Số lần đọc/download: 1943 / 55
Cập nhật: 2017-08-27 19:08:13 +0700
Chương 7 -
T
háng bảy trời mưa dầm dề luôn mấy ngày, đến bữa nay mặt trời mới ló dạng, nhưng ánh sáng dường như còn nhút nhát, nên nắng vừa ấm cỏ chớ chưa làm khô được vũng bùn lầy, đường còn ướt át.
Ông Tư Tệt cũng như các nông gia ở thôn quê, ban đêm ngủ sớm, khuya thức dậy sớm, chẳng bao giờ ông biết nghỉ trưa, bởi vậy mặt trời đứng đầu mà ông mặc áo lá đương ngồi ngoài lẫm lúa coi cho thợ dọn quét, bởi vì hôm qua ông đã bán hết lúa bây giờ lẫm trống, nên ông không muốn để bụi trấu dơ dáy trong lẫm.
Thình lình có một chiếc xe hơi ngừng ngoài cửa ngõ. Ông ngó ra thấy ông Hội đồng Quì, ở Ngã Bảy, người ông quen thuở nay, xuống xe rồi đi vô sân, tóc râu bạc phếu, y phục tề chỉnh.
Ông Từ Tệt lật đật đứng dậy đi vô nhà lớn để đón tiếp khách. Ông mời khách vào nhà, lấy áo dài mặc cho đủ lễ, kêu đứa ở biểu chế nước lấy trầu, rồi nói chuyện với khách.
Những câu chuyện của chủ khách nói với nhau hôm nay là những câu chuyện chung thường nghe trong các làng các xóm, khi hai vị nông gia gặp nhau. Ban đầu hỏi thăm nhau về sự mạnh giỏi, rồi lần tới giá bán lúa. Có mấy câu chuyện ấy mà chủ khách có thể kéo dài tới tối vẫn chưa dứt, nhưng ông Hội đồng Quì có tánh thiết thực, bởi vậy nói chuyện ruộng nương lúa thóc mới được chừng một giờ thì ông xây qua ngã khác mà hỏi thăm gia đình rồi nói chuyện làm sui.
Ông Từ Tệt nói chuyện ruộng nương thì ông hăng hái bao nhiêu chừng nói chuyện làm sui ông lại dè dặt bấy nhiêu. Ông dè dặt đến nỗi không nhứt định, không cả quyết chút nào hết, chỉ nói những câu: "Để rồi coi" hoặc: "Thủng thẳng rồi sẽ tính", hoặc: "Anh nói vậy hay vậy". Sự dè dặt nguội lạnh ấy làm cho khách bất mãn nên phải từ mà về, song khi ra cửa khách còn muốn nuôi chút hy vọng nên nói với: "Chỗ đó xứng đáng lắm. Xin ông suy nghĩ lại, chẳng cần phải trả lời vội. Ông suy nghĩ coi được hay không rồi bữa nào rảnh ông viết thơ cho tôi biết. Nếu được thì anh em mình có dịp gần nhau thường".
Khách lên xe đi về rồi Ông Từ Tệt thủng thẳng trở vô nhà trong, trí tư lự, nên sắc mặt nghiêm trang.
Bà Tệt năm nay tóc đã bạc hoa râm, bà ở nhà sau đi lên, vừa thấy ông thì bà hỏi:
- Khách nào đó mà nói chuyện dai chi dữ vậy ông?
- Anh Hội đồng Quì ở trên Ngã Bảy.
- Hội đồng Quì nào? Phải sui gia với bà Sang ở bên Cái Giầy hay không?
- Phải.
- Ổng xuống thăm chơi hay là có việc chi?
- Ảnh muốn làm mai.
- Làm mai cho ai?
- Ảnh nói thầy Cai Hoà trên Rạch Giá muốn làm sui với mình, nên thẩy cậy ảnh nói trước dùm xin mình định ngày đặng thẩy đem coi trai thẩy xuống coi con Quyên.
- Coi con Quyên? Nó cứ ở miết dưới ruộng, nó có ở nhà đâu mà coi. Người ta nói như vậy mà ông có hứa hay không? Nếu có hứa thì phải sai người xuống Cà mau mà kêu nó về.
- Không. Tôi không có hứa chi hết. Tôi nói nó còn nhỏ, mà coi ý nó ham làm ruộng hơn lấy chồng. Anh Hội đồng Quì nài nỉ, cứ khoe thầy Cai Hoà giàu có lớn mà vợ chồng nhơn đức, tôi nói để tôi tính lại rồi sẽ trả lời.
- Con Quyên năm nay 23 tuổi rồi, có phải nhỏ đâu. Nếu coi phải chỗ nào thì cũng nên gả phức cho rồi, để nó lỡ thời rồi thì làm sao mà gả.
- Bà nó khéo lo dữ! Có tiền bà đừng sợ con nó ế chồng. Bà không nghe thằng Triều nói bữa hổm hay sao? Nó nói kỹ sư, bác sĩ họ đương rầm rầm kéo xuống miệt vườn mà kiếm vợ. Sớm muộn gì thì họ cũng mó tới cho coi. Bà đừng lo mà.
- Con thầy Cai Hoà có học hành gì hay không?
- Nghe nói đậu tú tài đủ hai kỳ, muốn đi Tây học song thầy Cai không chịu, nên bắt cưới vợ.
- Học tới bực tú tài cũng đủ rồi. Ông đèo bòng làm chi?
- Không phải tôi đèo bòng. Gả con tôi muốn chọn thằng rể lo làm ăn chớ không màng chức tước hay bằng cấp đâu. Người không có chí cần lao dầu học giỏi hay làm lớn tới bực nào đi nữa cũng không quí.
- Sao ông biết con thầy Cai không lo làm ăn?
- Tôi có biết đâu. Song tôi nghĩ con nhà quan, sung sướng từ nhỏ chí lớn quen rồi, nó biết lo làm ăn đâu, vì vậy nên tôi giục giặc chớ.
- Có con gái mà ông nghĩ đủ thứ như vậy, tôi sợ e tới già nó cũng chưa có chồng được. Chồng con là cái duyên của con gái. Người ta xin coi con Quyên thì cho người ta coi, gả hay không, tự nơi mình. Họ coi rồi mình sẽ dọ dẫm lại, như thằng rể tánh nết được thì mình gả, bằng không thì thôi, cho coi có buộc mình gả đâu mà sợ.
- Tôi không muốn như vậy. Bà muốn cho họ coi hay sao?
- Tôi không muốn chi hết, nhưng có con gái hễ họ xin coi thì phải cho coi.
- Tự ý bà. Thôi để bữa nào con Quyên nó về, tôi hỏi như nó chịu cho người ta coi thì tôi viết thơ hẹn ngày với anh Quì.
