Số lần đọc/download: 3323 / 46
Cập nhật: 2015-10-05 14:35:46 +0700
Chương 7
M
ưa gió vần vũ thổi tạt ngang bầu trời Bắc Carolina đen đặc, hất nước vào cửa kính phòng bếp. Đầu chiều hôm đó, khi Katie đã dán bức tranh của Kristen lên tủ lạnh xong xuôi và đang cho quần áo vào chậu giặt thì bên ngoài phòng khách trần nhà bắt đầu dột. Cô đặt một cái chậu phía dưới để hứng và đã phải đi đổ hai lần. Lúc sáng cô đã định gọi cho Benson nhưng lại ngờ rằng chưa chắc ông ta chịu tới sửa chỗ dột ngay. Tất nhiên, nếu ông ta chưa từng tới sửa lần nào thì lại khác.
Trong bếp, cô thái hạt lựu một miếng pho mát dày, vừa nhấm nháp vừa loanh quanh dọn dẹp. Trên chiếc đĩa nhựa màu vàng là bánh quy giòn và những lát cà chua, dưa chuột, nhưng cô không thể bày chúng theo ý mình. Chẳng có cái gì trông như ý cô cả. Trong căn nhà trước đây, cô có một cái thớt gỗ rất xinh và một con dao thái pho mát bằng bạc có khắc hình một vị hồng y, cùng một bộ ly uống rượu. Cô có cái bàn làm bằng gỗ anh đào trong phòng ăn và những tấm rèm trơn treo trên cửa sổ, nhưng ở đây thì chân bàn lung lay còn mấy cái ghế thì không hợp bộ, các cửa sổ trống trơn, cô và Jo phải uống rượu vang bằng cốc cà phê. Cũng cay đắng chẳng khác gì cuộc đời cô, cô thích sắp xếp những vật dụng trong tổ ấm của mình, nhưng với những gì đã bỏ lại phía sau, giờ cô chỉ xem những món đồ đạc ấy như những kẻ thù đã dẹp bỏ qua một bên mà thôi.
Qua cửa sổ, cô thấy một ngọn đèn b nhà Jo sáng lên. Katie đi ra cửa trước. Cô mở cửa ra quan sát khi Jo giẫm chân làm mấy vũng nước bắn tung tóe trên đường sang nhà cô, một tay Jo cầm ô còn tay kia cầm chai rượu. Jo nhảy thêm mấy bước nữa là sang tới thềm nhà cô, chiếc áo mưa màu vàng đã ướt sũng.
“Giờ thì tôi hiểu Noah đã cảm thấy thế nào rồi. Cơn bão này thật không tin nổi nhỉ? Bếp nhà tôi thành cái vũng nước luôn.”
Katie chỉ qua vai về phía sau. “Nhà tôi lại dột ở phòng khách.”
“Chả đâu bằng nhà mình, nhỉ? Đây này,” Jo nói, đưa cho Katie chai rượu. “Quân tử nhất ngôn nhé. Tin tôi đi, tôi sẽ cần nó đấy.”
“Hôm nay mệt lắm à?”
“Cô không tưởng tượng nổi đâu.”
“Thôi vào nhà đã.”
“Để tôi bỏ áo mưa ngoài này đã, không cô lại chuẩn bị có hai vũng nước trong phòng khách bây giờ,” Jo nói, cởi áo mưa ra. “Ra khỏi nhà được hai giây là tôi ướt như chuột lột rồi.”
Jo thả áo mưa cùng với ô xuống cái xích đu rồi theo chân Katie đi vào bếp.
Katie đặt ngay chai rượu lên quầy bếp. Thấy Jo lững thững đi tới bàn, Katie liền mở cái tủ ngăn kéo đặt bên cạnh tủ lạnh ra. Từ trong góc tủ, cô lấy ra một con dao đa năng và khui nắp chai.
“Cái này tuyệt quá. Tôi đói ngấu rồi. Cả ngày hôm nay chưa ăn uống gì.”
“Chị tự nhiên đi nhé. Tình hình sơn sửa thế nào rồi?”
