà rụt đầu vào, nắn lại mũ cho ngay ngắn, nghe sột soạt như những cánh tay áo giấy nâu của bà.
Chị Parker bước đi như được miễn trừ khỏi thời tiết. Vì lý do đó có một số người không quan tâm đến vợ chồng Parker. Nhưng sấm sét là một vấn đề riêng tư. Chị trìu mến nhớ lại cơn sấm sét ập đến với vợ chồng chị, nhớ lại làm sao họ đã tai qua nạn khỏi, và đồng thời đã cởi mở để thấu hiểu lòng nhau.
Chị rảo bước. Chị muốn về nhà. Chị muốn kể cho chồng nghe mọi điều đơn giản ngay cả khi anh bỏ ngoài tai. Đi khá xa khỏi lời nói của bà trưởng trạm bưu điện, chị đi đến đoạn đường luôn khiến chị cảm thấy lạc lõng. Những bộ mặt trên hàng hiên cửa hàng, dường như đã gắn chặt vào đấy trước đó ít lâu, nhìn chằm chằm vào chị từ những vị trí vĩnh hằng và thách thức chị đến gần.
Có một chiếc xe độc mã bên ngoài cửa hàng, đáng lý ra, không thuộc vào khung cảnh đó. Không có bụi bám vào lớp vécni bóng lộn của chiếc xe hào nhoáng. Con ngựa không một giọt mồ hôi trên mình, lúc lắc cái mặt sẫm đuổi ruồi, làm rung leng keng một loạt những nhạc đồng, nhấp nhoáng chói lòa, vẻ thách thức. Đại thể ở con ngựa và cỗ xe có cái vẻ táo bạo oai nghiêm khiến chị Parker thấy ngượng. Song chị vẫn cứ đến gần, nhưng quyết định không nhìn, với động tác vụng về, cứng nhắc, giữa cảnh bụi bặm.
Đó là cỗ xe ngựa của ông Armstrong, chị lờ mờ nhận ra do thường thấy anh con trai ông ta vẫn hay đánh xe đi. Lúc này anh ta không có đây, có lẽ anh ta đang ở trong cửa hàng mua mấy thứ lặt vặt, vì những gì giá trị đều được mang từ thành phố Sydney về ngôi nhà gạch. Do đó con ngựa đứng đợi, thủng thẳng nện móng thình thịch xuống đất làm rung chuyển chiếc xe trên có hai phụ nữ ngồi.
Amy Parker ngượng nghịu đứng cạnh cây liễu bách, chị hầu như không nhìn thấy, chỉ biết là có chiếc xe ở đấy. Biết rằng hai người kia ngồi lắc lư xe, vừa cười vừa ăn kẹo và quẳng giấy bọc xuống đường. Chắc không phải họ nhàn rỗi đi chơi, vì không người nào tỏ ra thiếu thận trọng. Họ là chủ của chiếc xe đó, dưới cái dù mà một người cầm che, chiếc dù đung đưa uể oải, và nhuốm hồng da họ.
Ai nói gì mặc họ, chị vẫn thủng thỉnh bước dưới bóng cây liễu bách, chị cũng chẳng buồn nhìn những bộ mặt kia và bộ mặt mình chị cũng thấy quá khó chịu. Lúc này mặt chị đỏ au, có một ít lông tơ bết bát. Chị đội một cái mũ mà có lần chị cho là rất xinh, có đính một chùm anh đào sáng bóng, nhưng giờ chị bỏ mũ ra để giấu sự ngớ ngẩn của mấy quả anh đào trên cái mũ nhàu nát rẻ tiền của chị.
Suốt thời gian ấy, việc đóng cương ngựa xủng xoẻng đến kinh khủng, như những lời nói của một cuộc đối thoại từ xa, nghe có vẻ riêng tư, mặc dù không thể hiểu nổi. Hai cô tiểu thư kia cười, xoay cái ô về phía mình và ném giấy bạc xuống đường.
Có mấy người đàn ông bên hiên đang trầm trồ và khó chịu trước cỗ xe ngựa của kẻ giàu có, và buông lời châm chọc khiếm nhã đối với các cô gái. Khi chị Parker đến gần, ông già Peabody nói điều gì đó, như thể ông cảm thấy phải nói, nhưng nói gì thì chị không biết, trong cái cảnh náo động và khốn cùng đó. Với một dải nơ xanh uốn lượn quanh cái ô. Rồi anh chàng con ông Armstrong đi ngược về phía chị, người mà chị biết từ lúc còn là cậu bé có cổ tay khẳng khiu, giờ là một người đàn ông có đôi môi dày.
