We are too civil to books. For a few golden sentences we will turn over and actually read a volume of four or five hundred pages.

Ralph Waldo Emerson

 
 
 
 
 
Tác giả: Hoa Bằng
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 12
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 33
Cập nhật: 2020-11-30 17:54:09 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Thứ Tư: Nội Trị
ẸP PHÁI PHẢN ĐỘNG
Đối với “bếp lửa” nhà Lê, sau khi đã vạc, vua Thanh Càn Long, cũng như vua Quang Trung, không muốn một tàn lửa nào có thể nhân hơi gió hay sức quạt mà bùng bốc lên nữa.
Khi cho bọn Nguyễn Đình Bái 38 người (đám theo vua Lê Chiêu Thống) cùng với 43 người trong gia quyến họ về nước, vua Thanh phải dặn Phúc Khang An nới với quốc vương (chỉ vua Quang Trung) biết trước rằng họ về đến nước Nam, thì quốc vương cứ quản thúc. Về phần họ, chắc họ phải yên phận, giữ phép không dám gây sự khuấy rối gì đâu. Nhưng nếu họ có mật đem thư tín Lê Duy Kỳ (Chiêu Thống) về nước để phiến hoặc lòng người, thì quốc vương cứ việc trừng trị, không cần phải e dè kiêng nể vì cớ bọn họ đã do “Thiên triều” cho về.
Nhưng, than vạc lại hồng kia không phải do bọn ở Tàu về, mà lại chính bởi Hoàng Ba Lê Duy Chi (em vua Chiêu Thống), người vẫn lẩn quất ở trong nước.
Duy Chi343 thấy cuộc Việt Thanh giao thiệp đã mười phần xong xuôi, không thể còn gửi hy vọng “cuốn bụi lại về” vào anh là Chiêu Thống nữa, bèn lén đến châu Bảo Lạc thuộc trấn Tuyên Quang, nương tựa viên thổ tù tên là Khoan Triều, rồi chiêu hiền, mãi mã, có chí khôi phục nhà Lê. Lúc ló ra, lúc im bặt, tung tích bất thường, Duy Chi khuấy rối một vùng biên thùy, Tây Sơn nhiều lần phái quân đi tiễu mà chưa dẹp yên được. Từ đó, Duy Chi lẩn quất ở trong rừng núi, người ta không biết đích xác ở đâu.
Khi hay tin Duy Chi lại vùng vẫy ở Bảo Lạc, tràn lan đến cả những vùng Mục Mã, Thái Nguyên, quan lưu thủ thành Thăng Long liền cắt Phan Văn Chuẩn đem binh đi dẹp.344
Sau lại dựa vào lực lượng bọn thổ tù Nùng Phúc Tấn và Hoàng Văn Đồng, Duy Chí chiếm giữ Tuyên Quang, Cao Bằng làm chỗ đứng chân, rồi liên kết với các xứ Vạn Tượng, Trấn Ninh, Trịnh Cao và Quy Hợp, mưu đánh phá trấn Nghệ An trước.
Sức phản động ấy không phải không to! Song kết cục, dưới thế lực toàn thịnh của Tây Sơn bấy giờ, “chim chích” vẫn không sao địch nổi “bồ nông” được.
Năm Canh Tuất (1790), vua Quang Trung sai Đại Tổng quản Trần345 Quang Diệu và Đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem 5.000 tinh binh do đường phía trên trấn Nghệ An đi đánh dẹp, bắt ngay được hai cừ khôi xứ Trấn Ninh là Thiệu Kiểu, Thiệu Đế (tháng sáu năm Canh Tuất), diệt được hai xứ Trịnh Cao, Qui Hợp (tháng tám, năm ấy): đánh được xứ Vạn Tượng khiến cho Quốc trưởng xứ ấy phải bỏ thành chạy dài, phó mặc voi, ngựa chiêng, trống cho quân Tây Sơn chiếm lấy. Luôn dịp quân Tây Sơn đuổi riết đến xứ Tiêm La (nay là Thái Lan) chém được chủ súy xứ Vạn Tượng là Tả Phan Dung và Hữu Phan Siêu (tháng mười năm ấy).
Đánh tan đám ngoại ứng rồi, Nghệ An Đốc trấn Trần Quang Diệu, phất cờ “đại thắng” quay về Bảo Lạc.
Địa thế Bảo Lạc hiểm, ba mặt đều là núi đá bích lập, chỉ hở một mặt phía bắc có thể thông sang nước Tàu.
Bấy giờ nhờ có quận Diễn, phiên thần của nhà Lê cũ, coi giữ cửa ải Tụ Long, làm hướng đạo cho Tây Sơn, đưa đường đi đánh hoàng Ba Lê Duy Chi ở Bảo Lạc346.
Các tướng Tây Sơn, với một số binh tinh nhuệ, do cửa ải Tụ Long sang qua đất Tàu, đi ba ngày, sấn vào thành Bảo Lạc, bắt sống Hoàng Ba với Phúc Tấn và Văn Đồng, điệu về Tụ Long rồi sai đóng cũi đưa về Thăng Long và dâng thư vào Phú Xuân báo tiệp.
Vua Quang Trung vì nể có Ngọc Hân Công chúa, nên nói thác lên rằng cứ giam hoàng Ba đấy, không được giết. Nhưng kỳ thực ngầm bảo chở đi trầm hà347 (1790).
Để khoe với Mãn Thanh cái võ công hiển hách ấy, vua Quang Trung sai bầy tôi Vũ Vĩnh Thành và Trần Ngọc Thị sang Tàu báo tin thắng trận.
ĐỐI PHÓ VỚI ĐÁM THÂN SĨ Cố Lê
Nhân tâm Bắc Hà, nhất là trong đám thân sĩ bấy giờ, còn in sâu trong óc, nhuần thấm trong mạch máu những ân đức và công nghiệp của vua Lê Thái Tổ (1428-1433), nên dẫu thấy Chiêu Thống ươn hèn bất lực đến đâu, họ cũng hết sức vùa giúp cho cái triều đại mà họ xưa nay vẫn quyến luyến quý mến ấy.
Lòng ái đới đó, sĩ phu Bắc Hà đã từng tỏ rõ trong bao cơn giông tố xông đến lay chuyển “cây” Lê. Hồi Mạc Đăng Dung (1527-1529) tiếm ngôi, đã gợi lòng công phẫn cho bao người, khiến họ được dịp tỏ dạ trung nghĩa với nhà Lê bằng những cái chết rất can đảm, rất tiết liệt, rất cảm động. Nhân sĩ khí và nhân tâm ấy, họ Trịnh mới dễ diệt Mạc dưới cái danh nghĩa phù Lê. Sau khi khôi phục Thăng Long (Lê Thế Tông, năm Quang Hưng thứ 16, 1593), nhà Trịnh nắm hết quyền chính, chỉ để cho nhà Lê cái ngai hờ và chút danh suông, nhưng vẫn không dám ngang nhiên lột lấy chiếc hoàng bào và cái mũ miện kia, cũng chỉ vì kiêng nể cái sĩ khí đó, nên không muốn đi theo vết xe đổ của nhà Mạc xưa.
Đến Bắc Bình vương ra Bắc lần thứ nhất, cũng vì vin vào đại nghĩa phù Lê, nên mới thành công dễ dàng trong việc diệt Trịnh.
Nay vua Quang Trung tuy có công đánh đuổi Tôn Sĩ Nghị, quét sạch 20 vạn quân Thanh, nhưng đám thân sĩ Bắc Hà bấy giờ – phần đông chỉ biết trung với cá thể một ông vua, một triều đại, chưa có cái nhận thức rõ rệt về quan niệm quốc gia, – không khỏi nảy ra những việc phản động một khi thấy vua Quang Trung do cái đà chiến thắng Đại Thanh bước lên địa vị làm chủ nhân ông suốt cả Bắc Hà, theo ý nghĩ của họ, là địa bàn thuộc quyền sở hữu riêng của nhà Lê. Vì thế, từ “khối” thân sĩ đương thời, mới âm ỉ nhen lên những “than lửa” rối ren trong lúc thay triều đổi họ.
1) Việc Trần Quang Châu: Năm Quang Trung thứ nhất (1788), Trần Quang Châu, người huyện Gia Bình (Bắc Ninh), đứng lên xướng suốt hương binh, chống với quân Tây Sơn ở sông Thiên Đức348.
Năm Mậu Thân (1788), quân Thanh kéo sang nước ta, vua Lê Chiêu Thống cho Châu đem quân đi hộ giá, làm tiên phong đại Tướng quân, hướng dẫn quân Thanh trong khi họ mượn danh nghĩa cứu Lê để thực hành ý muốn thôn tính Đại Việt. Nhưng qua năm Kỷ Dậu (1789), quân Thanh thua, vua Lê chạy, Châu quay về vùng các huyện, âm mưu cùng với bọn Trần Danh Án, Dương Đình Tuấn và Lê Trọng Vĩ, chống lại tân triều bằng những cuộc võ trang bạo động. Rồi trong vòng 3, 4 năm, Tư khấu Vũ Văn Dũng nhà Tây Sơn thường phải cầm quân đi đánh dẹp: kết cục anh và cháu của Châu đều tử trận cả. Qua năm Nhâm Tý (1792), Tây Sơn mới bắt được Châu rồi giết chết vì Châu không chịu khuất phục.
2) Việc Dương Đình Tuấn. Người huyện Yên Thế (Bắc Giang), Tuấn đem hai con, một cháu và người nhà kháng chiến với Tây Sơn để bảo vệ cho vua Chiêu Thống, khi vua này chạy đến huyện Nhân Mục (1788). Đem cái thế lực như đá Thái Sơn, Tây Sơn không khó gì trong việc đối chọi với trứng: Tuấn bị thương, con cháu và gia thuộc bảy người của Tuấn đều chết trận. Năm Mậu Thân (1788), Tuấn cắt nhiều dân phu hàng huyện lên đón quân Thanh tận cửa Nam quan để… đem về làm mồi cho gươm súng của quân Tây Sơn hùng kiệu.
Năm Kỷ Dậu (1789) Tuấn lại hoạt động sau khi tiễn đưa vua Chiêu Thống đến cửa ải Nam quan. Nhưng cái đóm lửa hầu tàn ấy không sao đương nổi trước cơn gió lộng của tân triều: Tây Sơn đã đuổi quân Tuấn đến tận huyện hạt Yên Thế, lại bổ luôn ba đồn đóng chẹn, đốt cả nhà và làng Tuấn: rồi dồn Tuấn vào rừng. Chẳng bao lâu, Tuấn phải ôm bầu tâm sự mà chết.
3) Việc Nguyễn Phủ. Nguyễn Phủ người Gia Lâm (Bắc Ninh), từ năm Đinh Mùi (1787) tụ họp thủ hạ, kháng chiến với Tây Sơn ở xã Tiến Lâm, nhưng bị Tây Sơn đánh tan và giết hết.
4) Việc anh em cha con Phạm Đình Đạt. Có thể nói nhà Phạm Đình Đạt ở Vũ Giàng (Bắc Ninh) là một nhà bài Tây Sơn. Em hai của Đạt là Tạo sĩ Phạm Đình Phan, em ba là Tiến sĩ Phạm Đình Dữ và con trưởng là Phạm Duật đều vào trong núi Huyền Đinh (ngàn Treo Đanh) mưu việc khôi phục nhà Lê, lật đổ Tây Sơn. Năm Kỷ Dậu (1789), sau khi vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, Phan còn họp tập dân binh, hoạt động ở miền Lạng Giang. Nhưng rồi những cuộc thất bại đã đem đến cho Phan biết bao phẫn uất đến nỗi Phan phải uống thuốc độc mà chết. Còn Phạm Đình Chẩn, em tư của Đạt, đem hơn 500 hương binh, cũng nổi lên chống với Tây Sơn, nhưng chỉ chác lấy cuộc tàn phá cho nhà và cho làng. Hai con của Đạt là Đình Cù, Đình Ninh cũng đều bị bắt và bị giết trong một ngày vì đã tham dự vào cuộc khởi binh chống lại triều mới.
Dùng nhân tài
Nguyễn Huệ, với cặp mắt sáng khác đời, chẳng những thấy rõ được mọi vật trong đêm tối, mà rất sáng suốt trong việc liên tài hay dùng người. Trừ ra khi nào có ai cương cường không chịu hàng phục, Huệ xét để người ấy lại chắc sẽ có hại cho mình về sau thì thế tất phải tính. Một ví dụ:
Năm Giáp Ngọ (1774), Tham tán Nguyễn Đăng Trường bên Nguyễn theo chúa Duệ Tông không kịp, dắt mẹ vào lánh ở thành Quy Nhơn.
Bắt được Đăng Trường, Nguyễn Huệ vì liên tài, lấy lễ tân sư (vừa là bạn, vừa là thầy) mà đối đãi, song Đăng Trường không chịu, từ tạ xin đi.
Huệ nói: “Tiên sinh đi chuyến này, phỏng xoay lại trời đất được không? Sau có ăn năn, e muộn quách rồi!”
