Số lần đọc/download: 2569 / 67
Cập nhật: 2015-08-15 08:04:14 +0700
Chương 6: Rừng Rậm Nambum
Q
uá nửa đêm, chiếc Dakota cà rịch cà tang do Văn Bình điều khiển cất cánh khỏi trường bay Pegu, nhằm hướng Bắc trực chỉ.
Văn Bình phải vận dụng mọi mưu kế mới thoát được vòng tay ôm ấp nồng nàn của Vêra. Nàng tắt đèn, kéo chàng ngã xuống. Thoạt tiên, máu đa tình sôi sục trong huyết quản, Văn Bình choáng váng. Mùi hương da thịt của Vêra có một ma lực lạ lùng. Chàng vòng tay ôm gọn lưng nàng.
Nhưng chỉ một phút sau, chàng bừng tỉnh.
Chàng nhớ đến hai khối thịt nằm sóng sượt trong phòng. Trong khoảnh khắc, bọn vệ sĩ của Karati sẽ tỉnh dậy, lợi dụng cơn mê man của chàng để chĩa súng để bắt chàng đầu hàng. Kế hoạch lên Pegu sẽ tan thành khói.
Chàng lại nhớ đến Sophie đang khóc thút thít ở phòng bên. Nàng sẽ ăn tươi nuốt sống chàng nếu chàng ham vui với Vêra. Sophie đã năn nỉ chàng ở lại với nàng mà chàng thẳng tay từ chối. Nàng là hạng giai nhân ghen tuông kinh khủng mặc dầu chàng chưa phải là người yêu của nàng. Vả lại, điều làm chàng lo ngại là tính mạng Sophie đang như sợi chỉ mành treo chuông. Nếu đối phương khám phá ra Sophie ở khách sạn Strand, họ sẽ không ngần ngại phá cửa phòng, lia một tràng đạn tiểu liên….
Cho dẫu tình hình không khẩn trương, Văn Bình cũng không thể hẹn hò chăn gối. Thật vậy, trong chuyến đi Diến-Điện lần này, chàng bỗng mất hết hứng cảm thường lệ. Có lẽ vì chàng chưa quên được Như Hồng đang đỏ mắt mong chàng trong tòa nhà cô đơn ở ngoại ô Calcutta. Nhưng phần lớn vì chàng chưa quên được cô gái Diến bạc mạng mà linh hồn đang vất vưởng trên dòng sông Irrawaddy…
Cực chẳng đã, Vêra đành ngồi dậy. Mắt đỏ ngầu, nàng hậm hực mặc áo. Văn Bình phải mất 5 phút mới vỗ về được nàng. Rồi chàng phải mất thêm 15 phút khác mới đưa được Sophie và Vêra xuống cầu thang. Đi giữa hai thiếu phụ đẹp, Văn Bình cảm thấy toàn thân ớn lạnh.
Tuy nhiên, mọi việc đều diễn ra êm xuôi. Chiếc Mark IV của Sophie ngốn đường nhanh như chớp nhoáng trong đêm vắng.
Sân bay Pegu có một bộ mặt thê lương của một nghĩa trang hoang phế. Văn Bình rùng mình khi thấy chiếc Dakota của Abê nằm trơ trọi ngoài phi đạo. Máy bay đã cũ lại chở nặng hàng hóa - vì công ty du lịch của Abê còn đảm nhiệm vận chuyển hàng hóa từ thủ đô lên miền cực Bắc - Hành khách phải ngồi trên ghế sắt tróc sơn, giống như trong phi cơ quân sự.
Máy bay sắp cất cánh thì có điện thoại từ Ngưỡng Quang gọi tới. Cầm ống nghe, Văn Bình nhận ra tiếng nói quen thuộc của đại tá Karati. Chàng liền tấn công:
- Anh buộc tôi quay lại Ngưỡng Quang phải không? Tôi xin báo anh biết là quyết đi tới cùng.
Karati thở dài:
- Không, tôi gọi cho anh không phải để ra lệnh với tư cách đại tá chỉ huy Phản Gián. Mà là với tư cách con người có lương tâm, tư cách bè bạn. Anh nên lái xe về đi.
- Lý do?
- Phi cơ quá cũ, dễ gây ra tai nạn. Du kích cộng sản hầu như kiểm soát vùng rừng núi phía Bắc. Họ bắn hạ phi cơ của anh rất dễ dàng. Anh nên nghe tôi….
- Cám ơn anh.
- Anh đã dứt khoát, vậy tôi không làm phiền anh nữa. Xin anh chuyển ống nói cho Vêra.
Vêra hơi nhăn mặt sau câu nói đầu tiên của Karati. Văn Bình nhận thấy mắt nàng không chớp, môi mím lại, chứng tỏ nàng đang bị xúc động cực độ.
Giọng nàng run run:
- Đại tá nói sao? Nói rằng đường lên Nambum đầy rẫy nguy hiểm phải không? Ồ, nguy hiểm đối với tôi là thường… Nếu vậy, sao đại tá không cho chúng tôi mượn phi cơ khác. Không được hả? Vậy đại tá cho khu trục cơ hộ tống… Cũng không được… Thì thôi….
Nàng bỏ điện thoại xuống, nhún vai, giọng khinh bạc nói với Văn Bình:
- Karati yêu cầu chúng ta hủy bỏ chuyến bay này vì lý do an ninh. Nội ngày mai, hắn sẽ cho mượn phi cơ khác, tối tân và an toàn hơn. Hắn bảo hai chiếc Dakota của Abê là hai đống sắt vụn. Mọi lần Abê phaả đích thân lái. Abê là hoa tiêu trứ danh nên phi cơ mới không rớt xuống rừng. Abê chết rồi, bọn hoa tiêu bản xứ không đủ tài năng và kinh nghiệm để điều khiển đống sắt vụn này. Karati khuyên vậy, anh nghĩ sao?
Văn Bình đáp:
- Tùy Vêra. Kể về kỹ thuật thì tôi không đến nỗi kém cỏi. Tôi có nhiều giờ bay gấp 5 Abê. Tôi lại điều khiển đủ kiểu phi cơ từ trước đến nay, và ít khi gây ra tai nạn. Tôi tin là chỉ huy được chiếc Dakota vận tải của Abê. Nhưng nếu Vêra lo sợ thì tốt hơn nên ở lại, hoặc chờ đến mai, Karati cho phi cơ an toàn đến rước.
Vêra dẩu mỏ như cô gái 16 làm nũng với cha mẹ:
- Anh khinh phụ nữ vừa vừa chứ! Anh đi được thì chúng tôi sợ gì….
Văn Bình quay sang Sophie:
- Còn cô? Cô đi hay về?
Sophie sịu mặt:
- Nếu anh nhận thấy sự hiện diện của em là một sự trở ngại thì em xin về vậy.
Chiếc Dakota sọc sạch có thể gây ra tai nạn dọc đường, tuy nhiên, Văn Bình lại có ấn tượng là hai thiếu phụ đẹp, thừa sức sống, và thiếu tình yêu cháy bỏng dễ gây ra tai nạn hơn, và tai nạn này dễ làm nguy hại tính mạng của chàng hơn. Sophie đã bắt đầu khai hỏa trận giặc ghen tuông. Chàng đành lắc đầu lia lịa:
- Sophie về sao được. Vấn đề an ninh….
Nàng sịu mặt hơn nữa:
- Anh đừng lo. Chết thì thôi, em không cần.
Bắt buộc Văn Bình phải dứt khoát:
- Nhưng tôi lại cần Sophie. Thiếu Sophie, tôi không thể làm tròn công tác.
Nàng cười vui như đứa trẻ vừa được cho quà. Trong khi ấy, Vêra ngồi yên, mắt bắn tia lửa.
May thay phi cơ đã cất cánh an toàn. Ngồi sau cần lái, Văn Bình ướt sũng bồ hôi, tuy trời teng teng lạnh. Với bề ngoài siêu vẹo, con chim sắt của Abê đã có một động cơ ngon lành khiến Văn Bình không đến nổi phải thất vọng.
Traăg sáng bàng bạc trên cảnh vật hoang liêu. Văn Bình lái phi cơ ngược theo dòng sông Irrawaddy rộng mênh mang. Tuy chưa quen địa hình, chàng vẫn không sợ lạc đường, vì ngoài con sông độc đáo được dùng làm chuẩn đích, chàng đã có thể căn cứ vào đường xe lửa từ Ngưỡng Quang đi Mandalay ở phía Bắc.
Một lát sau, phòng phi hành vắt đầu ngấm lạnh. Phi cơ không có máy sưởi nên Vêra và Sophie ngồi co ro. Tội nghiệp Vêra, nàng đã quen với chiếc Cadillac trang bị tiện nghi tối tân, hoặc ghế ngồi êm ái hạng nhất trên phi cơ phản lực thương mãi… Nàng lại có hàng chục, hàng trăm thứ rượu đặc biệt, uống vào làm hơi lạnh tan biến trong chớp mắt.
Tuy không nhìn lại phía sau, Văn Bình biết là cả hai đang liếc trộm chàng. Và nếu chàng có tài đọc được tâm can người đời, chàng sẽ biết là cả hai đang nghĩ đến chàng với những cảm tình nồng hậu.
Chàng chép miệng lái lên cao hơn. Phong cảnh trung châu bằng phẳng và tẻ ngắt dần dần nhưởng chỗ cho những ngọn đồi thấp. Rồi đến những rặng núi đen sì chắn ngang chân trời lấp loáng trăng xuông, dường như chứa từ thạch có thể hút phi cơ xà xuống.
Hết núi bắt đầu đến rừng. Hết rừng lại đến núi. Hệ thống đường xá còn ở trong tình trạng thô sơ ở miền Bắc. Phong cảnh bên dưới khiến chàng hồi tưởng lại Hòa Bình, một trong những tỉnh giáp biên ở Bắc Việt lưu lại trong lòng chàng nhiều kỷ niệm nhất.
Nhiều đêm trăng sáng lờ mờ, chàng cũng lái máy bay trên không phận Hòa Bình. Có lần chàng đã nhảy xuống, liên lạc với biệt kích.
Chàng không thể nào quên được 3 giờ sáng đêm ấy - 3 giờ sáng vẫn là giờ tình yêu và là giờ hẹn hò gián điệp - chiếc Dakota đen chùi chũi há họng nhả chàng xuống thung lũng vòng chảo Hòa Bình.
Nhiệm vụ của Văn Bình là tiếp tế võ khí và dụng cụ điện tử cho biệt kích.