“À, tôi sơn xong phòng khách rồi. Nhưng phần còn lại trong ngày thì không vui vẻ gì.”
“Chốc nữa tôi kể cô nghe. Giờ tôi cần rượu cái đã. Cô thì sao? Hôm nay cô làm gì?”
“Không có gì nhiều. Tạt qua cửa hàng, lau dọn nhà cửa, giặt giũ quần áo.”
Jo ngồi xuống bên bàn rồi với tay lấy một chiếc bánh quy. “Nóí cách khác, tài liệu nhật ký.”
Katie cười phá lên trong lúc bắt đầu vặn cái khui nắp chai. “Ồ phải. Thú vị lắm đấy.”
“Cần tôi mở hộ không?” Jo hỏi.
“Tôi nghĩ tôi mở được rồi.”
“Tốt.” Jo cười khẽ. “Vì tôi là khách nên phải được chiều chứ nhỉ.”
Katie kẹp chai rượu vào giữa hai đầu gối và cái nút bật ra cùng một tiếng “pặp”.
“Nhưng thật tình cảm ơn cô vì đã mời tôi sang.” Jo thở dài. “Cô không biết tôi đã trông chờ điều này tới mức nào đâu.”
“Thật sao?”
“Đừng làm thế.”
“Đừng làm gì cơ?” Katie hỏi.
“Tỏ ra sửng sốt khi biết rằng tôi muốn qua đây. Rằng tôi muốn mở một chai rượu. Đó là điều bạn bè làm thôi.” Jo nhướng mày. “À mà nhân tiện, trước khi cô bắt đầu tự hỏi liệu chúng ta có thực sự là bạn hay không và chúng ta biết được bao nhiêu về nhau, hãy tin tôi khi tôi bảo có, đương nhiên rồi. Tôi coi cô là bạn.” Jo để Katie thẩm thấu hết câu nói đó rồi mới nói tiếp. “Giờ uống chút rượu được chưa?”
Rốt cuộc tới chiều muộn thì cơn bão cũng qua đi, Katie mở cửa sổ gian bếp. Nhiệt độ đã giảm xuống, không khí trở nên mát dịu trong lành. Trong khi ấy từng cuộn hơi nước bốc lên từ mặt đất, những đám mây cuồn cuộn trôi qua mặt trăng, mang tới ánh sáng cũng nhiều như bóng tối. Lá cây chuyển từ màu bạc sang màu đen rồi lại từ đen sang màu bạc, lấp la lấp lánh trong ngọn gió se se ban tối.
Katie đã chếnh choáng mơ màng trong men rượu, trong làn gió hoàng hôn, trong tiếng cười vui vẻ của Jo. Katie thấy mình đang nhấm nháp từng mẩu bánh quy giòn và pho mát béo cứng, nhớ lại có lần mình đã đói tới mức nào. Có thời cô từng gầy mảnh như một sợi thủy tinh.
Đầu óc cô miên man. Cô nhớ bố mẹ, không phải nhớ những năm tháng cay đắng mà là những ngày tươi đẹp, những bản tính hung dữ còn đang ngủ yên: khi mẹ cô làm trứng ốp lết và thịt muối, mùi thơm lan tỏa khắp nhà, cô thấy bố bước vào phòng bếp, tới chỗ mẹ. Bố gạt tóc mẹ qua một bên rồi hôn lên cổ bà, khiến bà cười khúc khích. Cô nhớ có
lần, bố đưa hai mẹ con tới Gettysburg. Ông nắm tay cô khi đi dạo, cho tới giờ cô vẫn nhớ được cảm giác mạnh mẽ mà dịu dàng trong cái nắm tay ấy, một cảm giác hiếm gặp. Ông cao, vai rộng, tóc nâu, và có một hình xăm biểu tượng hải quân trên bắp tay. Ông từng phục vụ trên một tàu khu trục bốn năm và từng tới Nhật Bản, Triều Tiên và Singapore, dù ông ít khi nói gì nhiều hơn về khoảng thời gian đó.