Đăng Trường nói: “Tài trai ở đời lấy trung hiếu làm đầu. Tôi nay dắt mẹ tìm vua, đối với đại nghĩa là quang minh lắm. Còn cùng hay thông, được hay hỏng là số mệnh cả, chứ có ăn năn nỗi gì!”
Huệ khen là hăng hái, rồi để cho đi.
Đến năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Huệ lại bắt được Đăng Trường. Huệ nói: “Lần này tiên sinh tính sao?” Đăng Trương đáp: “Bây giờ chỉ có chết thôi, can chi phải hỏi nữa!” sau dụ hàng không được. Huệ bất đắc dĩ phải sai giết đi. (Quốc triều sử toát yếu, tiền biên, quyển 1 tờ 36b-37a)
Khi ra Bắc, vua Quang Trung để ý ngay đến việc thu dùng nhân tài, nên những nhân vật xuất sắc như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích đều “vì người yêu mà hết sức làm đỏm”. Đáp ơn tri ngộ, mấy ông này đã đem văn chương tô điểm cho non sông tổ quốc, chiến thắng Mãn Thanh về mặt ngoại giao.
Nhà vua lại rất cưng chiều và tin dùng Vũ Huy Tấn349 thị trung đãi chiếu. Tỏ ý thân yêu, ngài thường vuốt ve bộ râu dài đẹp của Tấn. Nhiều khi ra đi, vua Quang Trung đường bệ ngự voi đi trước, Huy Tấn nho nhã cưỡi voi đi sau. Dấu hiệu đó tỏ ra Huy Tấn là tay văn mặc trọng yếu ở đương thời, không thể thiếu ở tả hữu Hoàng đế.
Để ghi ơn tao tế ấy, Vũ Huy Tấn có mấy câu Kỷ sự rằng:
文章屡奉綸音獎
眉鬓親承御手叉
更有一班堪畫處
輦途聯象接光華
Văn chương lũ phụng luân âm tưởng.
Mi mấn thân thừa ngự thủ thoa.
Cảnh hữu nhất ban kham họa xứ.
Liễn đồ liên tượng tiếp quang hoa.
(Trích trong Hoa trình tùy bộ thi tập)
Dịch:
Văn hay, lời thánh thường khen ngợi.
Râu tốt, tay vua vẫn vuốt ve.
Lại có chuyện này nên tả vẽ:
Liền voi, rạng vẻ lúc đi, về.
Vì nhà vua chinh phục được trái tim của Tấn, nên Tấn đã phơi gan, giãi ruột, đem tấm thân hăng hái dâng cả lên bàn thờ quốc gia. Chính Tấn bảy lần gõ cửa Nam quan (vi thần thất độ khấu Nam quan), vận động giảng hòa với Trung Quốc.
Đối với những phái chịu ra, vua Quang Trung không câu nệ họ là người cũ hay mới, có khoa danh hay không, thảy đều dung nạp và thu dụng, miễn họ có chân tài và thực tâm ghé vai gánh vác việc nước.
Nhưng, đối với những phái thích ẩn độn, ngài chẳng những không ép buộc bức bách, mà lại không đoạt chí của họ nữa.
Chứng cớ đó thấy rõ trong việc ngài xử với Trương Quán350 và Nguyễn Thiệp351:
Trương Quán là con cháu công thần nhà Lê. Tây Sơn muốn thu dùng, song Quán không chịu; thế mà các nhà cầm quyền bấy giờ cũng để cho Quán được tự do vui thú giang hồ, bạn cùng cỏ, hoa, mây, khói, suốt đời ôm chủ nghĩa độc thân.
Như trước đã nói, Nguyễn Thiệp nhiều lần từ sính, không chịu ra làm quan, vậy mà vua Quang Trung vẫn nhìn Thiệp bằng con mắt biệt đãi, không hề tức giận mỗi khi mời mãi không ra, cho gì không lấy. Song, trước thanh phong cao tiết của nhà danh sĩ ấy nhà vua vẫn một niềm tôn kính như thầy.
Coi mấy việc trên, đủ thấy vua Quang Trung có tài biết rõ người và có độ lượng dung được người. Chính nhờ cái tài ấy, cái độ lượng ấy, các bộ máy quân sự, ngoại giao và chính trị, mới chạy rất hợp lý, rất nhanh chóng và kết quả rất sai trĩu tốt tươi.
Vả, ơn tri ngộ của ngài thấm sâu vào xương tủy nhiều thân thần, nên về sau, khi băng, ngài để lại biết bao niềm thương nỗi tiếc cho người đương thời. Chẳng thế, Phan Huy Ích đã viết mấy câu cảm hoài khi gặp Quốc tang352 (thu Nhâm Tý, 1792):
遭際機緣難再得
從今羈旅雁臣孤
Tao tế cơ duyên nan tái đắc!
Tòng kim ký lữ nhạn thần cô!
Dịch:
Duyên may gặp gỡ còn đâu nữa!
Nhờ đậu từ đây, chiếc nhạn côi!
Chính trị
Sau khi từ Phú Xuân (Huế) bước lên cái ngai hoàng đế, vua Quang Trung phải cưỡi ngay voi, huơ ngay kiếm, đánh đuổi giặc Thanh để giữ lấy chủ quyền và lĩnh thổ. Kế đó, mặt Bắc, phải giao thiệp với Tàu, mặt Nam, phải đối phó với chúa Nguyễn, nên trong năm năm trị vì (1788-1792), ngài chưa được mấy lúc rảnh tay lo việc nội trị…
Vả, triều Tây Sơn cầm quyền không được lâu, nên dấu tích chính trị của triều đại ấy, dầu ai thấy xa, nghe rộng đến đâu cũng không thể nhặt lượm tài liệu nào khác ngoài mấy quyển chính sử, ngoại truyện, dã sử của ta và ít trang ký tái của mấy nhà truyền giáo ngoại quốc hồi đó.
Dầu sao mặc lòng, căn cứ vào các mảnh vụn lịch sử, chúng ta ngày nay sinh sau hàng trăm rưởi năm, cũng có thể nhận thấy trong vua Quang Trung có lắm cái sáng kiến và đặc sắc về chính trị cũng như về quân sự.
Khi đã chiến thắng Mãn Thanh về võ lực và ngoại giao, vua Quang Trung một mặt lo đàn áp các phần tử phản động ở trong, một mặt dự bị khôi phục lấy đất Lưỡng Quảng, lẽ tất nhiên ngài phải đặt việc võ bị lên trên hết mọi vấn đề khác.
Một cái ấn tín của nhà binh đời Tây Sơn,
trong có mười chữ này:
率忠良二衛三校中郎將
Suất Trung lương nhị vệ, tam hiệu Trung lang tướng.
Về quân hiệu, ngoài tên ngũ quân Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu như đã thấy tổ chức trong khi đánh giặc Thanh ra, lại có những quân đặt tên là Tả bật, Hữu bật, Ngũ chế, Càn thanh, Thiên cán, Thiên trường, Thiên sách, Hổ bôn, Hổ hầu, Thị lân, Thị loan nữa.
Ở hàng huyện về ngạch võ, có viên Võ phân suất cầm đầu, Binh chế thì có từng Đạo, từng Cơ và từng Đội: lấy Đạo thống Cơ, lấy Cơ thống Đội.
Vì bấy giờ đang mưu đồ công cuộc đánh Tàu, nên trong nước phải dùng đến chính sách cưỡng bách tòng quân: từ 12, 13 đến 60 tuổi, đều phải ra lính hết353.
Một nhà truyền giáo lúc bấy giờ có chép rằng người Nam bấy giờ theo anh em Tây Sơn đi trận, trở nên gan dạ, hùng kiện, một người đương nổi mười người, đánh đâu thắng đấy354.
Năm Quang Trung Nguyên niên (1788), Ngô Thì Nhậm có dâng sớ bằng chữ nho, điều trần về việc nội trị, đại ý nói:
Xưa kia nhà Chu đã thắng nhà Ân, phân phong các anh em gây lấy cái thế như rết trăm chân, giúp đỡ lẫn nhau nên chư hầu không dám đoạt, nhà Chu hưởng nước được 800 năm. Nhà Hán, khi mới đại định, phong ngay đồng lính, gây thành cái hình như hai hàm răng cùng cắn chặt lấy nhau, nên thiên hạ họ phục là mạnh, nhà Hán trị vì lâu đến 400 năm. Nay Bệ hạ (chỉ vua Quang Trung) nếu biết làm theo như thế thì có thể sánh với Chu Hán đấy.
Vua Quang Trung nghe theo, bèn chia phong các con giữ các địa bàn:
Con cả, Quang Toản làm Thái tử.
Con thứ, Quang Thùy làm Khang công, lĩnh Bắc thành, Tiết chế Thủy bộ Chư quân.
Con thứ ba, Quang Bàn làm Tuyên công, lĩnh Thanh Hoa đốc trấn, Tổng lý quân dân sự.
Nhà vua lại sai các huân thần và danh tướng hiệp sức giúp việc cho các hoàng tử đã lĩnh những trọng trấn ấy.
Bộ máy hành chính gồm có những cơ quan này.
Tam công, Tam thiếu, Đại Chủng tể, Đại tư đồ, Đại Tư khấu, Đại tư mã, Đại Tư không, Đại Tư cối, Đại Tư lệ, Thái úy, Ngự úy, Đại Tổng quản, Đại Đổng lý, Đại Đô hộ, Đại đô đốc, Đô đốc, Nội hầu, Hộ giá, Điểm kiểm, Chỉ huy sứ, Đô tư, Đô úy, Trung úy, Vệ úy, Quán quân, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Phụng chính, Thị trung Đại học sĩ, Hiệp biện Đại học sĩ, Thị trung Ngự sử, Lục bộ Thượng thư, Tả hữu Đồng nghị, Tả hữu Phùng nghị, Thị lang, Tư vụ, Hàn lâm…
Mỗi trấn đặt một trấn thủ về hàng võ và một hiệp trấn về hàng văn. Mỗi huyện đặt một văn phân tri, một võ phân suất, một tả quản lý và một hữu quản lý. Công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng. Phận sự của quan võ là coi quản và thao diễn quân lính từ Đạo đến Cơ, từ Cơ đến Đội.
Trong các xã, các thôn thì có xã trưởng, thôn trưởng.
VIỆC XÃ HỘI
Muốn cho tiện sự giao thông ở một địa điểm thích trung (kể theo địa thế nước ta bấy giờ), vua Quang Trung đặt thêm một số đô thành ở trấn Nghệ An, gọi là Trung Đô (sẽ nói kỹ ở phần kiến trúc). Và muốn cho mới mẻ tai mắt thiên hạ, ngài đổi tên Thăng Long làm Bắc thành.
Từ đời Lê, Bắc Hà chia làm 11 xứ (hoặc trấn):
1 – Xứ Nam (Sơn Nam)
2 – Xứ Đông (Hải Dương)
3 – Xứ Bắc (Kinh Bắc)
4 – Xứ Đoài (Sơn Tây)
5 – Xứ Yên Quảng (nay là tỉnh Hải Ninh)
6 – Xứ Lạng (Lạng Sơn)355
7 – Xứ Thái (Thái Nguyên)
8 – Xứ Tuyên (Tuyên Quang)
9 – Xứ Hưng (Hưng Hóa)
10 – Xứ Thanh (Thanh Hoa)
11 – Xứ Nghệ (Nghệ An)
Đến triều Quang Trung, ngoài chín xứ để yên như cũ, có chia lại hai xứ Sơn Nam và Thanh Hoa (1788)356.
Xứ Sơn Nam chia làm hai trấn: phía trên xứ ấy gọi là Nam thượng hoặc Thượng trấn; phía dưới giáp biển gọi là Nam hạ hoặc Hạ trấn. Trước kia, phố Hiến là lỵ sở của Sơn Nam, đến bây giờ lỵ sở Hạ trấn đóng ở Vị Hoàng bên sông Nhị, cách dưới phố Hiến vài dặm; còn lỵ sở Thượng trấn thì đóng ở Châu Cầu (nay thuộc Hà Nam), cách phía dưới kinh đô độ hai mươi dặm, ở ngay bên đường cái quan ăn thông từ Bắc vào Nam Hà357.
Xứ Thanh Hoa cũng chia làm hai: Về mặt Bắc gọi là Thanh Hoa ngoại; về mặt Nam gọi là Thanh
Hoa nội358.
Mỗi xứ chia làm nhiều phủ, mỗi phủ chia làm nhiều huyện, mỗi huyện chia làm nhiều tổng và mỗi tổng chia làm nhiều xã. Tựu trung có nhiều xã lại chia ra từng thôn359.
Còn kinh đô mà xưa ta gọi là Kẻ Chợ thì gồm có một phủ, hai huyện, mười tám phường360.
KIẾN TRÚC
Từ khi còn làm Đại nguyên súy Tổng quốc chính Bình vương, Nguyễn Huệ đã để tâm đến việc lập tại Nghệ An một kinh đô mới. Vì ngài cho rằng, đối với địa thế nước ta hồi ấy, Nghệ An ở vào khoảng giữa đất nước, đạo lộ thích quân và là chỗ đất rau rốn của tổ tiên ngày trước.