Hai ông bà đương cãi nhau kế cô Quyên ở dưới Cà Mau đi xe đò về tới.
Cô Quyên bây giờ là một cô gái 23 tuổi, khác hẳn với cô Quyên bảy tám năm trước. Tuy nước da ngâm ngâm của cô vẫn còn ngâm ngâm như cũ, tuy gương mặt vui vẻ của cô vẫn vui vẻ như thường, song bây giờ cô trổ mã con gái hoàn toàn, nên nét mặt của cô có u ẩn thiện chơn, hình vóc cô coi dong dảy mà lại đều đặn.
Cái giọng nói của cô lại trong trẻo, tướng đi của cô lại thanh nhã, bởi vậy nước da bánh ếch ngọt của cô bất quá làm cho cô không được mang danh gái mỹ miều mà thôi, chớ không đến nỗi liệt cô vào hạng gái thô hay là gái xấu được. Nhờ có học được mấy năm trên Sài Gòn nên cô nói tiếng Tây làu, cô thêu khéo, cô dạn dĩ, cô lanh lẹ.
Bỏ cái tánh liếng xáo hồi trước, bây giơ cô chỉnh tề nghiêm nghị. Bỏ cái tánh đỏng đảnh, cứ ăn rồi chơi như hồi trước, bây giờ cô biết tôn kính cha mẹ, cô cần mẫn xem xét mọi việc trong nhà, cô còn giúp đỡ chị dâu từ việc nấu ăn cho tới việc may vá. Vợ chồng ông Từ Tệt có một chút gái nên ông bà cưng thiệt là cưng, mà thấy con nết na như vậy ông bà càng yêu chuộng hơn nữa. Mà còn có một điều làm cho ông bà vui mừng hơn hết, là ba năm nay cô Quyên thôi học ở nhà, cô lại ưa thích nghề nông, cô xin với cha mẹ để cô lãnh coi khai phá sở đất mua của Xuân năm trước.
Ông Từ Tệt nhờ cần lao mà làm giàu, nay thấy con giống tánh, ông thấy vừa ý nên ông chịu liền, thầm tính sẽ chỉ bảo dìu dắt cho con làm mau thành điền mà hưởng lợi. Vì vậy mấy năm nay cô Quyên ở dưới ruộng nhiều hơn ở trên nhà, nhứt là trong mùa cấy và gặt thì cô chẳng hề rời sở đất.
Ở trong ruộng cô sống chung với nông phu, cô thấy tận mắt sự cực nhọc và tánh giản dị của những con người ấy, rồi cô đem lòng thương. Vì cô biết thương người, tự nhiên người thương lại, bởi vậy cô êm đềm thuận thảo, cô lo cho người, người cũng giúp lại cô.
Hôm nay cấy xong rồi nên cô mới trở về nhà thăm cha mẹ.
Bà Tệt thấy con vô sân thì bà mừng rỡ, lật đật bước lại cửa mà nói lớn: "Mới nhắc đó thì con về liền".
Cô Quyên mới bước lên thềm thì ông Tệt hỏi:
- Cấy xong rồi hết, phải không con?
- Dạ, xong rồi hết.
- Bữa hổm tía sợ lúa sụt, nên lật đật về trước mà bán, té ra về cũng không kịp.
- Giá lúa sụt nhiều lắm hay sao tía?
- Một tạ sụt tới hai cắc.
- Hôm tháng trước con xúi tía bán, tía không chịu để nay tía bán lỗ thấy không?
- Chút đỉnh... Không sao.
- Bà Tệt tiếp hỏi con:
- Tía con nói phần đất của con năm nay cấy giáp hết, phải không con.
- Thưa, giáp hết.
- Giỏi đa.
- Có tía phụ chớ con tài gì mà má khen... Anh hai chị hai với sắp nhỏ đi đâu vắng vậy má?
- Vợ chồng con cái nó mới đi Sóc Trăng hồi sớm mai.
- Đi chi vậy?
- Đi thăm cậu Tư con.
- Cậu Tư sao mà thăm?
- Nghe nói trúng số 10 ngàn.
- Chà! Cậu Tư hên dữ à! Còn anh hai con đi chơi khoẻ quá. Ảnh không thèm đợi con về con đi với ảnh chớ.
- Ngoài Cổ Cò cũng mới cấy rồi. Anh Hai con mới về hôm kia. Nó có dè con về bữa nay đâu mà chờ con.
Cô Quyên thay áo rửa mặt rồi cô đi cùng trong nhà xem từ trước ra sau, sắc mặt hân hoan hớn hở.
Lần lần mặt trời dịu nắng, cô đi vòng ra phía trước đứng ngó mông. Cái sân rộng lớn bằng phẳng, cô muốn ra đó mà rồi thấy đất chưa được khô nên cô phải đứng lại. Ông Từ Tệt đương chỉ cho người ta sửa vách lẫm lúa, cô muốn qua nói chuyện, mà rồi cô thấy một người bạn già đương quét bụi bay tưng bừng nên cô hết muốn đi.
Thình lình có một chiếc xe hơi chạy ngang ngoài lộ. Cô Quyên ngó ra thấy một chiếc xe giống hịt chiếc xe của cậu Xuân năm xưa thì trong dạ bồi hồi.
Cô ngẩn ngơ một hồi rồi bước lên thềm mà vô nhà.
Trong nhà vắng hoe, cô đi thẳng vô phòng riêng của cô, mở tủ lấy mấy tấm hình Xuân chụp hồi trước rồi đem lại đứng dựa cửa sổ mà xem. Cô xem từng tấm, mà tấm nào cô nhìn cũng lâu. Cô đương thưởng thức cái khoảng đời niên thiếu bỗng nghe mẹ đi chợ về nói om xòm đàng trước. Cô liền để mấy tấm hình lại trong tủ, rồi thủng thẳng đi ra.
Vì con ở dưới ruộng trót tháng không có bánh hàng mà ăn, bà Tệt sợ con thèm nên bà biểu một đứa ở gái lấy rổ đi chợ với bà đặng mua đồ cho con ăn. Trước khi đi bà lại kêu người nấu ăn mà dặn: "Chiều nấu cơm cho sớm nghe không. Bữa sớm mai chắc cô Ba ăn sơ sịa rồi đi chắc cô đói bụng. Tao đi chợ một chút tao về liền."
