If love is a game, it has to be the hardest game in the world. After all, how can anyone win a game where there are no rules?

CODY MEYERS

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Ngô Hữu Long
Biên tập: Gió
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1462 / 15
Cập nhật: 2015-01-23 17:05:07 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6: Trên Mái Nhà
ặt đá ẩm ướt ánh lên màu đen lấp lánh. Ngồi trên đỉnh mái ký túc, Helen và Milos vận áo khoác ngồi sát nhau và ngắm nhìn thành phố nhỏ. Thành phố đang nằm ngủ giữa dòng sông màu thép và những ngọn đồi tối sẫm phía Bắc.
- Chúa ơi, đẹp quá! Helen nói. Anh đã từng đi dạo ở đó chưa?
- Mỗi lần anh đi cùng bạn đến nhà mẹ tinh thần! Milos trả lời. Anh không bao giờ đến thư viện. Anh không phải là người thích đọc. Nó làm anh buồn ngủ. Vì thế anh đi xuống phía dưới, anh đi qua cây cầu và vào trong thành phố. Cứ bốn thằng con trai thì ba thằng sẽ làm như thế.
- Và nếu như anh bị bắt?
- Anh không bao giờ để bị bắt, anh đã nói với em rồi. Hãy nhìn dưới kia, chỗ có những đám khói gần như màu tím bay lên ấy. Đó là khu phố thấp, khu phố của các quán rượu và những tên lưu manh. Người ta đến đấy đẻ uống và đánh nhau.
- Anh làm em sợ… Anh đã đến đấy rồi à?
Milos cười phá lên.
- Anh đi qua khu phố đó. Nhưng em yên tâm đi, anh không bao giờ uống rượu và cũng không đánh nhau. Và cũng không vào các quán rượu.
- À, vậy sao, anh chơi đấu vật, đúng thế không?
- Vật kiểu Hy Lạp-La Mã.
- Là như thế nào?
- Cũng tương tự như vật tự do, chỉ có điều người ta không được phép túm chân đối thủ. Không được đấm. Không được cắn. Không được bóp cổ.
- À. Vậy mục đích của trò chơi là gì?
- Vật ngã đối thủ chỉ bằng cách tấn công phần trên cơ thể, và khiến đối thủ chạm vai xuống đất. Thế gọi là một cú ngã.
- Thật là sơ đẳng!
- Anh vốn sơ đẳng mà…
- Em không tin. Vậy anh giỏi trong… môn đấu vật này chứ?
- Cũng tạm…
- Giỏi nhất trong ký túc không?
- Anh nghĩ là thế.
Milos nói điều đó không khoác lác. Helen hỏi cậu và cậu trả lời sự thật, vậy thôi. Cô gái cảm thấy ấn tượng. Một lần nữa cô có cảm giác mình sẽ không gặp nguy hiểm gì hết khi ở bên cạnh chàng trai có đôi bàn tay rộng và hầu như xa lạ này. Họ ngẩng đầu nhìn lên. Vô số các vì sao dường như được thắp sáng bằng một năng lượng đặc biệt. Ánh sao lấp lánh, lặng lẽ và xa xôi, ngập tràn bầu trời lạnh giá. Helen rùng mình.
- Em lạnh à? Em muốn mình về không?
- Không phải là trước khi anh nói với em điều anh phải nói cho em, Milos. Anh đã hứa rồi.
Chàng trai ngập ngừng một chút. Một con mèo thò đầu sau ống khói, quan sát hai người một lúc, ngạc nhiên vì thấy hai con người có mặt trên địa điểm như thế này, rồi nó bỏ đi với những bước chân mềm mại.
- Nó tưởng chúng ta là những con chim kỳ cục, trên mái nhà, cả hai…
- Hãy kể cho em, Milos.
- Đồng ý. Em sẵn sàng chưa?
- Em sẵn sàng.
- Vậy thì được thôi. Chúng ta bắt đầu từ đầu. Chuyện xảy ra vào mùa xuân vừa rồi. Một học sinh mới chuyển vào trường. Một kiểu người kỳ quái: khoảng mười bảy tuổi, cao hơn mức trung bình nhưng lực lưỡng, đôi vai giống như vai mấy tay cửa vạn, đầu to, ngón cái của bàn tay phải vẹo hoàn toàn, mũi lõ, đầy sẹo trên hai cánh tay, bàn tay, tóc dựng ngược. Tóm lại là một loại khó nhằn mà anh rất ngại đối mặt! Ngay buổi tối đầu tiên, trong sân trường, cậu ta lại gần bọn anh và nói với Bart, vẻ hơi ngập ngừng: " Hình như cậu là Bartolomeo Casal?" Bart nhìn thẳng mặt cậu ta và trả lời rằng đúng. Lúc ấy anh tự nhủ phải chăng tên đó định lao vào Bart và đánh cậu ấy. Nhưng không phải, cậu ta há ngoác miệng, úp mặt trong hai bàn tay và rên rỉ nhắc đi nhắc lại: " Tôi không tin là thế… Tôi không tin là thế." Cậu ta có vẻ xúc động mạnh và bọn anh phải kéo cậu ta vào một góc sân để không bị phát hiện. "Ê này, cậu có thể khoe khoang là đã bắt tôi phải chạy theo đây! cậu ta nói. Đã ba năm nay tôi đi tìm cậu! Đã ba năm nay tôi cố tình làm mọi cách để bị chuyển đến tất cả các trường nội trú hòng tìm ra cậu! Tôi đã nhiều lần bị nhốt vào ngục! Tôi đã nhiều lần bị đánh đập! Hãy nhìn mặt tôi đây này!"