Mẹ cô dáng người nhỏ bé, tóc vàng, bà từng tham gia một cuộc thi nhan sắc và cuối cùng giành giải á khôi. Bà yêu hoa, vào mùa xuân bà trồng các loài hoa thân thảo vào những chậu cảnh bằng gốm đặt ở sân. Tulip và thủy tiên hoa vàng, mẫu đơn và violet, chúng nở rực rỡ muôn màu bừng chói tới mức gần như khiến Katie nhức mắt. Khi họ chuyển đi, những chậu hoa ấy được đặt ở ghế sau xe và được thắt dây an toàn cẩn thận. Khi lau dọn nhà cửa, mẹ cô hay hát một mình, những bài hát từ thời thơ ấu, nhiều bài bằng tiếng Ba Lan, và ở một phòng khác Katie sẽ lặng lẽ lắng nghe, cố hiểu ý nghĩa của câu từ.
Thứ vang mà Jo và Katie đang uống có mùi sồi và mơ, vị rất tuyệt. Katie uống hết cốc và Jo rót cho cô cốc khác. Khi một con thiêu thân bắt đầu chao lượn quanh ngọn đèn phía trên bồn rửa bát, vẫy vẫy đôi cánh nửa như chủ tâm nửa như ngơ ngác, cả hai cùng bật cười khúc khích. Katie cắt thêm pho mát và đổ thêm bánh quy ra đĩa. Họ nói chuyện vềảnh và sách vở, Jo kêu lên vui sướng khi Katie nói bộ phim cô yêu thích nhất làCuộc sống tươi đẹp, tuyên bố đó cũng chính là bộ phim yêu thích nhất của mình. Katie nhớ rằng hồi nhỏ cô đã xin mẹ mua cho một cái chuông, để cô giúp các thiên thần tìm lại đôi cánh. Katie uống hết cốc thứ hai, cảm giác lâng lâng nhẹ như lông hồng trong làn gió mùa hè.
Jo không hỏi han nhiều. Thay vì thế, họ nói những chuyện vu vơ, và Katie lại nghĩ cô thật vui khi có Jo làm bạn. Khi ánh bạc thắp sáng thế gian phía trên khung cửa sổ, Katie và Jo liền bước ra thềm trước. Katie cảm nhận được mình đã hơi chếnh choáng nên bèn vịn tay vào rào chắn. Họ nhấp từng ngụm rượu, khi ấy mây tiếp tục tan ra, và đột ngột, bầu trời lấp lánh đầy sao. Katie nhận ra chòm Gấu lớn và sao Bắc Cực, những ngôi sao duy nhất cô có thể kể tên, nhưng Jo bắt đầu đọc tên hàng chục chòm sao khác. Katie ngơ ngác nhìn lên bầu trời, ngạc nhiên không hiểu làm sao Jo có thể biết tên nhiều chòm sao tới vậy, rồi cô để ý thấy mấy cái tên Jo đang kể. “Chòm kia gọi là Elmer Fudd, còn đằng kia, ngay trên ngọn thông ấy, ta có thể thấy chòm Daffy Duck(1).” Cuối cùng Katie cũng nhận ra Jo biết về trăng sao chẳng hơn gì cô, Jo bắt đầu cưòi khúc khích như một đứa trẻ ranh mãnh.
(1) Elmer Fudd và Daffy Duck là tên các nhân vật hoạt hình Mỹ.
Trở vào bếp, Katie rót ly rượu cuối cùng ra và nhấp một ngụm. Rượu làm cổ cô ấm lên và khiến cô thấy chao đảo. Con thiêu thân vẫn đang chao lượn quanh ngọn đèn, mặc dù nếu cố tập trung nhìn thì cô sẽ thấy dường như có tới hai con. Cô cảm thấy hạnh phúc, bình an và lại thầm nghĩ tối nay thật vui biết bao.
Cô đã có một người bạn, một người bạn đích thực, người bạn ấy cười đùa và pha trò về các chòm sao, cô không biết nên cười hay nên khóc nữa, bởi đã quá lâu rồi cô mới được trải nghiệm một điều gì dễ chịu và tự nhiên tới vậy.
“Cô ổn chứ?” Jo hỏi.