- Đứng lại, - anh ta nói, dùng khuỷu tay ngăn chị lại và cười vang, tiếng cười nghe ồm ồm trong cổ họng.
Anh ta lùi lại nhìn chị, như anh ta vẫn nhìn phụ nữ, nhìn vào ngực, một cách vừa phải khiến có người thinh thích. Rồi vào bộ mặt phát hỏa của chị nhưng nó không cởi mở đối với anh ta. Một luồng gió từ cửa hàng thổi lại tạt váy vào giữa hai chân thô và xấu của chị.
- Chị Parker đó à, - cuối cùng anh ta nhận thấy, - Xin lỗi nhé, - anh ta cười vang. - Suýt thì nhầm.
Nhưng mặt anh hơi đỏ vì nhớ đến lúc còn bé mình có cái cổ tay khẳng khiu. Anh ta liền chạy xuống bậc thềm trong cái quần lộng lẫy, tới chỗ chiếc xe chật ních các cô gái từ thành phố Sydney đến cho anh ta kén chọn.
- Có người cứ thích vẽ vời cơ, - ông Denyer nói, cái dây đồng hồ của ông ánh lên trong cảnh trời u ám.
- Ồ, đúng đấy, - chị Parker nói, hai bàn tay cháy nắng dựng những bao bột thành một chồng cao.
Chị liền nhớ đến mục đích mình đến đây và điểm lại những thứ vô tội đó một cách hầu như thô bạo, cứ như người ta buộc chúng phải mang một ý nghĩa cao cả hơn. Nhưng những hạt lúa mạch mờ đục và giả tạo đang rơi xuống cái nồi đồng của người chủ cửa hàng tạp hóa. Chị thu vén những gói bột mì tinh khiết, bình dị đó, trả tiền và đi ra.
Dĩ nhiên cỗ xe ngựa đã đi khỏi, nhưng bầu không khí vẫn còn xao động. Mấy người đàn ông bỏ mũ ra, có người đội mũ vào. Một số đang cựa mình trong bộ quần áo và kể chuyện về ngựa, trong khi phần lớn nhớ đến cái cổ của hai cô gái và trầm ngâm chấp nhận sự xấc láo từ làn da trắng muốt của họ.
Và cả Amy Parker cũng bắt đầu chấp nhận, khi chị quay trở lại con đường vắng vẻ. Sự đơn điệu của con đường thật dễ chịu. Giờ đây câu chuyện về cỗ xe ngựa kia chỉ râm ran hết sức mơ hồ trong máu chị. Đôi chân chị bình thản bước trên con đường đã bị những bánh xe làm tung bụi mịt mù.
Trong cảnh bình thản trở lại và tĩnh lặng đến gai người này, chị lại thấy gần gũi với chồng mình, mặc dù anh nói với chị với cái giọng nặng hơn của anh chàng giàu có đó, rồi miệng họ trao đổi thứ khoái lạc uể oải. Chị vờ phá lên cười đỏ mặt, và chuyển tay cái giỏ. Vì dĩ nhiên đâu có giống như vậy. Mặt chị trở nên tư lự hơn, và gầy đi. Bao nhiêu chuyện đau lòng đáng tiếc, bao kỷ niệm trìu mến ập đến khi chị từ trên mỏm cao nhìn xuống cây liễu bách trải dài trên con đập đục ngầu, và căn nhà gỗ của họ thấp thoáng xa xa. Tuy nhà cửa trong vùng đã mọc lên san sát, căn nhà đó vẫn dường như đứng trơ trọi, và chính cái cảnh cô lập, yên tĩnh đó giờ đây chị đang rảo bước trở về; nó gắn khít như làn da trên thân thể chị.