Cậu ta nghẹt thở vì xúc động, cậu ta lôi từ trong túi ra chiếc khăn mùi soa bẩn, che mặt khóc, rồi hỉ mũi lên đó. "Cậu hãy giải thích đi! Bart nói. Bọn tớ không hiểu gì về câu chuyện của cậu hết! Mà trước hết, cậu là ai? - Ờ, tôi là một con ngựa, cậu ta trả lời. – Một cái gì cơ? – Một con ngựa! Cậu không biết đó là gì sao? Tôi là một trong số đó, những con vật để người ta cho ăn roi và đánh đập vì các nghệ sĩ kiểu như cậu đấy! Người ta bảo chúng tôi phải đưa thư thì chúng tôi phải đưa thư, ngay cả nếu việc này phải mất mười năm và cho dù không biết tìm gã nhận thư ở đâu. Chúng tôi sẵn sàng chịu cực khổ vì việc này. Nhưng không phải bất cứ ai cũng được như thế. Không phải với những gã đểu của hội Phalange! Bố tôi đã không thể nào ưa được chúng, và tôi cũng vậy. Ồ, chính tôi là người tìm ra cậu! Tôi không thể tin nổi! Cậu thề với tôi cậu chính là Bartolomeo Casal chứ? – Tớ thề với cậu điều đó, Bart đáp lại và giờ đây còn muốn mỉm cười. Và cậu tìm tớ vì lý do gì? – Tôi vừa nói cậu xong! Cậu ta căng thẳng. Cậu bị nặng tai à, hả? Tôi có lá thư phải chuyển cho cậu! Nó ở trong lớp lót áo khoác của tôi, cái lá thư chết tiệt. Đã mười hai năm nay nó được chuyển trong lớp lót áo của chúng tôi! Tôi là con ngựa thứ tư phải mang nó theo cùng! Khâu chỉ vào rồi lại tháo chỉ ra mỗi lần toi phải thay áo vest hay áo khoác! Tôi chán lắm rồi! Tôi là một con ngựa chứ không phải một người thợ may. Cậu đã thấy hai bàn tay tôi chưa? Được rồi, tôi vào nhà vệ sinh và tôi đưa nó cho cậu. Đợi tôi ở đây!"
Bart và anh nhìn nhau sửng sốt. Chưa đầy một phút sau, anh chàng kia quay lại. "Cám ơn, Bart vừa nói vừa đút chiếc phong bì rách nát trong túi, mà cậu tên gì vậy? – Tôi tên là Basile, và các cậu biết Basile này sẽ làm gì bây giờ không? – Không biết, bọn anh trả lời cậu ta. – Thì Basile này sẽ giữ mình cẩn thận, nó sẽ trở thành một thiên thần, một con cừu nhỏ. Là thế đấy. Và nhất là nó sẽ nghỉ ngơi bởi vì nó đã hoàn thành nhiệm vụ!"
Thế rồi cậu ta bắt tay cả hai đứa anh và bước đi dáng như con gấu. Bọn anh nghe tiếng cậu ta sụt sịt mũi ở cách đó mười mét.
Rồi sau đó, bọn anh trở thành bạn bè. Thật thích thú nghe cậu ta kể chuyện. Cậu ta đã biết đến hơn sáu trường nội trú và biết được vô khối bí mật. Chỉ cần hỏi cậu ta. Cuộc họp hàng năm, Van Vlyck… tất cả những chuyện đó, anh biết được là nhờ cậu ta.
- Em đã hiểu. Vậy là cậu ta chắc đã đọc lá thư. Không ai có thể giữ một lá thư trong người tận ba năm mà cưỡng lại được cám dỗ của lá thư ấy.
- Đúng thế. Trừ với người không biết chữ…
- Basile không biết chữ sao?
- Không. Các nhân-mã không biết chữ.
- Cái gì cơ?
- Các nhân-mã. Basile nói "con ngựa" để tự giễu mình, nhưng cậu ta đúng là "nhân–mã". Anh sẽ giải thích cho em vào một dịp khác. Tóm lại, họ không biết đọc. Ngay buổi đầu tiên, Basile chui xuống hàng cuối cùng, trong lớp học, và bọn anh đã nhanh chóng hiểu ra. Các thầy giáo cũng để cậu ta được yên.
- Tội nghiệp cậu ấy. Và có gì trong chiếc phong bì đó?