Từ trước, ngài đã truyền bảo La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp về Nghệ chọn đất dựng kinh đô cho kịp kỳ ngài về ngự. Nhưng La Sơn phu tử chưa làm xong, nên ngài giá hồi Phú Xuân tạm cho sĩ tốt nghỉ sức.
Đến ngày mồng 1 tháng sáu năm Mậu Thân (1788) trước khi lên ngôi Hoàng đế, ngài lại sai thảo chiếu giục Nguyễn Thiệp làm việc ấy. Ý ngài muốn cắm đất làm tân đô ấy ở vào khoảng chỗ dân cư, phía sau Phù thạch hành cung, nhưng gần về mạn núi. Nếu không thế thì cho Nguyễn Thiệp được tùy tiện mà chọn định, miễn là nội ba tháng phải làm xong361.
Sau khi nhận được tờ chiếu ấy, Nguyễn Thiệp thì xem đất, trấn thủ Thận thì đứng đốc suất quân lính các đạo đánh đá ong, thợ thuyền các hiệp xây cất doanh tác, rồi chẳng bao lâu, dưới chân núi Kỳ Lân ở Nghệ An, đồ sộ nổi lên một khu nội thành, trong có long lâu ba từng, điện Thái Hòa hai hành lang để phòng có lễ triều hạ. Thật xứng đáng với cái tên mới mẻ đẹp đẽ là Phượng Hoàng Trung Đô hoặc Trung kinh Phượng Hoàng thành.
Về việc đổi đóng đô ở Nghệ An này, vua Quang Trung có sai Ngô Thì Nhậm viết một bức thư ngoại giao gửi cho Lưỡng Quảng Tổng đốc Phúc Khang An bày tỏ duyên cớ. Đại ý nói: Nước ta từ Lý, Trần về sau đều đóng đô ở Thăng Long cả. Gần đây vượng khí ở đấy đã tan hết rồi. Bấy giờ bờ cõi nước ta, về phía nam, mở rộng hơn trước. Sự đóng kinh đô chỉ có Nghệ An là chỗ đất vừa vặn ở giữa, nên đã chọn nơi núi Phượng Hoàng ở Nghệ đặt làm Trung đô rồi. Từ nay phàm các công văn đi lại, đường xá xa hơn Thăng Long gấp bội, vậy mong bên Tàu lượng thứ cho cái lỗi chậm trễ362.
THUẾ KHÓA, NÔNG CHÍNH
Hồi còn nhà Lê, nhân dân phải đóng một thứ thuế xâu dịch gọi là “điều tiền”. Vì nhà Lê phỏng theo cái phép cố định thời xưa, có đánh thứ thuế ấy. Rồi hễ có những việc xâu dịch công tác thì lấy tiền công ra thuê mộ người làm.
Đến triều Quang Trung, nhà vua thấy quốc gia mới khai sáng, muốn rút bớt xâu thuế để nới nhẹ cho dân, bèn bãi bỏ cái phép đánh thuế “điền tiền363” đó.
Từ năm Mậu Thân (1788), trong nước gặp lúc loạn ly, lại bị quân Thanh kéo sang chà xát giày đạp, gia dĩ luôn năm mất mùa, nhân dân phần vì cơ cận, phần vì dịch lệ, chết đến 7, 8 phần 10.
Trước tình hình ấy, nhà vua phải làm một việc quyền nghị: đánh thuế vào các tư điền để lấy gạo lúa.
Bấy giờ đinh thiểu, điền đa, ai còn sống lại thường phải đóng nặng thuế điền, vì thế nhiều nhà giàu đến phải bỏ ruộng không nhận.
Xem trong bài chiếu “Khuyến nông” như có chép trong tập Hàn các anh hoa của Ngô Thì Nhậm, đủ thấy vua Quang Trung bấy giờ chú trọng vào hai việc:
1. Khuyến khích canh nông.
2. Chăm lo cho nhân dân sinh tụ đông đảo.
Từ khi binh lửa luôn năm, lại thêm vào đấy những nỗi cơ cận, nhân dân siêu dạt, đồng ruộng bỏ hoang, nên thực số đinh điền bấy giờ không bằng 4, 5 phần mười thuở trước.
Ngài bèn ra lệnh:
Phàm những dân nào trước đó kiều ngụ tha phương, trốn tránh lao dịch hoặc vì có thê hương mẫu quán mà đến ở, hoặc vì đi buôn bán làm ăn mà ngụ cư, hễ đã vào làng ở sở tại được từ ba đời trở lên thì mới cho ở, còn ngoài ra bắt về bản quán hết thảy, chứ biệt xã không được chứa chấp. Những ruộng công, ruộng tư đã trót bỏ hoang, nay đều cho về nhận lấy cày cấy, chứ không được bỏ bê trễ, để đến nỗi số ruộng thực khẩn phải chịu khống thuế mãi.
Các sắc mục, các xã trưởng và các thôn trưởng sở tại phải xét số đinh thực tại có bao nhiêu suất, số dân siêu dạt mới về được bao nhiêu suất, rồi xem số thực điền đã thực khẩn được bao nhiêu mẫu, còn số hoang điền mới khai khẩn được bao nhiêu mẫu, đều phải đăng vào sổ bộ, nộp lên các viên phân suất, phân tri ở huyện mình để họ chuyển đệ lên triều đình, triều đình sẽ phái quan khâm sai đi khám lại cho đúng sự thực, bấy giờ mới sẽ liệu định việc bổ thuế cho
công bằng.
Nếu xã nào cứ chứa những người ngụ cư mà không bắt họ phải quay về nguyên quán, nếu những người trốn tránh ấy cứ lần lữa không chịu về, và nếu ai biết chuyện mà cáo tỏ ra thì những sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng sở tại và những kẻ trốn tránh ấy đều phải trị tội cả.
Xã nào ruộng hoang đã đến hạn mà vẫn chưa nhận lấy khai khẩn thì cứ do viên sắc và bộ hạng xã ấy phải chịu trách nhiệm về việc đóng thuế ruộng công chiếu theo ngạch thuế điền cũ mà nộp gấp bội.
Ruộng tư một khi đã sáp nhập làm ruộng công thì thuế đóng cũng như ngạch thuế công điền.
Sở dĩ ban ra cái mạng lệnh ấy, là vì nhà vua muốn hạng lưu dân quay về làng cũ, chăm việc canh nông, đừng lười biếng để hại đến cuộc mưu sinh, ngõ hầu nhà vua cùng trăm họ được hưởng cái vui đông đúc, giàu có, thịnh vượng.
Sau hồi chiến tranh, sổ điền không được minh bạch: hoặc ruộng bỏ hoang mà vẫn phải chịu thuế hoặc ruộng xấu mà vẫn phải đóng thuế vào hạng thượng đẳng điền; hoặc kẻ cường hào hay tụi Thanh kiều, nhân dịp hỗn quân hỗn quan trong lúc Tôn Sĩ Nghị tiến đóng Thăng Long, bá chiếm của hạng yếu bóng, lép vế. Thành thử, về việc hộ, hay có lắm chuyện rắc rối vì ruộng đất.
Để giải quyết vấn đề về địa chính rất phức tạp ấy, năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung hạ chiếu bảo trong nước làm lại sổ điền. Hai văn thần là Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích đều tán thành việc này.
Ruộng tư cũng như ruộng công, chia làm ba hạng, hạng nào có thuế riêng hạng ấy:
Ruộng công:
Hạng nhất: mỗi mẫu nộp thuế 150 bát364 thóc.
Hạng nhì: mỗi mẫu nộp thuế 80 bát thóc.
Hạng ba: mỗi mẫu nộp thuế 50 bát thóc.
Cả ba hạng mỗi mẫu phải ra một tiền quý về thuế thập vật và 50 đồng kẽm về thuế khoán kho.
Ruộng tư:
Hạng nhất: mỗi mẫu nộp thóc thuế 40 bát.
Hạng nhì: mỗi mẫu nộp thóc thuế 30 bát.
Hạng ba: mỗi mẫu nộp thóc thuế 20 bát.
Cả ba hạng đều phải ra mỗi mẫu là 30 đồng kẽm tiền khoán kho. Còn tiền thập vật cũng như lệ ruộng công kể trên.
Ngoài thuế ruộng ra, triều Quang Trung theo lệ cũ cũng đánh những thứ thuế như dung tiền, cước mễ.
Vụ mùa tháng mười năm Quang Trung thứ 4 (1791), thóc lúa các nơi đều được phong đăng cả. Năm phần mười trong nước đã khôi phục được cái quang cảnh thái bình thuở xưa.
Sở dĩ xã hội bấy giờ chóng đi đến thịnh vượng là nhờ ở cách tổ chức lương thiện và ở chính sự hậu sinh (nhân hậu và hậu sinh). Hễ năm nào gặp nạn đại hạn hay hồng thủy thì lại ra ơn đại xá; hễ kẻ nào phạm tội nhẹ hoặc phụ khiếm mà trốn đi thì đều được bỏ qua, không xét hỏi nữa365.
VIỆC HỌC VIỆC THI
Theo như lời trong “Lập học chiếu”366 thì sau khi đại định, vua Quang Trung cũng rất tỏ ý sùng đạo Nho, lưu tâm yêu kẻ sĩ, mong được những tay có thực tài ra giúp việc quốc gia.
Tại các dân xã đều cho lập nhà xã học: chọn trong đám nho sĩ hàng xã lấy người có học, có hạnh, đặt làm xã giảng dụ để dạy những học trò trong hàng xã mình.
Các đền từ ở các phủ vẫn để cho dân bản hạt nhận giữ, nhưng dùng chung làm trường học hàng phủ, triều đình sẽ bổ một viên phủ huấn đạo đến dạy học tại đó.
Gặp khoa thi hương thì lựa lấy những hương tú tài; hạng ưu được thăng vào quốc học; hạng thứ, cho vào phủ học.
Đối với các ông cống triều Lê, phàm những người tại quán chưa nhậm chức gì, nhà vua cũng muốn dùng họ cả. Ngài có ban chiếu bảo họ đến cửa khuyết đình để lựa bổ sung những chức như huấn đạo, tri huyện. Còn các cựu nho sinh và các cựu sinh đồ đều phải đợi có khoa thi thì thi: hạng ưu được đỗ; hạng liệt phải bãi về xã học.
Đến hạng sinh đồ mua bằng ba quan367 ở triều Lê trước thì đều bị loại về hạng “dân” hết thảy; cũng phải chịu giao dịch như dân thường.
Chữ viết đời Quang Trung
(Tám chữ “văn học, chính thuật, Quang Trung ngũ niên” này là do tác giả tô theo trong đạo sắc của Phan Huy Ích do vua Quang Trung phong ngày 18 tháng tư nhuận, năm Quang Trung thứ 5, 1792).
Ngoài những việc dùng chữ nho, sùng đạo Nho, trọng kẻ sĩ ấy ra, vua Quang Trung còn có cặp mắt trông xa và kiến thức cao vút, đã biết sớm quý trọng tiếng mẹ đẻ, cho nó cũng có một địa vị ở đương thời để mong nhờ nó, tư tưởng dễ được truyền bá, giáo dục dễ được phổ thông. Chỉ một việc trọng chữ Nôm này, đời sau cũng đủ tưởng thấy cái óc sáng kiến của nhà chính trị thiên tài ấy.
Thấy Nguyễn Thiệp, danh sĩ Nghệ An, học rộng, đạo cao, đáng làm mực thước cho hậu học, nhà vua nhiều lần sai đem vàng lụa làm sính lễ, mời Thiệp ra giúp chính sự. Song, ngoài việc mang chiếc bánh chưng, góp chút công vào việc đánh Tôn Sĩ Nghị ra, Thiệp không chịu xuất chính, nên bao lần trả lại các sính nghi.
Dẫu vậy, không chịu bỏ phí nhân tài, vua Quang Trung có nhờ Nguyễn Thiệp dịch Kinh Truyện ra tiếng Nôm để tiện về truyền bá đạo lý Khổng, Mạnh giữa vòng dân chúng.
Vâng mạng vua Quang Trung, Thiệp đã làm được một ít sách, nhưng chưa xong trọn thì vua đã thăng hà! Rồi những dịch phẩm bằng Nôm ấy đều bị tịch thu, thiêu hủy, xóa nhòa theo dấu tích của triều đại Tây Sơn!
Cũng một ý muốn dùng Nôm làm lợi khi để mở trí dân ấy, ngay từ khi làm Đại Nguyên súy Tổng quốc chính Bình vương, ngài đã đem tiếng mẹ đẻ ứng dụng trong công văn như ở tờ chiếu gửi cho La Sơn Phu tử.
Chiếu truyền La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp khâm tri:
Ngày trước ủy cho Phu tử về Nghệ An tướng địa làm đô cho kịp kỳ này hồi ngự. Sao về tới đó chưa thấy đặng việc nhỉ? Nên hãy giá hồi Phú Xuân kinh hữu tức sĩ tốt.