Hoạt động trong lòng địch là công tác vô cùng khó khăn, đòi hỏi nhiều quyền biến và sức khỏe nên ông Hoàng thường chọn nam giới ở chức vụ chỉ huy. Văn Bình không ngờ người chàng có bổn phận tiếp xúc đêm ấy lại là đàn bà.
Đàn bà đẹp như trong tranh cổ Trung Hoa.
Thật vậy, viên chỉ huy đơn vị biệt kích ở ngoại ô Hòa Bình hồi ấy là một thiếu phụ trạc 25 tuổi, dong dỏng cao, ngực và mông lép kẹp, cánh tay, cặp giò dài lê thê, miệng nhỏ hình trái tim, lông mày lá liểu cong vút, đôi mắt rộng đen, sâu thẳm. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng và nghiêm trang. Thân thể nàng không chứa những đường cong bốc lửa nhưng khuôn mặt rụt rè, bờ vai mỏng dính và cái mông nhỏ xíu ấy lại tiết ra một sức hấp dẫn thần bí, còn thần bì hơn cả sức hấp dẫn của hoa quỳnh nở 12 giờ khuya nữa.
Lúc lên đường, chàng chỉ được tổng hành doanh cho biết thể thức liên lạc, chứ không nói rõ chi tiết rằng viên chỉ huy là đàn ông hay đàn bà. Bởi vậy, Văn Bình hoàn toàn sửng sốt khi gặp nàng trong thạch động.
Đúng ra, ngay sau khi chạm đất, lồm cồm bò dậy, đào hố chôn dù, chàng đã sửng sốt. Vì toán nhân viên đến đón chàng và đồ tiếp liệu không phải là đực rựa như thường lệ, mà toàn là kỳ quan giống cái, mặc đồ chẽn đen, da trắng như trứng gà bóc, tóc kết bím chấm hai bên vai, giắt dao quắm, và đeo tiểu liên Trung cộng.
Bốn thiếu nữ khỏe mạnh, nở nang và xinh đẹp dẫn chàng từ khu vực nhảy dù vể trụ sở bí mật trong rặng núi trùng điệp, bao vây lòng chảo Hòa Bình.
Qua dăm ba câu nói đưa đẩy, Văn Bình được biết nhóm con gái xinh tươi này là người Mường, bộ lạc thiểu số có nếp sống gần người Kinh, tập trung ở miền núi Thanh Hóa và Hòa Bình. Gái Mường nổi tiếng là đẹp, không thua gái Thái trắng ở Tây Bắc Bắc Việt. Chuyên môn đi rừng và leo trèo nên họ có sức chịu đựng vô cùng bền bỉ, đàn ông đua tranh không lại. Họ rất hiền hậu nhưng cũng rất dữ dằn đối với đàn ông sàm sỡ và… Sở Khanh.
Đoàn người phải trèo ba ngọn núi mới về đến trụ sở bí mật. Bốn nữ biệt kích đeo đồ đoàn trên lưng, lại dắt ngựa chở đầy súng đạn do phi cơ thả xuống, mà vẫn bước thoăn thoắt, sườn núi chênh chếch mà Văn Bình cứ tưởng là họ đang rảo chạy trên đường phẳng. Văn Bình cũng không phải là tay mơ trong nghề trèo núi, ba ngọn chứ phải trèo chục ngọn núi chàng cũng không sờn.
Khốn nổi đêm ấy phong độ của chàng lại không được đầy đủ. Có lẽ vì quá gắn bó với Sàigòn hoa lệ trong nhiều đêm dài liên tiếp…. Nền trời mát rợi, trăng sáng thần tiên mà Văn Bình vã mồ hôi như tắm hơi nước, và tối mắt tối mũi, chẳng thấy vẻ đẹp của rừng núi nữa.
Chàng vấp ngã nhiều lần khiến bọn con gái khúch khích cười. Chàng thẹn đỏ mặt song không dám cất tiếng bào chữa. Về đến thạch động, chàng mệt đến ngất xỉu.
Nhưng trong vòng 30 giây đồng hồ, chàng đã tỉnh lại. Hoàn toàn tỉnh lại.
Và khỏe khoắn hơn bao giờ hết. Khỏe khoắn như thể được uống thần dược.
Mãnh lực đã làm chàng hoàn toàn tỉnh lại là Nàng. Tuy vậy, nàng không để ý tới chàng. Nàng sẵng giọng với bốn thiếu nữ biệt kích:
- Tại sao khu vực tuyệt đối an ninh mà các chị lại rẽ vào núi, không dùng lối đi thường lệ?
Chết rồi, bốn cô gái cố tình trèo núi để lỡm Văn Bình. Cả bọn đều nín thinh.
Nàng lại nói:
- Lần sau, yêu cầu các em đừng làm thế nữa. Đi đường thẳng chỉ mất 20 phút là lâu nhất, còn đường núi mất hơn 2 giờ. Các em không nói chị cũng đã hiểu… Chỉ tội nghiệp cho ông khách của chị.
Rồi quay về phía Văn Bình, nàng ngọt ngào:
- Xin ông tha lỗi cho mấy cô em của tôi. Chúng nó nghịch như quỷ sứ, hễ thấy đàn ông là bám chặt như đỉa đói. Có lẽ tôi đến phải yêu cầu ông Hoàng cho chúng nó vào Sàigòn mất thôi….
Té ra mật khu này là của gia đình họ Hà, xuất thân từ miền thượng du Thanh Hóa. Họ Hà là gia đình lang đạo đông đảo gồm nhiều bậc khoa bảng dưới triều Nguyễn, từ đời này qua đời kia trấn giữ vùng rừng núi hiểm trở dọc biên giới Lào-Việt.
Trong những năm Pháp thuộc đầu tiên, họ Hà phát động phong trào Cần Vương, mộ binh lính đánh Pháp. Du kích quân của họ đã làm người Pháp thất điên bát đảo. Dùng binh mã cũng như địa vị, tiền bạc, địa vị, không lôi kéo được họ Hà, thực dân bèn dùng bọn tay sai bản xứ. Vì vậy, họ Hà bị thất trận liên tiếp. Sau cùng, họ Hà chia ra làm nhiều chi phái, một phái ở lại, một phái trốn xuống đồng bằng, cải lại là họ Dương để tránh sự lùng bắt và khủng bố của mật thám đế quốc.
Một phần của họ Dương kéo qua Hòa Bình lánh nạn. Cô gái chỉ huy mật khu biệt kích Hòa Bình dưới quyền của ông Hoàng là trưởng nữ của một gia đình có 10 chị em gái. Mặt nàng và thân hình nàng trạc 25, nhưng tuổi thật của nàng là 36. Ý trung nhân của nàng bị giết trong một trận giao phong với Việt Minh, và từ đó nàng sống một mình, không nghĩ đến chuyện lấy chồng nữa.
9 cô em nhí nhảnh của nàng đều theo nàng vào mật khu biệt kích, tổ chức tình báo, phá hoại trong tỉnh. Cả 10 chị em đều đẹp, nhưng nếu 9 cô em có vẻ đẹp cân đối Tây phương thì cô chị hoàn toàn có vẻ đẹp Đông phương, thân hình mảnh mai như liễu, tưởng như gió nhẹ thổi là ngã. Trên thực tế, nàng rất giỏi quyền thuật, hàng chục đàn ông lực lưỡng tấn công nàng vị tất làm nàng ngã nổi.
Trừ cô chị đứng đắn, xứng với phong độ "nữ tướng", 9 cô em đều nghịch như quỷ sứ. Mật khu gồm toàn phụ nữ nên sự hiện diện của Văn Bình đã tạo ra nhiều sự rắc rối. (Mãi sau này, Văn Bình mơi khám phá ra đó là mưu mô của Nguyên Hương, nàng tìm cách gửi chàng đến Hòa Bình để nếm mùi lắm mối, tối nằm không)
Theo mệnh lệnh, Văn Bình lưu lại mật khu hai tuần để dạy cho đội nữ binh kỹ thuật mới về truyền tinh bằng làn sóng lên thẳng, và cách xử dụng chất nổ tối tân. Nhưng chàng chỉ ở đúng một tuần rồi nằng nặc đòi về.
Nguyên do là chàng quá mệt mỏi. Các cô em đều xinh tươi như hoa hồng mới nở trong sương sớm, cô nào cũng đáng cho Văn Bình trao đổi tình yêu, thành ra Văn Bình băng khoăn không biết chọn ai. Mỗi đêm lên giường, chàng đều vắt tay lên trán suy nghĩ. Dầu tình yêu có thể được coi như món ăn, song món ăn đặc biệt này khó thể ăn luôn một lúc cả 9 dĩa. Nếu có điều kiện, Văn Bình cũng không ngần ngại "bội thực" cho dẫu khi về Sàigòn sẽ phải vào Viện Quốc Gia Chỉnh Hình nữa.
Nhưng vì có 9 hoa khôi một lúc, 9 hoa khôi luôn luôn ở một bên, không phút nào đi riêng, nên Văn Bình đành phải theo nếp sống nhà tu. Đúng ra, chàng chỉ được riêng tây với cô chị cả. Gặp nàng, chàng cố tạo nụ cười, khóe mắt và dáng điệu khả ái. Luồng điện hấp dẫn trong cơ thể chàng được rung tới tột độ.
Mắt nàng hơi chớp, hai bàn tay hơi lẩy bẩy, chứng tỏ nàng bị cảm xúc. Tuy nhiên, chỉ trong giây phút, nàng trở lại bình thường, và nàng nói với Văn Bình trong tiếng thở dài:
- Sống đến 36 tuổi đời, tôi mới được gặp một người đàn ông hội đủ điều kiện như anh. Hoạt động kề thần Chết như tôi, dĩ nhiên tôi không thích bị ràng buộc trong tình chồng vợ, nhưng từ lâu hằng mong muốn được chia bùi, xẻ ngọt với người tình. Anh Văn Bình ơi, anh đã hiểu lòng tôi rồi đó, tôi yêu anh lắm, trăng đêm đẹp như thế này, được sánh vai anh ra bờ suối ngắm trăng và tắm mát thì trên thế gian không còn hạnh phúc nào bằng….
Song tôi chỉ được quyền dệt mộng trong tưởng tượng mà thôi.
Văn Bình nói:
- Có ai cấm đoán chúng ta đâu?
Nàng lại thở dài:
- Anh đừng dối tôi và tự dối anh nữa. Tôi biết anh có cảm tình đặc biệt với các em tôi và chúng cũng có cảm tình đặc biệt với anh. Là bậc chị, tôi không thể dành tình của các em. Các em tôi cũng không dám dành tình của chị. Thà như thế này còn hơn, phải không anh?
- Như thế này, tất cả đều khổ!