- Một lá thư cho Bart.
- Em nghi ngờ đấy. Vậy là thư đó là của ai?
- Đợi một chút. Bart đọc nó ngay sau đó trong nhà vệ sinh. Anh đứng canh cửa cho cậu ấy. Ở chỗ anh, cũng như ở bên em: chúng ta không bao giờ có thể được bình yên! Lúc đi ra cậu ấy trắng bệch không thể tưởng tượng được. "Có gì không ổn à? Anh hỏi cậu ấy. Ai viết thư cho cậu? – Bố tớ… cậu ấy trả lời. Đó là lá thư của bố tớ…tớ thậm chí không biết rằng tớ có một người bố… bố tớ viết thư này đã mười lăm năm…"
Những ngày sau đó, Bart đã thay đổi. Cậu ấy không còn nói chuyện tào lao nữa mà bắt đầu đi hỏi các bạn, hết người này đến người khác. Và vẫn luôn cùng một câu hỏi: " Cậu nhớ bố mẹ cậu không?" Nếu là một người khác, cậu ấy chắc sẽ bị tẩn, nhưng mọi người không đánh Bartolomeo Casal… Rất kỳ lạ: cậu ấy đến gần cả những người trong suốt ba năm trời không bao giờ nói chuyện với ai, và hỏi luôn câu hỏi ấy: "Cậu nhớ bố mẹ cậu không?" Thông thường, câu trả lời là không. Nhưng nếu ai đó trả lời là có, thì cậu ấy quay người đó trong nhiều giờ liền.
- Để làm gì?
- Để xác nhận điều gì đó mà bố cậu ấy giải thích trong lá thư.
- Nghĩa là?
- Cuối cùng Bart cũng thổ lộ với anh, và đó mới thực sự là chuyện nghiêm túc mà anh muốn nói với em.
- Nói đi…
- Chúng ta… biết nói thế nào nhỉ… chúng ta không phải là những đứa trẻ mồ côi giống như những đứa trẻ mồ côi khác?
- Không. Tất cả bố mẹ chúng ta đều giống nhau ở một điểm.
- Là gì vậy?
- Họ đã chống lại hội Phalange khi tổ chức này nắm quyền lực.
Tim Helen thắt lại. Trong mười bảy năm qua, cô không bao giờ có thể hình dung được bố mẹ theo bất cứ cách nào. Cô đã cố tưởng tượng họ, nhưng bất chấp tất cả các cố gắng của cô, họ tuột khỏi trí nhớ cô như một con cá tuột khỏi tay. Nghe một người khác gợi nhắc về họ, cho dù chỉ bằng những câu nói thoáng qua, có vẻ cũng là chuyện phi thực. Đối với cô, dường như hai hình bóng vẫn luôn không rõ mặt ấy, bố và mẹ cô, đang giơ tay vẫy chào cô trìu mến từ đằng xa, rất rất xa, sau chừng ấy thời gian. Cô nép sát vào vai Milos, để tin chắc rằng tất cả điều này tồn tại: mái nhà cô đang ngồi, màn đêm thuần khiết và giá lạnh xung quanh cô, và chàng trai trầm lặng này sắp tiết lộ với cô nhiều bí ẩn lạ lùng.
- Em không hiểu… Người ta tập hợp chúng ta lại vì bố mẹ chúng ta sao?
- Đúng vậy.
- Vì sao?
- Vì tất cả họ đều đã chết… cùng một lúc… hoặc gần như vậy.
- Anh muốn nói người ta đã…
- Người ta đã thủ tiêu họ.
- Thủ tiêu ư? Nhưng ai đã làm việc đó?
Milos ngần ngừ một chút.
- Tay chân của hội Phalange. Bố của Bart dùng một từ rất đơn giản: ông nói rằng đấy là những kẻ dã man. Chúng đã giành quyền lực bằng vũ lực, cách đây hơn mười lăm năm. Đó goi là đảo chính. Chúng đã bắt và ám sát tất cả những người chống lại chúng. Chúng xóa đi dấu vết của họ, cấm người ta nói ra tên của họ, phá hủy các tác phẩm của họ nếu họ là các nghệ sĩ…
- Nhưng bố của Bartolomeo, ông ấy đã thoát được, vì ông ấy đã viết lá thư đó…
- Ông ấy là một trong những người lãnh đạo Kháng chiến, và ông ấy đã trốn thoát. Trong thư, ông ấy viết mình đang ở trên đỉnh dãy núi phía Bắc và ở trên đó ông có thể thoát khỏi các Quái vật, những con cẩu-nhân của lão Mills. Nhưng ông nói ông sẽ không đi xa hơn nữa, ông đã kiệt sức và đôi chân ông đã tê cứng. Và ông gửi lá thư qua một người bạn chiến đấu với hy vọng một ngày nào đó nó sẽ đến được tay Bartolomeo, con trai ông.
- Lá thư đó đã mất tới mười lăm năm, nhưng nó đã đến! Helen kinh ngạc. Nhờ có Basile!
