Số lần đọc/download: 0 / 10
Cập nhật: 2023-11-05 19:15:22 +0700
Chương 8
V
ừa chợt đến chỗ đường rẽ, nơi một giờ trước, va-li cầm tay, anh từ biệt chiếc xe hồng thập tự, Ác-tê-mi-ép thấy đằng xa, trên đường Tam-xắc Bu-lắc, bụi mù lên như mây. Anh cho xe đỗ chắn ngang đường rồi xuống xe, và một lát sau, giơ tay ra hiệu ngừng xe thứ nhất trong số mười xe vận tải đang chạy đến.
Một thượng úy đeo phù hiệu công binh, nhưng mặc quân phục xám của binh chủng xe tăng, từ ca-bin bước xuống. Khuôn mặt anh tròn đỏ, đôi lông mày cong lên vì ngạc nhiên, má lúm đồng tiền.
- Anh có thể về được - từ xa Ác-tê-mi-ép nói với người lái chiếc Em-ka. Anh đưa cho thượng úy mệnh lệnh của đại tá. Mảnh giấy vỏn vẹn có ba dòng «Chỉ huy đại đội công binh phải đến thuộc quyền điều động của trung tá Păng-sen-cô chỉ huy trung đoàn bộ binh 84»
- Tôi được lệnh đi với các anh đến tận địa điểm - Ác-tê-mi-ép nói khi anh công binh ngẩng nhìn anh, đôi mắt bỡ ngỡ.
- Anh lên chiếc xe thứ hai - thượng úy nói.
- Không, tôi ở đây với anh - Ác-tê-mi-ép nói.
- Thế thì anh lên ngồi ca-bin - thượng úy đề nghị - để tôi xuống ngồi phía sau.
- Anh ngồi xuống đi, thời gian cấp bách lắm - Ác-tê-mi-ép nói, trèo lên mau!
Thượng úy leo lên ca-bin. Ác-tê-mi-ép đẩy nhẹ anh xê vào phía trong và anh ngồi trên mép ghế, một chân đè trên sàn ca-bin, một chân trên bục lên xuống, tay vừa giữ lấy chiếc cửa để mở.
- Lên đường thôi!
- Về phía nào?
- Bên trái.
Chiếc xe đầu tiên chở Ác-tê-mi-ép và thượng úy mở máy; những xe khác theo sau.
- Chúng ta đi đâu bây giờ? anh công binh hỏi. Tai lắng nghe những tiếng nổ với một chút lo ngại nào đó, nhưng nhất là với vẻ mặt rất chăm chú. Đi sửa một chiếc cầu cũ hay là làm một chiếc cầu mới?
«Chắc là không phải cả hai» Ác-tê-mi-ép nghĩ bụng nhớ lại những lời của đại tá, nhưng anh trả lời là đơn vị phải đi quá cầu một cây số, phía bên kia sông.
- Kỳ cục nhỉ! - Anh công binh nói - Vừa rồi máy bay Nhật trực tiếp xả súng bắn chúng tôi trên đường, cách đây hai giờ. Nó bay chẳng có gì là cao lắm. Nhưng tuyệt đối không việc gì cả! - Anh nói thêm vui vẻ, gần như có điểm tự hào.
«Có lẽ là những chiếc máy bay mình trông thấy» Ác-êè-mi-ép nghĩ bụng.
- Tuyệt đối không việc gì cả - anh công binh nhắc lại - Nhưng tình hình ở đây thế nào, anh có rõ không?
Anh nói với Ác-tê-mi-ép câu hỏi đó như với một người đã từng ở đây lâu và lẽ dĩ nhiên là phải biết tất cả.
Không phải không cảm thấy thích thú muốn tỏ ra ta đây là một tay thông thạo tình hình, trước mắt người sĩ quan công binh nhưng Ác-tê-mi-ép cũng thắng được sự thích thú đó và chỉ trả lời khô khan rằng anh đến đây chưa được lâu và anh không biết gì nhiều lắm. Anh chỉ biết một điều là trên hỏa tuyến, bên kia sông Khan-khin Gon, chiến đấu diễn ra ác liệt từ hôm qua.
- Anh đã đến đấy chưa? - Anh công binh hỏi.
- Chưa - Ác-tê-mi-ép trả lời.
- Chúng ta có đi nhầm đường không? - anh công binh hỏi ngay.
- Không - Ác-tê-mi-ép nói giọng quả quyết.
Anh có một năng khiếu tốt về nhận thức phương hướng; anh đã kiểm tra vị trí của những mục tiêu trên bản đồ, và tin chắc là mình không nhầm đường.
Con đường lượn vòng Kha-mác-đáp, và dần dần tiến sát về phía sông.
- Này - thượng úy đột nhiên nói - hay có lẽ người ta phái bọn mình đi chiến đấu như bộ binh thường? Anh nghĩ thế nào?
Ác-tê-mi-ép cũng nghĩ đúng như thế, nhưng anh chỉ nhún vai để trả lời. Càng đến gần hỏa tuyến, anh càng im lặng.
- Vậy - thượng úy lại tiếp tục, vẫn vui vẻ, và mỗi lúc một trở nên hay nói, hình như chỗ này người ta ném bom cũng kha khá đây và tủm tỉm cười, anh giơ tay chỉ những hố đạn nhan nhản ở quanh đầu cầu.
Ác-tê-mi-ép thấy nụ cười đó là vô ý thức, nhưng một lát sau, anh nghĩ bụng, mỗi người chắc đều có một lối xúc động riêng của mình.
Khỉ họ đến trước cầu, một hạ sĩ quan tay đeo băng đỏ, chỉ huy lối qua sông, nhảy từ một chiếc hầm nhỏ lên.
- Cho xe quay trở lại - anh kêu lên - mau!