- Còn hơn 2 người sướng còn 9 người khổ. Để tôi kể truyện cổ tích này cho anh nghe…. Đời xưa, một ông quan con cháu đầy đàn nhưng nghèo kiết, được người ta biếu cho một trái lê….
- Tôi biết rồi… Trái lê mà cắt chia ra không lẽ người ăn, người nhịn nên ông quan cho vào nồi đổ đầy nước, nấu rừ để toàn thể cùng húp… Nhưng đó là trái lê, tình yêu trai gái không thể so sánh với trái lê, nghĩa là không thể hưởng chung được….
Nàng lắc đầu:
- Sao lại không?
Vì vậy, Văn Bình lạc vào Thiên Thai, mà trở thành cô đơn hơn là ở trong sa mạc. Chàng cầu mong cho phi cơ chóng tới. Ngày cuối cùng ở mật khu, Văn Bình dậy thật sớm, từ khi mặt trời chưa mọc, bách bộ ra giòng suối sau nhà sàn, nơi chàng cư ngụ. Đặc biệt đây là suối nước nóng, tắm rất dễ chịu, lại có chất lưu hoàng làm các chứng bệnh ngoài da, bệnh đau đầu và bệnh tê thấp chóng khỏi.
Văn Bình cũng định ngụp xuống suối một lát để rũ bỏ sầu muộn. Nhưng quang cảnh trước mắt làm chàng suýt đứt gân máu.
Dật dờ sau màn sương trắng, chàng thấy giòng suối bốc khói nghi ngút đã đông nghẹt người tắm. Người tắm đều là đàn bà.
Người tắm là 10 chị em nhà họ Dương.
Đứng trên bờ những hồ tắm văn minh, nhìn xuống giai nhân mặc mù-soa mỏng dính, nhiều lần Văn Bình đã tắt thở. Phương chi hồ tắm nhân tạo ở các thủ đô còn thua suối nước nóng trên núi Hòa Bình hàng trăm lần về vẻ đẹp… Phương chi giai nhân ở đây lại hoàn toàn khỏa thân. Phụ nữ sơn cước thường tắm khỏa thân….
Văn Bình lò dò đến sau bụi bồm bộp để chiêm ngưỡng cho rõ ràng. Lá bồm bộp lớn gần bằng cái nón, chàng tha hồ thưởng thức, không sợ bị phát giác.
Nhưng chàng đã đoán lầm. Tài ngụy trang tuyệt vời của chàng trở thành trò giấu đầu hở đuôi của trẻ con. Chàng đang lom khom thì một tiếng gọi cất lên dõng dạc:
- Đại tá?
Chết rồi… Đó là tiếng kêu của cô em út, có má múm đồng tiền, miệng cười khêu gợi và làn da trắng như tuyết Bắc cực.
Chàng còn rụt rè thì nàng lại gọi tiếp:
- Đại tá Văn Bình? Em thấy đại tá từ hồi nãy kia…. Xuống suối tắm với chúng em một thể….
Rồi một giọng nói khác, giọng nói của chị cả:
- Hừ, ông Văn Bình tệ thật. Ai lại núp trong bụi cây để nhìn đàn bà tắm.
Văn Bình phải vác mặt ra trình diện. May thay là không có gương, chứ nếu có chàng đã phải nhìn thấy một khuôn mặt sượng sùng, còn sượng sùng hơn cả bị bắt quả tang bỏ tay vào ví tiền của người lạ nữa.
Dưới suối, sương muối đã tan hết. Da thịt lồ lộ của 10 nàng tiên biệt kích nổi bật trên nền xanh của cây lá chung quanh và của bờ suối màu xám.
Nước suối trong veo, đứng trên có thể nhìn rõ hòn cuội dưới đáy, nên tuy người đẹp ngâm mình đến ngực, Văn Bình vẫn có cảm tưởng là họ đứng xếp hàng ngoan ngoãn trước mặt chàng.
Cô chị lên trước, ra lệnh cho Văn Bình:
- Nếu là người khác thì tôi không phạt. Nhưnh kẻ nhìn trộm là ông nên tôi không tha được. Yêu cầu ông lấy khăn tắm lau sạch nước cho chị em tôi.
Lau nước trên mình giai nhân là thú độc nhất vô nhị. Vì cặp mắt tha hồ được du hành. Vì bàn tay có thể cố ý lạc đường. Nhưng lau nước cho 10 chị em họ Dương đã trở thành cực hình đối với Văn Bình. Chàng đành thở dài làm tròn nhiệm vụ. Mỗi khi chàng đặt cái khăn bông lên lưng, người đẹp nào cũng run rẩy nhưng không dám quay lại, chàng cũng không dám biểu lộ cử chỉ thân mật. Con gái họ Dương nổi tiếng về quyền thuật khắp miền rừng núi, chỉ một giây đồng hồ hớ hênh có thể gây sóng gió. Con gái sơn cước lại mang bệnh ghen kinh khủng, chàng thân mật với cô này mà không thân mật với cô nọ thì khối thịt đồ sộ của điệp viên Z.28 sẽ biến thành mắm ruốc.
Đêm ấy, Văn Bình trèo lên phi cơ thật nhanh như bị ma đuổi. Đến khi hoa tiêu báo cho chàng biết là phi cơ đã ra khỏi không phận của địch, chàng mới hoàn hồn.
Đêm nay, trên không phận Bắc Diến, Văn Bình cũng bị mất tinh thấn như năm xưa ở mật khu biệt kích Hòa Bình. Vêra và Sophie không còn là trinh nữ nhí nhảnh như 10 chị em họ Dương, nhưng sự ghen tuông của họ lại già dặn hơn nhiều. Nhìn tia mắt bốc lửa của họ trên phi cơ, Văn Bình đoán biết là họ có thể xé xác được nhau.
Bởi vậy chàng đành ngồi yên.
Ngoài trời, mưa bắt đầu đổ xuống. Vầng trăng thân thiết đã biến sau rặng núi đen sì, quang cảnh trở nên âm u, huyền bí.
Phụ tá hoa tiêu ngồi bên bất động, mơ màng với điếu xì-gà tẩm á phiện. Từ lúc máy bay rời Pegu, hắn không thốt nửa lời. Tuy là người bản xứ, hắn được Abê tin cậy. Hầu như mọi chuyến bay vận tải lên miền Bắc của Abê đều do hắn điều khiển nên hắn thuộc đường như cháo.
Văn Bình hỏi:
- Sắp đến chưa?
Hắn choàng dậy:
- Ông bay hơi nhanh. Chỉ độ một giờ nữa là tới.
- Anh thường bay chậm ư?
- Vâng. Vì bay nhanh vô ích.
- Tại sao lại vô ích?
- Vì không thể đáp xuống. Sân bay còn thô sơ hơn Pegu nhiều. Lắm lúc họ vứt thùng sắt nghênh ngang ngoài phi đạo, tôi phải bay lượn nhiều vòng trên đầu, và thét vào tai họ, họ mới cho nhân viên ra khiêng vào.
- Nambum có nhà trọ nào khang trang không?
Văn Bình không dám dùng hai tiếng khách sạn. Vì chàng biết Nambum chỉ là một tiểu thị trấn ở nơi đèo heo hút gió. Phụ tá hoa tiêu rít một hơi xì-gà dài:
- Có. Nhưng chỉ ở tạm được mà thôi. Có một tòa nhà dành cho viên chức chính phủ tạm trú. Song du khách cũng có thể ở đưọc. Tuy nhiên, tôi cũng xin nói là tiện nghi không lấy gì đầy đủ.
Phụ tá hoa tiêu không nói, Văn Bình cũng đã biết trưóc. Nếu khách sạn lớn nhất thủ đô Ngưỡng Quang chỉ có quạt trần bằng gỗ xấu xí và khập khiễng thì xó rừng phía Bắc không thể nào có phòng ngủ gắn máy điều hòa khí hậu tối tân.
Chàng nhường cần lái cho phụ tá hoa tiêu:
- Nhờ anh. Tôi muốn ngủ một lát.
Văn Bình cảm thấy cần ngủ hơn bao giờ hết. Chàng dựa lưng vào ghế, nhắm nghiền mắt, tách rời khỏi thực tại. Nhờ phương pháp vận dụng tư tưởng này, chàng tìm giấc ngủ thường lệ rất dễ dàng. Nhưng không hiểu sao đêm nay chàng lại chập chờn mãi. Chàng có cảm giác như tim chàng đập thình thịch và gáy chàng đau điếng.
Rồi chàng vùng tỉnh.
Khi ấy, phụ tá hoa tiêu đang đập vào vai chàng:
- Ông ơi?
Theo ngón tay chỉ của phụ tá hoa tiêu, Văn Bình nhìn ra ngoài. Có lẽ mưa đã tạnh nên bầu trời trở lại mầu sữa loãng, với đĩa trang vắt vẻo dưới nền mây phẳng lì.
Nhìn xuống dưới, chàng thấy một giải bạc ngoẳn ngoèo trắng xóa. Đó là sông Inkagaung. Một chiếc ca-nô sơn màu thẫm đang từ từ rẽ sóng. Văn Bình hỏi:
- Ca-nô của chính phủ phải không?
Phụ tá hoa tiêu đáp:
- Không phải. Đó là tàu của một công ty tư nhân. Đúng hơn, của một người Anh. Y có ba, bốn chiếc ca-nô chở hàng hóa và hành khách tới Nambum. Theo chỗ tôi biết, y quen thân với cô Sophie.
- Quen thân là như thế nào?
- Mỗi lần về Ngưỡng Quang, y đều chuyên cần tới thăm Abê, vì cùng trong giới chuyên chở với nhau. Nhưng kỳ thật, y tới thăm cô Sophie. Y mang theo đủ của ngon vật lạ của rừng núi miền Bắc, như mật ong chúa nguyên chất, sừng tê giác, da hổ… có chuyến còn biếu Sophie cặp ngà voi dài 2 thước rưỡi nữa, ông biết không?
- Cô Sophie không nói lại với tôi.
- Xin lỗi, tôi không định diễn tả như thế. Ý tôi muốn nói là cặp ngà của gã đàn ông dại gái rất đắt tiền. Cặp ngà dài nhất thế giới cũng chưa đầy 2 thước 1.
- Chắc cô Sophie phải thương yêu hắn tha thiết.
- Nếu vậy thì còn nói gì nữa. Đàn bà ngày nay thật kỳ khôi. Tôi như Sophie thì mở rộng cánh tay đón lãochủ hãng ca-nô. Vì y cũng không đến nỗi xí trai. Theo sự nhận xét của riêng tôi thì y còn khôi ngô hơn đa số thanh niên Diến-Điện. Y giàu nứt đố đổ vách sau gần 10 năm độc quyền khai thác thủy lộ miền Bắc.