- Chính xác. Và cuối cùng, Milos nói tiếp, bố của Bart kể trên đường chạy trốn, ông đã gặp một người phụ nữ tuyệt vời, một nữ ca sĩ mà mọi người đều hâm mộ và bảo vệ. Những kẻ dã man đã không làm bà ngừng hát được. Chừng nào bà ấy còn có thể hát, chúng còn sợ bà, sợ giọng hát của bà. Bà tên là Eva-Maria Bach và có một cô con gái tóc vàng giống bà từng nét một.
- … Milena… Helen khẽ nói.
- Đúng vậy. Những kẻ dã man đã dồn vây mẹ bạn ấy trên ngọn núi nơi bà lẩn trốn cùng bố Bart và một nhóm quân du kích khác. Chúng đã thả những con cẩu-nhân tấn công bà…
Helen rùng mình.
- Trời ơi! Bart sẽ không kể chuyện đó cho Milena chứ?
- Anh không biết…
Hai người im lặng một hồi, rồi Helen tiếp tục:
- Tất cả những con người ấy, em muốn nói là bố mẹ chúng ta, đều đã chết ư? Không còn lại gì của họ nữa sao?
- Không, không gì hết, Milos buồn bã nói, không còn lại gì của họ… Rồi cậu ta nói thêm rất nhỏ: trừ chúng ta.
Giọng cậu vang lên lạ lùng qua bầu không khí trong mờ của buổi đêm. Dường như với họ, vào khoảng khắc này, ngồi dựa bên nhau trên mái nhà bằng đá đen, họ là những con người sống sót sau nỗi bất hạnh kinh hoàng xưa cũ, hai cánh chim mỏng manh và như được hưởng phép màu.
- Em vẫn luôn biết Milen không phải là một cô gái tầm thường, Helen cười nói, trong sâu thẫm con người bạn ấy có một bí mật vượt lên tất cả bọn em, một năng lực đặc biệt. Chỉ cần nghe bạn ấy hát là hiểu được điều đó.
- Bartolomeo cũng không phải là một chàng trai tầm thương, Milos nói. Hai người đó dĩ nhiên phải gặp nhau. Em có nhớ buổi tối chúng ta gặp nhau trên sườn đồi không? Họ không rời mắt khỏi nhau! Khi bọn anh trở vè trường nội trú, Bart dừng lại ngay ở giữa cầu và cậu ấy nói với anh: "Cậu nghe thấy không? Cô ấy tên là Milena! Chính là cô ấy!" Ngay lập tức anh hiểu rằng không gì có thể ngăn cản cậu ấy gặp lại cô gái ấy được nữa, thậm chí ý nghĩ phải bắt một người bạn vô tội vào ngục cũng không. Điều đó mạnh hơn tất thảy. Bọn anh không cần phải nói với nhau thêm nữa. Cậu ấy chỉ ôm anh, và ra đi. Cậu ấy đi một đoạn rồi quay người lại và nói với anh: "Chúng ta sẽ gặp lại nhau, Milos ạ! Chúng ta sẽ gặp lại nhau… ở một nơi khác! Tất cả chúng ta sẽ tìm thấy nhau, những người còn sống và những người đã chết!" Và cậu ấy biến mất. Còn một mình anh đần mặt đứng trên cầu, giống hệt như em vài giờ sau đó…
- Vậy là họ sẽ không trở về nữa?
- Họ sẽ không trở về.
- Thế còn Catharina đang ở trong ngục? Chúng ta không thể để bạn ấy chết được?
- Em có lý. Phải đưa cô ấy ra khỏi đó ngay đêm nay. Sau cuộc họp hàng năm này và với những gì đã diễn ra, việc canh gác chắc chắn sẽ rất lỏng lẻo.
- Nhưng chắc cũng phải có một bạn cũng bị nhốt bên anh chứ?
Milos đưa hai bàn tay lên vò đầu, rồi thở dài:
- Đã từng có… Nhưng không còn nữa…
- Sao lại thế? Người ta đã thả bạn ấy ra ư?
- Em nghe nhé, đã xảy ra một chuyện khủng khiếp. Tuần trước, khi Bart và anh ra khỏi trường để anh đến thăm mẹ tinh thần, ông giám thị đã chỉ định trên danh sách người sẽ bị trừng phạt thay trong trường hợp bọn anh không trở về. Và, em có thể không tin anh nếu em muốn, ông ta đã chọn… Basile. Anh chàng tội nghiệp đó đã không một lần làm điều gì xấu mà phải vào trong ngục. Cậu ấy chỉ muốn được yên và nghỉ ngơi thôi! Cậu ấy ở trong đó năm ngày và năm đêm, và buổi sáng thứ năm, anh đã thấy hai người đàn ông khiêng thi thể của cậu ấy cứng đờ trên chiếc cáng. Đầu cậu ấy lõm vào, vết máu tụ phủ đầy trên mặt, trên vai. Họ chở cậu ấy trên một chiếc xe ô tô và mang đi đâu thì anh không biết. Anh nghĩ rằng cậu ấy đã không chịu đựng được suy nghĩ bị trừng phạt một cách bất công như thế, cậu ấy đã trở nên điên dại trong ngục và đã đâm đầu vào cánh cửa tự tử. Đấy là anh nghĩ thế…
Giọng Milos như vỡ ra. Helen quay sang phía cậu và thấy rằng đôi mắt cậu quá đỗi sáng rực so với một chàng trai ở tầm "sơ đẳng".