- Nhưng chúng tôi đi sang bên kia - Ác-tê-mi-ép nói vừa ở trên xe bước xuống.
- Tôi được lệnh chỉ để cho xe hồng thập tự và xe chở đạn sang sông - hạ sĩ quan trả lời - Các anh giỡ các thứ trên xe và lái về đằng sau, trong khe kia. Có chỗ trú xe ở đấy.
Thượng úy công binh, cũng ở trên xe bước ra cùng một lúc với Ác-tê-mi-ép, hạ lệnh cho xuống xe và hỏi hạ sĩ quan xem chỗ khe đỗ ca-mi-ông cách bao xa.
- Tám trăm thước. Mau lên, chúng sắp trở lại đây, đã một tiếng rồi chưa thấy chúng đến ném bom.
Anh công binh nhanh nhẹn ra mệnh lệnh.
- Chúng ta phải đem theo những gì? - chính trị viên đại đội đến gần hỏi. Anh này người không to lớn lắm, vai rộng và không trẻ lắm - Theo Ác-tê-mi-ép, lúc đó trong ba người, anh ta hình như là người bình tĩnh nhất.
- Chỉ đem theo những gì cần thiết thôi - thượng úy nói chỗ còn lại lúc này ta cứ để tạm trên xe.
- Chúng ta mang súng máy đi chứ? - chính trị viên hỏi.
Ngay từ hồi nãy, lúc còn ở trên đường, Ác-tê-mi-ép đã nhìn thấy những khẩu súng máy «Đi-ốt-ti-a-ri-ốp» trên ca bin các xe.
- Ta để lại hai khẩu để bảo vệ xe, còn mang theo ba khẩu.
Mấy phút sau, những chiếc xe lượn vòng và bò đi rất nhanh, trong khi các chiến sĩ thuộc đại đội chia thành từng nhóm đi sát nhau nhưng hàng ngũ không tề chỉnh lắm, bắt đầu qua chiếc cầu bắc tạm chật hẹp sang bên kia sông Khan-khin Gon, ở đó cách một cây số rưỡi về bên trái súng nổ không ngớt. Những mảnh ván cầu, trĩu xuống dưới sức nặng của người, làm ộp oạp mặt nước. Dòng sông xiết và chảy dữ, nước sẫm trong vắt chảy qua có vẻ đe dọa dưới cầu.
Ác-tê-mi-ép nhiều lần nhìn thấy những điểm trắng ẩn hiện chớp nhoáng trên mặt nước. Anh nghĩ bụng.
«Chắc là cá».
Gần như ngay sau khi qua cầu, cách độ hai trăm thước, trong một chiếc khe nhỏ, Ác-tê-mi-ép nhìn thấy một chiếc lều trong bụi rậm. Thấy dăm bóng người quanh lều, thoạt đầu anh tưởng đấy là chỉ huy sở, nhưng anh nhận thấy những người này tuy mặc quân phục nhưng có một cái gì là lạ và anh hiểu rằng điều khiến anh lạ, chính là những mảng băng trắng trên người họ. Thì ra đấy là những thương binh và căn lều này là một trạm cấp cứu tiền phương.
Khi đi qua lều, hầu hết các chiến sĩ công binh đều ngoái cổ lại. Họ nhìn thấy thương binh lần này là lần đầu tiên trong đời và quang cảnh đó giữa những tiếng nổ và tiếng những tràng súng máy, không thể không làm họ xúc động.
Cả Ác-tê-mi-ép cũng không tự chủ được và sau khi đi qua trạm cấp cứu, anh còn ngoảnh lại một lần cuối cùng, vì anh nhìn thấy trên một mô đất, cạnh đường, mấy người lính nằm trên đất, lúc trước anh không thấy - Anh thấy hình như người họ dài ra một cách kỳ quặc.
«Có lẽ những chiếc ca-pốt làm cho họ có vẻ dài ra như thế?» anh nghĩ bụng. Đầu và mình họ đều phủ kín «Chắc là để che nắng» anh nghĩ thầm một lần nữa. nhưng anh hiểu ngay sau lúc đó là họ đã chết.
- Kỳ cục nhỉ - thượng úy nói, những tiếng súng gần phía bên trái hơn là bên phải - Anh có chắc là chúng ta đi đúng đường không?
- Hoàn toàn chắc - Ác-tê-mi-ép trả lời.
- Kỳ cục nhỉ, có lẽ chúng mình trực tiếp đi tác chiến chắc - anh công binh lại nói, như muốn hỏi. Mặc dù anh cũng bị kích thích mạnh như mọi người, cảm giác tò mò vẫn át sự sợ hãi.
- Kỳ cục thật, hôm qua chẳng bao giờ tôi có thể nghĩ đến chuyện này. Mà những tiểu đoàn xe tăng của ta còn ở cách đây năm trăm cây số. Chẳng bao giờ họ lại nghĩ rằng - anh nói thêm quay về phía Ác-tê-mi-ép với một nụ cười rộng - chúng tôi lại là những người đầu tiên, phải chúng tôi những công binh...
Anh chưa nói hết câu. Một nụ cười vẫn còn tủm tỉm trên môi, anh giật mình và cả Ác-tê-mi-ép cùng thế. Một tiếng nổ to rất gần về phía bên trái. Trên đỉnh cao một ngọn đồi, một khẩu đại bác còn bốc khói, pháo binh đang nạp đạn với những cử chỉ mau lẹ. Một tiếng nổ thứ hai và một tiếng nổ thứ ba. Sau quả đồi ba khẩu đang nhả đạn, che lưới ngụy trang. Một khẩu thứ tư hoàn toàn bị lật ngược, nòng súng một nửa vùi trong cát, nằm im lìm bên một hố lớn.
