Nguyên tác: Kidnapped
Số lần đọc/download: 410 / 22
Cập nhật: 2019-12-06 08:59:50 +0700
Chương 7 - Tàu Covenant Of Dysart Ra Khơi – Tôi Ở Trên Boong
B
ị trói chân tay, người đau ê ẩm, xung quanh tối om và đầy tiếng động lạ… tôi dần dần tỉnh lại. Tôi nghe tiếng sóng vỗ như từ một máy nghiền lớn, nghe thấy biển động đập vào thành tàu, nghe thấy tiếng kêu kèn kẹt của buồm và những tiếng thét chói tai của thủy thủ. Tôi bị dâng lên cao rồi tụt xuống dưới. Tôi cảm thấy ốm yếu, cạn sức, tất cả xương cốt đau nhừ làm cho trí óc tê liệt và mãi một lúc sau, luôn bị nỗi đau đớn dày vò, tôi mới lại suy nghĩ được đôi chút. Mãi lúc đó tôi mới dần dần thấy mình bị trói ở đâu đó trong hầm con tàu bất hạnh và chắc là từ ngọn gió mới ở trong vịnh, một cơn bão đã hình thành. Hoàn cảnh hiện nay làm tôi thấy mình vô vọng và dao động sâu sắc, đồng thời hối hận về sự ngây thơ của mình và căm giận vô bờ bác tôi. Tôi lại ngất đi.
Khi tỉnh lại vẫn trong những tiếng ồn ào đó ở xung quanh, tôi vẫn luôn bị chao đảo, lúc lên, lúc xuống. Ngoài sự đau đớn và say sóng làm tôi nửa tỉnh nửa mê bây giờ lại thêm sự khó chịu mà nói chung người mới đi biển luôn có.
Suốt thời gian xảy ra những chuyện phiêu lưu, tôi đã chịu đựng nhiều chuyện khó chịu, nhưng không có gì tra tấn tôi, cả phần xác lẫn phần hồn và làm tôi tuyệt vọng nhiều như những giờ đầu tiên trên tàu Covenant.
Tôi nghe tiếng súng nổ và cho rằng con tàu không vượt qua được cơn bão và họ bắn súng cấp cứu. Tôi vui mừng với ý nghĩ là mình sẽ được thoát khỏi tình trạng đáng sợ này dù có chết đuối cũng được.
Nhưng sau này tôi mới biết một chuyện như vậy đã không xảy ra mà đó chỉ là thói quen của tay thuyền trưởng và tôi muốn viết ra đây để thấy rằng kế cả những con người độc ác nhất cũng có những mặt tốt của nó. Số là chúng tôi đang đi ngang qua, chỉ cách Dysart vài dặm, là nơi con tàu này đã được đóng trước đây và là nơi cách đây vài năm mẹ tay thuyền trưởng, bà Hoseason, đã chuyển tới ở. Và dù con tàu ra đi hay trở về, Covenant không bao giờ được phép đi qua đây mà không chào cờ và bắn súng chào.
Tôi mất hết cảm giác thời gian. Trong cái hầm tàu địa ngục này, nơi tôi đang nằm trơ trọi, thì ngày và đêm như nhau và trong trạng thái bi đát của tôi, thời gian đã trôi đi bất tận. Tôi không còn biết tôi đã nằm đó bao lâu và chờ đợi con tàu đâm vào đá hoặc chìm xuống đáy biển ở những chỗ sâu nhất. Cuối cùng giấc ngủ đến làm tôi quên đi sự dày vò phải chứng kiến cái cảnh đó lúc tỉnh. Tôi không hiểu mình đã ngủ bao lâu, chỉ tỉnh lại khi có ai đó soi ngọn đèn dầu vào mặt.
Một người đàn ông nhỏ con, chừng ba mươi tuổi, mắt xanh, tóc vàng đứng trước mặt và nhìn tôi.
— Thế nào, khỏe chứ? – Anh ta hỏi.
Câu trả lời của tôi là một tiếng bật khóc. Người lạ mặt cầm tay tôi, bắt mạch, sờ thái dương, rửa và băng vết thương trên đầu tôi.
— Thế đó. – Ông ta càu nhàu – Một cú đập cuồng dại. Dũng cảm lên, cậu bé! Tất cả chưa phải đã mất hết. Khởi đầu xấu nhưng mọi việc sẽ lại tốt đẹp. Cậu phải hồi phục lại. Cậu đã ăn gì chưa, có thích chút thịt không?