“Ổn mà,” Katie đáp. “Tôi chỉ đang nghĩ là chị sang chơi thế này thật mừng quá.”
Jo nhìn cô chăm chú. “Tôi nghĩ cô ngà ngà rồi đấy.”
“Có lẽ chị nói đúng
“À, vậy được rồi. Cô muốn làm gì? Vì rõ ràng là cô đã chếnh choáng và sẵn sàng quậy cho vui rồi.”
“Tôi không hiểu ý chị.”
“Cô muốn làm cái gì đặc biệt không? Đi vào thị trấn, tìm một chỗ nào đó sôi động chẳng hạn?”
Katie lắc đầu. “Không.”
“Cô không thích giao du à?”
“Tốt nhất tôi nên ở một mình.”
Jo lướt ngón tay quanh miệng cốc hồi lâu rồi mới cất tiếng. “Tôi nói cái này cô phải tin đấy nhé: không có ai ở một mình lại là tốt nhất cả.”
“Có tôi.”
Jo suy nghĩ về câu trả lời của Katie rồi vươn người lại gần cô hơn. “Vậy cô đang nói với tôi rằng - cứ cho là cô có thức ăn, chỗ trú, quần áo và mọi thứ khác đủ để sống qua ngày đi - cô tốt hơn hết là sống trên hoang đảo giữa nơi không dấu chân người, hoàn toàn một mình, mãi mãi, cho đến hết phần đời còn lại à? Thành thật coi nào.”
Katie chớp chớp mắt, cố tập trung ánh nhìn vào Jo. “Sao chị lại nghĩ tôi sẽ không thành thật?”
“Bởi vì con người ta ai cũng nói dối cả. Đó là một phần của cuộc sống trong xã hội. Đừng hiểu lầm tôi – tôi nghĩ nó cũng cần thiết thôi. Chẳng ai mảy may muốn sống trong một xã hội mà đâu đâu cũng rặt những lời nói thật cả. Cô có tưởng tượng ra được các cuộc trò chuyện sẽ thế nào không? Chị lùn mà sao béo khiếp nhỉ? người này nói, và người kia đáp, Tôi thế đấy. Nhưng anh cũnghôi bỏ xừ đấy thôi. Đơn giản là không thể như vậy được. Thế nên bao giờ con người cũng nói dối phần nào. Người ta sẽ kể với nhau phần lớn câu chuyện... và theo tôi được biết thì phần họ bỏ qua, không kể thường lại là phần quan trọng nhất. Mọi người giấu giếm sự thật vì họ sợ.”
Những lời Jo nói như một ngón tay chạm vào trái tim Katie. Đột ngột, cô thấy dường như bị khó thở.
“Chị đang nói về tôi đấy à?” cuối cùng cô rền rĩ.
“Tôi không biết. Chẳng lẽ thế à?”
Katie thấy mặt mình hơi tái đi, nhưng trước khi cô kịp phản ứng, Jo liền mỉm cười.
“Thực tình, tôi đang nghĩ về ngày hôm nay của tôi. Tôi bảo cô là hôm nay tôi rất nhọc, đúng không? Phải, những gì tôi vừa nói với cô chính là phần nào vấn đề của nó đấy. Cảm giác thật nản khi người ta không nói ra sự thật. Ý tôi là, làm sao tôi có thể giúp được mọi ngưòi nếu như họ cứ giữ khư khư mọi chuyện trong lòng? Khi mà tôi còn chẳng biết rõ điều gì đang diễn ra?”
Katie cảm thấy cái gì đó đang vặn siết bóp chặt lồng ngực mình. “Biết đâu họ muốn nói ra mọi chuyện nhưng lại biết rằng chị chẳng thể làm gì để giúp họ,” cô thì thào.
“Lúc nào tôi cũng có thể làm điều gì đó.”
Ánh trăng chiếu qua cửa sổ phòng bếp, da Jo sáng lên trong màn trắng bạc, Katie có cảm giác như Jo chưa bao giờ ra nắng. Rượu khiến căn phòng chao đảo, các bức tường ngả nghiêng. Katie cảm thấy nước mắt bắt đầu dâng lên trong mắt mình và tất cả những gì cô có thể làm là chớp mắt để ngăn nó lại. Miệng cô khô khốc.