- Chúng ta đi thôi, chàng trai phấn chấn nói, cần đi tìm Catharina trước khi cô ấy cũng trở nên điên dại. Đi nào!
Họ bỏ lại dây thừng trên mái nhà và một lần nữa vượt qua cửa sổ mái. Ở tầng trên cùng, ổ khóa cửa cũng không cầm cự được lâu với con dao của Milos. Họ đi xuống cầu thang và vào trong phòng họp. Nó vẫn y nguyên như khi người ta bỏ lại lúc một giờ trước, sáng sủa và vắng lặng. Thỏa thuê và say như chết, lão Putois ngồi gục dưới chân tường, mồm há hốc. Một chiếc máy bay có xé toang căn phòng cũng không làm lão tỉnh dậy. Khi đến gần, phát hiện bữa tiệc mới chỉ bị lão già nát rượu động tới, Milos suýt ngất xỉu:
- Ôi, thịt lợn! Nhìn này: pate, giăm bông, patê vùng quê, cả bánh táo nữa!
- Có cả sô cô la này! Helen sung sướng. Họ lao vào đống đồ ăn và vồ lấy tất cả những gì trong tầm tay. Rồi họ ăn không ngại ngùng và nhồi nhét các túi đầy những bánh mì, pho mát và bánh ga tô khô. Các cánh cửa không bị khóa sau cuộc chạy trốn trối chết của đám thực khách. Hai người lần lượt đẩy các cánh cửa và dễ dàng xuống dưới tầng trệt. Trong bóng tối, họ đi theo hành lang chạy dọc toàn bộ tòa nhà. Milos chỉ bật đèn khi vào trong nhà ăn, khi đã chắc chắn không thể còn ai thình lình xuất hiện trước mặt họ ở đây vào giờ này. Cánh cửa nhỏ ở cuối phòng hé mở. Milos đi trước bước tới chỗ cầu thang.
- Cẩn thận, trơn đấy! Helen khẽ nói.
- Bám tay lên vai anh! Milos đáp lại. Em nói là ở dưới tầng hầm?
- Đúng vậy, đi tiếp nào! Phải đi xuống tận cùng dưới cùng!
Sau vài mét, một không gian mở ra phía bên phải. Milos lia đèn, không nhìn thấy gì và tiếp tục đi xuống. Đi theo hành lang bằng đất sau chân người bạn đồng hành, Helen cảm thấy tim cô đập thình thịch. Họ sẽ tìm thấy cô bạn Catharina trong tình trạng thế nào đây? Làm sao cô ấy có thể sống sót được ở đây, nơi một người cứng đàu như Basile cũng đã không thể chịu đựng nổi? Làm sao bọn họ có thể bỏ mặc cô ấy một mình suốt cả tuần trong cơn ác mộng ngục tù này? Sự xấu hổ và nỗi lo sợ dâng lên trong cô.
- Cửa đã mở…Milos thốt lên, không tin nổi. Helen nhìn nay, cánh cửa đã mở toang…
Cô gái đến gần, giật lấy chiếc đèn từ tay chàng trai. Nếu như người ta để cánh cửa mở thế này, thì tất cả có thể là bởi vì Catharina không thể chạy trốn được nữa… Có thể cô ấy cũng đã… Cô gái lia ánh đèn trong ngục tôi. Gian ngục trống trơn.
- Bạn ấy không còn ở đây nữa! Em không hiểu gì cả! Họ đã làm gì với bạn ấy?
- Đi thôi! Milos cắt ngang, không nên nấn ná ở đây!
Họ quay lên, bối rối, không biết nên mừng rõ hay lo lắng vì Catharina biến mất. Hai người vừa bắt đầu đi lên thì Milos đột ngột dừng lại khiến Helen vấp phải câu. Ngồi trên một bậc thang, ở phía trên họ, là Catharina Pancek, rúm ró trong chiếc áo khoác. Cô gái cười với họ.
- Helen… Helen… tớ thật vui gặp lại cậu…
Helen vội vã chạy đến và nắm lấy hai bàn tay cô gái. Hai bàn tay cô nóng bỏng. Tóc bết trên trán. Người cô toàn mùi của đất.
- Catharina! Cậu làm gì ở đây? Cậu run này… Ai đã giải thoát cho cậu?
- Thérèse, cô bé trả lời, đó là Thérèse… các cậu… các cậu muốn xem Bầu Trời chứ?