Vừa đi trên hàng đầu đại đội bên cạnh thượng úy, Ác-tê-mi-ép mỗi lúc một cảm thấy xáo động mặc dù vẻ ngoài bình tĩnh, anh cố tự chủ bằng cách đặt với đại đội trưởng công bình nhiều câu hỏi vắn tắt về số quân của đơn vị và về công việc chuẩn bị.
Căn cứ vào những câu trả lời của thượng úy và dáng dấp những chiến sĩ đang hành quân trên đường mà thỉnh thoảng Ác-tê-mi-ép lại liếc mắt nhìn, anh thấy đây là một đơn vị chiến đấu tốt, một đại đội công binh gồm những chiến sĩ khỏe mạnh, được huấn luyện kỹ, ngoài ra còn thêm vẻ tháo vát thường thấy ở công binh vì họ là những người quen sử dụng một cách khéo léo như chơi những chiếc búa của thợ mộc, các thứ xẻng lớn và nhỏ và tất cả những dụng cụ mà nghề nghiệp của họ bắt buộc phải dùng đến.
Đại đội có bẩy đảng viên cộng sản và sáu mươi thanh niên cộng sản. Thượng úy Cu-rốt-ski dẫn đầu đơn vị, lúc nào cũng thản nhiên, hay khôi hài và chính trị viên Rút-xa-cốp, bình tĩnh và hay phòng xa đi từ trung đội này sang trung đội khác, nói chuyện với chiến sĩ, hai người hình như bổ sung cho nhau rất tốt.
Nhìn thẳng phía đường đi, Ác-tê-mi-ép nghĩ bụng chắc chắn ngay sau quãng dốc nhỏ này, anh sẽ thấy lối rẽ dẫn đến chỉ huy sở trung đoàn.
Giữa lúc đó, một kỵ binh hiện ra trên đường. Đến ngang tầm Ác-tê-mi-ép và thượng úy, anh ta đột nhiên dừng ngựa và vẫn ngồi trên yên, hỏi một giọng khe khẽ gần như không ai nghe rõ được:
- Công binh phải không?
- Phải, công binh đấy! - Thượng úy trả lời với một nụ cười rộng.
- Đi theo đường này - anh kỵ binh nói vừa chỉ hướng.
Giọng khản đặc, anh cố gào to, nhưng thật ra chỉ nghe thấy mấy tiếng lí nhí:
- Tôi được lệnh báo tin các anh đến. Đi thẳng lên trên đồi này.
Anh giơ ngón tay chỉ về phía quả đồi, rồi quay ngựa, ra roi phi thẳng. Một phút sau anh biến mất, và cột khói lớn đen ngòm của một viên đạn nổ bốc tung lên trên quãng đường anh ta vừa chạy qua.
- Phải đi thưa hàng ra - chính trị viên nói, và chua chát nhận thấy không ai chú ý đến điều đó. Thượng úy hạ lệnh và các chiến sĩ công binh miễn cưỡng phân tán cách đường bốn mươi thước. Tất cả đều nhìn thấy đạn nổ và họ hoàn toàn biết rằng, theo như điều lệnh, cần phải phân tán. Nhưng theo bản năng, họ đều cảm thấy, như điều vẫn thường xảy đến cho con người ta trong những phút nguy hiểm đầu tiên, cần thiết phải tập trung lại với nhau, và sợ phải lẻ loi mỗi người mỗi nơi.
Năm phút sau, họ đã vượt quãng đạn vừa nổ, chung quanh hố, đường còn phủ đất mới.
Ngay sau đó, đường xuống dốc rất nhanh. Những vệt bánh lún sâu đi về phía bên trái.
- Chúng ta phải rẽ ở chỗ này đấy - Ác-tê-mi-ép nói với thượng úy.
Đại đội rẽ trái. Hai kỵ hình phi lại phía họ. Một anh là người chiến sĩ họ đã gặp dăm phút trước. Người thứ hai, là một chính trị viên tiểu đoàn, cao lênh khênh, mũi khoằm, nhanh nhẹn nhảy xuống ngựa; làm rung chiếc mũ quá rộng trên đầu. Anh ném cương cho người lính không xuống ngựa, và vừa sốt ruột lấy roi quất khẽ từng cái vào đôi bốt đầy bụi anh vừa đến gần Ác-tê-mi-ép, thượng úy và chính trị viên để chào họ.
Sau khi nghe Ác-tê-mi-ép báo cáo anh được lệnh đi với công binh đến chỉ huy sở và thuộc quyền điều động của trung đoàn trưởng, chính trị viên, tiếng khàn khàn và nặng, giọng Giê-oóc-gi, cho biết anh ta là Gi-ki-a, chính trị viên trung đoàn, rồi anh ném chiếc roi xuống đường như để nói rằng người ta đợi cũng đã khá lâu rồi và đã đến lúc phải bắt đầu hành động.
- Đại đội, theo lệnh tôi! - Anh gần như phải gào lên. Rồi anh ra lệnh phân tán hơn nữa và dẫn công binh theo một đường mòn đi về phía trái.
Từ trước chưa bao giờ Ác-tê-mi-ép thấy một địa hình như anh vừa đi qua. Địa hình này cũng không giống ngay cả thảo nguyên Mông cổ anh vừa qua những giờ đầu buổi sáng. Cát, cỏ và cát, những khe nhỏ, những đồi nhỏ nối tiếp nhau. Những dốc dần dần chuyển thành bãi lún, từ những bài lún dần dần người ta lại leo lên dốc một quá đồi mới trên đó người ta lại nhìn thấy một chỗ trũng bị gió quét, tròn và sâu như một chiếc chạn. Chân thụt sâu trong cát, hoặc vướng vào cỏ đay và bụi rậm.
Chính trị viên trung đoàn, đi bên cạnh Ác-tê-mi-ép, thỉnh thoảng lại hơi rướn cổ như là điếc, lắng nghe những tiếng nổ từ xa và hỏi thượng úy và chính trị viên gần giống những câu Ác-tê-mi-ép hỏi năm phút trước.