“Không phải lúc nào cũng thế đâu,” Katie thì thầm. Cô quay mặt về phía cửa sổ. Qua lớp kính, vầng trăng lơ lửng treo dưới những ngọn cây. Katie nuốt khan, đột nhiên cảm thấy như thể cô đang quan sát chính mình từ đầu kia căn phòng. Cô có thể thấy mình đang ngồi ở bàn với Jo, và khi cô bắt đầu nói, giọng cô như không còn là giọng của chính cô nữa. “Tôi từng có một người bạn. Cô ấy có một cuộc hôn nhân kinh khủng mà không thể nói cùng ai. Hắn thường đánh đập cô ấy, lần đầu như vậy cô đã bảo nếu chuyện này còn xảy ra lần nữa thì cô sẽ rời bỏ hắn. Hắn thề rằng không bao giờ làm thế nữa và cô ấy tin hắn. Nhưng sau đó mọi chuyện chỉ tồi tệ hơn, như khi bữa tối của hắn nguội, hoặc khi cô ấy kể cô ấy tình cờ hàng xóm khi anh ta dắt chó đi dạo. Cô ấy chỉ kể chuyện cho vui thế thôi, nhưng tối hôm đó hắn quăng cả cái gương vào người cô ấy.”
Katie nhìn chăm chăm xuống sàn nhà. Tấm vải sơn lót ở các góc nhà đã bong ra, nhưng cô không biết làm thế nào để sửa. Cô đã cố dán nó lại nhưng keo không ăn nên các mép lại quăn lên.
“Hắn lúc nào cũng nói lời xin lỗi, và đôi khi thậm chí hắn còn khóc khi thấy những vết thâm tím hắn để lại trên tay chân và lưng cô ấy. Hắn nói hắn căm ghét những gì hắn làm, nhưng cũng ngay lập tức nói thêm rằng cô ấy đáng bị như thế. Rằng nếu cô ấy cẩn thận hơn thì chuyện đó đã không xảy ra. Rằng nếu cô ấy chú ý hơn hoặc không xuẩn ngốc như thế thì hắn đã không nổi đóa. Cô ấy bèn cố gắng thay đổi. Cô ấy làm việc chăm chỉ để cố trở thành người vợ tốt hơn và làm mọi việc theo cách hắn muốn, nhưng thế vẫn không bao giờ là đủ cả.”
Katie có thể cảm nhận thấy những giọt lệ dâng đầy trong hốc mắt và dù cố gắng để ngăn lại, cô vẫn cảm thấy nước mắt đang lăn dài trên má mình. Jo ngồi bất động phía bên kia bàn, quan sát cô mà không nói gì.
“Nhưng cô ấy đã yêu hắn! Hồi đầu, hắn rất ngọt ngào với cô ấy. Hắn khiến cô ấy cảm thấy an toàn. Vào đêm họ gặp nhau, cô ấy đang làm việc, và sau khi cô tan ca, hai gã đàn ông bám đuôi cô. Khi cô ấy đi đến chỗ rẽ, một trong hai gã chộp lấy cô và đưa tay bịt miệng cô, và dù cô cố hết sức vùng thoát nhưng hai gã đó quá khỏe, cô ấy không biết chuyện gì xảy ra sau đó, chỉ biết chồng tương lai của cô từ góc đường bước lại đánh mạnh vào gáy một trong hai gã kia khiến hắn ngã vật xuống đất. Rồi anh ta tóm thằng còn lại quật vào tường, thế là xong. Chỉ có thế. Anh ta giúp cô ấy đứng dậy và dìu cô về nhà rồi ngày hôm sau tới đưa cô đi uống cà phê. Anh ta tốt và đối xử với cô ấy như với công chúa, cứ như thế cho tới tuần trăng mật của cô.”