Vậy chiếu ban hạ phu tử tảo nghi dữ trấn thủ. Thận công sự kinh chi doanh chi tướng địa tu đô tại Phù Thạch hành cung sảo hậu cận sơn. Kỳ chính địa phỏng tại dân cư chi gian, hay là đấu cát địa khả đô duy phu tử đạo nhãn giám định, tảo tảo tốc thành. Ủy cho trấn thủ Thận tảo lập cung điện kỳ tam nguyệt nội hoàn thành, đắc tiện giá ngự. Duy Phu tử vật dĩ nhàn tốt thị Khâm tai! Đặc chiếu!
Thái Đức thập nhất niên (1788) lục nguyệt, sơ nhất nhật”368
Hiện nay người ta còn truyền tụng hai câu trong chiếu “cầu hiền” của triều Tây Sơn:
Hễ cha mô dù có chí giỏi giang,
Đù mẹ đứa chẳng suy tâm ủy dụng
Lại tục truyền một dật sự về ông nghè Mọc (?) ở triều Quang Trung:
Mới đỗ Tiến sĩ, ông Mọc và ông Đào (?) ai cũng cậy mình hay chữ, không đằng nào chịu nhường đằng nào. Việc tranh giành cãi cọ ấy phải chờ đến lệnh phân xử của nhà vua.
Vua Quang Trung bèn hạ chỉ phán bảo: “Sai lính đánh một hồi trống, mỗi người làm một bài phú, hễ dứt hồi trống mà ai xong trước thì là người hay chữ.” Đào làm bài Nghè Đào Phú, Mọc làm bài Nghè Mọc Phú.
Trong khi nghè Đào mới được một đôi câu (trong đó câu kỳ lạc đào đào) thì nghè Mọc đã ứng khẩu làm xong bài phú theo cái đầu đề tên mình:
Hữu nhất nhân hề: dẳn đùi ếch, vểnh râu trê
Giầu vỏ quạch, cái môi thâm xịt
Rượu hằng dê (?) con mắt đỏ hoe
Không rằng không, có cũng rằng không nghề ngôn chuyện ai nào dám địch;
… (Lược. Vì vế này nói nhá)
Thử sở dĩ trước là thằng Mọc, nay đỗ ông nghè giả dư!
Đó chắc là những chuyện chế giễu do mấy nhà trào phúng Bắc Hà ở đương thời hoặc đầu triều Nguyễn bịa đặt ra để mỉa mai cá thể vua Quang Trung không giỏi chữ Hán hoặc để công kích cái chính sách nhà vua bấy giờ dùng văn Nôm trong chiếu, biểu, thi, phú… mà, theo ý họ, là một lối “nôm na mách qué” không nhập nhã dưới những con mắt đang thiên trọng Hán văn.
Nhưng nhân hai câu chiếu văn và chuyện dật sự trên đây, ta lại xét đến nhiều bài văn ở triều Cảnh Thịnh (1793-1800), Bảo Hưng (1801-1802), tuy là quân quốc trọng sự mà cũng dùng Nôm, như “Canh Thân (1800) xuân, nghĩ Diệu quận quân thứ quốc âm hiểu văn”369, “Dụ nhị súy quốc âm chiếu văn”370 và “Kỷ Mùi (1799) đông nghĩ ngự điện Võ Hoàng hậu tang”371… thì đủ biết sự dùng quốc âm trong văn đường bệ đã hầu thành “gia sáo” và thói quen của nhà Tây Sơn rồi. Vậy nay có thể quả quyết: vua Quang Trung đã mạnh bạo đánh đổ cái thành kiến, cái tập quán hàng ngót hai nghìn năm chỉ quý Hán văn, không dám trọng dụng Việt ngữ.
Tương truyền rằng: mỗi khoa thi, cứ kỳ thứ ba (Đệ tam trường), nhà vua buộc các sĩ tử phải làm thơ phú bằng tiếng mẹ đẻ.
Sau khi xem xét bài biểu của Nguyễn Thiệp nói về ba điều quân đức, dân tâm và học pháp372 nhà vua có ý muốn chỉnh đốn lại việc học, nên qua năm Quang Trung thứ 5 (1792) định thiên đô về Nghệ An: dựng nhà Sùng chính thư viện, cử Nguyễn Thiệp làm Viện trưởng, giữ việc giáo dục quốc dân. Nhưng, cái “thai” thư viện đó không được nhìn thấy ánh sáng, là vì chưa kịp thực hiện thì vua Quang Trung đã băng.
ĐỐI VỚI TÔN GIÁO
Cũng như các triều đại khác, triều Quang Trung cũng tôn sùng đạo Nho, đạo Phật và đạo Bách Thần.
Có điều rất đáng chú ý, khi Tây Sơn cầm chính quyền, đạo Gia tô cũng được tiến hành tấn tới. Chứng cớ ấy ta thấy ở câu này trong bức thư của Giáo sĩ Le Roy gửi cho Blandia, đề ngày 18 juillet 1793: “Từ khi nhà Tây Sơn lên làm chủ, tôn giáo được tấn bộ”373.
Nhà vua có ý muốn chấn chỉnh Phật giáo trong nước, nên đối với những sư nào không xứng đáng thì bắt hoàn tục làm ăn; chỉ cho những tăng nhân nào có đạo đức, có học thức mới được trụ trì ở chùa chiền để quy Phật374.
Ngài lại muốn cho sắc tướng chốn thuyền môn được trang nghiêm, nên xuống chiếu bắt bỏ bớt những chùa nhỏ ở các làng, truyền đem gỗ gạch làm chung ở mỗi phủ, mỗi huyện một ngôi chùa rất to tát, rất đồ sộ, rất đẹp đẽ375.
Ngoài ra, triều Quang Trung cũng làm cái việc phong sắc cho bách thần theo như lề lối từ đời Lý Cao Tông (1176–1210) truyền lại376:
Ngày 22 tháng sáu, năm Quang Trung thứ 5 (1792) triều đình có ban sắc cho vị thần là Đỗ công Đại vương, trong có hai vế đối:
九服清怡共樂太平之景象
三靈和晏永祈申錫之庥禎
Cửu phục thanh di, cộng lạc thái bình chi cảnh tượng.
Tam linh hòa yến, vĩnh kỳ thân tích chi hưu trinh.
Dịch nghĩa:
Lặng trong chín cõi, vui chung cảnh đẹp thái bình.
Yên ổn ba linh377 ban mãi phúc lành rộng rãi.
Trên tấm sắc mực đen giấy vàng này có đóng cái ấn son đỏ đề bốn chữ triện “hòa nhu chi bảo” (和柔之寶)378.
TÍN BÀI
Tuổi còn trẻ, chí đang hăng, tiền đồ còn đầy hy vọng, vua Quang Trung quyết mài gươm, thét lửa một phen để làm thực hiện cái chí cao xa bấy lâu vẫn ôm ấp.
Để đi đến con đường đánh Thanh, ngài từ khi lên cầm quyền chính, hết sức chấn chỉnh vũ bị, sửa soạn chiến tranh.
Sổ đinh bấy giờ, sau bao cơn trong nước loạn ly, không được minh bạch, nhất là từ miền Linh Giang (sông Gianh) ra ngoài Bắc, dân số ẩn lậu còn nhiều.
Vả, bấy giờ nhà vua ngày đêm cùng các tướng tá mưu việc Bắc phạt. Ai nấy đồng thanh: “Việc cần kíp ngày nay là phải biết đúng số dân để tiện việc tuyển lính.” Ngài lấy làm phải, nên tháng sáu, năm Quang Trung thứ 3 (1790), hạ chiếu sai các trấn phải đốc các dân xã cải tu sổ đinh, chia làm bốn hạng:
1) Hạng vị cập cách: từ 9 đến 17 tuổi.
2) Hạng tráng: từ 18 đến 55 tuổi.
3) Hạng lão: từ 56 đến 60 tuổi.
4) Hạng lão nhiêu: từ 60 tuổi trở lên.
Để tránh sự ẩn lậu, nhà vua sai chiếu theo sổ đinh, phát cho mỗi người một cái thẻ, tên gọi “Tín bài”, trong in bốn chữ lớn “Thiên hạ đại tín”379.
Trên mặt thẻ ở chỗ hồi văn bốn bên thì đề tên, quê quán và in đầu ngón tay tả của người có thẻ để làm tin.
Tín bài ấy ai cũng phải đeo, gặp người xét hỏi thì phải đưa trình. Ai không có thẻ, ấy là lậu dân, hoặc phải bắt xung làm phòng quân, hoặc phải đem xuống tàu, cho đi những nơi đất rộng miền rừng núi. Trách nhiệm ẩn lậu ấy, tổng trưởng (chánh tổng), lý trưởng phải chịu.
ĐÚC TIỀN ĐỒNG
Sau khi lên ngôi, vua Quang Trung có cho đúc một thứ tiền bằng đồng để tiêu dùng trong nước.
Hồi năm 1937, một nhà từ thiện ở làng Cót (trước thuộc Hà Đông, nay thuộc Hà Nội) có đứng lên xây một cái cầu bắc qua sông Tô Lịch. Khi đào lòng sông để xây móng chân cầu, người ta có nhặt được mấy đồng tiền đồng về đời Quang Trung. Cứ như mấy đồng tiền ấy tôi đã được thấy (xin coi hình vẽ), thì khuôn khổ cũng bằng những đồng tiền đồng “Gia Long”: giáp biên có cái gờ theo vành tròn, gần lỗ có cái gờ theo hình lỗ vuông. Mặt trái thì trơn, có bốn hình vành cung day lưng vào lỗ vuông, mặt phải thì có bốn chữ (光中通寶) (Quang Trung thông bảo).
Năm Quang Trung thứ 4 (1791) có lẽ vì dự bị việc làm binh khí để đánh Tàu và đúc tiền đồng để rộng tài nguyên cho dân gian, nên nhà vua hạ lệnh thu hết các thứ đồng tốt trong nước.
PHÁ LỆ CỐNG NGƯỜI VÀNG
Khi Việt – Thanh đã giảng hòa, Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An có đưa thư bảo vua Quang Trung rằng: “Mỗi khi thay triều đổi họ, nhà nào bên Nam cũng cống người vàng để làm tạ lễ, thì nay Tây Sơn cũng nên sắm người vàng để đưa sang Thanh.”
Nói đến lệ cống người vàng380 ta nên xét kỹ lịch sử nó đã. Các bạn đọc có rõ những nỗi khó khăn trọng đại của việc này ra sao, bấy giờ mới biết cái công phá được lệ cống người vàng là vĩ đại, đáng đời đời ghi nhớ.
Nguyên xưa Đức Lê Lợi giận nhà Minh tàn ngược, nổi lên từ núi Lam Sơn: Ròng rã mười năm trường (1418-1428) mới đuổi được giặc Minh về nước, ban bố bài cáo Bình Ngô. Trong khi tấn công giặc Minh ấy, Đại tướng Lê Nhân Chú381 bắt sống được An Viễn hầu Liễu Thăng ở Chi Lăng (thuộc Ôn Châu, trấn Lạng Sơn), ngày 18 tháng chín, năm Đinh Mùi (1427). Rồi viên tướng Minh ấy phải đem thân đền trả cái nợ tàn khốc vô nhân đạo của đồng bào họ đã ngược đãi người Nam.
Tuy đã dẹp yên giặc Minh, nhưng nhân dân còn mang một vết thương rất nặng vì bao năm tranh chiến. Muốn chữa cho họ mau lành, vua Lê Thái Tổ (1428-1433) có làm mấy việc quyền nghi trong lúc điều đình với người Ngô, không nghe quốc dân xui giục về việc thẳng tay giết hết giặc Minh cho hả lòng bấy nay căm giận, nên khi đã ký hòa nghị rồi, Ngài tha cho bọn quan lại, quân dân nhà Minh được về Tàu đến hơn 86.000 người, lại cấp cho bọn Vương Thông tướng Minh, hơn 500 chiếc thuyền và vài ngàn cỗ ngựa để cho toàn hoạt về nước. Đó đúng như trong bài Bình Ngô đại cáo đã nói: “Ta muốn cho được tuyền quân là hơn, và mong cho dân được yên nghỉ” (dịch).
Vì ý nghĩ ngài đã muốn như vậy, nên phàm các việc trang trải với người Minh, ngài phải buộc lòng làm quyền biến cho được việc một lúc. Chính ngài chẳng những tạm bợ trong việc lập Trần Cao, người giả danh là dòng dõi họ Trần, để cho mau êm chuyện ngoại hoạn, mà ngài lại còn phải quyền nghi làm việc cống người vàng cho nạn can qua khỏi kéo dài mãi.
Nguyên từ năm Bính Ngọ, niên hiệu Bình Định vương thứ 9 (1426), vua Lê chến đấu với giặc Minh đã ngót mười năm ròng rã rồi, lòng ngài bấy giờ chỉ mong sao đuổi quân Ngô ra khỏi bờ cõi nước nhà sớm được ngày nào thì nhân dân sớm thoát cái nạn lầm than ngày ấy.