Tôi nói rằng đối với tôi, ngay cả ý nghĩ ăn cái gì đó là nực cười rồi. Bằng cái bát uống trà ông ta cho tôi một ngụm rượu mạnh pha bằng nước. Sau đó ông ta đi khỏi, để tôi ở lại một mình.
Khi ông ta quay lại, tôi đang nằm nửa tỉnh nửa mê, mắt mở to nhìn vào bóng tối. Tôi không cảm thấy khó chịu nữa nhưng sự say sóng làm tôi chóng mặt, có cảm giác bị chao đảo và còn khổ sở hơn là buồn nôn. Ngoài ra, xương cốt đau nhức và sợi dây trói bằng dây căng buồm cứa vào da thịt, làm nóng bỏng như lửa cháy. Mùi hôi thối ở cái lỗ tôi nằm trở thành một bộ phận của chính tôi. Ngoài ra trong thời gian dài từ lúc người làm phúc đi khỏi, tôi bị tra tấn bởi nỗi sợ hãi, thứ nhất là trước lũ chuột cống, đôi khi chúng trèo cả lên mặt tôi và thứ hai, trước sự mộng mị thường đến với người sốt cao.
Vì thế, khi nắp hầm mở ra, ánh đèn dầu xuất hiện tưởng như ánh sáng mặt trời thiên thần và mặc dù lúc này ở trong nhà tù của mình tôi đã nhìn rõ cái dầm lớn của hầm tàu, tôi vẫn muốn kêu thật to lên.
Người đàn ông mắt xanh là người thứ nhất leo thang xuống, tôi cảm thấy bây giờ ông bước đi không bình tĩnh lắm. Ông ta đung đưa một cách kỳ lạ. Sau ông ta là thuyền trưởng. Không một người nào trong họ nói gì cả. Người đàn ông tóc vàng lại khám cho tôi, và cũng như lần trước, các vết thương. Hoseason nhìn tôi với con mắt tối tăm đặc biệt.
— Bây giờ Ngài đã tự thấy, – Người cứu tôi nói – Anh ta sốt cao. Ở đây tối quá, anh ta không ăn được và không muốn ăn. Ngài biết rõ việc này sẽ đi tới dâu.
— Tôi không phải nhà ảo thuật, thưa ngài Riach – Tay thuyền trưởng nói.
— Thế thì bây giờ để tôi tự do hoạt động, thưa ngài. Mặc dù ngài có một cái đầu láu cá, một cái lưỡi của dân Scot, nhưng tôi không cho phép ngài thoái thác. Tôi muốn cậu bé ra khỏi cái lỗ này và lên hầm ở phía trước.
— Điều gì ngài muốn hoàn toàn là việc của ngài – Viên thuyền trưởng trả lời – Tôi chỉ nói cho ngài biết cái gì phải xảy ra: thằng bé đây và nó phải ở lại đây!
— Chấp nhận là ngài được trả tiền cho việc này. – Người tóc vàng phản đối – Tuy nhiên, với tất cả lòng khiêm tốn tôi phải lưu ý là tôi không ăn chia gì trong đó cả. Tôi phải vui lòng với tiền lương của mình và nó quá ít đối với một sĩ quan thứ nhì trên con tàu cổ lỗ này và ngài biết rõ nhất là tôi thực hiện rất tốt nhiệm vụ của mình. Tôi được trả tiền cho việc đó và không cho một cái gì khác.
— Nếu ngài không dính đến rượu mạnh! Ngài Riach ạ, ngoài ra tôi không có gì phải phàn nàn về ngài cả. Nhưng đáng lẽ để cái trò này cho tôi, ngài nên dùng sức để làm nguội món xúp lúa mạch của mình khi nó quá nóng, nếu tôi được phép khuyên ngài như vậy. Chúng ta cần lên sàn tàu! – Ông ta nói thêm một cách thô bạo và leo lên các bậc thang.
Nhưng người đàn ông được gọi là Riach đã giữ chặt ông ta:
— Đồng ý là ngài được trả tiền cho một vụ giết người… – Ông này lại bắt đầu.
— Cái gì vậy? – Viên thuyền trưởng kêu lên – Ông nói với tôi bằng cái giọng gì vậy?
— Bằng một giọng mà chỉ riêng ngài hiểu thôi. – ông Riach nói và bình tĩnh nhìn vào mặt viên thuyền trưởng.