Katie biết mình hoàn toàn không nên kể những chuyện này với Jo, nhưng cô không thể ngừng lại được. “Bạn tôi đã cố trốn đi hai lần. Lần đầu, cô ấy tự quay về vì không biết đi đâu nữa. Còn lần thứ hai bỏ đi, cô ấy nghĩ cuối cùng mình cũng được tự do. Nhưng hắn sục sạo tìm được cô và lôi cô về. Về đến nhà, hắn đánh cô rồi gí súng vào đầu cô mà bảo rằng cô còn dám bỏ đi lần nữa thì hắn sẽ giết cô. Hắn sẽ giết bất cứ thằng nào cô dám ngó ngàng. Và cô tin lời hắn, bởi vì khi ấy, cô biết hắn bị điên mất rồi. Nhưng cô mắc kẹt. Hắn không bao giờ đưa cô tiền, không bao giờ cho phép cô rời. Hắn thường lái xe về nhà vào giữa giờ làm, chỉ để đảm bảo cô vẫn ở nhà. Hắn giám sát hóa đơn điện thoại và gọi về nhà liên tục, hắn còn không cho cô ấy học lấy bằng lái xe. Có lần, khi thức giấc lúc nửa đêm, cô ấy thấy hắn đang đứng ngoài giường, nhìn cô chằm chằm. Hắn say mèm và tay lại đang cầm súng, cô ấy sợ quá chẳng nói được gì hơn là bảo hắn lên giường đi. Nhưng cũng chính lúc ấy cô nhận ra rằng nếu cô ở lại thì sớm muộn gì hắn cũng giết cô.”
Katie gạt nước mắt, ngón tay cô ướt đẫm nước mắt mặn đắng. Cô gần như nghẹn thở, nhưng lời vẫn cứ tuôn ra. “Cô ấy bắt đầu trộm tiền từ ví hắn. Không bao giờ quá một hai đô, nếu không hắn sẽ để ý thấy. Thường thì đêm nào hắn cũng cất kỹ ví, nhưng đôi bữa hắn quên. Phải mất rất nhiều thời gian cô ấy mới đủ tiền để trốn. Bỏi vì đó là việc cô ấy phải làm. Bỏ trốn. Cô ấy phải đi tới một nơi nào đó mà hắn sẽ không tìm ra cô, vì cô biết hắn sẽ không ngừng sục sạo săn lùng. Mà cô cũng chẳng thể nói gì với ai, vì gia đình cô không còn ai và cô biết cảnh sát cũng sẽ chẳng làm gì. Chỉ cần hắn nghi ngờ gì đó thôi, hắn sẽ giết cô. Thế nên cô ấy phải ăn trộm rồi để dành, phải nhặt nhạnh những đồng xu rơi lẫn trong vải phủ sofa hoặc trong máy giặt. Cô ấy giấu tiền trong túi ni lồng rồi đặt xuống dưới một chậu hoa, và cứ mỗi lần hắn ra ngoài là cô ấy lại nghĩ hắn sẽ tìm thấy. Phải rất lâu sau cô ấy mới có được số tiền cần thiết bởi vì cô ấy phải kiếm đủ để bỏ đi thật xa sao cho hắn không bao giờ tìm thấy cô ấy nữa. Như thế cô ấy mới có thể bắt đầu lại từ đầu.”
Katie không biết từ lúc nào, nhưng khi cô nhận ra thì Jo đã nắm lấy bàn tay cô và cô không còn quan sát mình từ đầu kia căn phòng nữa. Cô có thể cảm thấy vị mặn trên môi mình và tưởng như linh hồn mình đang rỏ ra. Cô những muốn chìm đi trong giấc ngủ.
Trong yên lặng Jo tiếp tục níu giữ ánh mắt cô. “Bạn cô quả là vô cùng dũng cảm,” Jo nói khẽ.
“Không,” Katie đáp. “Cô ấy lúc nào cũng sợ hãi.”
“Thế mới chính là dũng cảm đấy. Nếu không sợ thì từ đầu cô ấy đã chẳng cần dũng cảm rồi. Tôi ngưỡng mộ những gì cô ấy làm.” Jo lắc nhẹ bàn tay Katie. “Tôi nghĩ tôi rất mến bạn cô. Thật vui vì cô đã kể với tôi về cô ấy.”