Chính trị viên Gi-ki-a không phải điếc, nhưng anh dướn cổ vì, thật ra, tai anh nghe hơi không rõ từ hôm qua, sau khi bị xây xát nhẹ vì một trong những quả bom Nhật đầu tiên. Anh chăm chú lắng nghe như thế vì người ta nhận được cách đây nửa giờ, những tin tức chưa chính xác về sự xuất hiện của những xe tăng Nhật ở khu vực trung tâm.
Ước lượng tầm xa, anh cố tìm hiểu xem những viên đạn nổ là của pháo binh hay của xe tăng địch. Đồng thời anh vừa nghe những chi tiết mà Rút-xa-cốp và Cu-rốt-skin cho biết về đại đội mà anh sẽ phải dẫn xung phong tấn công quân Nhật.
Sớm hôm trước, chính trị viên đã nhiều lần dẫn chiến sĩ đi tiến công hay phản công và đã một lần giáp lá cà với địch. Anh đã đâm lê chết một tên Nhật. Tình thế không cho người ta có thời giờ để tự hỏi xem một chính trị viên trung đoàn có nên hay không nên làm như thế.
Từ đầu trung đoàn trưởng và anh chỉ có trong tay một tiểu đoàn, mà cũng đã mất nửa số quân. Chiến sĩ ít đến mức chính trị viên thấy rằng việc lúc nào anh cùng có mặt dưới mắt họ và đằng trước họ, cùng súng tay như họ và tham gia với họ vào một đợt tiến công hay phản công là một điều dĩ nhiên. Anh chẳng cần luyện cho quen với tình trạng ấy; trong thời kỳ Nội chiến, anh đã từng có mặt như thế ở rất nhiều chiến trường, lúc ấy anh còn là một người lính trẻ trong Hồng quân.
Mặt trời ném những tia nóng rát bỏng. Chính trị viên bỏ mũ và tiếp tục đi, tay cầm quai mũ như xách một chiếc cà-mèn.
Anh chưa đầy bốn mươi, nhưng như những người miền Nam thường vẫn thế, tóc anh đã đốm bạc.
- Nóng quá! Anh nói vừa tủm tỉm cười, và Ác-tê-mi-ép nghĩ rằng người chính trị viên này gây cho anh một niềm tin không bờ bến mà chính anh cũng chẳng biết cắt nghĩa vì đâu. Có thể là do vẻ bên ngoài của anh ta, mái tóc hoa râm, khuôn mặt gầy guộc với chiếc mũi dài, cũng có thể là do giọng nói khàn khàn, trầm trầm, không lúc nào hấp tấp, hay cũng có thể là do nụ cười thật bất ngờ giữa không khí lo ngại chung quanh.
Thật ra, chính trị viên gây một cảm giác tin tưởng không phải chỉ với Ác-tê-mi-ép, mà còn với cả Rút-xa-cốp, Cu-rốt-skin và tất cả những chiến sĩ công binh lúc lúc lại nhìn anh. Nhưng không phải hình dáng và giọng nói của anh tạo nên ấn tượng ấy? Đó là những dấu hiệu gần như khó mà phân tích được về kinh nghiệm quân sự của anh, dấu hiệu nó lộ ra trong cử chỉ, lời nói, trong cách cầm mũ trễ nải, trong cách đặt câu hỏi, cách đi vừa lắng nghe tiếng nổ, không lo ngại, không giống như người khác, với thái độ bình tĩnh nghiêm chỉnh do thói quen. Anh đã ở hỏa tuyến hôm qua và ngày hôm nay, vừa ở mặt trận về, anh đi đến gặp họ. Kinh nghiệm của suốt cả một ngày dưới lửa đạn làm anh nổi bật giữa đám người chưa từng chiến đấu, và họ cảm thấy rất rõ sự khác biệt đó, trong ngày đầu của chiến trận.
Chính trị viên đi gấp rút và mọi người cũng gấp rút theo anh, bước đi hối hả, người này vượt người kia. Mười phút sau, khi đã đi được một cây số, họ đến một địa điểm mà nhiều khe trũng họp thành một thứ ngôi sao ở giữa các quả đồi.
Bốn xe thiết giáp và một chiếc Em-ka phủ lưới ngụy trang đỗ ở đây; trên dốc một quả đồi, gần một chiến hào, có dựng một căn cứ từ đó tỏa ra hai hàng dây điện thoại. Rải rác chung quanh, trong đất cát, có những hầm tránh máy bay nhỏ hình chữ L.
Chính trị viên trung đoàn ra lệnh cho công binh tản ra trong các hầm trú ẩn và đi với Ác-tê-mi-ép, thượng úy và chính trị viên công binh, dọc một đường dây điện thoại đến đài quan sát của trung đoàn trưởng.
Đứng bên những chiếc xe thiết giáp mà họ đi vượt qua, có một toán người mặc áo da và đội mũ lái xe tăng. Đây không phải người Nga: gò má nhô cao với nước da đồng hun và mắt đen sáng long lanh dưới những cặp lông mày xếch ngược.
- Người ta đã hứa năm, sao các anh chỉ đem đến có bốn - chính trị viên nói vừa hất đầu về phía mấy chiếc xe thiết giáp - Tại sao thế?
- Trước có năm - viên chỉ huy Mông-cổ đứng bên chiếc xe tăng cuối cùng trả lời, một nhăn lại như bị nhức răng
- Chúng tôi mất một chiếc dọc đường.
- Một tai nạn à? - Chính trị viên hỏi.
Người Mông-cổ thoáng huơ tay về phía vòm trời và lại nhăn mặt.