— Ngài Riach, chúng ta đã đi biển với nhau ba lần rồi. – Hoseason ngắt lời – Điều này đủ để Ngài hiểu tôi. Tôi là một người cứng rắn, có một ý chí gang thép. Nhưng điều Ngài vừa kết tội tôi, ma quỷ ạ, xuất phát từ một lòng độc địa và một sự hiểu biết tồi. Nếu ngài nghĩ rằng thằng bé sẽ chết ở đây…
— Vâng, tôi nghĩ như vậy. – Ông Riach lạnh lùng nói.
— Thôi đủ rồi! Hãy đưa cậu ta đến chỗ nào Ngài muốn. – Và sau những lời đó, viên thuyền trưởng leo thang lên trên.
Trong thời gian xảy ra câu chuyện đáng chú ý trên, tôi nằm bất động và bây giờ quan sát ông Riach đang nhìn theo viên thuyền trưởng cúi chào ông ta sát đất vẻ khôi hài rõ rệt.
Dù tôi có cảm thấy đáng thương, và khốn khổ thì hai việc đã rõ ràng với tôi. Người thủy thủ này tuy say, như viên thuyền trưởng đã nói, nhưng dù tỉnh hay không, đối với tôi anh ta sẽ là một người bạn quý giá.
Năm phút sau, cái sợi dây trói bị cắt đứt. Ai đó cõng tôi trên lưng và leo thang lên phòng ở mặt trước. Tôi được đặt nằm trong một ca-bin, trên một vài tấm chăn và việc đầu tiên là tôi lại bị ngất.
Một thời gian dài sau đó, khi tôi mớ mắt chỉ cần nhìn thấy những con người bao quanh là tôi thấy khuây khỏa rồi.
Khoang phía đầu tàu khá rộng, giường ngủ đặt khắp nơi, các thủy thủ không phải phiên trực đang ngồi hút thuốc hoặc chuẩn bị đi ngủ.
Vì trời đã yên tĩnh, bão đã tan, các cửa sổ tròn được mở ra, chẳng những ánh sáng ban ngày chiếu sáng trong phòng mà đôi lúc do tàu chòng chành một tia nắng rọi vào làm tôi chói mắt và hạnh phúc. Ngay khi tôi vừa cử động được, một người đã đem cho tôi một thứ nước uống tăng lực mà ngài Riach pha cho tôi. Người thủy thủ ra lệnh cho tôi nằm yên hoàn toàn và nói rằng chẳng bao lâu nữa tôi sẽ khỏe.
— Cậu không bị gãy cái xương nào. – Anh an ủi tôi – Cậu chỉ bị một cú đánh trúng đầu, nhưng không sao đâu. Chính tớ đánh đấy.
Tôi nằm ở đó cả ngày, bị canh phòng nghiêm ngặt như người tù. Nhưng tôi hồi phục dần dần và làm quen với những chiến hữu của mình. Họ từ nhiều nghề nghiệp khác nhau, được nhào nặn trên những mặt biển dã thú và các ông chủ của họ cũng không kém phần thô bạo và dã man hơn bản thân họ. Trong số họ có một số đã từng ở trên những tàu cướp biển và đã trải qua những việc mà chỉ nói tới người ta đã thấy xấu hổ rồi. Một số đã từng ở trong hải quân hoàng gia Anh. Họ sống với một cái thòng lọng vô hình ở cổ và không phải không biết điều đó. Tất cả họ là những con người thô bạo, như người ta thường nói, vừa mới là những người bạn tốt trong khoảnh khắc đã có thể cãi nhau gay gắt và thường gây ẩu đả.
Ở với họ còn chưa lâu, tôi đã thấy xấu hổ về những ấn tượng đầu tiên của mình lúc ở trên bờ, lúc tôi muốn tránh xa họ như tránh những con thú dữ. Con người không bao giờ hoàn toàn tồi tệ, mỗi người đều có những tật xấu và tính tốt. Các bạn trên tàu của tôi cũng không nằm ở ngoại lệ, đúng họ là những con người thô bạo và một số trong đó thực sự là những kẻ xấu. Nhưng họ cũng có những tính tốt, khi vừa lòng họ có thể rất tốt bụng. Họ còn ngây thơ hơn cả tôi – một cậu bé nông dân ngây thơ – nhưng họ cũng bộc lộ những đặc điểm của tính chính trực.