Bà Tệt đi rồi cô Quyên ra sau nhà thăm chuồng gà, chuồng heo, rồi lần qua coi mấy đám rau thơm, mấy cây ớt hiểm của cô trồng hồi trước. Cô vui mà thấy mấy con gà mái nằm ấp, thấy mấy con heo đen ú nú, cô hái mấy trái ớt chín cầm tay. Hổm nay ở trong ruộng cô say cảnh điền viên, bây giờ về nhà cô cảm thú gia đình, bởi vậy tâm hồn cô an ổn thần tiên, chẳng bợn chút hồng trần, nhứt là chẳng nghĩ tới việc thất gia, là việc thường làm rộn trí hạng gái tới tuần cập kê.
Bà Tệt thấy con thì nói:
- Con lấy dĩa bàn đặng sắp bánh ra mà ăn con. Má có mua bánh bàn bánh thèo lèo đủ thứ. Con ăn đỡ rồi lát nữa ăn cơm. Chợ chiều họ không có bán thứ gì ngon hết. Má phải mua xá xiếu thịt quay cho con ăn đỡ rồi sớm mai sẽ hay.
Cô Quyên vừa đi lấy dĩa đặng sắp bánh vừa nói:
- Má lo làm chi! Có gì con ăn nấy mà.
- Ở trong ruộng thèm khát, về nhà phải ăn chớ.
- Má nói như vậy, chớ người ta ở trong ruộng năm nầy qua năm nọ đó sao. Họ cũng sống được vậy.
- Mấy lời ấy đủ biểu lộ tánh giản dị của cô Quyên, bởi vậy bà Tệt nghe thì bà cảm hết sức, ngồi ngó con với cặp mắt chan chứa tình thân yêu.
Cô Quyên tuy nói vậy, song cô không muốn phụ cái hảo ý của mẹ, bởi vậy cô mở gói thèo lèo cô bốc vài cục bỏ miệng rồi mới sắp vô dĩa.
Ông Từ Tệt ở ngoài bước vô, thấy con vừa sắp bánh vừa nhai thì ông nói:
- Bà nó khéo làm lếu! Sao không mua bánh hộp cho con ăn, bà mua đồ đó rồi nó đau bụng cho mà coi.
Bà cười và đáp:
- Bánh mới ra lò còn nóng hổi, ngon lắm mà, giống gì tới đau bụng lận. Thuở nay nó ăn hoài, có sao đâu.
Bà mới nói tới đó, kế nghe tiếng xe hơi quanh vô cửa ngõ. Cô Quyên ngó ra và nói: "Anh Hai chị Hai về kìa!"
Thiệt quả xe của vợ chồng Triều về, một chiếc xe hơi bảy chỗ ngồi, lớn thình lình quanh co êm u mà đậu dưới thềm. Cô Quyên lật đật bước ra mừng anh chị và rước ba cháu.
Triều mập mạp, cao lớn, mạnh mẽ, nước da đen hù, chánh là một anh làm ruộng trăm phần trăm. Vợ Triều thấy cô Quyên cũng mừng hỏi: "Cô Ba về bao giờ."
Quyên đáp: "Em mới về tới hồi nãy.". Cô vội bồng cháu nhỏ hơn hết, là con Kim mới giáp thôi nôi. Hai đứa cháu lớn là thằng Ngọc 6 tuổi, con Ngân 4 tuổi, thấy vậy cũng chen nhau xuống xe rồi cũng áp ôm cô mà mừng, biểu lộ rõ ràng tình cô cháu thương yêu dan díu.
Vợ chồng Ông Từ Tệt đứng trong nhà ngó ra, ngắm bức tranh con cháu thuận hoà thì lòng thoả thích lộ ra ngoài mặt.
Triều nói với Quyên:
- Phải qua dè bữa nay em về thì qua sẽ để mai sẽ đi thăm cậu Tư đặng em đi luôn một lượt.
Cô Quyên châu mày trách:
- Anh lén em anh đi, còn nói nữa! Cậu Tư trúng số phải không?
- Ừ!.. Trúng 10 ngàn.
- Lãnh chưa?
- Chưa. Cậu nộp giấy số tại kho bạc rồi.
- Cậu mừng dữ hả?
- Mừng lắm.
- Cậu Tư thường vái trúng số đặng đi Bắc chơi. Chắc cậu sửa soạn đi.
- Không. Cậu đổi ý rồi. Bây giờ cậu tính để số bạc ấy cất nhà lại.
- Người ta nói có tiền thì hay hà tiện. Cậu Tư có tiền nên hết muốn xài!
- Mợ Tư còn tính cao hơn nữa. Mợ không cho cất nhà, mợ biểu để mua ruộng đặng có huê lợi.
Anh em cha mẹ vui cười rồi dắt nhau vô nhà.
Vợ Triều với cô Quyên coi dọn cơm chiều rồi mời cha mẹ vô ăn.
Một bữa ăn vui vẻ hết sức. Thình lình bà Tệt nói: "Có con Quyên về đây. Vậy ông nó trả lời cho ông Hội đồng Quì đặng người ta có muốn xuống coi thì xuống mà coi."
Triều nghe như vậy liền hỏi mẹ:
- Có ai xin coi con Quyên hay sao?
- Có, hồi trưa có ông Hội đồng Quì ở Ngã Bảy xuống thăm, rồi muốn làm mai con Quyên cho con thầy Cai Hoà trên Rạch Giá. Ổng xin định ngày đặng người ta đến coi.
- Con biết nhà thầy Cai Hoà ở dựa bên lộ Long Mỹ. Nhà tốt dữ. Mà không biết con thầy Cai ra thế nào?
- Thì để người ta tới đây rồi thì mình sẽ thấy chớ.
- Tía chịu cho coi hay không?
Ông Từ Tệt thủng thẳng nói:
- Con hỏi em con chớ. Như nó chịu thì tía mới cho, còn như nó không chịu thì cho coi làm sao được.
Triều ngó ngay cô Quyên mà hỏi:
- Em chịu chồng coi hay không em?
- Cô Quyên nghiêm nét mặt đáp cụt ngủn:
- Không.
- Sao vậy?
- Coi làm chi?
- Coi như phải chỗ tía má định đôi bạn cho em.
- Em chưa lấy chồng đâu.
- Tại sao vậy?
- Tại em chưa tới hồi lấy chồng!
- Vậy chớ chừng nào mới tới hồi em lấy chồng?
- Em cũng không biết được.
- Em nói nghe kỳ quá. Em lớn rồi phải tính tới việc gia thất chớ lôi thôi sao được. Em quyết chôn đời em dưới ruộng Cà Mau, em không chịu lấy chồng hay sao?
- Không. Em có nói em không lấy chồng đâu. Em cũng sẽ lấy chồng như thiên hạ vậy, nhưng không phải chỗ đó.
- Vậy chớ chỗ nào?
- Chỗ nào phải duyên nợ em mới ưng.
- Biết chỗ nào là duyên nợ?
- Em cũng chưa biết.