Đồng chí chính trị viên đã đi rồi còn ngoái đầu lại nói:
- Sẵn sàng vào đúng chín giờ nhé.
Người Mông cổ gật đầu lặng lẽ trả lời và dập gót chân vào nhau trong tư thế đứng nghiêm.
Ác-tê-mi-ép không tin ở tai mình, nhìn đồng hồ. Thật ra, chưa đến chín giờ. Chưa hết sáu tiếng đồng hồ từ lúc A-púc-tin lay anh dậy ở Tam-xắc Ba-lúc và nói «Dậy đi thôi, đến giờ khởi hành rồi». Chỉ độ một giờ nữa là cùng, anh sẽ tham gia chiến đấu với đội công binh.
Anh sẽ đi chiến đấu cùng với họ, và anh tin chắc như vậy. Từ lúc anh gặp đội công binh trên đường, trèo lên ca-bin và chỉ cho đoàn xe hướng đi, số phận của anh hình như đã gắn liền với số phận của đại đội công binh này.
*
* *
Trung tá Păng-sen-kô chỉ huy trung đoàn 84 nửa ngồi nửa tiếng trên một đống cát gần đài quan sát. Chống khuỷu tay, anh cố nén không càu nhàu, chờ đợi người ta băng bó xong cho anh. Hai mươi phút trước, một mảnh đạn đại bác cắt mất hai ngón chân phải! Ngón chân cái bị văng đi không để lại dấu vết như từ trước vẫn chưa bao giờ có, ngón thứ hai thì dính vào một mảnh da lủng lẳng.
Păng-sen-kô, một người miền Ư-cơ-ren cao lớn và đẹp trai tròn ba mươi tuổi, vóc lực sĩ, đã mất nhiều máu nhưng không cảm thấy yếu lắm, anh chỉ thấy mỗi lúc mỗi đau ở chân. Anh không muốn rời đài quan sát và cho gọi thầy thuốc đến băng bó tại chỗ.
Bác sĩ quân y trung đoàn mệt vì từ hôm qua phải mổ xẻ và băng bó nhiều lần, biết rằng nhấn mạnh vào việc đem Păng-sen-kô đi chỗ khác là vô ích mà anh thì mệt quá không muốn thảo luận nữa. Sau khi lấy cồn rửa vết thương anh cắt mẩu da dính vào ngón chân thứ hai và thản nhiên vất ra một bên đến nỗi Păng-sen-kô mặc dù rất đau, cũng không thể nhịn được cười.
- Như một mẩu thuốc lá - anh nói, nhưng rồi anh gần như kêu thét lên mọi tiếng vì thầy thuốc bắt đầu lấy những mảnh xương dập ở vết thương ra. Đó là giai đoạn đau nhất. Anh cảm thấy nhẹ người khi bác sĩ băng bó xong. Và chỉ thỉnh thoảng thấy đột nhiên đau nhói ở dưới chân. Bên cạnh trung đoàn trưởng, bác sĩ và y tá giúp việc, chỉ huy trưởng sư đoàn thiết giáp Mông Cổ, Đa-vát-giáp, ngồi nhìn việc nạo và băng bó vết thương với thái độ bình tĩnh của một người tin chắc là mình có thể cũng chịu được đau đớn như thể. Đạn nổ làm rơi trên người anh những cục đất khô khốc, anh rũ đất ở chiếc áo da và chiếc mũ lái xe tăng anh cầm một bên tay.
- Một lát nữa thì đại đội công binh đến đây - Păng-sen-kô vừa nói vừa nén một tiếng rên - Chính trị viên trung đoàn đã đi gặp rồi. Nhưng làm thế nào mà chúng lại phá được chiếc xe tăng thứ năm của anh trên đường? Bom à? Chúng ném bom còn xa lắm mới có thể gọi là khá được, vả lại chúng trút xuống từ cao lắm cơ mà.
Người Mông Cổ nhún vai. Một cảm giác ân hận chua cay, theo đuổi anh mãi từ sau khi rời khỏi vị trí của trung đoàn kỵ binh Mông Cổ, anh bị một trận bom và mất một trong số năm chiếc xe của mình. Cả chiếc vỏ thép chỉ còn lại những mảnh nham nhở tung rải rác ở xa. Trước đó anh đã mất mười xe trong thời gian một ngày, nhưng trong số đó bốn chiếc còn có thể trở lại tác chiến và một phần các chiến sĩ trong xe không việc gì. Ngược lại, sự tổn thất vừa rồi quá đột ngột và không thể đền bù được khiến anh không tài nào khuây.
- Bu-da síp-sít xa-mua-rai-na! - Anh tức giận nói bằng tiếng Mông Cổ, và rồi anh dịch gọn tất cả ra tiếng Nga - Quân xa-mu-rai chết tiệt!
- À, điều đó thì chẳng phải bàn - Păng-sen-kô gật gù, anh ân hận đến lần thứ một trăm là trong ngày này anh chỉ có trong tay một tiểu đoàn và nghĩ đến hai tiểu đoàn kia đang tiến gần qua thảo nguyên và không thể đến đây trước buổi tối. Nếu anh có trong tay hai tiểu đoàn đó, anh đã chẳng cam chịu ở thế phòng ngự, anh sẽ tiến công ngay lập tức.
- Xong rồi - bác sĩ vừa nói vừa vội vàng xếp tại dụng cụ vào hộp và đứng dậy - Nhưng anh không đi lại được đâu.
- Thế nào, tôi không đi lại được à - Păng-sen-kô nói vừa đứng lên tức khắc trên chiếc chân còn nguyên vẹn và thử chống vào bàn chân bị thương. Trong khi băng bó, anh vẫn hy vọng là có thể đi được bằng gót, nhưng ngay sau khi thử, anh cảm thấy đau buốt, như không phải anh mất hai ngón, mà tất cả bàn chân.