Helen mới nhận ra rằng, vì quá bất ngờ khi thấy gian ngục trống rỗng, cô đã hoàn toàn quên nhìn lên thanh xà có bức vẽ phi thường mà ai cũng mơ được nhìn thấy và đồng thời cũng sợ hãi phải nhìn thấy nó.
- Ờ… có. Tớ rất muốn thế. Nó có thật không. Bầu Trời đó?
- Tất nhiên… và nó đẹp… tớ sẽ chỉ nó cho các cậu… nhưng hãy giúp tớ… hai chân tớ… không mang được người tớ nữa…
Hai người đỡ cô bạn dưới tay và cả ba từng bước trở lại gian phòng giam. Milos soi sáng thanh xà và họ ngắm nhìn trong im lặng. Màu xanh bầu trời đậm hơn dưới ánh sáng của ngọn đèn, những đám mây chống lên nhay, bị gió thổi đi. Một con chim màu xám bay lượn, sải cánh dang rộng. Họ như nghe thấy nó thốt ra tiếng kêu.
- Tớ không biết là có cả… một con chim, Helen khẽ nói, bị ấn tượng mạnh mẽ.
- Lúc trước nó không có… Catharina nói. Nó không có khi tớ ở trong này… nó vừa mới xuất hiện… điều đó muốn nói rằng con chim chính là tớ… và con chim đã tung cánh bay.
- Cậu chắc chứ? Helen ấp úng.
- Bố tớ là nhà toán học… Catharina trả lời.
- Gì cơ? Cậu đang nói gì vậy?
- …bố tớ là nhà toán học… chị Thérèse đã nói với tớ thế…
- Đi ra khỏi đây thôi! Milos nói thầm vào tai Helen. Cô ấy đang sốt. Răng cô ấy đang va lập cập.
- Đồng ý, nhưng đưa bạn ấy đi đâu?
- Tớ muốn đến nhà mẹ tinh thần… Catharina ấp úng nói.
Đôi bạn trẻ trao đổi nhanh qua ánh mắt và chấp thuận. Họ dìu Catharina lên trên cầu thang và ra khỏi phòng ăn. Họ đã mong đợi không khi giá ngắt của buổi đêm sẽ làm cô gái đang yếu ớt trở nên khỏe lại, nhưng hoàn toàn ngược lại: cô suýt ngất xỉu, họ phải giữ lấy cô để cô không ngã vật xuống sàn. Họ đi sát tường đến tận vọng gác của mụ Xương khô. Đèn bên trong đã tắt. Phải chăng mụ già dở hơi ấy đang âm thầm rình rập sau bức mành? Họ cúi thấp người đi qua cửa sổ không gây một tiếng động và đến cổng. Milos vận tay nắm nhưng vô ích. Cánh cổng đã bị khóa bằng chìa.
Cậu phải quay lại nói cho Helen biết điều đó, cô gái đang đỡ Catharina thì một giọng chua loét cất lên khiến họ như bị đóng đinh tại chỗ:
- Có người sắp đi dạo sao?
Mụ Xương khô đứng cách họ ba mét. Da mụ vàng ệch dưới ánh trăng. Mụ vẫn chưa cởi bỏ chiếc váy dạ hội cũng không tẩy trang. Đốm thuốc lập lòe trên tay mụ.
- Cậu làm gì ở đây, cậu kia?
Helen mở miệng định bịa ra chuyện gì đó, nhưng cô khép miệng lại ngay lập tức. Không có gì để giải thích, hay đúng hơn là có quá nhiều thứ… và Milos từ từ đến gần mụ Xương khô.
- Không tiến lên nữa, cậu kia! Một bước nữa là tôi sẽ kêu lên!
- Vậy thì, tôi lấy làm tiếc, thưa bà… Milos nói.
Và cậu làm một việc hết sức đơn giản và hết sức "sơ đẳng". Cậu họ đo ván mụ ta. Bằng một cú móc duy nhất vào chỏm cằm. Mụ phát ra tiếng kêu lạ lùng của loài chuột nhắt, bật người lên khoảng chục phân và đổ xuống đất như chiếc túi đựng xương.
- Bum! Catharina cười nói.
Milos vội vã cúi xuống mụ Xương khô, nhấc mụ lên bằng một tay và vác vào trong vọng gác. Cậu mở ra ngay sau đó, khóa cửa lại và đi ra mở cổng.
- Anh đã nhốt mụ ta ở trong đó và giật đứt dây điện thoại, nhưng cũng phải mau đi thôi!
Catharina bước đi quá khổ sở, mặc dù đã được đỡ ở hai bên. Sau vài mét, Milos dừng lại, gỡ kính khỏi mắt cô gái, vác chéo cô lên vai và bước đi với những sải chân dài. Họ đi lên cầu, dưới ánh mắt thờ ơ của bốn tay hiệp sĩ bằng đá.
- Cẩn thận! Helen thốt lên, có một chiếc thuyền đi qua phía dưới.
- Người ta làm gì lúc giữa đêm thế này? Milos ngạc nhiên hỏi và cậu tránh xa lan can cầu một chút để tránh cái nhìn của người chèo thuyền dường như đang quan sát họ.