Văn Bình mỉm cười:
- Anh là người có tài giới thiệu. Thế nào tôi cũng phải gặp y. Y tên là gì nhỉ?
- Tên thật là gi tôi không biết. Y lấy tên là Inka. Hãng vận tải đường thủy của y là Inka.
- Nghĩa là Inkagaung.
- Vâng, y muốn nói sức lực của y bất tận như giòng sông Inkagaung.
Đột nhiên Văn Bình hỏi:
- Ta ghé xuống thăm Inka, anh bằng lòng không?
Phụ tá hoa tiêu giật mình:
- Nơi này không có bãi đáp. Năm ngoái, một chiếc Dakota thương mãi bị trục trặc máy móc đã thận trọng chọn bãi đất tốt nhất để hạ cánh mà cũng gặp tai nạn chết người. Vì đất ở đây thường có sình lầy.
Văn Bình lẩm bẩm:
- Tai nạn… tai nạn chết người….
Phụ tá hoa tiêu trố mắt:
- Ông nói sao?
Văn Bình chưa kịp trả lời thì phi cơ rung chuyển dữ dội, cần lái hầu như muốn văng ra khỏi nền phòng phi hành. Chàng nghe một tiếng động lớn không khác tiếng sét. Rồi một trận cuồng phong kéo tới ào ào… Phụ tá hoa tiêu hoảng hốt:
- Nguy đến nơi rồi….
Văn Bình vẫn bình tĩnh như thường. Đức tính cố hữu quý báu này đã làm tăng giá trị điệp viên Z.28 trong cơn hiểm nghèo, phi cơ tròng trành, nghiêng sang hữu, sang tả, chúc mũi xuống, lộn đầu lên như người say rượu.
Nửa phút trước, linh tính đã báo cho Văn Bình biết. Chàng đánh hơi thấy tai nạn sắp sửa xảy ra. Và trên thực tế, một tai nạn ghê gớm sắp xảy ra trên không phận đìu hiu miền Bắc….
Qua lớp kính phòng phi hành, Văn Bình nhận thấy một chiếc phi cơ thon dài đang vút qua đầu chiếc Dakota. Phụ tá hoa tiêu hét lên:
- Phi cơ phản lực.
Dĩ nhiên… vì phi cơ không có cánh quạt. Một học sinh nhỏ tuổi cũng biết đó là phi cơ phản lực. Văn Bình hơi băn khoăn vì phi cơ không đeo ký hiệu ở đuôi và cánh như thường lệ. Dưới ánh trăng xuông, màu sơn đen của chiếc khu trục cơ hiện ra nổi bật. Đối diện loại chim sát khổng lồ và dữ tợn này, chiếc Dakota thương mãi chỉ là con muỗi ốm yếu tần thường….
Văn Bình muốn hỏi nữa, song lại nín lặng. Chắc phụ tá hoa tiêu cũng chẳng hơn gì chàng. Chàng muốn hỏi hắn là phi cơ phản lực đang bay trên đầu chiếc Dakota là của ai? Chàng không tin đó là phi cơ của du kích quân cộng sản, dầu đơn vị F-22 đang hoạt động mạnh mẽ ở miền Bắc. Tất nhiên phải là của chính phủ.
Vậy thì đại tá Karati….
Phi cơ phản lực đã quay trở lại. Nhưng lần này lại bay sát bên hông chiếc Dakota. Luồng gió cực mạnh do phi cơ phản lực gây ra trên từng cao làm chiếc Dakota loạng choạng. Chỉ riêng lối bay kèm bên này đủ xô chiếc Dakota cổ xưa và chở nặng chĩu này xuống giòng sông rộng lớn bên dưới. Nếu họ dùng đại liên nữa thì hết….
Văn Bình ra lệnh cho phụ tá hoa tiêu:
- Trúc mũi phi cơ xuống. Xuống thấp nhanh lên… Xuống thật thấp….
Chiếc ca-nô hai tầng sáng rực ánh đèn của Inkagaung đã chạy biến vào sương mù, chỉ còn lại ánh đèn hậu đỏ rực. Văn Bình cảm thấy cô đơn và lạnh lẽo hơn bao giờ hết.
Chàng cất tiếng trong máy vi âm:
- Yêu cầu Vêra và Sophie chú ý… Buộc chặt giây lưng ghế lại… một phản lực cơ lạ đang áp đảo chúng ta… Nếu cần, tôi sẽ hạ cánh.
Chiếc Dakota vẫn rung chuyển dữ dội. Văn Bình nhận thấy bàn tay phụ tá hoa tiêu run lẩy bẩy. Với phản ứng mất bình tĩnh này, hắn khó thể điều khiển phi cơ hạ cánh an toàn. Hắn hỏi Văn Bình, giọng cắt quãng:
- Ông ơi…. mình bay đi hay về?
Văn Bình đáp ngắn:
- Đi.
- Nhưng còn phản lực cơ?
- Kệ nó.
- Nó bắn thì mình phải chết.
- Vậy anh nằm xuống sàn, trả cần lái cho tôi.
- Tôi van ông…. chúng mình nên về là hơn.
- Về hả? Anh liên lạc vô tuyến với họ. Nếu họ chấp thuận thì ta quay về. Nhưng tôi không tin…
Văn Bình đã có lý do xác đáng để không tin là phản lực cơ lạ chỉ chắn đường, bắt chàng lộn về. Nhưng dầu sao chàng cũng để cho phụ tá hoa tiêu có cơ hội tìm lối thoát….
Phụ tá hoa tiêu líu lưõi trong ống nói vô tuyến:
- Alô, alô…. đây là phi cơ vận tải thương mãi cất cánh ở sân bay Pegu có giấy phép của đài kiểm soát… Chúng tôi chở hàng hóa lên Nambum. Xin cho biết quý vị là ai? Alô… xin cho biết quý vị là ai?
Như Văn Bình tiên đoán, phi cơ phản lực giả điếc không trả lời. Phụ tá hoa tiêu Dakota nhắc lại:
- Alô, alô…. xin cho biết quý vị là ai? Vì phi cơ của chúng tôi sắp sửa mất thăng bằng… có thể gặp tai nạn… alô, alô….
Sau cùng, phản lực cơ trả lời.
Nhưng không phải trả lời đúng như phụ tá hoa tiêu Dakota mong muốn. Mà là trả lời bằng sức mạnh tàn bạo.
Trong chớp mắt, phản lực cơ đã hùng hổ bay tới, tiếng gió xẻ không khí làm Văn Bình điếc tai. Kèm theo tiếng gió là tiếng nổ chát chúa của đại liên 20 ở mũi phi cơ.
Không biết tràng đạn đầu tiên này được bắn trúng hay sai mục phiêu, tuy nhiên, phi cơ Dakota đã nghiêng hẳn một bên, và đâm đầu xuống đất.
Qua ô cửa kính phi cơ, Văn Bình chỉ nhìn thấy thấp thoáng giòng sông phía dưới. ánh trăng đã không có, ánh đèn cũng không, chiếc Dakota rớt giữa rừng già, núi non lởm chởm thì mọi người cầm chắc cái chết. Chỉ còn lối thoát duy nhất, cố giữ cho phi cơ khỏi rơi để tùy cơ đápxuống một bão trống.
Tuy nhiên, chiếc Dakota chỉ có hy vọng giữ mức thăng bằng nếu phi cơ phản lực không tiếp tục xạ kích nữa. Trong một phút đồng hồ, tứ bề chìm vào yên lặng, âm thanh rầm rầm của phi cơ phản lực mỗi lúc một nhỏ dần. Tuy là một phút mà Văn Bình cảm thấy dài lê thê hàng giờ.
Những tiếng động xé nhĩ tai đã trở lại, xoắn sâu vào óc Văn Bình. Nghia là họ quyết tâm bắn hạ chiếc Dakota. Họ là ai? Văn Bình chỉ phớt câu hỏi mà không trả lời. Dầu là ai nữa thì tính mạng của chàng và của hai người đàn bà đẹp chỉ như sợi chỉ mành treo chuông.
Tiếng đại liên lại rít lên.
Văn Bình nghe một tiếng kêu khác thường trong động cơ máy bay Dakota. Tiếng kêu này làm chàng rợn tóc gáy. Phụ tá hoa tiêu quay lại phía chàng, giọng đầy kinh hãi:
- Đạn trúng vào máy rồi….
Tức là phi cơ phải rơi. Trừ phi….
Lửa da cam bắt đầu phụt cháy một bên cánh. Văn Bình thét lớn:
- Tắt máy bên hữu.
Phụ tá hoa tiêu vội vàng cúp xăng. Phi cơ nghiêng hẳng về bên tả rồi chồng chành mạnh mẽ như chiếc thuyền nan dật dờ trên sóng dữ. Động cơ bên hữu ngưng chạy, động cơ bên tả không đủ sức kéo đỡ sức nặng của máy bay chỡ đầy hàng hóa.
Phụ tá hoa tiêu nghiếng răng:
- Chết đến nơi rồi….
Văn Bình quát vào tai hắn:
- Có nơi nào đáp xuống được không?
- Bên kia sông có một cánh đồng lúa. Nhưng….
- Trời tối, không thấy gì phải không?
- Không phải vì trời tối. Tôi lái đường này cả trăm lần, nhắm mắt tôi cũng không thể lạc. Sở dĩ tôi lo ngại vì cánh đồng lúa này lọt thỏm trong rừng… trong rừng gổ tếch. Chạm phải đỉnh cây thì mất mạng…
- Anh hạ cánh nổi không?
- Không nổi cũng phải nổi… Vì ngồi trên phi cơ cũng chết. Thà xuống ở đây còn hơn vì phía trên độ 5 cây số nữa, toàn núi là nói.
- Cố gắng lên.
Phụ tá hoa tiêu nín thinh, mắt dán vào dãy đồng hồ điều khiển trướcmặt.
Trên đầu chiếc Dakota, con chim sắt hung dữ vẫn khạc lửa. Song Văn Bình không quan tâm tới những viên đạn đại liên reo rắc thần Chết nữa, vì lù lù trước mũi chiếc Dakota là một ngọn núi nhọn hoắt, Văn Bình la lên:
- Núi, núi, vọt nhanh kẻo đụng.
Phụ tá hoa tiêu phản ứng nhanh như điện xẹt. Có lẽ vì sống quen trong rừng rậm nên tay chân hắn thoăn thoắt như con beo. Văn Bình vừa nói dứt lời thì mũi chiếc Dakota đã nghếch lên, thoát khỏi vách núi đen sì trong gang tấc.
Văn Bình hỏi:
- Còn gặp núi nữa không?