Ông Từ Tệt ngó bà mà nói:
- Bà nó thấy hôn? Tôi sợ nó không chịu, nên hồi trưa tôi không dám hứa gì hết. Phải ừ bướng thì bậy biết chừng nào.
Bà Tệt lộ sắc buồn, song không cãi với ông, mà cũng không ép con. Vì vậy không khí hoà lạc hồi nãy bây giờ trở nên nặng nề nghiêm trọng.
Xế bữa sau, vợ Triều rủ Quyên đi chợ kiếm hàng mua may áo. Cô Quyên nài nỉ phải đem sắp cháu theo chơi, rồi kêu sốp-phơ đem xe đi với cháu.
Trong nhà vắng teo.
Triều nằm trên ghế xích đu mà đọc nhựt trình. Bà Tệt ăn trầu ở bộ ván gần cửa sổ. Ông Tệt đi dạo sau vườn rồi vô đứng tại bộ ghế giữa rót trà mà uống.
Bà hỏi ông:
- Ông biết tại sao mà con Quyên không chịu cho con thầy Cai Hoà đến coi nó hay không?
Ông ngồi xuống vừa cười vừa đáp:
- Con nó ham ruộng, nó muốn một mình thong thả làm ruộng cho vui, nó không chịu lấy chồng, chớ có gì đâu?
- Không phải vậy. Hồi hôm tôi dỗ tôi hỏi nó. Nó thú thật với tôi rồi.
- Nó thú ra sao?
- Nó nói nó chờ thằng Xuân, nên nó không ưng ai hết.
- Tại sao mà nó lại chờ thằng Xuân?
- Nó nói nó thương nhớ thằng Xuân mấy năm nay. Nó nhứt định làm vợ thằng Xuân mà thôi. Như thằng Xuân không cưới nó thì thà nó ở một mình mãn đời, chớ nó không ưng làm vợ người nào khác.
- Thằng Xuân đi Tây bảy tám năm nay biệt tích, nó đâu đây mà thương với nhớ?
- Bởi vậy mới kỳ.
Triều nghe cha mẹ nói vậy thì buông nhựt trình bước lại nói: "Xuân đã về mấy tháng nay rồi, làm bác vật canh nông trên Sài Gòn, tía má không hay hay sao?" Ông bà đều chưng hửng. Ông hỏi Triều:
- Ai nói với con là thằng Xuân làm bác vật canh nông trên Sài Gòn?
- Con thấy trong nhựt trình. Mấy tháng nay, nó viết báo khuyên điền chủ hãy đoàn kết mở mang kinh tế. Nó viết luôn luôn trong hai ba tờ báo, nó cổ động dữ lắm mà. Con tưởng tía hay chớ.
- Tao có hay tin đâu. Thằng vậy đó! Nó đi Tây về mà nó không thèm xuống đây thăm mình chớ.
- Con ghét, nên con cũng không thèm kiếm mà thăm nó. Tại sao mà em Quyên lại thương nó?
- Con Quyên có gặp nó hay sao?
- Thưa, không. Từ hồi trong năm đến giờ em Quyên có đi Sài Gòn đâu mà gặp.
Bà Tệt nói:
- Không có gặp đâu. Theo lời con Quyên nói với tôi hồi trưa thì nó cũng hay Xuân về rồi, mà nó lại trách Xuân không nhớ tới nó.
Ông Từ Tệt lắc đầu nói:
- Chuyện gì mà kỳ vậy? Nó không gần thằng nọ mà sao nó lại thương?
- Nó nói nó thương trước ngày thằng Xuân đi Tây lận.
- Mà người ta có thương nó hay không? Có hứa cưới nó hay sao mà nó chờ?
- Nó nói nó không được biết. Thằng nọ không hứa hẹn chi hết.
- Vậy thì thương nỗi gì?
- Nó nói hồi trước Xuân xuống ở nhà mình chờ làm giấy tờ xong đặng ký tên bán đất đó, mỗi bữa Xuân chở nó đi xe hơi, Xuân chụp hình nó, rồi từ đó đến giờ nó thương Xuân. Tôi thủng thẳng dỗ nó nên nó chịu thú thiệt như vậy. Bây giờ mình phải tính làm sao nè.
Ông Từ Tệt ngồi ngó sững ra sân mà suy nghĩ.
Triều hỏi cha:
- Em Quyên thiệt thương Xuân, nên mới thổ lộ với má như vậy. Ví như Xuân xin cưới em, thì tía gả không?
- Biết nó thương con nọ hay không mà gả. Nó là con cháu, mà nó làm bác vật rồi coi bộ nó trở mặt, nên về mấy tháng nay nó không thèm bước chân đến đây thăm mình. Tao chắc nó có kể gì đến con Quyên đâu mà tính.
- Không chừng nó mắc bận việc nên chưa xuống được. Để ít bữa nữa rảnh rang con đi Sài Gòn kiếm Xuân đặng con dọ ý nó coi nó có thương con Quyên hay không.
- Phải nó thiệt thương tao mới gả. Chớ nó không thương mà mình ép mình gả, rồi cưới về nó hất hủi con nhỏ tao không chịu đâu.
Bà Tệt tiếp nói:
- Ông nói phải lắm. Dầu nó làm ông gì cũng vậy, nó phải thương con Quyên thì tôi mới chịu gả.
Triều nói:
- Để thủng thẳng con dọ ý em Quyên rồi con sẽ tính. Nếu thiệt em thương thì con sẽ đi Sài Gòn mà kiếm Xuân.
Ông Từ Tệt nói:
- Chừng con đi Sài Gòn có lẽ tía má cũng đi nữa... Con Quyên có tình với Xuân, hèn chi nó học rồi mấy năm nay nó lãnh phần lo khai phá sở đất của anh Hội đồng hồi trước, nó làm dữ quá. Bây giờ mình mới hiểu.
Triều suy nghĩ rồi nói:
- Xuân hồi còn học thường nó nói nhứt định không lập gia đình. Không biết nó có đổi ý hay không?
Ông bà Từ Tệt ngồi trầm ngâm tư lự.
o O o
Sớm mai chủ nhật, mặt trời chói loà. Quang cảnh trong châu thành Sài Gòn đã có vẻ xanh tươi tự nhiên, mà nhờ nam thanh nữ tú áo quần loè loẹt, người đi bộ, kẻ ngồi xe, nghễu nghến cùng đường nên cái vẻ xanh tươi ấy có thêm cái nét kiều diễm là nét thường làm rung động tâm hồn hoạ sĩ.