Họ leo nhanh nhất có thể lên phố Những Con Lừa Cái, tối om và vắng lặng. Chẳng mấy chốc đã đến đoạn đường nơi họ gặp nhau lần đầu tiên một tuần trước.
- Anh còn nhớ không? Helen đành liều hỏi, mới biết là hoàn cảnh trớ trêu cũng không ngăn được người ta lãng mạn.
- Nhớ chứ! Milos, đang hết cả hơi, trả lời.
Trên lưng cậu, Catharina lảm nhảm nói những lời không mạch lạc.
- Bạn ấy nói gì thế? Helen hỏi.
- Cô ấy đang mê sảng. Cô ấy nói về những que diêm, đàn piano và con nhện, hình như thế… Em quen mẹ tinh thần của cô ấy không? Em biết bà ấy ở đâu không?
- Có ạ. Bà ấy tên là Mélíe. Em tin là em sẽ tìm được. Anh sẽ lên tận trên kia chứ?
- Anh sẽ đi đến đó.
Đến đài phun nước, họ đi vòng qua và tiếp tục bước theo con phố thoai thoải ngay phía trước mặt.
- Là ở đây, Helen nói và dừng lại trước một ngôi nhà gạch với các ô cửa sổ màu xanh.
Cô gõ ba tiếng lên cửa:
- Mở cửa, cô ơi. Chúng cháu đưa Catharina đến chỗ cô.
- Tôi ra đây… một giọng nói yếu ớt trả lời từ trên tầng.
Họ kiên nhẫn chờ. Mồ hôi chạy ròng ròng mà vẫn mệt đứt hơi, Milos đặt cô gái ốm yếu đứng xuống, đeo kính lại cho cô và ôm sát để giúp cô có thể đứng được. Cậu cảm thấy cô gái nóng rát trong đôi cánh tay mình. Cuối cùng cánh cửa mở ra, một người đàn bà trong chiếc váy ngủ, quá nhỏ, quá mảnh mai khiến người ta không thể không liên tưởng ngay đến một con chuột nhắt. Hai lông mày bà nhướng lên thật cao, để lộ đôi mắt to đầy lo lắng và ngạc nhiên. Bà đưa tay lên trước ngực.
- Catharina, con gái tội nghiệp của tôi! Chúng đã làm gì con thế này?
- Bạn ấy bị nhốt trong ngục, Helen trả lời.
- Ôi, lạy Đức Mẹ Đồng trinh! Vào đi, vào nhà nhanh đi!
Milos bế Catharina vào trong phòng ngủ và đặt cô nằm trên chiếc giường vẫn còn hơi ấm mà bà chuột nhắt vừa mới rời khỏi.
- Tôi sẽ cho con bé uống thuốc để hạ sốt. Ôi Chúa ơi, làm sao người ta có thể dã man đến thế? Làm sao người ta có thể? Hai cháu biết thế, đúng không?
Milos và Helen không biết. Họ im lặng. Người phụ nữ bé nhỏ luôn tay luôn chân bên cô gái được bà nhận che chở. Bà lau mặt và đôi bàn tay cô, vuốt ve cô, thổi lên tránh cô, nói với cô những lời động viên an ủi. Vài phút sau, Catharina đã chìm trong giấc ngủ sâu. Bà mẹ tinh thần còn canh chừng bên cô một chút nữa, rồi bà lại đi xuống ngồi bên bàn ăn phòng bếp, nơi hai bạn trẻ đang khẽ nói chuyện với nhau.
- Cô sẽ trông bạn ấy chứ, cô Mélie? Helen hỏi.
- Cháu biết tên của cô sao? Bà mẹ tinh thần ngạc nhiên.
- Vâng, Catharina thường kể với cháu về cô…
- Đó là một đứa bé ngoan, cô sẽ giữ nó ở đây cho đến khi nó khỏe lại. Cô sẽ giấu nó thật kỹ. Các cháu đừng lo. Nhưng còn các cháu, hai đứa sẽ làm gì? Các cháu phải trở về trước khi trời sáng, không phải thế sao?
- Sẽ phải như thế, Helen buồn bã nói.
Trông bầu im lặng sau đó, dường như họ nghe thấy nhiều tiếng động từ ngoài phố và giọng một người đàn ông ra lệnh như bị nghẹt.
- Tắt đèn đi! Nhanh lên! Milos ra lệnh.
Mélie lao ngay đến cái công tắc để tắt đèn. Họ chờ đợi, hoàn toàn không cử động, rồi thật nhẹ nhàng đến gần cửa sổ. Trong bóng tối mờ, những hình bóng màu xám thấp thoảng như những con ma. Chúng từ từ đi xa dần. Một con rớt lại, đi qua rất gần cửa sổ, lộ ra cái mặt nghiêng của nó, một cái mõm chó…
- Những con Quái vậy! Milos khẽ nói. Những con cẩu-nhăn của lão Mills. Chúng đi săn tìm Bartolomeo…
- Và Milena… Helen rùng mình ghê sợ nói nốt câu.