Phụ tá hoa tiêu đáp:
- Không.
- Sông Irrawaddy đâu? Tôi chẳng thấy đâu cả.
- Vì chúng mình đã vượt qua sông, bay về hướng Đông. Bây giờ là rừng. Sắp đến ruộng lúa. Gần ruộng lúa là đồi thấp trồng nha phiến.
Văn Bình liếc nhìn hai người đàn bà ngồi đăm chiêu bên cạnh một kiện hàng lớn. Từ nãy đến giờ, họ không hề trò chuyện với nhau. Thậm chí sau khi biết phi cơ bị xạ kích, họ cũng lầm lì không thốt một lời. Văn Bình cảm thấy thương hại lạ lùng. Cho đến giờ phút cực kỳ nguy hiểm này mà đàn bà vẫn nghĩ đến ghen tuông. Có lẽ trong thâm tâm, người này đang cầu nguyện cho người kia chết để thảnh thơi tận hưởng ái tình.
Chiếc Dakota cứ xuống thấp thêm nữa.
Văn Bình vẫn còn nghe âm thanh của phản lực cơ đang lượn vòng trên cao. Nhưng một phút sau, nó đã bay mất dạng về hướng Nam. Văn Bình lại hỏi:
- Độ mấy phút nữa thì tới?
Phụ tá hoa tiêu đáp:
- Tới rồi.
Ngó xuống, Văn Bình chỉ thấy phong cảnh lờ mờ. Mặt đất dường như đang vươn lên chạy về phía phi cơ. Tuy quen thuộc với đời sống phi hành, chàng cũng hơi chóng mặt. Kể ra chàng không phải là hoa tiêu tầm thường: chàng đã thu lượm khá nhiều huy chương quân sự trong những ngày lái khu trục cơ sống mái với địch trên không phận, hoặc điều khiển vận tải cơ vượt qua hàng rào thép đen cao xạ kinh khủng của địch, trở về đời sống dân sự, chàng từng làm hoa tiêu thương mãi và được liệt vào hạng xuất sắc.
Nhưng trăm hay không bằng tay quen, về kỹ thuật, chàng đáng bậc thầy của viên phụ tá hoa tiêu, song về kinh nghiệm bản xứ, chàng chưa đáng môn sinh của hắn. Hắn điều khiển con chim sắt bị thương nặng một cách thoải mái như người lái xe hơi dạo mát trên xa lộ vắng vẻ và thẳng tắp. Cử chỉ của hắn luôn luôn từ tốn, ăn khớp với nhau, không chi tiết nào thừa hoặc thiếu.
- Lạ thật, tôi chẳng thấy gì hết.
- Vâng, vì ông không quen. Ông có thấy vệt trắng dài ở trước mặt không?
- Thấy, dường như là nhà lợp tôn.
- Đúng. Thường lệ, nhà sàn ở đây đều làm bằng gỗ vì gỗ vừa tốt lại vừa dễ kiếm. Nhưng để làm đích cho phi cơ, một số nhà sàn được lợp tôn. Có nơi còn dùng sơn lân tinh nữa.
Giọng nói của phụ tá hoa tiêu bỗng rắn rỏi hẳn lên:
- Yêu cầu hành khách chú ý… Yêu cầu hành khách chú ý… Tôi sửa soạn đáp xuống. Hy vọng là không gặp tai nạn… Yêu cầu buộc giây lưng ghế thật chặt… Yêu cầu lấy mền dầy độn say gáy, xương sống, hai bên hông, đề phòng bị xóc mạnh….
Ngoại trừ Vêra và Sophie, hành khách không có ai. Có lẽ vì thói quen nên phụ tá hoa tiêu loan báo bằng giọng trịnh trọng.
Một phút nằng nề trôi qua. Phụ tá hoa tiêu nghiêm nét mặt:
- Phi cơ đáp xuống.
Hắn kéo cho mũi máy bay ngóc lên để hãm bớt vận tốc còn lại. Trong khoảnh khắc, Văn Bình có cảm giác là chiếc Dakota thương mãi đứng dừng lại, treo lửng lơ giữa không gian bao la, máy bên tả câm lặng, cánh quạt ngưng quay, mọi người đều nín thở.
Rồi phi cơ đáp xuống bằng bụng.
Rầm rầm….
Nhiều âm thanh khác nhau cùng nổi lên, âm thanh của kim khí va chạm và gẫy nát. Phi cơ chạm đất, nhưng chưa chịu nằm ép xuống một cách ngoan ngoãn, theo lệnh hoa tiêu. Như để trả thù hoa tiêu đã thống trị nó bằng kỷ luật tuyệt đối sau nhiều năm tháng, chiếc Dakota rùng mình như muốn chồm dậy bay lên trời.
Song nó chỉ vươn vai đưọv nửa chừng rồi nằm vật xuống. Rầm rầm… rầm rầm…. Đuôi phi cơ bị đứt khỏi thân, văng ra xa. Một bên cánh cũng gãy làm đôi, mỗi mảnh bay một nơi, cách phi cơ gần trăm thước.
Tuy đã chuẩn bị trước, Văn Bình vẫn bị hất về phía trước, rồi giật về đằng sau. Toàn thân chàng đau điếng, xương sống như bị đứt rời ra từng khúc. Dường như chàng bị một loạt nhiều cú atémi vào xương sống vậy.
Song chàng vẫn tỉnh.
Chàng vẫn thấy rõ việc xảy ra chung quanh. Và nghe được tiếng kêu cứu thất thanh của hai người đàn bà cô quạnh và sợ hãi cùng độ.
Rồi tất cả chìm vào im lặng.
Một sự im lặng rùng rợn và lạnh ngắt….
Văn Bình mím môi tháo khóa giây lưng ghế. Chàng vận toàn lực mà cái khóa đồng ngày thường trơn tru vẫn dính cứng. Chàng chưa rút đượcc một chân ra khỏi đống hàng hóa và sắt nhọn đè lên. Đèn trong phi cơ tắt ngúm, tứ phía tối om.
Vì tứ phía tối om nên Văn Bình biết là hỏa hoạn không xảy ra. Lệ thường, phi cơ đáp xuống bằng bụng dễ bị cháy. Chắc vì gần cạn xăng. Và cũng vì bãi đáp toàn bùn là bùn.
Văn Bình thu hết chân khí vào bụng. Chàng phình bụng ra theo nội công Trung Hoa, đồng thời dứt giây lưng ghế. Xong xuôi, chàng xô cái thùng sắt nặng chĩu sang bên để rút chân.
Chàng cất tiếng:
- Không ai bị thương cả chứ?
Choàng không dám kêu rõ tên Vêra hoặc Sophie. Vì nếu kêu rõ thì tên người đẹp nào sẽ đứng trước? Tốt hơn chàng nói trống không.
Trong bóng tối, Sophie đáp nho nhỏ:
- Không.
Tiếp theo là tiếng "không" của Vêra. Văn Bình hơi ngạc nhiên vi không nghe tiếng cười tự tin gần như ngạo nghễ của phụ tá hoa tiêu. Kể ra, hắn ngạo nghễ cũng không quá đáng. Các công ty hàng không trên thế giới sẵn sàng ký cả chục ngàn đô-la mỗi tháng cho những phi công - con số phi công xuất sắc này rất ít - có thể hạ cánh cấp cứu trong rừng khuya mù mịt, không đèn báo hiệu, một động cơ tắt ngúm, động cơ còn lại hấp hối, mà vẫn êm như đáp xuống phi đạo bằng nhung.
Văn Bình không biết ten hắn nên chỉ gọi:
- Này, anh bạn!
"Anh bạn" vẫn không trả lời.
Văn Bình quờ quạng vào ghế ngồi của viên phụ tá hoa tiêu. Và chàng chợt hiểu sao hắn ngậm miệng.
Lẫn với bồ hôi ướt đầm trán và mặt là máu pha chất bầy nhầy. Thoáng chạm vào, Văn Bình biết là máu. Mùi máu tươi nong nóng, tanh tanh, xông vào mũi chàng. Không hiểu sao khi ấy mùi máu tươi lại át cả mùi hàng hóa đổ vỡ trong ca-bin phi cơ, mùi ẩm mốc của rừng già, và nhất là mùi ét xăng và dầu nhớt khét lẹt.
Chất bầy nhầy dính đầy ngón tay Văn Bình. Chàng lay đầu hắn. Hắn ngoẹo cổ và gục xuống cần lái.
Thì ra phụ tá hoa tiêu đã chết.
Văn Bình chưa hiểu rõ nguyên nhân. Lúc phi cơ đáp xuống, hắn còn nói chuyện ồm oàm. Có lẽ hắn bị trúng đạn, mất quá nhiều máu, song say sưa với việc hạ cánh nên quên bẵng. Sự rung chuyển dữ dội khi máy bay rơi trên đất có lẽ đã làm hắn ngất đi. Và hắn đã "đi" luôn, không thức dậy nữa.
Văn Bình loạng choạng đứng dậy. Chàng ghé sát mặt phụ tá hoa tiêu, hỏi lại lần nữa:
- Anh bị thương ở đâu?
Hắn vẫn không đáp. Văn Bình ghé tai vào ngực hắn. Tim hắn không đập nữa. Thế là hết. Tuy đã quen với cảnh chết chóc đột ngột và tàn nhẫn, Văn Bình vẫn cảm thấy nội tâm tê tái.
Tiếng Vêra vọng lại:
- Em đang bị kẹt, anh ơi!
Nếu không nhớ tới tai nạn phi cơ vừa xảy ra làm phụ tá hoa tiêu thiệt mạng thì Văn Bình đã bật cười. Dĩ nhiên là Vêra đang bị kẹt…. Văn Bình cũng đang bị kẹt… Toàn thể đều đang bị kẹt….
Văn Bình phải vất vả lắm mới tháo được giây lưng ghế cho Vêra và dìu nàng ra cửa. Chàng không phải giúp đỡ Sophie, nàng đã tự lực thoát hiểm. Có lẽ vì nàng đã học được tính bình tĩnh trước nguy biến. Mặt khác, có lẽ nàng đã quen với tai nạn phi hành.
Văn Bình đỡ hai người đàn bà đẹp trèo ra ngoài. Cửa lớn đã bẹp dí. Phi cơ nằm nghiêng, đè lên một bên cánh gẫy nát, ngập lút dưới bùn. Gió mát bên ngoài làm Văn Bình dễ chịu. Vêra níu lấy tay chàng, trèo lên trước, rồi đến Sophie. Khi nhảy xuống đất, chàng phải mò đường trong bóng đêm tranh tối tranh sáng, tiến về phía mũi phi cơ, tương đối thấp hơn đuôi, rồi chuyền từng người một xuống cánh. Chàng lại phải đứng dưới đất, xoạc chân trên bùn và mủn lá, ngập đến nửa đầu gối, chìa vai ra làm ghế cho họ lần lượt ngồi lên và ngả vào tay chàng, nhẹ nhàng tuột xuống.