Nhìn quanh, chị cảm thấy mình là chủ của cả những búi cỏ run rẩy bên ngoài hàng rào. Chị vừa chiếm hữu vừa bị chiếm hữu. Những chiếc lá mát rượi quẹt vào mặt chị, và luồng gió đầu tiên nhẹ thổi vào khuỷu tay và gáy chị. Đồng cỏ gợn sóng reo vui trong đó con sếu xanh khệnh khạng bước, con chim te te giản dị nhảy nhót, và các chú bê non vụng về phe phẩy cái đuôi. Chị rảo bước trên đá sỏi, vừa đi vừa chạy. Chạy về nhà mà không có lý do gì thì thật ngớ ngẩn, nên chị phải ôm con mèo ngoài cổng và để cái lưỡi ráp của nó liếm làn da mặn của mình.
Cuối cùng chị đã về đến nhà, nơi đây không ai mong chị phải tìm những câu trả lời. Trong nhà, vòi nước chảy nhỏ giọt, cành lá lòa xòa sát mái nhà, những âm thanh hòa cùng yên lặng khiến chị thấy mình khỏe khoắn. Vừa ra đến chỗ cái giếng, chị đã thấy chồng đứng đạp bàn đạp hòn đá mài mà anh mang từ Bangalay về từ những ngày đầu, đổi lấy một cái gì đó mà giờ chị cũng quên mất.
- Ồ, anh, - chị nói, tiến lại chỗ hòn đá mài, và một mùi đá ẩm ướt bốc lên, - Em đã về. Trời nóng như thiêu như đốt. Nhẽ ra anh phải ra xem, anh Stan ạ, ở cửa hàng có một cỗ xe ngựa chở chật các cô gái mà anh chàng Armstrong đưa về. Toàn các cô quý phái. Có một cái dù trắng. Có cả viền đăng ten. Gớm, lại có cả dù nữa đấy!
Nhưng anh không nhìn lên hoặc nói gì nhiều, mà chị cũng chẳng mong đợi.
Anh giơ lưỡi dao sáng loáng ghé vào mặt phẳng của hòn đá, nó chạy ro ro và vỗ vào một lớp nước nâu lấy từ cái chậu nhỏ ở dưới.
Chị thở dài, ngồi lên miệng giếng, da thịt chị uống lấy hơi mát.
Chị nhìn con dao sáng trắng trong tay chồng khi anh ra sức ép nó vào hòn đá. Chị nghển cổ lên, trong bóng cây lờ mờ dịu mát bên trên cái giếng, gần như muốn hiến thân cho con dao sáng loáng mà chị sẽ đón nhận với cả tình yêu cuồng nhiệt.
Mài xong, anh lấy ngón tay cái gại nhẹ lưỡi dao, cuối cùng nhìn vào chị. Anh nhìn chị trong ánh sáng lờ mờ của cây cổ thụ, cắn môi, vẻ nghĩ ngợi. Bên ngoài cái bóng mát của cây là những cánh đồng đã được khai quang, bị ánh nắng hè thiêu trắng, và ngôi nhà anh đã ghép vội, rồi mở rộng và sửa sang, cuối cùng đã chiếm một vị trí đường hoàng giữa cánh đồng, thậm chí lại còn có vẻ e ấp dưới giàn nho xoắn xít và vô khối những bông hồng. Mọi thứ đều được sắp xếp quanh anh, tỏa sáng từ anh trong ánh nắng chiều rực rỡ. Và Stan Parker cảm thấy hài lòng.
Và anh hài lòng với cái cổ họng khỏe của vợ.
Hình như một công trình bền chắc đã mọc lên tại nhà vợ chồng Parker. Thậm chí trong xương thịt. Dẫu cho bản thân Stan Parker có gầy đi chút ít, dẫu cho gáy anh có nhăn nheo khi cúi xuống nhặt chiếc rìu lên để mài tiếp, dẫu cho đôi mắt anh có sâu hoắm vì ngạc nhiên và chấp nhận, anh đã chống đỡ được đòn quật và sẽ tiếp tục chống đỡ.
Thân thể anh cho thấy rằng nó sẵn sàng nghênh tiếp mọi thứ, đôi vai anh tròn mịn khom khom trên cái bàn mài, bàn chân điều khiển bàn đạp khi kim loại ăn mòn đá và đá ăn mòn kim loại trong tiếng lách cách chát chúa của sự hoàn mỹ. Mọi thứ rồi sẽ ổn nếu vượt qua được cái đận này. Đá nhảy chồm lên và được dây điều khiển kìm lại. Sức mạnh của hai bàn tay anh tạo dáng cho kim loại. Ở vào thời điểm đó, có thể mài hầu hết mọi thứ thành hình ta muốn.