- Ừ nhỉ - anh nói, một tay tựa vào vai y tá - Thế nào? cả một tiểu đoàn mà không có lấy một đôi nạng à?
- Báo cáo đồng chí không có nạng - bác sĩ nói - Để cả ở bệnh viện rồi.
- Trong trường hợp ấy - Păng-sen-kô nói, vừa bỏ vai người y tá và lại ngồi xuống, anh ra lệnh cho lấy một chiếc cáng bóc vải ra, và người ta sẽ dùng gỗ để chế tạo một thứ gì nó na ná như chiếc nạng vậy.
- Rõ! - Bác sĩ nói.
Chẳng kịp từ biệt, anh ta hấp tấp cùng y tá ra đi, lo ngại nghĩ đến con số thương binh mới đến chắc là đang đợi anh ở trạm cấp cứu.
Trên đường về đài quan sát, chính trị viên thấy bác sĩ và y tá vội vã đi qua, anh bỗng cảm thấy hơi lo ngại. Đến chỗ chiếc khe hẹp dẫn đến đỉnh cồn cát, nơi đặt đài quan sát, anh nhìn thấy trung đoàn trường ngồi dưới đất, chân ruỗi dài bàn chân bọc băng kín và anh hiểu rằng những lo ngại của mình là đúng, ít nhất là một phần.
- Thế nào, đồng chí Gi-ki-a, có dẫn được người đến không? - Păng-sen-kô hỏi, bản thân anh thấy hình như là giọng nói có vẻ vững vàng, nhưng kỳ thật đã yếu vì mất máu. Anh trìu mến nhìn chính trị viên mà anh dần dần thấy cảm phục qua hai năm cùng công tác và sau một ngày chiến đấu đã trở thành một người bạn thực sự đối với anh.
- Cậu làm sao thế? - Gi-ki-a không trả lời, hỏi lại.
- Cũng chẳng có gì ghê gớm lắm - Păng-sen-kô nói vừa khôi hài - Trước mình có thể đếm ngón tay ngón chân đến hai mươi, bây giờ mình chỉ có thể đếm được đến mười tám. Mình đang ngồi đây đợi người ta đem nạng đến. Trong lúc này, thì cậu hãy tạm làm nhiệm vụ của nó vậy.
Anh đứng trên một chân, chân kia co vào và vòng tay phải qua vai chính trị viên.
- Chào các đồng chí - anh nói vừa lần lượt chìa tay trái cho Ác-tê-mi-ép, Cu-rốt-skin và Rút-xa-cốp - Sư đoàn trưởng sư đoàn thiết giáp Mông Cổ - anh nói thêm quay đầu về phía Đa-vát-giáp - anh ấy sẽ trợ lực cho các anh.
Ác-tê-mi-ép nhận được ra ngay trung đoàn trưởng. Lúc còn là đại úy, Păng-sen-kô tốt nghiệp ở trường đại học năm Ác-tê-mi-ép thi vào. Nhưng anh thấy lúc này không phải lúc nhắc nhở kỷ niệm.
Khuôn mặt Ác-tê-mi-ép cũng nhắc nhở điều gì đối với Păng-sen-kô.
- Anh có theo học ở trường đại học Phơ-run-dê không?
- Có, tôi vừa ra năm nay - Ác-tê-mi-ép nói, giọng vui sướng - Anh chờ đợi Păng-sen-kô hỏi nữa, nhưng trung đoàn trưởng không thêm gì, anh vịn vào vai chính trị viên đi mấy bước một cách khó khăn đến chiếc hầm đào trên đỉnh dốc, từ đó có thể chỉ đạo trận địa. Những sĩ quan khác theo anh đến hầm.
Một khung cảnh tẻ nhạt cồn cát và cồn cát, nhỏ bé giống nhau, trải ra trước mắt. Trên những cồn cát gần, chiến sĩ ở trong những hầm đào vội. Số quân ở đây không quá một trung đội, những tiếng nổ lúc lúc lại dội lên. Sát gần cầu, trên sông, súng nổ dữ, cắt ngang từng tràng đại liên và tiếng đại bác.
Ác-tê-mi-ép mở chiếc cặp bản đồ của mình và nhận thấy anh đang ở đúng địa điểm anh vừa nghĩ đến lúc này, nghĩa là trên những quả đồi về phía đông bắc chiếc cầu anh ngắm lúc ở đỉnh núi Kha-mác-đáp và ở đó đặc biệt luôn luôn có tiếng nổ. Từ những quả đồi này, bây giờ anh nhìn thấy đỉnh núi Kha-mác-đáp ở tận cuối về phía tây. Quân Nhật đã thọc vào khoảng giữa Kha-mác-đáp và địa điểm anh đang đứng - Sau khi đã chiếm được một cứ điểm nhỏ dọc sông, chúng cố tiến về phía cầu.
Vừa chống giữ với quân Nhật tiến công ở phía Đông, nhưng lực lượng Xô-viết, một nửa bị bao vây, từ mấy giờ nay bắt buộc phải rút lui một bên sườn để đưa một số quân đi về phía sông. Tiếng súng nổ ran phía trái khiến người ta có thể đoán rằng các trận đánh diễn ra rất gần địa điểm mà trước đây hơn nửa giờ, đội công binh đi qua.
Nghiên cứu trận địa, Ác-tê-mi-ép nghĩ bụng quân Nhật trong khi tiến về phía cầu đã để hở một bên sườn và người ta không những có thể chặn chúng lại mà còn có thể cắt đứt chúng với toàn bộ lực lượng còn lại.
Một phút sau, anh được biết rằng đó cũng chính là quyết định của trung đoàn trưởng. Sau khi giải thích vắn tắt tình hình, trung đoàn trưởng trình bày kế hoạch tác chiến sắp tới.