Đến tháng mười một năm đó (Bính Ngọ, 1426), Vương Thông nhà Minh sau khi trải qua bao trận thất bại, có ý giảng hòa, rút quân kéo về, nhưng không vin vào danh nghĩa gì để bãi binh được. Thông dựa ngay vào lời chiếu ở đầu niên hiệu Vĩnh Lạc (1403-1424) bảo tìm lập con cháu họ Trần, bèn ngầm khuyên dỗ vua Lê làm việc ấy, bắt đắc dĩ ngài phải dằn lòng ưng thuận.
Trước đó, có Hồ Ông trốn ở nhà Cầm Quý, thổ quan ở Ngọc Mạ (nay là phủ Trấn Định thuộc Nghệ An) mạo xưng là cháu ba đời vua Trần Nghệ Tông (1370-1372), vua Lê bèn sai đón lập Hồ Ông làm Trần chúa, đổi tên là Trần Cao, kỷ nguyên là Thiên Khánh. Còn ngài thì xưng là Vệ quốc công.
Sau khi được đứng lên làm bồ nhìn, Cao “ngự” ở núi Không Lộ thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây dưới quyền giám chế của Lê Quốc Hưng do vua Lê sai phái382.
Ngay hồi ấy, vua Lê đã thay Trần Cao, đưa tờ biểu sang nhà Minh xin phong cho Cao, nhưng nhà Minh cứ làm lơ, không nói sao cả. Qua năm Đinh Mùi niên hiệu Bình Định vương thứ 10 (1427), vua Lê lại sai sứ bộ Lê Thiếu Dĩnh383 đem biểu văn384 đi với nhân viên do Vương Thông cắt cử cùng sang Yên Kinh để giao thiệp về việc cầu phong này.
Kèm với biểu văn ấy có những phương vật này:
1 pho người vàng thế thân (trong Khâm định Việt sử quyển 14, tờ 24 chép là hai pho người vàng thế thân).
1 cái lư hương bằng bạc;
1 cái lọ bạc để cắm hoa, 300 tấm lụa tiến (thổ quyên);
14 đôi ngà voi;
20 bình đựng thứ hương ướp áo, 30.000 nén hương vòng;
24 khối trầm thơm385.
Sau, Lê mất, nhà Mạc (1527-1593) sợ Minh hỏi tội, có đúc người vàng sang cống để làm của lót. Vả, vì muốn “hối lộ” thật nhiều cho Minh, họ Mạc chắc phải đúc người vàng to hơn và nặng hơn thuở nhà Lê trước.
Năm Bính Thân, hiệu Quang Hưng thứ 19 (1596), vua Lê Thế Tông (1573-1599) bấy giờ tuy đã khôi phục Thăng Long386, nhưng còn bị người Minh vặn vẹo là không phải thực dòng dõi họ Lê, nên ngài phải thân lên ải Nam quan để cùng người Minh dự việc hội khám.
Người Minh trùng trình không đến họp, yêu sách người vàng… (Khâm định Việt sử, quyển 30, tờ 15)
Rồi vua Lê phải sai lũ Đỗ Uông đem hai pho người vàng, người bạc và cống lên Lạng Sơn để chầu chực đưa cống phẩm, song lại bị người Minh thoái thác bằng lời văn hoa giả dối (Khâm định Việt sử, quyển 30, tờ 18b -19b).
Qua năm Quang Hưng thứ 20 (1597), lại sai Phùng Khắc Khoan387 sang sứ Tàu để giao thiệp với người Minh về việc cầu phong. Cũng nhờ ông Phùng là người có tài ngoại giao, nên mới nói êm được việc người Minh hạch sách người vàng lớn, nhỏ, nặng, nhẹ.
Về việc này, trong truyện Phùng Khắc Khoan ở loại Nhân vật chí sách Lịch triều hiến chương có chép:
… Đinh Dậu năm thứ 20, (ông) vâng mạng đi sứ. Bấy giờ người Minh ăn của lót của mầm độc họ Mạc, không chịu dung nạp ông. Khắc Khoan chầu chực, có đưa lên xoái ty, hết sức nói họ Mạc là kẻ cướp ngôi, tội trạng đã rành rành. Nay con cháu nhà Lê gõ cửa quan, chờ mạng lịnh. Nếu Thiên trào phò Mạc nén Lê thì là về hùa với kẻ gian, làm hại người ngay, sao tỏ nghĩa lớn với thiên hạ giữ danh giáo cho muôn đời được nữa! Người Minh khen, để cho ông vào trong cửa ải. Ông bèn được trảy tới kinh đô (nhà Minh).
Khi đã tới Yên kinh, Lễ bộ đường có trách ông về việc người vàng thế thân không làm đúng y mẫu cũ, họ bèn bắt ông ngừng lại, chứ không để cho ông vào chầu. Khắc Khoan cãi: họ Mạc cướp lấn thì danh là nghịch, nhà Lê khôi phục thì danh là thuận. Họ Mạc được theo hình thức làm người vàng thế thân đã là hưởng ơn may mắn lắm rồi. Đến như họ Lê đời đời làm cống thần thì hình dáng người vàng đã có mẫu sẵn ở đó. Nay nếu vin lấy họ Mạc làm lệ thì sao nêu rệt được cái nghĩa răn dữ khuyên lành?
Lời trạng của ông được thấu đến tai vua Minh, vua Minh rồi cũng thuận theo cái hình thức của Tiền Lê388. (dịch)
Năm Mậu Tuất, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718) đời vua Lê Dụ Tông (1705-1729), Binh bộ Hữu Thị lang Nguyễn Công Hãng đóng vai chính sứ, sang Thanh cầu phong cho vua Dụ Tông (Khâm định Việt sử, quyển 35, tờ 21b-22b).
Về việc này trong truyện Nguyễn Công Hãng389 ở Tang thương ngẫu lục, quyển trên, tờ 10b-11b có chép:
… Trước kia Thái tổ Hoàng đế đánh người Minh ở núi Mã Yên (thuộc Ôn Châu, Lạng Sơn) chém được tướng Minh An viễn hầu Liễu Thăng. Kịp khi nộp cống khoản, người Minh trách móc bắt đền, phải đúc người vàng để thay thế nó.
... Họ Mạc cướp ngôi, người Minh sai Cừu Loan, Mao Bá Ôn sang đánh. Mạc sợ, lấy người vàng đút lót xin hòa.
Hồi mới trung hưng, nhà Minh vặn hỏi về việc tự tiện giết chết cống thần của Minh là Mạc Mậu Hợp, (nhà Lê) lại phải dùng người vàng để tạ.
Nhân thế, các triều thành ra lệ thường công. Ông (Nguyễn Hãng) xin bỏ đi. Bộ viện (nhà Minh) lại đem việc cũ ấy ra hỏi. Ông nói: “Quốc vương nay giữ cơ nghiệp của tổ tiên, về việc cống hiến, không thiếu thốn gì, còn chuyện thâu thành nạp khoản là chuyện việc cũ thì kẻ sứ thần này không dám biết tới.
Họ lại vặn hỏi về việc Liễu Thăng. Ông nói: “Liễu Thăng là tướng nhà Minh kia. Còn nhà Thanh ta rộng có muôn nước, thế mà lại bo bo đòi của lót để báo thù cho người xưa thì lấy gì khuyên được người ta đến với mình?...” (dịch)
Thế rồi bắt đầu từ Nguyễn Hãng, lệ cống người vàng và lệ cống nước rửa ngọc trai390 mới dừng lại được.
***
Sau khi đi ngược thời gian, xét lại lịch sử, chắc các bạn đã nhận thấy việc cống người vàng là bắt đầu từ đời vua Lê Thái Tổ, qua Mạc đến Lê trung hưng. Tựu trung ở đời Lê Giụ Tông tuy nhờ tài ngoại giao của ông Nguyễn Hãng mà ta tạm thoát được cái “nợ Liễu Thăng” trong một lúc391. Nhưng cái nợ này vẫn còn truyền tử nhược tôn mãi, nên bên ta mỗi một triều đại nào lên, cũng phải “trả nợ đậy” vì yếu thế, lép vế!
Khác hẳn các triều xưa, vua Quang Trung đối với Mãn Thanh, trước đã chiến thắng về quân sự, sau lại chiến thắng về ngoại giao, không khi nào chịu cong lưng gánh cái nợ vô lý và bất công ấy.
Phải, ngài đưa thư phản kháng Phúc Khang An khi viên này lên tiếng yêu sách về việc bắt cống người vàng; ngài thẳng tay cất cái gánh nặng ấy đã mấy mươi đời vẫn chất trên lưng dân Nam, ngài rửa được cái nhục nghìn thu cho lịch sử.
Nguyên văn bức thư ấy, xin trích lục ra dưới đây:
昔陳莫歷代以得罪於中國獻代身金人本國國長起自布衣乘時集事與黎王無有君臣之分其去留在天數向背在人心非有意於黎之國如簒奪者比且前者孫部堂提兵而來本國國長不得已而應之從無侵犯邊境以得罪於上國今承概按陳黎莫貢金人之例是本國國長明正得國反儕於偽莫之科而一念恭順出於畏天事大之誠反與陳擒烏馬兒黎殺柳昇同律本國國長於情有屈不能無望於鈞衡也夫古者諸侯朝見天子或朝于方岳或覲于京師有能來者自來不能親來遣其子弟入侍貴在奉琛執贄上下之情通至於金人替形入朝唐虞三代以及漢唐宋未常有是大人宣佈教聲亦唯以隆古治朝之良法美意令諸下國元明二代之所為事不師古何足效也伏望追繳鈞命免鑄獻金人之事云云392
… Tích Trần, lịch đại dĩ đắc tội ư Trung Quốc, hiến đại thân kim nhân. Bản quốc Quốc trưởng khởi tự bố y, thừa thì tập sự, dữ Lê vương bản vô hữu quân thần chi phận. Kỳ khứ lưu tại thiên số, hướng bội tại nhân tâm, phi hữu ý ư Lê chi quốc như soán đoạt giả tỉ.
Thả, tiền giả Tôn bộ đường (Tôn Sĩ Nghị) đề binh nhi lai, bản quốc Quốc trưởng bất đắc dĩ nhi ứng chi, tòng vô xâm phạm biên cảnh dĩ đắc tội ư Thượng quốc.
Kim thừa khái án Trần, Lê, Mạc cống kim ngân chi lệ, thị bản quốc Quốc trưởng minh chính đắc quốc phản sài ư Ngụy Mạc chi khoa, nhi nhất niệm cung thuận xuất ư úy thiên sự đại chi thành, phản dữ Trần cầm Ô Mã Nhi, Lê sát Liễu Thăng đồng luật, bản quốc Quốc trưởng ư tình hữu khuất bất năng vô vọng ư quân hành dã.
Phù, cổ giả chư hầu triều kiến thiên tử: hoặc triều vu phương nhạc hoặc cận vu kinh sư. Hữu năng lai giả tự lai, bất năng thân lai khiển kỳ tử đệ nhập thị, quý tại phụng sâm, chấp chí, thượng hạ chi tình thông.
Chí ư kim nhân thế hình nhập triều: Đường, Ngu, Tam đại dĩ cập Hán, Đường, Tống vị thường hữu thị!
Đại nhân (Phúc Khang An) tuyên bố giáo thanh, diệc duy dĩ long cổ trị triều chi lương pháp mỹ ý linh chư hạ quốc. Nguyên, Minh nhị đại chi sở vi, sự bất sư cổ, hà túc hiệu dã?
Phục vọng truy hiệu quân mệnh, miễn chú hiến kim nhân chi sự…393
Dịch nghĩa:
“… Xưa, các đời Trần, Mạc vì được tội với Trung Quốc, phải dâng người vàng để thế hình.
Quốc trưởng nước tôi từ bước là một người áo vải, nhân thời thế vùng lên làm việc, đối với Lê vương vốn không có cái vai lứa ai là vua, ai là tôi chi cả. Còn hay hết, là ở số trời; theo hay bỏ, là ở lòng người. Quốc trưởng nước tôi có ý lấy nước của Lê đâu mà sánh với kẻ giành cướp được?
Vả, trước đây, Tổng đốc họ Tôn (Sĩ Nghị) đem binh lính đến. Quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải ứng phó lại, chứ không hề xâm phạm bờ cõi để được tội với Thượng quốc bao giờ!
Nay thấy ngài theo lệ Trần, Lê, Mạc cũ mà bắt cống người vàng, thế thì Quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại, té ra lại phải liệt vào hàng tiếm ngụy như nhà Mạc, mà chút lòng cung thuận ra từ tấc thành sợ trời, thờ nước lớn lại phải chịu chung một luật như nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng ư?
Thế thì kể về tình, Quốc trưởng nước tôi có điều bị ức, không thể không trông ở ngài cân nhắc cho vậy.
Này, xưa kia, chư hầu triều kiến thiên tử: hoặc chực ở phương nhạc, hoặc chầu ở kinh sư. Ai đi được thì tự mình đến, ai không thân đi được thì sai con em vào hầu, chỉ cốt dâng ngọc, thám, tỏ đồ tin, để cho cái tình trên dưới được thông suốt.