Anh thấy chị có vẻ sốt ruột khi ngồi bên thành giếng, bàn chân vung vẩy, nên anh nói:
- Có lẽ hắn ta sẽ lấy cô gái trên chiếc xe đó.
- Em chắc là không, - chị nói cộc lốc. - Có hai cô cơ mà.
Chị tung bàn chân như đá vào những gì đã lảng tránh chị, vào thế đứng của anh, vào bộ sọ trơ trơ của anh. Nhưng chị nhìn vào bàn tay anh và vui mừng thấy rằng chồng mình là một người nghèo.
Chị đứng dậy. Ôi, chị cảm thấy lòng bồn chồn, ta làm thế nào để chứng minh anh ấy là người tuyệt vời nhất? Rồi đột nhiên chị thấy vô cùng băn khoăn, trống trải.
- Ta uống một chén trà đi, - anh vừa nói, vừa đưa mắt liếc nhìn lưỡi rìu. - Rồi ta đi xuống chỗ đàn bò.
Sau đó khi hai người xách những cái xô từ vườn cây sum suê quanh nhà ra ngoài chỗ nóng hừng hực, chị lại thấy day dứt muốn chứng minh với bản thân một chút gì hoàn hảo. Trong cái nóng lắng dịu đi vào buổi chiều, bóng những cọc hàng rào ngả dài, đàn bò thủng thỉnh bước về phía sân. Mấy con bê non nhảy cẫng lên, rồi chạy, nhưng nổi bật lên tất cả vẫn là những con bò già hơn, bụng căng phồng đang bước chậm rãi. Tất cả đều nặng nề, nhưng rõ ràng là hoàn hảo trong bóng chiều vàng lê thê. Và sự mong đợi. Và những con bò giật giật hai tai. Những con bê non ngó nghiêng.
- Gió đang tràn về đấy, - người chồng nói, vốn bị đồng cỏ lúc chiều tà hớp hồn. Lúc nào anh cũng muốn chỉ trỏ cái này, cái nọ.
Thế nên anh vui mừng có dịp giơ tay lên với cả cái xô quàng vào cổ tay và nói:
- Em xem kìa, đúng là gió rồi!
Ngọn cây uốn rạp mình xuống như cái cần bằng bạc. Bụi cuốn quanh như đùa giỡn, và một con bê nhảy cẫng lên vì sợ hay vì vui sướng, chổng mông lên trời và xả rắm.
Chính đó là trận cuồng phong từ phía nam thổi về mà bà trưởng trạm bưu điện dự đoán, giờ đây nó đang quật vào thân hình hai vợ chồng, gột rửa mát rượi, như muốn cuốn phăng những cái xô trong tay họ.
Lúc này ông già người Đức bước ra, mỉm cười, người trắng xóa vì bụi cám bám vào khi bác ta cho những con bò trong chuồng ăn. Họ cùng cười, cùng pha trò với nhau. Họ nhắc lại câu chuyện đàm tiếu quen thuộc về con Tricky, con bò của chị, họ không được động đến nó - chỉ cần động vào sườn nó là nó sẽ đá bất ngờ, rồi lăn mình ra đất ngay.
Tối hôm đó, bên những cái giá đỡ đầu bò, trong gió, thật vui vẻ. Gió ngày càng rít dữ dội nhưng không hiểm độc, hầu như át cả tiếng vắt sữa. Tiếng gió ngày càng hấp dẫn. Đàn bò tiến đến cho sữa và thỏa mãn ra đi. Một lần nữa đây là sự mãn nguyện của sự hoàn hảo tuyệt đối. Cho đến lúc người chồng trầm ngâm. Bản chất của anh rất vững vàng, thậm chí toàn năng, trước đó vài giờ cạnh chiếc bàn mài, bắt đầu giảm sút. Những luồng gió reo vui, giống như nước chảy trong giá lạnh, khiến anh sốt ruột vắt vội những núm vú cuối cùng.
- Gì thế anh? - Giờ đến lượt chị hỏi, khi hai người đứng bên nhau trong căn nhà kho họ đã dựng lên, trên sàn ẩm ướt họ vừa mới cọ.
Dĩ nhiên chẳng có gì cả. Trừ khát vọng, không bao giờ được thỏa mãn, nhằm bộc bạch bản thân bằng da thịt hoặc bằng lời.