Một trung đội công binh và một trung đội trực thuộc ban tham mưu trung đoàn phải tiến về phía bên phải, chạm trán với quân Nhật làm chúng chú ý và bảo vệ phía sườn. Một nửa giờ sau. những trung đội khác của công binh, được tăng cường một trung đội súng máy và chiến xa Mông Cổ phải tìm cách không cho địch trông thấy, vượt qua loạt cồn cát ở đó có những chiến hào Xô-viết và tìm một lối tiến về phía sông, và như thế cắt đứt đại bộ phận tiền quân Nhật đang tiến về phía cầu với chủ lực của chúng.
Sự thành công của trận đánh này không những có thể làm đảo lộn tình thế trong khu vực cầu mà còn thay đổi căn bản toàn bộ cục diện.
Vừa giải thích sự bố trí lực lượng ở các vị trí, và vừa nhìn lần lượt Ác-tê-mi-ép và Cu-rốt-kin, Păng-sen-kô vẫn lưỡng lự chưa biết nên lựa chọn thế nào. Khuôn mặt trẻ của sĩ quan công binh ánh lên một vẻ cảm động của thanh niên, trong khi đại úy vẫn giữ nét mặt thản nhiên và còn có vẻ không bằng lòng nữa, như là đã hiểu vấn đề rồi, anh ta sốt ruột muốn nghe thấy những ý nghĩ của mình được xác nhận. Điều đó làm Păng-sen-kô hãi lòng, hơn nữa, cấp bậc của đại úy cao hơn sĩ quan công binh và anh ta lại vừa tốt nghiệp ở trường đại học quân sự
«Có lẽ ta có có thể trao cho anh ta quyền chỉ huy đại đội công binh đánh chủ công». Păng-sen-kô nghĩ bụng, nhưng ngay sau đó anh lại nghĩ rằng các chiến sĩ trong đại đội quen thuộc với người chỉ huy của họ hơn, họ có chính trị viên trung đoàn đi kèm và ngay sau khi đơn vị bắt đầu chuyển, bản thân anh sẽ đưa đài quan sát về phía trước và như thế là chính anh sẽ chỉ huy trận đánh.
«Đại úy và chính trị viên đại đội sẽ phụ trách phía bên sườn. Anh ta có ít người để chỉ huy hơn, nhưng ngược lại phải tự quyết định nhiều hơn, điều đó đối với anh chắc là dễ dàng hơn đối với đại đội trưởng công binh»
Trong khỉ Păng-sen-kô giải thích mục đích của trận đánh, Ác-tê-mi-ép, bất giác mấy lần gật đầu tán thành. Cũng không phải chỉ vì Păng-sen-kô có những quyết định sát với sự đòi hỏi của tình thế, mà còn vì những ý nghĩ của Ác-tê-mi-ép phù hợp với những lệnh của trung đoàn trưởng.
- Xong rồi! Các anh hãy ra chỉ huy chiến sĩ chuẩn bị lên đường - Păng-sen-kô nói.
Tựa vào chính trị viên trung đoàn, Păng-sen-kô nhón bàn chân còn nguyên vẹn để nhìn một lần nữa xem người ta có thể chăng dây điện thoại đến tận cồn cát cuối cùng về bên phải, nơi anh định đặt đài quan sát không.
Nếu một họa sĩ được chứng kiến cảnh tượng này, chắc anh ta sẽ bị hấp dẫn muốn ghi lại những cồn cát vàng, cháy rực ánh mặt trời, ở đó khói đạn bốc lên trời xanh một cách tàn nhẫn, và phác nên bức chân dung Păng-sen-kô trong khung cảnh quá xa lạ với quê hương U-cơ-ren của anh, chiếc áo đầy bụi, dây đai đeo súng đen sì mồ hôi, một chân buộc băng loang đỏ, mũ kê-pi hất về đằng sau, vóc dáng vạm vỡ và khuôn mặt đẹp gân guốc, tái nhợt vì mất máu thở ra chiến tranh.
Ác-tê-mi-ép chỉ nghĩ đơn giản là con người đó cũng gây cho anh một niềm tin như chính trị viên trung đoàn và, chấp hành mệnh lệnh của Păng-sen-kô, anh ra chỉ huy hai trung đội đi tiến công.
Chính trị viên Rút-sa-cốp và thượng úy Cu-rát-skin đi theo anh; hai người đi im lặng, buồn vì ý nghĩ, từ bao nhiêu năm họ đã quen cùng nhau giải quyết mọi công việc, nay sắp sửa phải xa nhau trong trận đánh đầu tiên.
Một phút sau, Gi-ki-a đuổi kịp họ và Ác-tê-mi-ép thấy anh vừa đi vừa hỏi Cu-rốt-skin xem anh ta nghĩ gì về những người chỉ huy các trung đội trong đơn vị.
Ác-tê-mi-ép muốn hỏi chính trị viên đại đội tên của sĩ quan chỉ huy trung đội phải đi tác chiến cùng với mình nhưng lúc đó một quả đại bác nổ gần Ác-tê-mi-ép ngã xuống, nằm dài trong mấy giây và cảm thấy, khi đứng dậy, những mảnh đất chảy trên vai và dọc xương sống.
Hố đạn nổ ngay sát gần anh. Nó không to lắm, và người ta không thể nhìn xem nó có sâu không, vì khói phủ dày đặc như sương mù buổi sớm phủ mặt nước ao hồ. Chỉ những đám khói chung quanh miệng hố tách ra, bay lên trời.
- Nằm xuống! chúng còn bắn nữa.
Tiếng nói của chính trị viên trung đoàn. Vừa ngay, một quả đạn thứ hai rít bên tai. Ác-tê-mi-ép, nằm dài trên mặt đất, quả này cũng như ba quả tiếp sau nổ xa hơn.