Thế mà bác vật Xuân, mấy tháng nay mới mướn một căn phố lầu dọn ở nơi đường Testard, sớm mai nầy đầu không chải nên tóc chôm bôm, ông cứ ngồi ghì tại bàn viết trên lầu, mắt chăm chỉ ngó mấy tờ giấy đã viết trong đêm hồi hôm, cả tâm hồn đều trút hết vào đó, không kể những quyển sách để lộn xộn trên bàn với mấy tờ nhựt trình nằm tàn lan gây ra cái cảnh hỗn loạn mà thuở nay những ai ưa trật tự trong nhà thường bực tức trái tai gay mắt, không thể chịu được.
Thằng Chí, cũng như chị Chín Thiện đã trở lại giúp việc cho Xuân mấy tháng nay, bưng ly cà phê với đĩa bánh mì nướng đem lên lầu cho Xuân lót lòng. Thấy trên bàn viết chẳng còn một chỗ trống nó bèn để cà phê và bánh mì trên cái bàn tròn ở giữa phòng rồi chắp tay nói: "Bẩm ông, xin ông lót lòng kẻo cà phê nguội."
Xuân day lại ngó thằng Chí với cặp mắt chưng hửng, lần lần nhớ tới sự sống thực tế mới đứng dậy đi lại bàn ăn lót lòng.
Thằng Chí lấy một tờ báo, tính sắp lại bàn viết cho có thứ tự.
Xuân la lớn:
- Đừng! Ðừng động đến đồ trên bàn viết. Thây kệ, để đó.
Thằng Chí giựt mình, thụt tay, rồi bỏ đi lấy chổi quét nhà, vừa quét vừa nói: "Bẩm ông, áo quần tôi lấy ra để sẵn trong phòng ngủ. Ông lót lòng rồi rửa mặt thay đồ."
Xuân ngó thằng Chí mà không trả lời, ngó một hồi rồi hỏi:
- Mầy có bịnh hay sao mà bữa nay mắt mầy coi trỏm lơ vậy Chí?
- Bẩm, tôi không có bịnh chi hết. Bị thằng con tôi nó bịnh hai đêm nay tôi phải thay phiên với vợ tôi đặng thức mà dỗ nó. Tôi thiếu ngủ lên mệt một chút.
- Con mầy đau hay sao?
- Bẩm, nó ấm đầu rồi nhõng nhẽo chớ không đau gì lắm.
- Nghèo mà bày đặt có vợ có con làm chi cho thêm cực khổ.
- Bẩm ông, người mình họ hay nói: " Con là nợ, vợ là oan gia". Lời ấy tôi nghĩ thiệt là đúng. Vợ con thiệt là mối nợ của trời, trời định cho đàn ông con trai phải trả, bởi vậy ai cũng phải có vợ con. Nếu mình trốn lánh, hoá ra mình trái lịnh trời định.
- Mầy khéo nói diễu! Trời nào bắt buộc mầy phải có vợ con. Tại mầy muốn mang mối nợ vào thân, nên mầy phải chịu cực khổ đó chớ.
- Bẩm ông, có vợ có con cực khổ thiệt. Nhưng nhiều khi vợ con nó cũng làm mình vui vẻ lắm, nó làm mình quên cực khổ hết.
- Vui lắm hay sao?
- Bẩm, vui lắm. Có bữa tôi làm mệt, hể thấy con nó cười mà mừng tôi. Tôi ôm mà nựng con mà sự mệt nhọc tiêu tan mất hết. Có khi tôi buồn chán việc đời ban đêm than thở với vợ. Vợ tôi thỏ thẻ khuyên giải, nhứt là nó nhắc tới con, rồi trong trí tôi quên hết thân phận của tôi, chỉ biết sống cho vợ con, nhờ vậy mà tôi hăng hái làm việc không ngao ngán dài dài nữa. Bởi vậy, có vợ có con tuy cực song vui lắm. Tại ông cứ ở một mình lên ông chưa nếm được cái vui ấy.
- Nếu được cái vui gia đình thì phải cực. Thì ta kiếm thứ vui mà khỏi cực ta mua, há chẳng lợi hơn sao?
- Bẩm, ở đời có cực mới có vui. Tôi tưởng chẳng có thú vui nào khỏi cực mà mua được.
Xuân nghe thằng Chí luận một cách thật thà mà ẩn ý cao xa thì ngồi lơ lửng.
Thằng Chí nói tiếp: "Ông Còm-mi Quan có vợ con rồi coi bộ ổng vui dữ."
Lời nói nầy càng làm cho Xuân thêm khó chịu nên bưng uống cạn ly cà phê rồi đứng dậy đi vô phòng ngủ mà rửa mặt thay đồ.
Thằng Chí quét nhà rồi bưng ly và dĩa xuống từng dưới mà rửa và cất.
Xuân chải đầu láng bóng, mặc bộ đồ trắng mới ủi trở ra bàn viết dòm giấy tờ trên bàn rồi rùng vai đi thẳng ra đứng dựa lan can lầu phía trước mà ngó xuống đường. Một cô thiếu nữ mặc áo xanh, che dù đỏ, mặt dồi phấn trắng toát, môi thoa son đỏ lòm, cặp tay một cậu thanh niên, đi lững thững vừa nói vừa cười, bộ hân hoan thoả thích. Một đứa nhỏ mang giỏ bánh tây đi bán rao bánh om sòm. Một chú khách ngồi trên xe kéo phơi bụng chang bang, đè nặng phu xe lê lết chạy không muốn nổi.
Xuân đứng ngó mà trí lơ lửng, vừa tự hỏi riêng: "Bây giờ mình làm việc gì?" thì lại thấy Quan cầm bánh chiếc xe hơi nhỏ, ở phía dưới chạy lên, bớt máy rà sát lề đường rồi đậu ngay trước nhà.
Xuân đứng trên, thấy bạn đi có một mình thì kêu hỏi lớn: "Toa đi đâu đó?"
Quan ngước lên nhích miệng cười rồi đi thẳng vô nhà không thèm trả lời. Xuân biết Quan đến thì đi luôn lên lầu, nên trở vô đứng tại cửa lầu mà chờ, không cần đón tiếp. Thiệt quả Quan lên lầu. Hai anh em bắt tay mừng nhau.
Quan ngó ra bàn viết rồi hỏi:
- Toa vẫn cứ lo việc đó hoài hay sao?
Xuân thở dài, rồi lại ngồi xuống chống tay lên bàn tròn mà đáp:
- Moa phiền lắm, moa muốn bỏ hết, không thèm lo tính nữa. Ngặt vì moa nghĩ mình sống giữa một đám người mù, duy chỉ có một mình mình sáng; nếu mình không chỉ dùm đường cho người ta, mình không dìu dắt người ta, thì mình có tội. Tại như vậy nên moa muốn nghe lời toa mà bỏ hết, song vì lương tâm cắn rứt nên moa bỏ không đành.