Đến như bắt lấy người vàng thế hình vào chầu thì suốt từ Đường, Ngu, Tam đại (Hạ, Thương, Chu) đến Hán, Đường và Tống đều chưa làm thế bao giờ.
Ngài đã rao truyền tiếng tăm giáo hóa của Thượng quốc cũng nên đem phép hay, ý tốt của triều đại thịnh trị ngày xưa mà sai bảo mọi nước dưới, chứ bắt chước làm gì cái việc làm của Nguyên, Minh là việc không học theo cổ ấy?
Mong ngài soi xét, miễn cho sự đúc dâng người vàng…”
Bức thư phản kháng ấy quả có công hiệu. Vua Thanh phải nhượng bộ, rồi tỏ cái ý “bắt chẳng được, tha làm phúc” trong câu thơ này tặng giả vương394 do vua Quang Trung phái sang Tàu:
勝朝徃事鄙金人
Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân!
Nghĩa: “Triều Thanh đây cho việc triều trước bắt cống người vàng là đáng khinh bỉ!”
Thế là vua Quang Trung triều Tây Sơn, một tay cái thế đại anh hùng, một đối tượng để người ta ghi nhớ trong ngày Giỗ trận, đã làm được một việc ngoại giao thắng lợi cũng như về mặt quân sự, đã hoàn toàn thắng lợi ở xuân Kỷ Dậu (1789).
ĐÒI LẬP NHA HÀNG Ở TÀU
Muốn mở mang về kinh tế, vua Quang Trung chú trọng vào việc buôn bán, hết sức khuếch trương việc mở “thị trường”.
Vua phái người sang điều đình với Mãn Thanh xin mở chợ buôn bán ở Bình Thủy quan thuộc tỉnh Cao Bằng và Du Thôn ải thuộc tỉnh Lạng Sơn, nhưng miễn đánh thương thuế.
Vua Quang Trung lại xin lập nha hàng ở phía Nam Ninh thuộc tỉnh Quảng Tây, mục đích cốt để dân Nam sang đó buôn bán làm ăn, khiến đường thương mại ngày một thuận lợi phát đạt.
Nhưng, muốn để bảo vệ tính mệnh tài sản cho Việt kiều sang Tàu doanh nghiệp, vua Quang Trung yêu cầu nhà Thanh cho ta đem quân sang đóng tại chỗ nha hàng sẽ lập ấy.
Những điều yêu sách đó đều được vua Thanh nhất nhất ưng thuận cả.
Sau cám ơn người Thanh, vua Quang Trung có sai gửi thư cho Lưỡng Quảng Tổng đốc Phúc Khang An, chỗ nói về việc này đã được chuẩn y, nguyên văn có mấy câu như: “… Khai quan thông thị, sử bách hóa vô ủng, dĩ lợi dân dụng”395. Nghĩa là mở cửa ải, thông buôn bán, khiến các hàng hóa không ngừng đọng để làm lợi cho dân dùng.
YÊU SÁCH NGỰA TỐT CỦA TÀU
Mùa thu năm Canh Tuất (1790), vua Quang Trung phái giả vương sang Tàu, được vua Thanh tặng tiễn rất hậu. Tựu trung có thứ ngựa từ tàu ngựa vua Thanh ban ra là giống ngựa rất hay được vua Quang Trung rất vừa ý. Theo như trong tờ Khất mã biểu (biểu xin ngựa) đời Tây Sơn đã nói, thì con ngựa được tặng từ năm Canh Tuất kia sau vì không chịu thủy thổ nên đã hỏng mất. Rồi muốn được thứ ngựa hay ấy của nhà Thanh, vua Quang Trung lại sai viết sang Tàu để “xin” nữa. Nói nhún rằng “xin”, kỳ thực cũng là một lối “yêu sách khéo”. Trong bài biểu có câu:
恕其冒妄干求之罪
錫以權竒馳騁之良
… Thứ kỳ mạo vọng can cầu chi tội
Tích dĩ quyền kỳ trì sính chi lương…
Nghĩa là:
Thứ cho cái tội cầu bậy xin liều
Ban cho thứ ngựa giống hay, chạy khỏe...
ĐÒI ĐẤT BẢY CHÂU THUỘC HƯNG HÓA XƯA
Từ hồi cuối Lê, 6 châu thuộc Hưng Hóa và ba động thuộc Tuyên Quang đều chìm ngập dưới bàn tay “xẻo xén” của tụi thổ tư nhà Thanh. Những đất bị sáp nhập bản đồ Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) ấy không được may mắn trở về chủ cũ Đại Việt, mặc dầu ta đã đòi hỏi nhiều lần.
Nay, vua Quang Trung, không nỡ để một tấc đất phải luân vong, đáp theo tiếng gọi của thần Nghĩa vụ, mạnh bạo đưa tờ biểu nhờ viên Tổng đốc Lưỡng Quảng chuyển đạt lên vua Thanh, yêu cầu chia lại bờ cõi cho minh bạch.
Nguyên văn tờ biểu đòi đất ấy như sau đây:
請還興化七州地表
臣仰荷天恩賜履南服欽奉御詩訓以保守疆界世傅子孫之道夙夜祇惧奉以守 邦今惟臣起自布衣幸有國邑尺土寸民皆大皇帝之賜豈敢以彼疆此界塵瀆至尊祇以交南分土叨忝作屏四封所抵具在寶書
臣國一帶沿邊西北接內地臨安廣南開化三府自前莫敬寬以牛羊蝴蝶普園三峒內投欽奉聖祖仁皇帝賜莫俘于前黎復還其地乃在康熙二十八年事其後土目韋福廉又以其地內屬事已經乆斷以本國賭祝河為界乃在興化宣光邊地經前任雲貴督部鄂爾泰遵旨豎碑自賭祝河以西至車里 國嵩陵醴泉黃巖綏阜合淝萊州謙州等七州並屬本國興化之地〇迨前黎庚申本國逆臣黃公瓚之父黃公舒阻兵據守垂三十年前黎姑息不辦七州之民以地勢遼遠本國不能控制夤緣內附自此以來內地沿邊內官勒令邊民改裝插牌征稅
臣自守命啓邦綢繆鳩集內事正殷邊情委曲未及辦理 迺兹本國鎮目報稱七州民乆經內地征繕本國行移調徵一切勒旨阻當源委情由葢由前黎不能恪遵封守有以馴致〇欽惟大皇帝陛下聖量洪慈安勸庶邦年前北番合楞隨土爾扈特投順旋賞給遊牧之地矧此邊隅蕞爾豈是列於職方是必封疆之吏不以其事上聞邊民便其游移所在官員從而驅勒臣不敢委分土為閒 土而曲隱情由不一聲明於光輝之下也輙敢冒昧繕表憑兩廣總督公福康安轉奏臣謹於南関界首耑員等候並遣文武員目咸就興化界首節次查清質當七州土界賜歸本國屬籍〇臣仰藉寵靈虔修保守遙望闕庭侯奉聖訓不勝瞻仰惶惧之至
Thỉnh hoán Hưng Hóa thất châu địa biểu
Thần ngưỡng hà thiên ân, tứ lý Nam phục. Khâm phụng ngự thi huấn dĩ bảo thủ cương giới, thế truyền tử tôn chi đạo, túc dạ chi cụ, phụng dĩ thủ bang.
Kim duy: thần khởi tự bố y, hạnh hữu quốc ấp; sích thổ, thốn dân, giai Đại Hoàng đế chi tứ khởi cảm dĩ bỉ cương thử giới trần độc chí tôn?
Chi dĩ Giao - Nam phân thổ, thao thiểm tác bình, tứ phong sở để cụ tại bảo thư.
Thần quốc nhất đới duyên biên; tây bắc tiếp nội địa Lâm An, Quảng Nam, Khai Hóa tam phủ. Tự tiền Mặc Kính Khoan dĩ Ngưu Dương, Hồ Điệp, Phổ Viên tam động nội đầu, khâm phụng Thánh tổ Nhân hoàng đế tứ Mạc phu vu tiền Lê, phục hoàn kỳ địa. Nãi tại Khang Hi nhị thập bát niên sự.
Kỳ hậu, thổ mục Vi Phúc Liêm hựu dĩ kỳ địa nội thuộc, sự dĩ kinh cửu, đoán dĩ bản quốc Đổ Chúc hà vi giới. Nãi tại Hưng Hóa, Tuyên Quang biên địa kinh tiền nhậm Vân Quý đốc bộ Ngạc Nhĩ Thái tuân chỉ thụ bi, tự Đổ Chúc hà dĩ tây chí Xa Lý quốc Tung Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, Lai Châu, Khiêm Châu đẳng thất châu tịnh thuộc bản quốc Hưng Hóa chi địa.
Đãi tiền Lê canh thân, bản quốc nghịch thần Hoàng Công Toản chi phụ, Hoàng Công Thư, trở binh, cứ thủ, thùy tam thập niên. Tiền Lê cô tức bất biện, thất châu chi dân dĩ địa thế liêu viễn, bản quốc bất năng khống chế, di duyên nội phụ.
Tự thử dĩ lai, nội địa duyên biên, nội quan lặc linh biên dân cải trang, sáp bài, chinh thuế.
Thần tự thụ mệnh khải bang, chù mâu cưu tập, nội sự chính ân, biên tình ủy khúc vị cập biện lý.
Nãi tư bản quốc trấn mục báo xưng: thất châu dân cửu kinh nội địa chinh thiện, bản quốc hành di điều trưng, nhất thiết lặc chỉ trở đáng. Nguyên ủy tình do cái do Tiền Lê bất năng khác tuân phong thủ hữu dĩ tuần trí!
Khâm duy: Đại Hoàng đế Bệ hạ: thánh lượng hồng từ, an khuyến thứ bang. Niên tiền, Bắc phiên Hợp lăng tùy Thổ Nhĩ Hỗ Đặc đầu thuận, toàn thưởng cấp du mục chi địa. Thẩn thử biên ngung loát nhĩ, khởi thị liệt ư chức phương? Thị tất phong cương chi lại bất dĩ kỳ sự thượng văn; biên dân tiện kỳ du di, sở tại quan viên tòng nhi khu lặc!
Thần bất cảm ủy phân thổ vi nhàn thổ, nhi khúc ẩn tình do bất nhất thanh minh ư quang huy chi hạ dã.
Triếp cảm mạo muội thiện hiểu, bằng Lưỡng Quảng Tổng đốc công Phúc Khang An chuyển tấu. Thần cẩn ư Nam quan giới thủ, chuyên viên đẳng hậu, tịnh khiển văn võ viên mục hàm tựu Hưng Hóa giới thủ, tiết thứ tra thanh chất đáng thất châu thổ giới tứ qui bản quốc thuộc tịch.
Thần ngưỡng tạ sủng linh, kiền tu bảo thủ, dao vọng khuyết đình, hậu phụng thánh huấn, bất thăng chiêm ngưỡng hoàng cụ chi chí...
Dịch:
“Thần được nhờ ơn trời, cho ở cõi Nam, vâng lời ngự thi dạy đạo gìn giữ bờ cõi, đời truyền con cháu, thần vẫn sớm tối kính sợ, theo để giữ nước.
Nay nghĩ: thần từ kẻ áo vải dấy lên, may có đất nước; Một thước đất, một người dân đều là ơn của Đại Hoàng đế ban cho cả, há dám phân biệt bờ này cõi nọ làm nhàm đến bậc chí tôn? Chỉ vì phần đất cõi Nam lạm đứng làm phên giậu, bốn bề giáp ranh những đâu, đã có sách báu chép rõ.
Một dải biên thùy nước thần, mặt tây bắc giáp ba phủ Lâm An, Quảng Nam, Khai Hóa bên thượng quốc. Trước kia, từ Mạc Kính Khoan đem ba động Ngưu Dương, Hồ Điệp và Phổ Viên phụ vào Thượng quốc, đã kính được đức Thánh tổ Nhân hoàng đế ban tên tù họ Mạc cho nhà Lê và trả lại đất ấy rồi. Đó là việc năm Khang Hi thứ 21 (1689). Về sau, thổ mục là Vi Phúc Liêm lại đem đất ấy mà phụ vào Thượng quốc. Việc xảy đã lâu, rồi cứ lấy sông Đổ Chúc bên nước thần làm giới hạn. Ở chỗ đất Hưng Hóa và Tuyên Quang trước kia đã do viên Tổng đốc Vân Quý Nhạc Nhĩ Thái vâng chỉ dụ, đứng dựng mốc: từ sông Đổ Chúc trở về phía tây cho đến bảy châu Tung Lăng, Lễ Toàn, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phì, Lai Châu, Khiêm Châu nước Xa Lý (?) đều thuộc về đất Hưng Hóa của nước thần.
Đến năm Canh Thân. Nhà Lê trước, Hoàng Công Thư, cha của tên nghịch thần Hoàng Công Toản dấy binh, giữ đất đến 30 năm! Nhà Lê nhù nhờ không trang trải xong. Dân bảy châu ấy, vì thấy địa thế xa xôi, nước thần không khống chế được, bèn dần dà phụ vào thượng quốc.