- Chúng nhằm đài chỉ huy - chính trị viên nói, lúc ấy đã đứng dậy, đương phủi đất ở đầu gối.
Rồi đến lượt thượng úy, Rút-xa-cốp vẫn nằm im. Anh đã tắt thở. Một mảnh đạn nhỏ hắn vào trán, cát đã ướt và đóng đen lại chung quanh đầu anh.
Xốc thi hài Rút-xa-cốp mang đến một chỗ hõm giữa hai cồn cát. Ác-tê-mi-ép như mê man, mắt không rời được chỗ khói vẫn còn phủ trên hố đạn; nhiều lúc anh quay đầu nhìn về hướng đó. Cái chết là như thế, và anh thấy sợ nó.
Mấy phút trước đây chỉ cần có mặt con người ít nói này cũng đã làm anh yên tâm; việc anh đi tác chiến đúng với người chính trị viên thầm lặng và vững vàng này làm anh tin tưởng.
Một câu hỏi nóng bỏng trên môi anh: làm thế nào bây giờ? Nhưng anh hiểu rằng câu hỏi đó vô ích. Anh chỉ còn cách làm một mình những điều mà hai người sẽ cùng làm nếu quả đạn kia không nổ.
Anh nhìn thượng úy - Trên khuôn mặt tái nhợt, đôi lông mày đen như than biểu lộ sự ngạc nhiên và đau đớn, môi anh ta run run. Như một người máy, anh ta hết đóng lại, lại mở khuy cài bao súng lục.
«Chắc là hai người đã công tác bên nhau nhiều năm rồi, Ác-tê-mi-ép nghĩ bụng. Họ thân nhau. Vợ họ chắc cũng biết nhau. Chẳng một người nào trong đại đội xa lạ đối với họ. Giữa hai người này vừa cách đây năm phút, còn nói, còn trao đổi cảm giác với nhau, bây giờ không còn gì chung với nhau nữa...
Ác-tê-mi-ép rùng mình khi nghĩ đến điều đó, và anh sung sướng nghe chính trị viên Gi-ki-a nói một giọng rõ ràng và khô khan, chắc là để tự kiềm chế mình:
- Chúng ta không đợi được. Chúng ta có năm phút để trình bày trận đánh cho chiến sĩ, sau đó phải thi hành. Nào đi thôi! - Anh nói thêm, vừa nắm lấy tay người sĩ quan công binh đang tê dại vì xúc động.
Ác-tê-mi-ép vượt qua chỗ hõm đang đứng và đi đến chiến hào nơi các chiến sĩ công binh thuộc trung đội anh chỉ huy đang kẻ ngồi, người nằm tạm nghỉ. Anh chào các chiến sĩ đang lục tục đứng dậy khi trông thấy anh. Và thiếu úy trẻ măng, chắc là vừa từ trường quân sự ra; thiếu úy làm anh nghĩ đến chính anh cách đây bảy năm.
Sau khi trình bày vắn tắt những điểm cần thiết, anh hỏi lại:
- Có ai muốn hỏi gì nữa không?
- Đồng chí đại úy - một chiến sĩ vác trung liên, sau mấy giây ngập ngừng nói - xin đồng chí cho biết chính trị viên của chúng tôi đã hy sinh hay là chỉ bị thương thôi?
«Chỉ bị thương», Ác-tê-mi-ép suýt buột mồm nói thế, nhưng anh có cảm tưởng rằng không nên nói dối các chiến sĩ trước khi đi tác chiến với họ.
- Đã hy sinh - anh trả lời.
Đột nhiên anh cảm thấy đau nhói khi nghĩ đến cái chết của con người ấy, người mà anh gần như không quen biết, nhưng chắc chắn là được cả đại đội yêu mến. Những chữ, rất đơn giản «chính trị viên của chúng tôi» cho anh đoán được tình cảm của họ. Bằng một giọng rắn chắc, nhưng mắt gần trào lệ vì xúc động, anh nói:
- Các đồng chí, chúng ta sẽ trả thù cho chính trị viên của chúng ta.
Anh cảm thấy những lời nói đó, từ nay gắn bó hẳn anh với những con người này mà anh mới trông thấy lần đầu, một giờ trước dây.
- Đồng chí đại úy!
Ác-tê-mi-ép quay đầu lại và thấy trước mắt mình một chuẩn úy cao lớn, cổ bó chặt trong một lớp băng, buộc chéo xuống dưới chiếc áo quân phục hở cúc.
- Trung đội trưởng trung đội trực thuộc trung đoàn bộ, chuẩn úy E-phi-mốp, báo cáo có mặt! - E-phi-mốp vừa nói vừa đưa tay lên mũ dáng kiên quyết, mặt nhăn lại vì đau.
- Kìa, trung đội không còn hạ sĩ quan nào nữa sao? - Ác-tê-mi-ép hỏi.
- Không còn ai, bị thương cả rồi.
- Các anh còn bao nhiêu người?
- Mười một chiến sĩ, ba chuẩn úy và thượng sĩ.
Ác-tê-mi-ép khó khăn lắm mới giữ được không reo lên một tiếng ồ kinh ngạc. Anh chỉ có đúng một nửa số người mà anh chờ đợi khi trung đoàn trường nói trao quyền chỉ huy trung đội này cho anh, không kể trung đội công binh.
Nhưng còn làm thế nào khác được nữa. Dăm phút sau, Ác-tê-mi-ép cho hai toán đi ra khỏi thung lũng. Mặt trời lên cao và chiếu nắng tàn nhẫn; lần đầu tiên từ một giờ nay, Ác-tê-mi-ép thôi không nghĩ đến trận đánh đang chờ anh. Anh chỉ thấy thèm đến xót ruột một ngụm nước mát, và nhận thấy chẳng có tí chút hy vọng nào thỏa mãn được thèm muốn đó...