Quan kéo ghế ngồi ngang bạn, vừa cười vừa nói:
- Toa nhớ không? Ngày xưa ở bên tây mới về, moa khuyên toa đổi tánh ý, nên chú trọng vào việc thực tế, chớ đừng đuổi theo chuyện viễn vông. Tại toa không chịu nghe lời moa, nên bây giờ mới thất vọng mà chán ngán đó.
- Phải, moa nhớ. Toa khuyên moa làm công ích nho nhỏ. Theo ý của toa thì trước hết nên khuyên đồng bào mỗi người đều biết lo công ích như vậy đã; chừng nào tạo chí công ích của mỗi người được rồi, thì sẽ đề xướng các vấn đề lợi ích quốc gia.
- Ừ, khai hoá thì phải lập chương trình cho có thứ tự, bắt đầu từ chỗ gần đi đến chỗ xa, từ chỗ thấp lên tới chỗ cao mới được. Toa muốn cất một toà nhà lầu, trước hết toa phải lo xây cái nền cho chắc đã chớ. Toa không kể nền, toa cứ xây từng lầu trước, thì cái nhà đứng làm sao được.
- Ở bên tây bảy năm, moa cứ cặm cụi lo học cho có tài. Moa tưởng ở nhà anh em đồng bào cũng lo ung đúc trí tuệ như moa, cũng đã hăng hái nhiều ít trên đường tiến hoá, chớ moa có ngờ đâu người ta quá nguội lạnh bơ thờ quá như vậy.
- Moa đã nói truớc với toa: Người mình có tiến hoá chớ chẳng không, song tiến hoá trong những đường trái hẳn với đường toa ham muốn. Họ tiến hoá trong đường ích kỷ, trong đường vật chất, trong đường hoan lạc. Mỗi người mắc lo kiếm tiền cho nhiều, miễn có tiền thì thôi, dầu dùng phương pháp nào cũng được. Có tiền đặng mặc y phục cho loè loẹt, đánh bài bạc cho to lớn, sắm xe hơi cho lộng lẫy, cất nhà cửa nguy nga, ăn xài ngoả nguê, chơi bời phóng túng, chớ không phải có tiền đặng lo giúp dân giúp nước chi hết. Với những người đầy lòng ích kỷ họ chỉ cho phận họ sung sướng, họ chỉ lo loè con mắt thiên hạ đặng vinh mày vinh mặt, mà toa đem việc công ích toa nói thì họ có hiểu gì đâu? Họ không thèm hiểu mà họ còn cười toa nói bậy là khác. Tại như vậy nên mấy tháng nay toa nhọc công viết sách, toa tốn tiền mướn nhựt trình cổ động sự chấn hưng nông nghiệp, toa tận tâm mà không công hiệu gì hết. Những ý tứ tốt, những lời nói hay của toa cũng như nước đổ lá môn, ích chi đâu. Moa xin toa hãy dẹp hết việc đó đi, đừng thèm tính tới nữa.
Xuân chống tay lên trán mà suy nghĩ, rồi thở ta mà nói:
- Bỏ dẹp sao được! Xã hội của mình trụy lạc đến nỗi không thích đường ngay, không ưa lẽ phải nữa. Mình là bọn thanh niên trí thức, mình phải làm sao, chớ mình giận lẫy mà bỏ xụi, thì còn gì nước nhà, còn gì chủng tộc?
- Thuở nay toa có lòng thương quốc gia, thương xã hội, đến nỗi quyết hy sinh cả hạnh phúc trong đời để giúp ích cho nước cho dân, thiệt moa tôn kính toa lắm. Toa nhờ tây học ung đúc trí não toa như vậy, bây giờ bảo toa phải đổi trí sửa lòng, toa làm sao đổi sửa cho được.
- Không thể được. Moa chịu tốn công tốn của mà học cho đến cùng, lại vì moa muốn có cái học thức văn minh hoàn toàn của Âu Mỹ, đặng đem gieo rải vào xã hội mình, dầu thế nào moa cũng phải dùng học thức đó mà khai hoá đồng bào chớ không chịu thối chí mà bỏ xụi, làm thế nầy không được thì moa kiếm thế khác.
- Chấn hưng nông nghiệp đã không thành rồi, bây giờ toa tính làm việc gì nữa?
- Hồi nãy toa có tỏ một ý, moa nghĩ hữu ý lắm. Toa nói muốn cất nhà lầu, trước hết phải lo xây nền cho chắc. Phải, phải lắm. Khi moa ở bên tây về, moa tưởng ở nhà đã có xây nền rồi, moa cất nhầu nhà lầu, té ra cái nền đó bằng bùn, phập phều bở rẹt, nên không chống chịu nhà lầu nổi. Bây giờ moa tính lo xây nền lại cho vững đã. Chừng nào nền cứng chắc rồi sẽ lo cất nhà.
- Phải lắm. Mà toa tính xây nhà cách nào đâu toa nói sơ cho moa nghe thử coi.
- Bây giờ phải lo cho xã hội mình có một cơ sở luân lý vững chắc đã. Bài trừ những thói xa xỉ, thói loè loẹt, thói hoan lạc thói ích kỷ. Đồng thời, mình phải tập cho mỗi người có lòng thành thực, có tánh kiên nhẫn, có chí tự cường, biết tôn kính cái hay, cái tốt, cái phải, cái cao, biết chê ghét cái dở, cái xấu, cái quấy, cái hèn, biết ham cần lao, biết yêu trật tự, biết yêu nhân nghĩa, biết quý can thường, biết thương yêu nước nhà, biết chuộng nòi giống. Phải dọn cho có cái cơ sở luân lý đó thì trồng cây công ích mới đơm bông trổ trái, nhành lá sum sê được. Phải có cái nền tảng vững chắc đó, thì mới cất nhà lầu cao chót vót được.
- Phải rồi, phải rồi. Toa làm như vậy thì hay lắm. Làm đi, tuy moa học ít, cũng không có của nhiều, song moa sẽ tận tâm mà tiếp sức với toa, tiếp đến cùng. Mà moa chắc hết thảy thanh niên tân học, là hạng cảm nhiễm âu hoá, chẳng ai mà chẳng hợp tác với toa mà cải lương xã hội về phương diện đó.
- Toa chịu cách chấn hưng xã hội như vậy đó phải không?
- Chịu lắm. Mà moa chắc em Quế của moa cũng chịu nữa.
- Vậy để moa suy nghĩ cẩn thận rồi moa sắp một chương trình cho có tuần tự để đuổi theo cho mau có hiệu quả.
Hai anh em bàn luận tới đó kế nghe có tiếng giày lên thang lầu. Hai người day lại mà ngó. Thằng Chí hào hển chạy lên thưa: "Bẩm ông, có cô Hai và cậu Triều."