Katie đưa mắt sang chỗ khác, cảm thấy kiệt quệ. “Đáng lẽ tôi không nên kể cho chị nghe những chuyện đó.”
Jo nhún vai. “Không phải lo về tôi quá đâu. Có một điều cô sẽ biết về tôi là tôi rất giỏi giữ bí mật. Nhất là những chuyện về những người mà tôi không biết, hiểu chứ?”
Katie gật đầu. “Được rồi.”
Jo ở lại với Katie thêm một tiếng đồng hồ nữa, nhưng đưa cuộc trò chuyện theo hướng tự nhiên hơn. Katie kể về chuyện làm việc ở quán Ivan và một số khách hàng cô biết. Jo hỏi xem cách nào là tốt nhất để cạo sơn dính dưới móng tay. Khi rượu cạn, cơn choáng của Katie cũng tan dần, để lại trong sự thức tỉnh của nó một cảm giác kiệt sức. Jo cũng bắt đầu ngáp, và cuối cùng họ đứng dậy khỏi bàn. Jo giúp Katie dọn dẹp dù chẳng có gì nhiều để làm ngoài rửa hai cái đĩa, rồi Katie tiễn cô ra tận cửa.
Khi bước ra đến thềm, Jo dừng lại. “Tôi nghĩ chúng ta có một vị khách đấy,” cô nói.
“Chị đang nói gì vậy?”
“Có một chiếc xe đạp dựa vào cây trước nhà cô kìa.” Katie theo Jo bước ra ngoài. Phía trên ánh sáng vàng của ngọn đèn thềm, không gian tối thẫm và viền của những cây thông xa xa gọi Katie nghĩ đến bờ miệng lởm chởm của một hố đen. Bầy đom đóm bắt chước theo ngàn sao, lấp lánh và nhấp nháy, Katie liếc nhìn và nhận ra Jo nói đúng.
“Xe đạp của ai vậy nhỉ?” Katie hỏi.
“Tôi đâu biết.”
“Chị có nghe thấy tiếng ai tới không?”
“Không. Nhưng tôi nghĩ ai đó đã để nó lại cho cô. Thấy không?” Jo chỉ. “Không phải là có một cái nơ trên ghi đông kia sao?”
Katie nhìn sang, nhận ra cái nơ. Một chiếc xe đạp nữ, có hai cái giỏ sắt hai bên bánh sau và một giỏ sắt phía trước. Một chiếc kh dây ôm hờ quanh ghế sau, cái chìa vẫn tra trong ổ khóa. “Ai lại mang xe đạp cho tôi chứ?”
“Sao cô cứ hỏi tôi những câu ấy nhỉ? Tôi cũng không biết chuyện gì đang xảy ra hơn cô tí nào đâu.”
Katie và Jo bước từ trên thềm xuống. Dù các vũng nước hầu như đã cạn mất, ngấm vào trong lớp mùn cát, nhưng cỏ vẫn ướt mưa và làm ướt mũi giày Katie khi cô bước qua. Cô chạm vào cái xe đạp, rồi đến cái nơ, chà cái nơ giữa những ngón tay như một người buôn thảm. Một tấm thiệp kẹp dưới cái nơ, Katie liền chạm vào nó.
“Là Alex,” cô nói, giọng chùng xuống.
“Alex là anh chàng ở cửa hàng tạp hóa Alex, hay Alex nào khác?”
“Anh chàng ở cửa hàng tạp hóa ấy.”
“Thiệp viết gì vậy?”
Katie lắc đầu, cố hiểu toàn bộ chuyện này khi lấy tấm thiệp ra. Tôi nghĩ có lẽ cô sẽ thích nó.
Jo vỗ vỗ vào tấm thiệp. “Tôi nghĩ điều này có nghĩa anh ấy cũng quan tâm tới cô như cô quan tâm tới anh ấy.”
“Tôi quan tâm tới anh ấy bao giờ!”
“Dĩ nhiên là không rồi.” Jo nháy mắt. “Sao lại phải thế chứ?”