Một người trong họ, tuổi khoảng bốn mươi, đã ngồi hàng giờ bên giường tôi, kể cho tôi nghe về vợ và con anh ta. Trước đây anh ta là dân đánh cá nhưng bị mất thuyền và phải đi ra biển. Bây giờ, đã nhiều năm trôi qua mà tôi không thể nào quên anh ta. Như anh ta kể, vợ anh ta trẻ hơn anh rất nhiều, đã chờ đợi từ không biết bao lâu rồi sự trở về của anh. Không bao giờ anh ta có thể nhóm lửa buổi sáng cho vợ hoặc chăm sóc con khi chúng ốm nữa.
Đúng vậy, rất nhiều trong những con người này trong thực tế đang đi chuyến đi biển cuối cùng của mình. Biển khơi và những con cá mập đang chờ họ và với tôi, nói về những điều xấu của người đã chết là một việc làm vô ơn.
Trong số những việc tốt họ đã làm với tôi, tôi phải kể thêm là họ đã trả lại tôi số tiền đã chia nhau trước đó. Thật ra thì thiếu mất một phần ba nhưng tôi rất sung sướng nhận lại và chờ đợi những điều kỳ diệu ở mảnh đất chúng tôi đang đi tới.
Con tàu đi Carolina và tôi nghĩ rằng mình không chỉ bị đày tới đó. Bây giờ việc buôn bán người đã bị bãi bỏ và sau những cuộc nổi dậy của các thuộc địa và sự thành lập Hợp chủng quốc, đã hoàn toàn chấm dứt. Nhưng khi đó, vào cái thời niên thiếu của tôi, cả những nô lệ da trắng cũng được bán cho các chủ đồn điền và đó là số mệnh mà ông bác đáng nguyền rủa đã giành cho tôi.
Cậu thủy thủ học nghề Ransome người đầu tiên kể cho tôi chút ít về cái điều nhục nhã này, đôi lúc ra khỏi phòng nơi nó ngủ và hầu hạ các sĩ quan ở khoang trước. Đôi khi nó phải chăm sóc cái chân có tật trong niềm đau đớn câm lặng, lần khác thì cậu ta chửi rủa ông Shuans.
Tim tôi đau nhói khi nghe những lời kể lể đó, nhưng đám thủy thủ lại rất kính trọng tay đi biển có hạng này, gọi ông ta là thủy thủ thực sự độc nhất trong đội ăn cướp này. Và ông ta cũng không phải là kẻ tồi nhất, nếu không say.
Tôi phát hiện ra sự khác nhau kỳ lạ giữa hai sĩ quan trên tàu chúng tôi. Ngài Riach khi tỉnh thì không vui vẻ, hay buồn bực và thô bạo, còn ngài Shuans thì ruồi muỗi cũng không chịu nổi khi ông ta say. Tôi hỏi thuyền trưởng nghĩ gì về chuyện đó và họ nói với tôi là việc nhậu nhẹt chẳng là gì đối với bản chất sắt đá đó.
Trong thời gian ngắn ngủi ở đó, tôi đã cố hết sức biến cải cậu bé Ransome đáng thương thành một người đàn ông, hay đúng hơn một thanh niên đứng đắn. Nhưng trong đầu nó không phải hoàn toàn đâu vào đấy cả. Thí dụ cậu ta hoàn toàn không còn nhớ gì về quãng thời gian bắt đầu đi biển. Cậu ta chỉ nhớ bố chữa đồng hồ và trong nhà có một con sáo có thể hót bài Quê hương tôi ở miền Bắc. Những đòn tra tấn phải chịu đựng hàng năm trời và sự tàn bạo của những kè ăn hiếp nó đã làm tiêu tan mọi kỷ niệm cũ. Nó chỉ có những khái niệm kỳ lạ về đất liền do các thủy thủ kể cho nghe. Thí dụ, cậu ta tin là những thanh niên nông thôn bị ép thành một loại như nô lệ, gọi là “thủ công”, bị ném vào một nhà tù hôi thối, thường xuyên bị đánh đập, còn ở thành phố thì cứ hai người có một tên khiêu khích và cứ ba nhà thì có một cạm bẫy mà ở đó thủy thủ bị bỏ thuốc mê và giết hại.
Tất nhiên tôi kể cho cậu ta biết con người ở đất liền, vùng đất mà nó sợ, dễ thương như thế nào, bố mẹ, người thân nuôi và giáo dục tôi chu đáo như thế nào.