Chàng nhận thấy khi tuột xuống, Vêra cũng như Sophie - nhất là Sophie - đều tìm cách cọ mạnh vào ngực chàng. Sophie lầm lì không nói như Vêra, song đùi nàng, tay nàng và ngực nàng lại nói nhiều hơn. Văn Bình nhắm mắt, nín thở, không dám nhìn cũng như không dám hít sợ những đường cong kích thích và mùi da thịt hăng hắc làm đầu óc quay cuồng.
Không phải vì tai nạn khủng khiếp đã giết chết tình cảm sôi đọng trong lòng chàng vì thật ra trong những hoàn cảnh cô đơn và lạnh lẽo như thế này, chàng cảm thấy thèm yêu đương, thèm ôm ấp đàn bà đẹp hơn bao giờ hết. Nhưng sự ham muốn mãnh liệt của chàng đã vội vàng dịu xuống như hồi nào ở Hòa Bình, trong mật khu của 10 chị em họ Dương.
Bất giác Văn Bình lại nhớ tới cô em út, má lúm đồng tiền, chuyên môn cưỡi ngựa không cần yên cương, nhiều khi nổi hứng lại đứng một chân trên lưng ngựa hoặc nằm lòn dưới bụng giống như trong phim cao-bồi Viễn Tây.
Nếu cần người yêu để trò chuyện thì chàng chọn cô chị cả. Nhưng nếu cần người yêu để ôm ấp đêm đông lạnh lùng thì chàng phải chọn cô út. Vì nàng có thân hình cân đối nhất, kiều diễm nhất trong bọn. Chiều hôm ấy, định mạng (không biết là định mạng hữu duyên hay vô phước) run rủi cho chàng gặp nàng ngoài bìa rừng.
Đó là một khu rừng lim, thân cây cao ngất, hai ngôm không xuể. Xen vào giữa những cây lim bề thế, ngạo nghễ là nhiều bụi hoa mẫu đơn, hoa đỏ, lớn bằng cái bát chiết yêu. Khi ấy đang mùa mẫu đơn nở. Chàng đang mê mải với bụi mẫu đơn vừa nở tròn trạnh thì hai bàn tay xinh nhỏ từ sau lưng luồn tới bịt mắt chàng lại.
Lệ thường chàng rất thính tai. Không hiểu sao chàng lại không nghe tiếng chân của cô út. Có lẽ vì hoa mẫu đơn tuyệt đẹp đã thu hồn chàng. Nhưng phần nào có lẽ vì nàng quen đi trong rừng gót chân nhẹ nhàng như lá rụng.
Nàng thỏ thẻ hỏi chàng:
- Đố anh, em là ai?
Nàng không đố, chàng cũng biết, vì chàng đã thuộc giọng nói của 10 chị em. Cô út giọng nói dễ nhận ra nhất. Giọng nói của nàng pha vẻ làm nũng đáng đánh đòn của con gái nhà giàu, giọng nói không hề có trong số các chị em còn lại.
Chàng bèn cười rộ lên:
- Chịu.
- Hừ, anh nói dối. Em cho anh một phút, đúng một phút, nếu anh còn tiếp tục giả vờ, em sẽ trừng phạt.
- Trừng phạt?
- Phải. Em sẽ ra lệnh cho con ngựa bạch của em quần thảo với anh một hiệp.
Tuy nàng nói đùa, Văn Bình cũng sợ toát bồ hôi. Trong một khu có hàng chục con ngựa, con nào cũng được coi là ngựa quý. Song quý nhất là con ngựa bạch của cô út.
Nó là kỳ quan trong nòi ngựa rừng, cân nặng trên dưới một tấn. Văn Bình đã cao mà đứng chưa quá lưng nó, và bề dài từ đuôi tới mỗm gần bằng chiếc Peugeot 404. Theo lời cô út thuật lại thì nó thuộc một giống ngựa đặc biệt ở vùng rừng rậm trung bộ Mỹ châu 2. Gia đình họ Dương rất mê ngựa, giống nào đắt tiền nhất cũng cầy cục mua về cho bằng được. Con ngựa của cô út là giống Percheron, giống ngựa lớn nhất thế giới.
Đặc điểm của nó là rất hiền và cũng rất dữ. Đối với nữ chủ nhân, nó hiền như con mèo, mỗi khi nàng muốn cưởi thì nó quỳ xuống cho nàng trèo lên. Nhưng đối với người lạ thì nó lại dữ như cọp gấm, riêng cái đuôi của nó cũng đủ quật ngã những võ sĩ nội ngoại công tuyệt vời. Nó nghe được tiếng người và hơn một lần đã dùng sức mạnh để bảo vệ chủ nhân. Một đêm kia, cô út chở võ khí từ đồng bằng về chiến khu, dọc đường lọt vào ổ phục kích của bộ đội chính quy cộng sản. Con ngựa bạch hí lên một tiếng kinh thiên động địa, làm lá cây rụng xuống ào ào, rồi nhảy vọt một cái, qua giòng suối lớn, nước chảy như thác đổ, bỏ lại tiểu đội phục kích, mặt mũi chưng hửng. Lại một đêm khác, nàng bị công an chặn bắt ở ngoài bìa rừng, con ngựa bạch tung chân sau, đá chết hai người, bọn sống sót vứt cả súng bỏ chạy tán loạn.
Cũng như gia đình họ Dương, Văn Bình rất mê ngựa. Chàng lại hơn gia đình họ Dương ở chỗ đã chu du khắp trái đất, tham dự nhiều cuộc đua quốc tế, và thăm viếng nhiều chuồng ngựa hữu danh. Chàng đã lưu lại đồng quê Thụy Điển, quốc gia chiếm nhiều giải đua ngựa, trong 6 tháng, chàng đã có lặt tại những trại nuôi ngựa đua Úc châu, xứ nổi tiếng năm châu về nghệ thuật cưỡi ngựa 3. Văn Bình cũng không phải là kẻ tập sự kỵ mã. Cô út họ Dương cũng biết rõ điều ấy. Song nàng cũng biết rằng kinh nghiệm của Văn Bình không thể giúp chàng đọ sức với con ngựa bạch khổng lồ.
Nàng mỉm cười tiếp:
- Anh trả lời đi. Anh muốn làm lành với em hay muốn thi gan với con ngựa bạch?
Văn Bình đáp:
- Tôi chịu thua rồi.
- Vậy em là ai?
- Là cô gái đẹp nhất thế giới.
Nàng phá lên cười lanh lảnh. Tiếng cười của nàng có mãnh lực kỳ diệu đến nỗi chim muông trong rừng phải ngừng ca hót. Nàng nắm tay chàng:
- Anh đi chơi với em nhé!
Dĩ nhiên là Văn Bình nhận lời ngay. Chàng chọn một bụi mẫu đơn nở hoa đỏ ối làm nơi tình tự. Nằm dài trên nền lá, môi hé nở, mắt lim dim, sửa soạn đón nhận nụ hôn của chàng thì đột nhiên có tiếng vó ngựa. Nàng vội choàng dậy, giọng hốt hoảng:
- Chết rồi, em phải về đây!
Chàng cố giữ nàng lại:
- Tại sao em lại về?
Nàng thở dài:
- Vì chúng em đã thỏa thuận với nhau là không ai được hẹn hò riêng với anh.
Lòng chàng đang nóng sôi hoan lạc vụt hạ nhiệt độ như gặp tảng băng Bắc Cực. Hôm ấy, chàng lủi thủi trên đường về, không dám nghĩ tới kho tàng vệ nữ họ Dương như trước nữa.
Cũng như đêm nay….
Trong rừng sâu, bên chiếc Dakota lâm nạn nát ngướu, với hai mỹ nhân Vêra và Sophie ….
Trời bắt đầu hửng sáng.
Bóng tối không còn dày đặc nữa. Văn Bình đã có thể lờ mờ nhìn thấy cảnh vật chung quanh. Cả bọn đang ở ven ruộng nha phiến. Mùi cây nha phiến trổ hoa thoang thoảng trong gió làm Văn Bình ngây ngất.
Đối với chàng, màu trắng, tía và hồng của hoa nha phiến là một trong nhiều hình ảnh quen thuộc. Trong thời gian chàng cộng tác với Cảnh Sát Quốc Tế Interpol, theo dõi bọn buôn lậu thuốc phiện trắng từ Viễn-Đông qua Tây phương, chàng đã lang thang trong vùng đồi núi Ấn-Độ và Thổ-nhĩ-kỳ, nơi trồng cây nha phiến nhiều nhất thế giới.
Dầu sao ánh sáng rạng đông còn vương trên đỉnh cây cao, sương đêm lại còn dày đặc, Văn Bình vẫn nhận thấy rõ một cánh đồng bát ngát, trồng toàn loại cây ẻo lả chỉ cao bằng đầu người: cây nha phiến. Mùa này đang là mùa lấy nhựa. Hơi nhựa từ thân cây toát ra có thể gây ra mê man. Công nhân lấy nhựa phải quay mặt ngược chiều gió hoặc đeo mặt nạ. Trên thực tế, nhiều người đã mê man và không tỉnh dậy nữa.
Công việc lấy nhựa nha phiến cũng tế nhị và khó khăn như cư xử với đàn bà. Khi cánh hoa bắt đầu rụng, ngày nào người ta cũng phải xem cái quả bên trong đã tới "nước" chưa. Còn non mà vội lấy nhựa - khác nào đối với tình yêu trai gái - thì giòng sữa trắng sẽ tháo đổ xuống đất. Nhưng để quá già thì nhựa cây lại mất đặc tính quý giá, chất mọt-phin trong nhựa trờ thành cô-đê-in, rẻ tiền hơn và ít say hơn.
Rạch trái lấy nhựa cũng là một công việc đòi hỏi sự khéo tay khác thường. Rạch hơi sâu thì chất nha phiến sẽ hòa trộn với các nhựa khác trong cây, làm mất vẻ tinh khiết, ngược lại, vạch hơi cạn thì nhựa lại không chịu chảy ra. Sau khi nhựa chảy ra và đông đặc lại ngoài vỏ, người ta còn phải thận trọng hơn nữa vì số nhựa mỗi cây chỉ bằng mẩu tàn thuốc lá là cùng. Người ta phải cạo chất nhựa bằng dao, và trong vòng 10 giờ đồng hồ sau khi rạch. Quá thời hạn này, nha phiến sẽ cứng lại.