Họ chỉ dám nhúc nhích và bật lại đèn lên khi cái bóng dáng cuối cùng ấy hoàn toàn biến mất nơi cuối phố.
- Lại đây, lúc này bà mẹ tinh thần mới lên tiếng, cô sẽ pha cà phê cho hai đứa. Và hai đứa sẽ ăn cái gì đó.
Helen không còn đói kể từ lúc nhào đến bàn tiệc ở phòng đại hội. Còn Milos vẫn ăn được một lát thịt lợn quay và miếng bánh nhân trứng.
- Chúng ta phải về thôi… Helen nói, sau khi họ đã uống xong cà phê.
Milos hít vào thật sâu và khuôn mặt cậu bỗng nghiêm lại:
- Anh không về đâu, Helen ạ. Anh sẽ không đặt chân vào trường nữa.
- Anh nói gì vậy?
- Anh không về! Không bao giờ nữa!
- Và anh muốn làm gì?
- Anh sẽ đi theo đàn chó săn, đuổi kịp lão Mills cùng bầy Quái vậy của lão và ngăn chúng bắt được Bart. Anh biết cậu ấy, cậu ấy không có khả năng tự vệ! Không có anh, cậu ấy sẽ rất khó khăn, nhất là lại còn có cả Milena. Những con chó dơ bẩn kia sẽ ăn thịt họ mất!
- Đừng làm thế, người mẹ tinh thần van xin, chính cháu sẽ bị ăn thịt mất…
- Sẽ không ai ăn thịt được cháu đâu! Cháu sẽ đi, thế thôi!
- Nhưng một bạn nào đó sẽ bị nhốt vào ngục thay anh, anh biết rõ điều đó! Helen lý luận.
- Anh biết điều đó! Nhưng em nói giống như bọn chúng và anh không muốn nghe kiểu nói ấy nữa! Từ xưa tới giờ, họ giữ chúng ta bằng câu này: "Một người nào đó sẽ bị trừng phạt thay chỗ cô cậu." Bartolomeo đã dám là người đầu tiên. Và cậu ấy có lý! Basile đã chỉ cho chúng ta một cách ra đi khác, cho dù anh không muốn cái cách đó… Anh, anh cũng sẽ ra đi, nhưng ra đi ở đây không phải là chết. Anh sẽ đi! Đừng nói gì với anh nữa!
Vậy là đã rõ ràng: quyết định của Milos là không thể đảo ngược. Người mẹ tinh thần và Helen lặng lẽ chuẩn bị cho cậu một chiếc túi đựng đầy đồ dự trữ và quần áo ấm. Họ rời khỏi ngôi nhà nhỏ lúc ba giờ sáng.
Đến đài phun nước, nơi con đường của họ tách làm hai ngả, họ đứng đối mặt nhau trong chốc lát, bối rối, không biết phải nói lời từ biệt như thế nào. Rồi, không biết ai trong hai người hành động trước, họ tiến về phía nhau, lao vào nhau và ôm ghì bằng tất cả sức lực. Họ hôn lên má, miệng, trán, hai bàn tay nhau. Hơi lạnh hàn gắn họ lại với nhau.
- Em không thể xa anh được, Helen bật khóc… Em không thể…
- Em muốn đi với anh không? Milos hỏi.
- Vâng, em muốn đi cùng anh!
- Em sẽ không trách móc anh đã lôi kéo em theo chứ?
- Không bao giờ…
- Anh không biết khi nào chuyện này sẽ kết thúc, em có ngại…
- Em không ngại. Em đi.
- Vậy thì chúng ta sẽ không rời xa nhau nữa?
- Chúng ta sẽ không rời xa nhau nữa.
- Hứa chứ?
- Hứa.
Hai người quay lại nhà Mélie để thông báo quyết định của họ. Người mẹ tinh thần bé nhỏ chỉ biết rên rỉ:
- Ôi, những đứa trẻ của tôi, những đứa trẻ tội nghiệp của tôi…
Nhưng bà không có ý định can ngăn họ. Bà cũng tìm cho Helen thêm vài bộ quần áo và để họ ra đi, đồng thời hứa với họ sẽ chăm sóc Catharina.
Từ trên làng, họ quay lại nhìn thành phố đang ngủ. Họ im lặng ngắm nhìn thành phố với linh cảm sẽ không bao giờ quay trở về đó nữa.
- Em rất muốn nói lời tạm biệt với Paula và Octavo, Helen nói, và những giọt nước mắt mặn chat chảy trên đôi má cô.
- Là ai thế?
- Những người em yêu quý ở đây…
- Vậy thì đừng, họ sẽ ngăn em ra đi…
Trên bầu trời sáng ánh trăng, một con chim lớn màu xám lượn lên hướng Bắc, hai cánh dang rộng. Họ nghe thấy nó cất tiếng kêu.
Trận Đấu Mùa Đông Trận Đấu Mùa Đông - Jean Claude Mourlevat Trận Đấu Mùa Đông