Mỏi lần bị đối xử tàn nhẫn, cậu ta khóc lóc thảm khốc và thề sẽ đi khỏi đây. Nhưng ngay sau khi nhận được ly rượu mạnh ở quán của sĩ quan, nó lại sa vào tính tự mãn quá đáng hoặc nghiêm trọng hơn, lại chế giễu sự khuyên bảo của tôi.
Ngài Riach, cầu trời tha thứ cho ông ta – là người thường cho cậu bé uống rượu. Ông ta cho rằng điều đó tốt mà không tính đến việc đó sẽ chôn vùi sức khỏe của cậu ta. Thật đáng thương khi nhìn cậu bé bất hạnh, bị tất cả mọi người coi thường đi loạng choạng, chân nọ đá chân kia và nói những lời ngu ngốc. Một số thủy thủ cười cậu ta, những người khác nét mặt tối sầm – Có lẽ họ nghĩ đến thời trẻ của bản thân mình hoặc nghĩ đến con cái ở nhà – và ra nghiêm lệnh cho cậu ta chấm dứt những trò ngu ngốc và xem lại mình đang làm gì vậy. Bản thân tôi thấy xấu hổ khi nhìn cậu ta và ngay cả bây giờ thỉnh thoảng cậu ta lại xuất hiện trong những giấc chiêm bao đáng sợ của tôi.
Cần phải nói thêm là suốt thời gian đó tàu Covenant phải chiến đấu với gió ngược chiều và bị sóng lớn xô qua xô lại. Các cửa sổ trên khoang trước hầu như thường xuyên đóng chặt, khoảng không gian chỉ được chiếu sáng mờ mờ bằng một ngọn đèn chao đảo, treo ở cột sàn tàu. Thủy thủ phải làm việc liên tục vì buồm phải căng ra hoặc gập lại theo từng giờ. Những lúc đó đám đàn ông này trở nên mệt mỏi và khó chịu, những cuộc cãi vã và ẩu đả từ giường nọ đến giường kia kéo dài suốt ngày, không có tận cùng. Người ta cấm tôi bước chân ra sàn tàu. Bạn đọc có thể tưởng tượng được tôi thấy cuộc sống này vô vị và nóng lòng mong ước một sự thay đổi như thế nào.
Sự thay đổi đó không phải chờ đợi lâu và bạn đọc sẽ được biết nó diễn ra như thế nào. Nhưng trước đó tôi muốn kể về một buổi nói chuyện của tôi với ngài Riach, đã giúp tôi tiếp tục chịu đựng số mệnh này.
Tôi chọn thời điểm thuận lợi khi ông ta bắt đầu say, bởi vì khi tỉnh ông ta không quan tâm đến tôi. Sau khi ông ta hứa giữ kín câu chuyện, tôi đã kể cho ông ta nghe về tôi. – Toàn bộ câu chuyện có vẻ như một chuyện cổ tích – ông ta nói và hứa sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp tôi. Ông ta sẽ kiếm giấy, bút và mực, còn tôi thì cần viết một vài dòng cho ông Campbell và cả ông Ramkeillor. Nếu tôi đã kể sự thật, ông ta nói, ông ta có thể cá mười lấy một là với sự hỗ trợ của hai người đàn ông kia. Tôi sẽ lấy lại tự do và quyền lợi của mình.
Trong khi chờ đợi, – ông động viên tôi – Cậu không được để mất lòng dũng cảm. Không phải chỉ có mình cậu như vậy, điều này cậu cần biết rõ. Một số người đang phải chặt thuốc lá ở hải ngoại trong khi ở nhà họ có ngựa riêng để cưỡi. Rất nhiều, rất nhiều người như vậy. Trong trường hợp thuận lợi nhất, cuộc sống của con người cũng không khác hơn trò lắc con xúc xắc. Nhìn tôi đây này: tôi là con một quan chức Scot và gần như một bác sĩ nhưng tôi phải nhảy múa theo tiếng còi của Hoseason.
Tôi nghĩ rằng sẽ là một chuyện lịch sử nếu biết về cuộc sống của ông.
Ông rít qua kẽ răng:
— Chưa bao giờ có cuộc sống cả. Tôi muốn sống qua một cái gì đó. Ngoài ra không có gì cả.
Và ông đi khỏi bằng những bước nhảy ngắn.