Ba người đã đi xuyên qua ruộng nha phiến tới một khu rừng thưa trên sườn đồi thoai thoải. Gió mát ban mai trinh tiết từ xa thổi lại, mang theo mùi nước sông Irrawaddy.
Văn Bình buột miệng:
- A, gần tới sông rồi… Chúng mình không sợ lạc nữa.
Sophie chỉ sang bên trái:
- Sông ở về hướng này. Em đã tới ruộng nha phiến này vài ba lần nên rất thuộc đường. Chúng mình lên tới đỉnh đồi này là thấy sông.
- Còn bao xa nữa thì tới Nambum-Ga?
- Nếu đi đường thẳng thì chỉ độ 10 cây số. Nhưng vì nơi đây không có đường sá nên phải mất nửa ngày trời mới vượt nổi 10 cây số băng rừng. Nghĩa là em hy vọng đến gần trưa thì đến nơi. Song đó là không đi lạc. Trong quá khứ, có lần em đi suốt đêm trong rừng mà không tài nào ra khỏi phạm vi một cây số.
- Cô biết đường băng rừng tới Nambum-Ga chứ?
- Biết. Nhưng có lẽ chúng mình không phải đi bộ đâu. Khu rừng này có rất nhiều rắn rết. Mà toàn là rắn rết nguy hiểm, cắn phải là mất mạng.
- Chắc cô muốn nói đến ca-nô của Inka?
- Phải. Anh thông minh ghê. Con sông Irrawaddy chạy vòng trên mấy chục cây số nên hàng ngày, trời sáng rõ ca-nô của Inka mới tới khúc quẹo sau đồi.
Văn Bình sực nhớ lại lời tâm sự của viên phụ tá hoa tiêu. Hắn cho chàng biết là Inka say mê Sophie như điếu đổ, song nàng vẫn phẳng lặng như nước hồ thu.
Thừa cơ Vêra còn rửa mặt bên suối, Văn Bình hỏi Sophie:
- Cô quen Inka không?
Nàng nhìn chàng, vẻ mặt ngơ ngác:
- Quen. Hắn là bạn của Abê. Nói cho đúng, không phải bạn mà là hùn hạp buôn bán. Hẳn anh đã biết Abê dùng công ty du lịch để buôn nha phiến. Ồ, em vui miệng nên nói bậy… Dầu sao Abê cũng đã chết rồi… Lẽ ra em không nên nhắc tới đời tư của….
Văn Bình gạt phắt:
- Cô đừng ngại. Trước khi tới đây, tôi đã biết. Abê không tự ỳ buôn thuốc phiện lậu để kiếm lợi. Mà lợi dụng việc buôn bán để móc nối với các tổ chức miền Bắc. Inka quen Abê và cô lâu chưa?
- Khi em đến Ngưỡng Quang thì đã thấy Inka.
- Abê tin hắn hay không?
- Không. Abê nói rằng Inka là kẻ chỉ nghĩ đến tiền. Đồng tiền có thể làm hắn quáng mắt.
Văn Bình hơi ngập ngừng:
- Tôi muốn hỏi cô điều này nữa. Một điều riêng tư….
Sophie khựng người một giây rồi nói:
- Em hiểu… Anh muốn biết sự liên lạc giữa em và Inka phải không?
- Phải. Xin cô tha lỗi. Tôi đã biết là cô không yêu hắn.
- Ai nói với anh như thế?
- Abê.
- Hừ, anh nói dối… Abê không phải là người ngồi lê đôi mách. Vả lại, anh mới gặp Abê mỗi một lần, em có chứng kiến.
- Nghĩa là cô yêu hắn?
- Cả hai nhận xét đều không đúng.
- Nói là không yêu cô cho là sai. Nói là yêu, cô cũng cho là sai. Trời ơi, tôi sắp điên mất…
- Anh điên là phải. Vì không người đàn ông nào biết rung động lại không điên trong sự lựa chọn giữa hai người đàn bà… Vêra khêu gợi lắm, phải không anh?
- Xin cô nghĩ lại. Cái chết có thể xảy ra bất cứ lúc nào, vì vậy đây không phải là lúc nói đến tình yêu. Hơn ai hết, hẳn cô đã hiểu….
- Vâng, em hiểu rồi, hiểu quá rồi…. Em hiểu rằng hoạt động tình báo như anh không có tình yêu đương lâu bền. Trong lớp huấn luyện nhập môn, người ta cũng dạy em như vậy. Chỉ nam tình báo đã nói rõ ràng đàn bà là trở ngại nghề nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế một số nam điệp viên đã lợi dụng cấm điều này để hất hủi phụ nữ… Em xin nói thẳng anh biết là trên đời, em không còn ai nữa. Em có giòng máu bộ lạc nên nhiều khi hung dữ kinh khủng. Em có thể giết anh.
Văn Bình thở dài:
- Tôi cũng chẳng thiết sống nữa. Cô hãy cho tôi một viên đạn vào tim.
Sophie cười nửa miệng:
- Bây giờ, em lại muốn anh sống.
Vêra vội vàng từ bờ suối chạy tới. Vừa chạy, nàng vừa kêu cứu:
- Rắn, rắn, trời ơi!
Trời đã sáng rõ. Con độc xà đang oằn oại rượt theo Vêra không phải là rắn mà là một loại trăn nhỏ, thân đen bóng như quần lãnh, đầu hình tam giác đỏ hỏn, cái lưỡi dài và nhọn thè lè, kêu rít vun vút trong không khí đẫm sương.
Mặt tái mét không còn hột máu, Vêra chạy lê đến gần Văn Bình thì vấp phải rễ cây, ngã chúi xuống. Nếu không vấp nàng cũng đã kiệt sức, không chạy thêm được nữa. Con trăn chỉ còn cách Vêra hai sải tay, cuộn tròn lại, sửa soạn bung ra trong thế tấn công sát nhân.
Văn Bình bối rối mặc dầu đã tiến lên một bộ, bàn chân sắp sửa phóng cước. Chàng bối rối vì biết loại trăn đen đỏ này rất lợi hại, toàn thân rắn cứng như được bọc trong một giáp trụ bằng kim khí, võ atémi phải giáng trúng yếu huyệt, nếu không chỉ như châu chấu đá xe.
Thì "đoàng" một tiếng ngắn.
Khẩu súng trong tay Sophie bốc khói nghi ngút. Văn Bình không ngờ nàng bắn giỏi đến thế. Nàng chỉ cần viên đạn độc nhất để phá nát đầu con trăn ác ôn. Con vật nổi tiếng hung hãn này chồm lên rồi ngã vật xuống nền cỏ ẩm ướt.
Văn Bình sửng sốt về tài thiện xạ của Sophie thì ít mà sửng sốt về phản ứng của nàng thì nhiều. Vì cách đó không đầy một phút, nàng còn là tình địch không đội trời chung của Vêra. Vậy mà nàng lại hạ con trăn, cứu cho Vêra khỏi chết. Phái yếu muôn thuở vẫn được coi là lạ lùng và bí mật. Sophie đã tỏ ra lạ lùng và bí mật hơn mọi người đàn bà khác.
Vêra lồm cồm bò dậy, giọng còn run run:
- Sophie đã cứu tôi. Cám ơn Sophie.
Nhưng Sophie đã ngoảnh đi chỗ khác. Sự im lặng nặng nề lại đè xuống đầu ba người.
Trong khoảnh khắc, cả ba đã lên tới đỉnh đồi. Đằng xa, về hướng Đông bị một rặng núi trùng die-đpchđịa phương khuất, một vùng đỏ da cam hiện lên, mỗi lúc một đậm nét. Núi đen từ từ nhuộm màu hồng, những giải sương lởn vởn trên đầu những cây nha phiến trổ bông đột nhiên biến thành mây ngũ sắc. Quang cảnh ban mai của núi rừng miền Bắc Diến-Điện chứa chất vẻ đẹp khác thường. Văn Bình cảm thấy tâm thần rung động, như hồi nào còn là cậu bé ngây thơ lần đầu theo phụ thân vác ná vào rừng săn thú. Có lẽ thuở hoa niên Văn Bình sống trên bìa rừng, lăn lóc trong rừng, nghe tiếng nói của rừng, nhìn cái đẹp của rừng, nên khi thành nhân, chàng yêu mến sự hoang dã, hoang dã trong tình yêu cũng như trong đời sống hoạt động.
Bỗng so reo to:
- Kìa, ca-nô của Inka!
Dưới chân đồi, bên tay trái, đối diện với vầng Đông đang rầm rộ ló dạng, giòng sông Irrawaddy hùng vĩ lượn ngoằn ngoèo với mặt nưóc xanh biếc, lăn tăn bọt vàng. Rừng cây hai bên đường như xanh hơn, vàng hơn thường ngày. Mùi nhựa nha phiến đang đông đặc trên cây hòa trộn vào không khí thuần khiết, khiến Văn Bình lâng lâng.
Chiếc ca-nô sơn xám, đèn thắp sáng trưng, từ từ ra khỏi khúc quanh ở chân đồi. Cửa ca-nô mấp mé làn nước, chắc vì chở nặng. Văn Bình thấy một người đàn ông mặc đồ cụt trắng, đứng trên boong.
Sophie rẽ đám lau sậy, chạy xuống trước. Dáng thoăn thoắt của nàng chứng tỏ nàng đã quen với rừng núi. Cặp giò cân đối của nàng không thua cặp giò của các chị em nhà họ Dương ở Hòa Bình, mệnh danh là cặp giò trường túc bất chi lao….
Vêra theo sau, cử chỉ mệt mỏi. Văn Bình không dám đưa vai cho nàng vịn mặc dầu đó là bổn phận của mọi người đàn ông lịch sự. Chàng đành rảo bước một quãng rồi đứng lại chờ. Gần nửa giờ sau, Vêra mới xuống được tới bờ sông.
Ca-nô của Inka huýt một hồi còi the thé trước khi tắt máy và đậu vào bờ.
Thấy Sophie, người đàn ông vạm vỡ mặt sọt trắng trên boong vẫy tay rối rít. Phụ tá hoa tiêu nói đúng: Inka cũng khá đẹp trai. Thân hình cân đối và cường tráng của hắn cũng có thể làm vừa lòng những người đàn bà khó tính. Tuy nhiên, Văn Bình nhận thấy hắn vô duyên do cặp mắt bằng phẳng và nụ cười gượng gạo.
Inka nhảy lên bờ, Sophie lạnh lùng bắt tay hắn, rồi giới thiệu:
- Đây là Inka… còn đây là Môhan…
Inka xoắn lấy Sophie:
- Cô không hề gì cả chứ?