Buổi tối, sau khi những thùng sữa đã được cọ rửa, bằng nước sôi, rồi những chảo sữa nguyên chất đứng thành hàng và chị xếp nghiêng bát đĩa cho ráo nước, còn anh cũng đã tính toán xong trên mảnh giấy và đã có đáp số cuối cùng, anh ngồi xuống, miệng ngậm mẩu bút chì, chờ đợi để điền vào chỗ trống. Lúc này gió đã lặng mặc dù cái mát lạnh nó mang đến vẫn xoáy tròn, ngập tràn. Vào những đêm nóng bức, ngôi nhà như bị nén xuống, nom tồi tàn. Giờ đây nó mở rộng. Nó không được miễn trừ khỏi cái mênh mang của đêm mát lành. Mái nhà rộng mở, để những ngôi sao nhấp nháy soi bóng vào những chảo sữa, và nhiều sự hài hòa khác, giữa da và lông vũ, cành cây và ghế, không khí và kim khâu len đều được chứng minh.
Vì người vợ đã mang len ra, và chiếc kim mát rượi đang thoăn thoắt đan. Anh ngắm nhìn bàn tay vợ, rồi chiếc bít tất cũ mà chị giữ trên quả đấu bằng gỗ để mạng. Chị cuộn len lại, ngồi ở trong tâm của bóng đêm. Anh ngắm nhìn, và thật ra họ đúng là trung tâm, nhưng điều ấy rất mong manh, thế nhưng anh lại muốn cho chắc. Điều đó khiến anh ngồi gặm mẩu bút chì con, và chắc chắn đã dẫn đến kết quả cuối cùng, nếu như anh có dịp bộc lộ bản thân trong cuộc sống này. Nhưng lại không có. Trừ phi thỉnh thoảng anh nghĩ ra vài câu cầu nguyện.
Sau đó người vợ đặt chiếc bít tất xuống vì đã không cưỡng nổi cái đêm êm dịu như nhung này. Chị đi đến ôm lấy đầu chồng và ghì sát vào người như thể lúc này chị đã chiếm hữu được một cái gì. Chị giụi giụi môi mình vào mí mắt chồng, hôn lấy hôn để lên mặt anh, cho đến khi chị cảm thấy da thịt anh hưởng ứng. Cho đến khi họ quyện vào nhau trong đêm và bàn tay dắt lối một cách huyền bí như lướt trôi vào trong những gian buồng tối, nơi chiếc giường mềm mại đang rộng mở tiếp nhận họ.
Trong cái mát mẻ của cảnh vật được giải thoát, giữa những đồ đạc mơ màng, giữa bụi hồng dồn ép vào buồng, và trần trụi giằng co với họ, hai vợ chồng thầm thì cầu nguyện trên môi nhau được giữ mãi phút giây tuyệt diệu này. Nhưng sự vĩ đại của bóng đêm thật là mênh mông vô tận. Cuối cùng người vợ ngả ra, hầu như nức nở. Còn người chồng lại lui vào thân hình chắc nịch của chính mình. Anh nằm trên giường và sờ vào cái hầu như chỉ là một khung xương, mà linh hồn anh đã bắt đầu chấp nhận.
Cuối cùng là giấc ngủ, và làm việc, và niềm tin ấm áp vào sự hiện diện nào đó. Rồi lại ngủ.
Nhưng người vợ ngồi dậy. Chị đang lấy lại cá tính của mình. Người vợ, Amy Parker, đi ra tựa vào khung cửa sổ, cái khung tiếp nhận thân hình chị. Mọi hình dáng, âm thanh dường như hòa hợp với nhau trong đêm lặng. Đêm không còn mênh mang, mà quen thuộc, bóng đêm di chuyển cùng tiếng những con cú già rủ rỉ, làm tổ cùng một nơi hàng bao nhiêu năm, không khí vuốt ve da thịt cứ như chính bàn tay dễ chịu của chị. Chị đứng đó hồi lâu, ôm lấy thân thể của mình, và có thể cứ đứng đó thâu đêm, phân vân và thỏa mãn. Phân vân không rõ mình có hoài thai đứa con mà chị biết đến chân tơ kẽ tóc hay không. Vòng tay trước ngực ôm lấy trái tim đang khẽ đập.