Từ đó trở đi, các quan chức nơi biên giới của thượng quốc bắt ép nhân dân vùng biên viễn đổi lối ăn mặc, đeo thẻ, chịu sưu thuế. Thần từ ngày chịu mệnh mở nước đến nay, ràng rịt tổ ở, còn bận về việc hộ nội trị, nên tình hình ngoài biên giới hãy còn nấn ná chưa kịp khuôn xếp.
Hiện nay, viên trấn mục của bản quốc báo cáo rằng: thổ dân bảy châu ấy từng chịu thượng quốc đánh thuế và cai quản đã lâu, nên bản quốc hễ ra lệnh đánh thuế hoặc điều bát binh lính thì nhất nhất lại bị chống mệnh, ngăn trở. Cơn cớ đầu đuôi chỉ vì nhà Lê trước không biết kính giữ lấy đất, lâu dần thành quen, nên mới đến thế.
Kĩnh nghĩ: Đại Hoàng đế Bệ hạ, lượng thánh hiền từ rộng rãi, vỗ yên khuyên bảo mọi bang. Năm ngoái tên Hợp Lăng rợ Bắc phiên theo Thổ Nhĩ Hỗ Đặc đầu hàng cung thuận, liền được thưởng cấp cho đất du mục; huống chi đối với chỗ biên ngung nhỏ xíu ấy há lại liệt vào chức phương? Đó chắc là bởi kẻ quan lại ở biên cương không chịu tâu trình việc này lên nhà vua, dân vùng ấy lấy sự được nấn ná qua quít làm tiện việc và quan viên sở tại lại đứng bên trong xui giục bắt ép.
Thần không dám bỏ một phần đất làm đất hoang, nên không thể không đem tình do và khúc nhôi mà giãi bày ở dưới ánh sáng.
Vậy xin đánh liều, mạo muội làm biểu, nhờ quan Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An chuyển tâu lên cho.
Thần kính sai các viên chức chuyên trách chờ đợi ở cửa Nam quan, lại sai văn võ viên mục đến tới tận cõi Hưng Hóa lần lượt tra xét cho rõ ràng ổn thỏa để đất bảy châu ấy lại được ban về thuộc trong bản đồ bản quốc.
Thần ngước nhờ oai linh ân sủng của Bệ hạ, kính xin gìn giữ lấy đất đai. Xa trông cửa khuyết, vâng theo lời dạy của đấng thánh khôn xiết sợ hãi ngóng trông…”
Sau thấy các nhà dương đạo bên Thanh làm lơ, không chịu trang trải việc đất đai ấy vì lấy cớ rằng bấy lâu bờ cõi đã định, không thể thay đổi được nữa, vua Quang Trung bao xiết bất bình quyết chí làm đến kỳ cùng cho đạt được mục đích.
Ngài thường nói cùng các tướng tá: “Cứ thả cho ta vài năm nữa, ta nuôi vững oai lực, gây đủ nhuệ khí, ta có sợ gì chúng nó (chỉ Mãn Thanh) đâu!”396
Từ đó ngài rất chú trọng việc binh bị, rèn quân lính, đóng chiến thuyền, định làm một cuộc phi thường chưa từng có trên trang lịch sử Đại Việt: khôi phục đất hai tỉnh Quảng.
Phải, cái chí muốn xẻ mảnh địa đồ Mãn Thanh đó, của vua Quang Trung đã tỏ rõ trong câu chuyện giữa ngài và một vị cận thần:
Vua Quang Trung hỏi:
“Này, muốn biết việc làm của các đế vương nước ta thì coi ở sách nào?
Vị cận thần tâu:
“Ở Nam sử.”
Nhà vua lại hỏi:
“Trước ta đây có ai dám đánh quân Tàu không?”
Vị cận thần tâu:
“Có, nào đức Trần Hưng Đạo đánh giặc Nguyên, nào vua Lê Thái Tổ đánh giặc Minh, chuyện xưa hãy còn nhiều lắm.”
Vua Quang Trung thêm:
“Song le, có ai dám sang tận Tàu mà đánh rồi chiếm lấy đất?”
Vị bầy tôi ấy tâu:
“Chưa!” (Sở dĩ không kể trận Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Ung, Liêm có lẽ vì Lý đánh được rồi, nhưng lại bỏ, không chiếm lấy đất chăng?)
Thấy nói “chưa” vua Quang Trung liền hăng hái phán:
“Vậy thì để ta sẽ làm cho mà coi.”
Cái động cơ sửa soạn làm nhung thủ sang đánh Thanh chính đã ngấm ngầm từ đấy.
Về việc vua Quang Trung không biết Nam sử này, chúng ta nay có thể tin được không? Không! Vì chính Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, quyển 30 tờ 1b có chép ngài khi còn nhỏ, có học nơi Giáo Hiến, một thày dậy cả văn võ. Vả, theo như bức thư “Trần biện hôn nghị” do Ngô Thì Nhậm thảo cho thị thần nhà vua đứng tên gửi cho viên tri phủ họ Vương ở phủ Thái Bình bên Tàu thì vua Quang Trung là người “tính trời ham học, dầu ở trong vòng can qua bận rộn cũng không quên giảng đạo lý: ngày thường nghị luận có khi khơi mở rành mạch ra được lắm điều mà sách vở ngày xưa chưa từng phát xiển được”397.
Như vậy, chắc ngài không đến nỗi không biết việc Trần Hưng Đạo và Lê Thái Tổ. Nhưng nhân câu chuyện vấn đáp trên đây, ta càng tin chắc vua Quang Trung quyết tâm vấn tội Mãn Thanh, đòi đất Lưỡng Quảng, để nhẩy lên một nấc cao hơn đức Trần, vua Lê thuở trước.
Căm giận người Tàu, vua Quang Trung định tâm quyết một phen chiến đấu với họ để rửa cái hận nghìn thu cho lịch sử: mất đất về Bắc!
Trước kia quyết liệt ra mặt, nhà vua còn làm mọi việc khiêu khích, lấy gậy ông đập lưng ông!
Trong Vạn quốc sử ký quyển IV trang 8, tác giả Cương bản Giám phu có chép:
… Khi Nguyễn Quang Bình (một tên khác của vua Quang Trung) đã lấy binh lực đoạt được nước rồi tiêu nhiều, của hết, bèn sai hơn trăm chiếc tàu ô và mười hai viên tổng binh mượn tiếng đi làm lương thực cho quân gia nhưng thực ra dùng nhiều bọn giặc biển Tàu làm kẻ đưa đường, cướp bóc những miền Mân398, Việt399, Giang400, Chiết401. Mãn Thanh náo động! Các tỉnh tâu trình rằng bắt được giặc biển thấy có những con ấn binh tướng và tổng binh do nước An Nam phong cho. Nhà Thanh có tư việc đó sang hỏi bên An Nam: nhưng nào có hay chính họ Nguyễn (chỉ vua Quang Trung) có dính dáng và biết thừa việc đó! (dịch)
Sự thực?
Nhân dịp bấy giờ có bọn giặc ở Lưỡng Quảng, bị triều Thanh áp bức xua đuổi, túng thế, họ phải về hàng bên ta, vua Quang Trung liền thu dụng lấy tên đầu đảng, phong cho làm chức tổng binh, dùng chúng khuấy rối nội địa Tàu khiến cho người Thanh không thể ăn ngon, ngủ yên được.
Vua Quang Trung lại lợi dụng đảng “Thiên địa hội” khiêu khích Mãn Thanh.
Nguyên, sau khi Mãn Thanh vào làm chủ nhân ông 400 triệu người Hán, các di dân, chí sĩ nhà Minh không chịu khuất phục dưới quyền thống trị của họ hàng Thanh Thánh Tổ (1662-1772), liền hăng hái đứng dậy, ngầm tổ chức một cơ quan bí mật, kêu tên là “Thiên địa hội”, nhằm theo cái đích lật đổ chính phủ Mãn Thanh, khôi phục nhà Minh cũ.
Hồi đó, họ đang hoạt động ở Tứ Xuyên. Vua Quang Trung muốn dùng họ làm lợi khí để quật lại Thanh, liền dung túng và ám trợ đảng “Thiên địa hội” để họ làm rối ren ở biên thùy Tàu.
Kế hoạch đó quả có công hiệu: đường giao thông thuộc hải phận Tàu bị nghẽn! Biên giới Mãn Thanh thường có cảnh báo (báo động) không yên!
Biên thần Mãn Thanh tuy biết rõ những sự biến đó toàn do vua Nam đứng sau giựt giây sai khiến, song vì sợ oai võ và thế lực nước ta bấy giờ đương bồng bột, hùng cường, nên người Thanh đành phải bấm bụng, chịu dầu, ngậm cay đắng, không dám ho he chất vấn hay phản đối chi hết!
MƯỢN CỚ CẦU HÔN ĐỂ CHỰC ĐÁNH LẤY LƯỠNG QUẢNG
Nhâm Tý, niên hiệu Quang Trung thứ 5 (1792) nhà vua sắp đặt kế hoạch Bắc phạt.
Muốn dò ý vua Thanh và do thám nội lực Trung Quốc bấy giờ hư thực ra sao, vua Quang Trung bèn tính đến việc cầu hôn với Công chúa Tàu.
Ban đầu, nhà vua sai thị thần gửi cho viên Thái binh tri phủ họ Vương bên Tàu nhờ đạo đạt lên Công trung đường đứng làm mối cho.
Trong thư có nói: “… quốc vương tôi là chủ tể một nước, không thể thiếu tay giúp đỡ việc nội trị. Nghĩ muốn gõ cửa ải, dâng tờ biểu, kíp vì quốc vương mà cầu hôn, lại e việc là việc trọng đại, nếu chưa có tay trong dung nạp trước thì đâu dám tự bày tỏ để mang tiếng rằng chưa có rìu đã chực đẵn cây.402
Sau, nhà vua lại sai thị thần gửi cho Vương tri phủ để tranh biện về việc cầu hôn ấy là chính đáng, trong có những câu mềm mỏng nhưng lý sự như:
… Quốc vương tôi nổi lên từ nơi đồng bái, mở đất ở phía nam để có nhân dân xã tắc, đã được Đại Hoàng đế (vua Thanh) dựng làm phiên bình ở ngoài, nếu lại được liên kết phủ phế thì các vương Mãn Châu Mông Cổ có thể lấy tư cách là con rể mà giúp đỡ ở mặt đông bắc, quốc vương tôi há lại không thể lấy địa vị Châu Trần mà trổ sức ở phía tây nam hay sao?403
Trải qua mấy lần nhờ biên thần Tàu đánh tiếng rồi, sau vua Quang Trung sai gửi biểu thẳng lên Càn Long để yêu cầu việc đó.
Nguyên văn tờ biểu cầu hôn ấy như dưới:
請婚表
臣本一介布衣仰荷皇恩叨司南服既自展 覲闕庭特令抱見請安賞賚更蕃稠蒙異渥凡交南從古所不常得之事一一以施諸臣
迨臣欽旨回國仰奉聖恩垂眷恩旨頻頒浩蕩皇恩莫可名狀不料臣荒遠猥賤承恩至此尊親在念圖報無由惟願得時叩天閽邇瞻日表而地遙勢隔力不從心一過南開便成疏遠臣夢寐鈞韶眠想雲漢恆恐自同碌碌泛然於聲教之外辜負聖慈並生並育之恩
竊惟聖人顯比諸侯聯疎為親事存古道臣國之始涇陽受命于炎帝嫗姬漦降於貉龍實祖文郎啟封交趾百男承襲世守南藩幸承蔭於中華獲登名於文獻世代雖遠記載猶徵宋朝興國以來羈縻臣邦擯為化外不在明堂之列僅同彭濮之聯
我皇清受天眷命奄有萬方子照至以皆胞庭寰瀛而罔外欽惟大皇帝陛下德同天地道高軒虞懷諸侯柔遠人不以近代故常為限
臣叨蒙聖視之如子齒從親王之序雖分在荒情同生鞠念惟萬物不隱情於天地家庭之心事敢不暴白於至尊之前頃臣家遭降鞠中饋乏人締造初基方舟寡助思托蔭于玉樹擬保固夫苞桑仰見聖朝長白發祥茂膺帝祉子孫千億奕葉蕃昌向來天家法式王姬下貺必由貴近擇諧從無泛及外臣之例分嚴中外極覺無階惟是一念戴親翹企之私轉輾不能自已
竊望天潢玉波及下藩庶臣仰荷慈恩獲親麟趾関睢之化元吉施祉肅雍式型宜其家人以教國人習中夏之餘風脫海濱之舊染俾臣國內臣庶同相望於德化之中臣家世雲仍永保藩封承休無斁此臣之大願望也祇茲分外求霑事非常格謀諸執事無敢轉為題達君門萬里瞻望懸懸輙敢不自揣量冒昧披誠謹委陪臣恭候奏事之暇為臣代叩遡叙一段衷素伏望高聰俯垂睿鑑軫臣區區戀慕之誠恕臣蠻貊妄求之失臣遠在海南翹瞻宸北厪祝聖天子壽考萬年永作萬邦父母臣不勝戰慓之至。
Thỉnh hôn biểu
Thần bản nhất giới bố y, ngưỡng hà hoàng ân thao tư Nam phục. Kỷ tự triển cận khuyết đình, đặc lĩnh bão kiến thỉnh an, thưởng lại cánh phồn, trù mộng dị ác. Phàm Giao Nam tòng cổ sở bất thường đắc chi sự nhất nhất dĩ thi chư thần.