Nàng lắc đầu, đáp cộc lốc:
- Không. Cám ơn anh.
Inka nhìn Văn Bình, kể lể:
- Gớm, tôi cứ lo ngay ngáy. Tuy trời tối, tôi biết là phi cơ của Abê nên mở hết đèn trong ca-nô và giảm tốc độ để đợi.
Văn Bình ngắt lời:
- Anh biết phi cơ tấn công chúng tôi là của ai không?
- Biết. Của quân lực Diến. Vả lại, tư nhân ở đây không thể có phi cơ phản lực. Điều làm tôi nhạc nhiên là phi cơ của Abê bị bắn. Abê vốn là người kinh doanh lương thiện.
- Abê đã bị giết.
- Vâng, tôi mới được tin. Nghe nói người ta chưa bắt được hung thủ và khám phá ra manh mối. Nhưng theo tôi, cuộc xạ kích vô lý này đã chứng tỏ nhà cầm quyền có nhúng tay vào.
Văn Bình nhún vai:
- Anh kết luận hơi sớm. May là gặp ca-nô của anh chứ không chúng tôi phải đi bộ xuyên rừng tới Nambum-Ga.
Inka đáp:
- Chắc anh chưa biết tôi là bạn của cô Sophie. Nếu nhảy vào lửa để cứu Sophie tôi cũng chẳng nệ hà, huống hồ là chỉ lái ca-nô vào bờ chờ đợi. Bà Vêra là tỉ phú quen tên ở Ngưỡng Quang, sự hiện diện của bà trên con tàu ọp ẹp này là một vinh dự lớn cho tôi… Tôi cho sự gặp gỡ này là do tiền định vì nếu tôi nhổ neo sớm hoặc chậm hơn thường lệ thì mọi việc đều hỏng và riêng tôi, tôi ân hận suốt đời.
- Ân hận suốt đời?
- À. Vâng, tôi sẽ ân hận suốt đời vì hai người đàn bà và anh khó tránh khỏi cái chết thê thảm. Đường từ đây tới thị trấn Nambum-Ga không xa mấy, nhưng lại rất nguy hiểm, một phần vì thú dữ, phần khác vì bộ đội giải phóng bắn lén hoặc bắt chuộc tiền.
- Tại sao ca-nô của anh vẫn chạy?
- Vì chúng tôi được võ trang đầy đủ. Mặt khác vì đã nộp thuế cho thượng tá U-Ban, tư lệnh du kích quân.
- Du kích quân có kiểm soát được Nambum-Ga không?
- Có và không. Vùng rừng núi chung quanh đều do họ hoàn toàn nắm giữ. Tuy nhiên, họ không vào thị trấn. Tình hình miền Bắc trong mấy tháng nay mổi ngày một căng thẳng. Ca-nô của tôi chỉ chạy đến Nambum-Ga, chứ không tiến xa hơn nữa, như trước kia. Chuyến này có lẽ là chuyến chót của tôi. Mai mốt về miền Nam, tôi sẽ bán tàu bè, bỏ nghề vận tải và hồi hương.
Phải trở về Anh quốc sau gần 10 năm sinh sống ở miền Bắc Diến-Điện, coi mảnh đất rừng núi này như quê hương thứ hai, thật là một sự đau đớn cho tôi, nhưng tôi không còn cách nào khác.
- Thì anh cứ tiếp tục đóng thuế cho U-Ban và tiếp tục khai thác thủy lộ….
- Sự việc không giản dị như thế. Chính phủ sẽ lôi tôi ra tòa nếu biết tôi tư thông với du kích quân. Song nếu tôi không nộp thuế - cũng như nhiều nhà buôn và kỷ nghệ khác - thì du kích quân sẽ lôi tôi vào rừng, chém đầu, vứt xác xuống khe. Trong quá khứ, tôi có thể sống an toàn là vì du kích quân chưa bành trướng và chính phủ cũng chưa đàn áp quyết liệt. Thôi, tôi bép xép nhiều quá, không lợi. Cô Sophie vẫn thường chê tôi là đàn ông lắm lời. Chính vì tôi mắc bệnh đa ngôn nên cô Sophie mới không đoái hoài tới.
Văn Bình quay nhìn Sophie, chờ đợi phản ứng. Nàng hơi nghiêm mặt:
- Bây giờ không phải là lúc nói chuyện riêng. Vêra hơi mệt, lẽ ra anh nên mời bà ấy xuống cabin nghỉ ngơi. Nếu anh và tôi còn sống chúng ta còn nhiều thời giờ để tìm hiểu nhau.
Inka giật mình:
- Xin lổi Sophie, xin lỗi anh Môhan. Tôi đã cho dọn sẵn ca-bin. Nào, mời bà Vêra, mời cô Sophie….
Hai người đàn bà theo Inka xuống khoang dưới, Văn Bình đánh diêm hút Salem. Boong tàu chật ních hàng hóa, chỉ trừ khoảng nhỏ ở đuôi và mũi. Thượng vàng, hạ cám, hàng hóa gồm đủ thứ, từ chiếc xe díp còn mới tinh, thơm mùi sơn kaki, tới những chiếc xe hắn máy và xe đạp cũ mèm, từ những kiện chăn mền quần áo nhiều màu sặc sỡ tới những đoàn gà mái kêu cục-tác liên tiếp và cừu non kêu be be điếc tai…
Thủy thủ đoàn gồm toàn người bản xứ, da ngăm ngăm đen, cử chỉ chậm chạp, thái độ bình thản gần như lạnh lùng. Văn Bình đang bâng khuâng với điếu thuốc thơm mùi bạc hà thì sau lưng có tiếng nói:
- Thưa ông….
Chàng quay lại. Một thủy thủ mặc đồng phục xám nghiêng mình chào chàng:
- Thưa ông…. thiếu tá Inka mời ông xuống ca-bin.
À ra Inka là thiếu tá… Có lẽ trước khi sang Diến-Điện, làm nghề chủ tàu, hắn đã đeo lon thiếu tá hải quân. Cũng có lẽ… Văn Bình lắc đầu:
- Buổi sáng trời đẹp như thế này, xuống ca-bin thật uổng. Phiền anh trình với thiếu tá rằng tôi muốn ở trên boong.
- Thưa… sắp đến trạm thu thuế của du kích rồi, ông đứng trên boong bất tiện. Văn Bình khoát tay ném điếu thuốc xuống giòng sông chảy xiết, giọng bực bội:
- Ừ thì xuống.
Trông ngoài, ca-nô thuộc loại trung bình, nhưng vào trong mới thấy lớn. Bên dưới được dùng làm kho chứa hàng hóa một phần ba, còn hai phần ba là phòng máy móc, và ca-bin cho thủy thủ đoàn và "thuyền trưởng" Inka.
Cầu thang sắt sơn xanh nhạt dẫn xuống ca-bin trắng toát, như trong bệnh viện. Tuy hai bờ sông đầy cát đỏ, gió lại thổi rào rào, hắt bụi vào tàu, ca-bin bên dưới vẫn sạch bóng, nền phòng tưởng như có thể soi gương được. Inka tươi cười đón chàng bên cái giường sắt gắn vào thân ca-nô. Chàng chưa kịp hỏi thì hắn đã nhanh nhẫu:
- Hai người đẹp còn đang bận trang điểm ở phòng bên.
Rồi chỉ cái bình thủy trước mặt:
- Anh dùng cà-phê nhé?
Văn Bình không phải là môn đệ chủ nghĩa uống cà-phê. Chàng có thói quen súc miệng sáng sớm bằng huýt-ky nguyên chất. Hồi ở Sàigòn, có lần chàng đã bị ông tổng giám đốc khiển trách về tật dùng huýt-ky thay cà-phê lót dạ. Nhưng chàng chỉ vâng dạ lấy lệ, rồi đả đảo cà-phê như trước. Bỗng dưng hôm nay chàng cảm thấy nhớ ông Hoàng, nhớ Sàigòn hơn bao giờ hết.
Chàng bèn gật đầu:
- Vâng, buổi sáng được uống cà-phê thì tuyệt.
Cà-phê bốc khói nghi ngút trong tách Nhật trong xanh như mắt mèo. Chàng uống một hơi cạn rồi ngửa cổ trên ghế, mắt lim dim.
Mỗi khi nhắp cà-phê chàng thường lim dim như vậy.
Nhưng hôm nay chàng muốn mở mắt mà không được. Hai mi mắt dường như bị dán lại với nhau bằng keo. Chàng thấy đăng đắng ở cuống họng và một luồng khí lạnh chạy rần rần trong tủy xương sống. Rồi toàn thân chàng mệt rũ. Trèo một mạch từ dưới chân đĩnh Hy-mã-lạp-sơn cũng chỉ mệt rũ đến thế là cùng.
Văn Bình thử duỗi chân.
Bàn chân chàng bị chôn chặt xuống nền ca-bin.
Chàng thử vung tay.
Cánh tay lực lưỡng của chàng như bị đè chặt dưới một tấn kim khí nặng nề.
Biết là bị lừa, Văn Bình trừng mắt nhìn Inka. Gã "thiếu tá", chủ ca-nô, vừa đứng dậy, án ngữ trước mặt chàng. Hắn mỉm cười:
- Anh buồn ngủ chưa?
Giọng nói thân mật giả tạo của hắn làm Văn Bình tức lộn ruột. Chàng vận chân khí lên đan điền, cố dùng thuật Ninjiutsu Nhật-Bản để hóa giải chất thuốc mê đang xâm chiếm cơ thể. Lệ thường chàng có thể cưỡng lại tác dụng của thuốc mê. Song lần này chàng bất lực.
Vì Inka đã pha vào cà-phê một thứ thuốc mê cực mạnh. Nỗ lực chuyển bại thành thắng của Văn Bình trở nên vô ích.
Tuy nhiên, trước khi chịu ngất đi, Văn Bình đã thu tàn lực để hét lên một tiếng kiai.
Rồi chàng ngã gục xuống nền ca-bin.
Inka phá lên cười:
- Ha ha ha ha!
--------------------------------
1 Cặp ngà dài nhất là của một con voi ở Kenya, hiện được cất giữ trong viện Bảo Tàng Quốc Gia Mỹ. Ngà này dài 2th90, cả cặp cân nặng chừng 190 ký.
2 Giống ngựa lớn nhất thế giới là Percheron. Con "Bác sĩ Le Gear" nặng 1.400 kí, dài 4m70, cao 1m80, sinh năm 1902, chết năm 1919.
3 Úc châu là xứ của kỷ lục đua ngựa: như kỷ lục nhảy cao và kỷ lục nhảy xa.