Thiệt quả cô Quế với cậu Triều tiếp theo sau thằng Chí.
Xuân với Quan thấy Triều thì chưng hửng.
Triều la lớn:
- Xuân, toa học có bằng kỹ sư nông phố, toa làm bác vật canh nông rồi toa quên anh em cũ hết hả? Về mấy tháng nay toa không xuống thăm moa, mà cũng không thèm viết một bức thơ cho moa hay. Làm phách chi quá vậy ông Bác vật?
Xuân chưa kịp trả lời thì cô Quế tiếp nói:
- Anh Triều ghé tiệm em mà hỏi thăm anh Xuân. Em nói anh Quan đưa em xuống tiệm rồi mới đi lên nhà anh Xuân. Anh Triều bắt em lên xe dắt ảnh đi kiếm. Lên tới đây em thấy xe anh Quan còn đậu đó em mới chắc hai anh còn ở nhà, chớ hồi nãy em sợ hai anh đi chơi quá.
Xuân đưa tay ra muốn bắt tay Triều mà nói:
- Xin anh cả tha lỗi. Moa về bảy tám tháng rồi, nhưng vì mắc công việc quá nên không viếng thăm anh em được. Công việc của moa Quan biết rõ.
Triều co tay không chịu nắm tay Xuân mà nói:
- Moa phiền quá. Moa biết mà, mấy tháng nay toa mắc kêu gọi điền chủ hiệp với toa để chấn hưng nông nghiệp. Toa kêu thiên hạ, mà toa không thèm kể đến moa. Toa khinh bỉ moa quá. Toa viết sách viết báo mà cổ động dữ lắm. Vậy đã thành công hay chưa?
Xuân buồn bực đáp:
- Không ra cóc rác gì hết. Hai anh em moa mới bàn luận với nhau đây.
Triều điểm mặt Xuân mà nói:
- Ông già giận toa lung lắm, trách toa sao đi tây về không thèm xuống thăm. Để chừng toa gặp ông già rồi toa coi.
- Việc đó thiệt moa có lỗi nhiều lắm. Chú thím dưới nhà mạnh khoẻ?
- Mạnh luôn luôn.
Cô Quế lăng xăng nhắc ghế cho anh em ngồi và cô buộc phải ngồi theo thứ tự: Mai, Lan, Cúc, Trúc như hồi xưa.
Xuân ngó Triều mà nói:
- Hôm mới về moa có hỏi thăm toa. Em Quế nói bây giờ toa là một nông gia hoàn toàn. Thiệt là em Quế nói đúng quá.
- Phải. Moa là tên dân làm ruộng mà moa lấy làm tự hào về nghề của moa. Moa không phải Bác vật bác vẹo gì hết, mà khá, ruộng của moa trúng mùa luôn luôn.
- Moa mừng cho toa. Năm nay toa được mấy đứa con?
- Ba đứa.
- Giỏi quá.
- Không giỏi gì lắm. Có vợ gần bảy năm mà có ba đứa con thì có hơn ai đâu.
- Hồi moa sửa soạn đi thì toa đã có nói vợ bên Long Mỹ. Nghe nói sau toa không cưới chỗ đó nữa phải không?
- Ai nói mà toa biết?
- Em Quế.
- Ừ, moa nói chỗ đó rồi moa bỏ. Toa biết tại sao hay không? Họ chê moa không đủ hai bằng tú tài, rồi họ làm eo sách, nên moa ghét moa đi cưới chỗ khác.
- Toa ham giàu, ham lập gia đình mà gặp việc trắc trở như vậy toa không chán, thiệt toa bền chí quá.
- Chán nỗi gì? Cưới chỗ nầy không được ta kiếm chỗ khác. Thiếu gì con gái, thiên hạ họ không có bằng cấp chi hết mà họ cũng cưới vợ được, huống chi moa là cậu "tú nửa", moa cũng bảnh lắm chớ.
- À, còn em Quyên, chắc năm nay em lớn đại rồi hả?
- Lớn đại, 23 tuổi, nó cũng làm ruộng nên mạnh mẽ lắm.
- Có lẽ em cũng đã có chồng con rồi chớ?
- Chưa... nó chờ toa!
- Hả? Chờ moa làm chi?
- Nó chờ toa đi tây về rồi cưới nó!
- Trời ơi! Toa nói chơi sao chớ.
- Moa nói thiệt đa, chớ không phải nói chơi đâu.
Xuân, Quan và cô Quế nhìn nhau chưng hửng. Triều chúm chím cười mà nói tiếp: "Moa không dè mấy năm nay em moa nó chờ toa nên nó không chịu lấy chồng. Moa mới hay mấy bữa rày. Moa giận toa lắm nên moa không muốn gặp mặt toa. Ngặt có chuyện con Quyên như vậy nên moa phải kiếm toa đặng nói cho toa biết."
Quan ngó vợ mà cười. Cô Quế vui vẻ nói:
- Người ta nói vợ chồng là duyên nợ. Em nghĩ phải lắm. Phải có duyên nợ trời định thì mới kết nghĩa vợ chồng được. Như anh Triều hồi trước ảnh tính cưới vợ bên Long Mỹ, công chuyện đã xong rồi, mà vì không phải duyên nợ nên khiến có chuyện trắc trở cho ảnh hồi đặng ảnh về cưới chị Triều ở cùng làng. Em với anh Quan đây cũng vậy. Hồi trước hai đứa em đâu có ý định kết nghĩa vợ chồng. Vì có duyên nợ nên không tính trước mà cũng phải phối hiệp. Anh Xuân cũng vậy nữa, tại ảnh có duyên nợ với cô Quyên nên bảy tám năm nay cô Quyên phải chờ ảnh chớ không thể lấy chồng khác được.
Xuân châu mày nói:
- Bày đặt chuyện! Duyên nợ là cái quái gì? Tôi đã nhứt định ở một mình mà lo việc đời, tôi có tính cưới vợ đâu.
Triều châm hẩm đáp:
- Toa không tính mà con Quyên nó tính!
- Ủa! Em Quyên tính sao được... Em tự do mà tính cho phận em, chớ em có quyền gì mà tính cho phận moa.
- Có chớ, nó có quyền bắt toa phải cưới nó!
- Lời nói đó cao quá trí khôn của moa, moa hiểu không tới.
- Có khó chỗ nào đâu mà không hiểu. Toa gieo giống ái tình trong lòng em moa, toa làm cho nó mong mỏi chuyện trăm năm với toa, bởi vậy nó nhứt định chờ toa bảy tám năm nay không ưng chỗ nào hết. Tình nghĩa của nó nặng nề, công đợi chờ của nó dài dặc, như vậy nó có quyền ép toa chớ. Không phải em moa hư hèn nên moa kiếm lời chuốt ngót mà tấn cho toa. Moa chỉ nói cho toa biết, nếu toa thối thác không chịu cưới con Quyên thì toa là thằng vong tình bội nghĩa, dầu toa làm ông gì toa cũng không là người Việt nữa!
- Moa có gieo tình cho em Quyên hồi nào đâu? Thuở nay moa coi em như em ruột của moa, đối với em moa chẳng bao giờ nuôi một ý gì đê tiện. Huống chi hồi moa chưa đi tây thì em còn con nít. Bảy tám năm nay moa không gặp em, moa có dịp nào mà gieo tình cho em được?
- Có. Có dịp! Nó chịu thiệt với moa hết. Năm toa bán đất toa ở trong nhà moa hơn mười ngày phải không? Mỗi bữa toa cầm bánh xe hơi chở em moa đi chơi với toa phải không?
- Phải...
Xuân lơ lửng ngẫm nghĩ chuyện xưa rồi gật đầu nói tiếp:
- Phải. Moa nhớ moa có chụp hình cho em Quyên. Hình của em vẫn còn trong cuốn "album" của moa. Lúc moa xuống ở tại nhà toa thì toa đi Đà Lạt. Mỗi buổi chiều moa chở em Quyên đi kiếm chỗ chụp hình chơi. Nhưng mà toa phải biết, moa chỉ tỏ tình anh em mà thôi, chớ moa chẳng có tình ý chi khác.
- Toa thì vô ý, mà nó lại hữu tình, biết sao bây giờ. Moa với ông già bà già không dè có chuyện kỳ cục như vậy. Bữa hổm có người cậy mai xin cho coi nó. Nó không chịu. Bà già dỗ hỏi nó mới nói thiệt nó chờ toa. Nó lại nói gắt nếu nó không được làm vợ toa thì nó cạo đầu đi tu, chớ nó không thèm làm vợ người nào khác. Chuyện như vậy, toa liệu lấy.
Xuân nghe rõ rồi ngồi thở dài, không biết lấy chi mà chữa mình nữa. Cô Quế mới xen vô nói:
- Cô Quyên nặng tình với anh Xuân quá. Cô để trọn cái đời của cô vào tay anh Xuân. Ảnh thong thả muốn xây hạnh phúc hay là muốn xây thống khổ tự ý ảnh. Nếu ảnh vì chủ nghĩa mà phụ rẫy tình cô Quyên thì tội nghiệp cho cô lắm. Phải vậy hay không anh Quan?
Quan gật đầu:
- Chớ sao. Moa đồng ý với em.
- Ái tình nguy hiểm lắm, nhiều khi nó giết chết người ta chớ chẳng phải chơi.
- Thiệt như vậy. Bởi vậy anh Xuân là người có nhân, ảnh không nỡ để cho cô Quyên thất tình thất vọng đâu.
Xuân lắc đầu nói:
- Anh em đừng có cám dỗ. Làm sao tôi cưới em Quyên được. Thuở nay tôi đã quyết chí cô lập, mà đối em Quyên tôi lại không có chút tình nào hết. Tâm hồn của tôi như vậy, nếu tôi cưới em Quyên thì tôi làm khổ cho em chớ không phải làm phước. Tôi không thể làm như vậy được.
Cô Quế rước mà cãi:
- Em nghe nói trong đạo vợ chồng nhiều khi chẳng cần phải có tình. Ăn ở với nhau lâu ngày rồi nó sanh cái nghĩa cũng đủ sức buộc chặt niềm phu phụ đến trăm năm vậy.
- Em là đàn bà tân thời mà sao em lại nói như vậy.
- Tân thời là tân về bề cư xử, tân về hình thức, chớ lẽ trời với đạo làm người mà tân làm sao được? Cô Quyên đã nặng tình với anh. Dầu bây giờ anh chưa có tình với cô, song chừng cưới cô rồi anh thấy tình của cô anh sẽ cảm, rồi tự nhiên anh cũng sẽ có tình với cô sau, em chắc như vậy.
- Làm việc cầu may như thế sao được.
Triều bước lại vỗ vai Xuân mà nói:
- Nầy Xuân, moa nói thiệt với toa nếu toa không thèm cưới con Quyên, thì chẳng những là em moa phiền não mà thôi mà tía má moa cũng giận toa lắm. Hổm nay ông bà bàn tính nhiều chuyện ngộ hết sức. Moa không muốn nói rõ để rồi sau toa sẽ biết!
- Không được, nhứt định không được.
- Toa là anh em, moa phải phân cạn lời với toa, chớ moa không ép buộc. Song moa nói trước cho toa biết, toa định liệu lẽ nào thì toa lãnh lấy trách nhiệm. Phận sự của moa là phải tỏ hết nỗi lòng của em moa cho toa hiểu thì moa đã làm xong rồi.
Xuân ngơ ngẩn vì trong trí rất bối rối. Quan nói:
- Thôi, chuyện đó còn đó. Để thủng thẳng cho Xuân suy nghĩ, bây giờ mời hết lên nhà tôi chơi rồi ăn cơm trưa với vợ chồng tôi.
Triều nói:
- Không được, thằng làm ruộng nầy lâu đi Sài Gòn nên mắc công việc nhiều lắm; phải đi kiếm mua phảng mua cuốc mua đủ thứ. Chiều nay tựu nhau mà ăn cơm tối thì được. Moa nhứt định mời hết anh em đãi một tiệc kêu là tiệc "Mai, Lan, Cúc, Trúc tái hội". Bảy giờ tối nay anh em hội viên phải có mặt tại nhà hàng Đại Đồng chỗ mình hội lại lúc đưa Xuân đi tây đó. Không ai được phép vắng mặt.
Cô Quế nói:
- Em muốn mời lên nhà em.
Triều gạt ngang:
- Im! Anh cả đã định. Không được phép cãi. Thôi bây giờ anh cả đi mua xẻng mua cuốc. Chiều nay bảy giờ hay đến sớm hơn cũng được. Mọi người phải ghi nhớ.
Triều nói dứt lời liền đội nón rồi bắt tay mọi người mà từ giã. Ai nấy thấy cái cử chỉ độc tài của Triều đều tức cười, ríu ríu dắt nhau đưa Triều xuống lầu. Triều hỏi cô Quế như muốn về tiệm thì Triều đưa cô về. Cô nói để cô về với Quan, Triều không ép, một mình lên xe mà đi.
Vợ chồng Quan theo Xuân trở vô nhà, có lẽ cặp phượng hoàng tính hoà hiệp nhau đặng kêu chỉ đường cho thanh niên nam nữ.