Đại thần khâm chỉ hồi quốc, ngưỡng phụng thánh ân thùy quyến, ân chỉ tần ban, hạo đãng hoàng ân mặc khả danh trạng! Bất liệu thần hoang viễn ổi tiện, thừa ân chí thử! Tôn thân tại niệm, đồ báo vô do!
Duy nguyện đắc thời khấu thiên hôn, nhĩ chiêm nhật biểu; nhi địa dao, thế cách, lực bất tòng tâm, nhất quá Nam quan, tiện thành sơ viễn!
Thần mộng mị Quân thiều, miến tưởng Vân Hán, hằng khủng tự đồng lục lục, phiếm nhiên ư thanh giáo chi ngoại, cô phụ thánh từ tịnh sinh, tịnh dục chi ân!
Thiết duy: thánh nhân hiển tỷ chư hầu, liên sơ vi thân, sự tồn cổ đạo.
Thần quốc chi thủy: Kinh Dương thụ mệnh vu Viêm đế, Âu Cơ ly giáng ư Lạc Long. Thực tổ Văn Lang, khải phong Giao Chỉ, bách nam thừa tập, thế thủ Nam phiên, hạnh thừa ấm ư Trung Hoa, hoạch đăng danh ư văn hiến, thế đại tuy viễn, ký tái do trưng.
Tống triều hưng quốc dĩ lai, cơ mi thần bang, thấn vi hóa ngoại, bất tại Minh Đường chi liệt, cẩn đồng Bành Bộc chi liên.
Ngã Hoàng Thanh thụ thiên quyến mệnh, yểm hữu vạn phương, tử chiếu chi dĩ giai bào, đình hoàn danh nhi võng ngoại.
Khâm duy: Đại Hoàng đế Bệ hạ, tức đồng thiên địa, đạo cao Hiên, Ngu, hoài chư hầu, nhu viễn nhân, bất dĩ cận đại cố thường vi hạn.
Thần thao mong thánh thị chi như tử, sỉ tòng thân vương chi tự, tuy phận tại thương hoang, nhi tình đồng sinh cúc.
Niệm duy vạn vật bất ẩn tình ư thiên địa, gia đình chi tâm sự cảm bất bộc bạch ư chí tôn chi tiền: Khoảnh thần gia tao giáng cúc, trung quỹ phạp nhân, đế tạo sơ cơ, phương chu quả trợ, tư thác ấm vu ngọc thụ, nghĩ bảo cố phù bao tang.
Ngưỡng kiến Thánh triều: Trường bạch phát tường, mậu ưng đế chỉ, tử tôn thiên ức, dịch diệp phồn xương. Hướng lại thiên gia pháp thức: vương cơ hạ chúc tất do quý cận trạch hài, tòng vô phiếm cập ngoại thần chi lệ. Phận nghiêm trung ngoại, cực giác vô giai! Duy thị nhất niệm đới thân, kiều sĩ chi tư, chuyển triển bất năng tự dĩ!
Thiết vọng thiên hoàng ngọc phái ba cập hạ phiên thứ thần ngưỡng hạ từ ân, hoạch thân lân chi. Quan thư chi hóa, nguyên cát thi chỉ, túc ung thức hình, nghi kỳ gia nhân, dĩ giáo quốc nhân: tập Trung hạ chi dư phong, thoát hải tần chỉ cưu nhiễm, tỉ thần quốc nội thần thứ đồng tương vọng ư đức hóa chi trung.
Thần gia thế vân nhưng, vĩnh bảo phiên phong, thừa hưu vô dịch. Thử thần chi đại nguyện vọng dã.
Chỉ tư phân ngoại cầu chiêm, sự phi thường cách, mưu chư chấp sự, vô cảm chuyển vị đề đạt! Quân môn vạn lý, chiêm vọng huyền huyền! Chiếp cảm bất tự sủy lượng, mạo muội phi thành, cẩn ủy bồi thần cung hậu tấn, sự chi hạ, vị thần đại khấu, tố tự nhất đoạn trung tố.
Phục vọng cao thông phủ thùy duệ giám, chẩn thần khu khu luyến mộ chi thành, thứ thần man mạch vọng cầu chi thất.
Thần viễn tại Hải Nam, kiều chiêm thần bắc, cận chúc thánh thiên tử thọ khảo vạn niên, vĩnh tác vạn bang phụ mẫu. Thần bất thăng chiến lật chi chí…
Dịch:
Thần vốn là một kẻ áo vải, được nhờ ơn cả, lạm giữ cõi Nam. Từ khi vào triều cận nơi cung khuyết, đã được đặc cách làm lễ bảo kiến vấn an, lại được ban thưởng trọng hậu, ơn lạ dồi dào. Phàm những sự mà cõi Giao Nam từ xưa chưa ai từng được đều nhất nhất ban cho thần cả.
Kịp khi thần khâm mạng về nước, lại được đủ ơn đoái thương, luôn ban thánh chỉ. Cái ơn lồng lộng ấy của nhà vua thật không sao kể ra, tả ra cho xiết! Thần là kẻ hèn mọn nơi hẻo lánh, chẳng ngờ lại được hưởng ơn đến thế! Tấc lòng canh cánh mong báo đáp bậc tôn thân, song vẫn chưa bởi đâu mà đền bồi được!
Chỉ mong được thường gõ cửa giới, gần nhìn bóng nhật, nhưng đất ở xa, thế cách trở, sức làm không được như ý muốn: hễ qua khỏi cửa Nam quan thì lại thành xa và sơ ngay!
Thần vẫn mơ tưởng nhạc Quân Thiều, ngóng trông Vân Hán, hằng e mình rồi cũng đến như hạng tầm thường, phải liệt tràn ở ngoài vòng thanh giáo, làm cô phụ cái ơn sinh nuôi tất cả của thánh từ!
Trộm nghĩ: Thánh nhân quý hiển hơn chư hầu, liên lạc chỗ sơ cho thành thân mật, làm theo việc cũ lối xưa.
Nước thần, ban đầu, vua Kinh Dương chịu mệnh nơi Viêm đế, bà Âu Cơ kết duyên với vua Lạc Long: tổ nước Văn Lang, mở cõi Giao Chỉ, trăm trai nối dõi, đời giữ phên giậu phía nam, may nhờ phúc ở Trung Hoa, được nổi danh là nước văn hiến. Thế đại dẫu xa, sử sách còn đủ khảo xét.
Từ khi nhà Tống dấy lên, ràng buộc nước thần, ruồng ra ngoài vòng đức hóa, không liệt vào hàng Minh Đường, chỉ để cũng như hạng Bành Bộc!
Nhà Thanh ta được trời quyến cố, rộng có muôn phương, chỗ nào có bóng mặt trời soi đến đều coi nhân dân là chung một bọc mà ra, lấy hoàn doanh làm gia đình mà không gẩy ai ra ngoài cả.
Kính nghĩ: Đại hoàng đế Bệ hạ đức ngang với trời, đất, đạo cao hơn vua Hiền Viên, vua Ngu Thuấn, vỗ về cho chư hầu mến phục, dịu dàng cho người xa hướng về, không choèn choèn theo cái lối thường của các triều đại gần đây.
Thần lạm được thánh thượng coi như con ruột, liệt vào hàng các thân vương. Phận này dẫu ở tận nơi xa khuất, nhưng tình ấy vẫn được kể như đẻ nuôi.
Thiết nghĩ: muôn vật không giấu tình riêng với trời đất, thì câu chuyện tâm sự về gia đình dám chẳng giãi tỏ ở trước bậc chí tôn? Mới đây, nhà thần gặp vận rủi ro, thiếu người chủ quỹ trông nom việc dâng cơm canh thờ cúng! Trên nền gây dựng phong hóa đang thiếu người đỡ đần. Vậy muốn núp bóng dưới cây ngọc, hòng bám vững vào gốc dân.
Ngước thấy thánh triều phát từ Trường Bạch404, đầy dãy phúc lành, con cháu nghìn ức, nối đời phồn thịnh. Bấy nay lề lối nhà vua, vẫn chọn những chỗ quý hiển gần gũi để gả các Công chúa, chứ không có lệ gả tràn đến các chư thần ở ngoại phiên. Cái phận đã nghiêm nhặt chia ra trong ngoài như thế thì thật rất khó bám víu! Chỉ vì một niềm tôn mến, lòng riêng ngóng trông, nên cứ trằn trọc không sao thôi được.
Trộm mong cành ngọc nhà trời lan tràn đến cả kẻ ngoại phiên ở dưới, ngõ hầu thần được ngửa đội ơn lành, gần gũi gót lân, đem cái phong hóa Quan thư ban ra những phúc nguyên cát. Những điều kính ghín hòa thuận từ nơi người nhà sẽ nêu làm khuôn mẫu cho người trong nước để họ tập quen cái dư phong của chốn trung hạ, trút bỏ cái thói cũ của nơi bờ bể khiến thần dân trong nước của thần được thỏa sự trông mong ở trong vòng đức hóa.
Nhà thần đời đời được phúc lành như mây họp, giữ mãi phiên phong, hưởng sự tốt lành không cùng. Đó là điều mong mỏi lớn của thần vậy.
Chỉ vì nay cầu ơn ngoài phận, việc xảy khác thường, nên bàn với những kẻ chấp sự, không ai dám vì thần mà chuyển đạt chút tâm sự này lên! Cửa vua muôn dặm, trông ngóng đăm đăm. Nay bèn đánh bạo không tự suy xét mạo muội bày tỏ tấc thành, kính sai kẻ bồi thần sang chầu hầu để sau lúc tâu bày rảnh rang, sẽ vì thần mà kêu thay kể lể khúc nhôi cơn cơ.
Nép mong bậc cao sáng rủ thương, xét cho thần lòng thành quyến luyến trìu mến, tha cho thần cái lỗi rợ mọi cầu liều.
Thần xa ở biển Nam, ngóng trông sao Bắc xin chúc Thánh Thiên tử thọ khảo muôn năm, mãi làm cha mẹ muôn nước Thần bao xiết quá đỗi run sợ…”
Như các bạn đã thấy, trên đây vua Quang Trung đã đưa tờ biểu sang nhà Thanh cầu hôn Công chúa Tàu.
Nhưng sự thực việc ấy ra sao, mỗi thuyết một khác.
Theo nhiều sách chép thì năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung có sai sứ bộ sang Thanh định yêu sách nhà Thanh hai việc: cầu hôn và đòi đất Lưỡng Quảng. Nhưng khi sứ bộ sang đến nơi thì được tin vua Quang Trung ở nước thăng hà, họ bèn dìm tờ biểu “khiêu khích” ấy đi mà đổi làm tờ biểu cáo ai báo tin buồn cho triều Thanh biết.
Mà Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, quyển 30, tờ 41b cũng chép:
Năm Nhâm Tý (1792). Huệ sai làm biểu sang nhà Thanh, cầu hôn để dò ý vua Thanh, cũng muốn mượn chuyện ấy làm mối khởi binh; nhưng rồi bị bệnh, nên không làm trọn được.
Đó là thuyết thứ nhất. Còn thuyết thứ 2 như có chép trong gia phả họ Vũ405 do Vũ Vĩnh Thứ, cháu ba đời của Vũ Văn Dũng, soạn năm Bính Ngọ, niên hiệu Tự Đức thứ 22 (1870), thì đại khái như thế này: Nguyên từ ngày rằm tháng tư năm Quang Trung thứ 4 (1791) nhà vua có phái trung sứ đi từ Phượng Hoàng Trung Đô (Nghệ An) đem sắc mệnh này cho Đại đô đốc Vũ quốc công Vũ Văn Dũng trong khi đang nghỉ giả hạn ở nhà:
海陽招遠大都督大獎軍翊運功臣武國公進加領北使正使兼全應奏請東西兩廣以窺其心公主一位以激其怒慎之慎之其用兵形勢盡在此行他日前鋒卿其人也欽哉勅命
光中四年四月十五日
Dịch âm:
Sắc Hải dương Chiêu viễn Đại đô đốc Đại tướng quân dực vận công thần Vũ Quốc công tiến gia lĩnh Bắc sứ chính sư kiêm toàn ứng tấu thỉnh Đông Tây Lưỡng Quảng dĩ khuy kỳ tâm, Công chúa nhất vị dĩ kích kỳ nộ. Thận chi! Thận chi! Kỳ dụng binh hình thế tận tại thử hành Tha nhật tiên phong: Khanh kỳ nhân dã Khâm tai! Sắc mệnh!
Quang Trung tứ niên tứ nguyệt thập ngũ nhật.
Dịch nghĩa:
“Sắc sai Hải Dương Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân dực vận công thần Vũ Quốc công được tiến phong làm chức Chính sứ đi sứ Tàu kiêm toàn quyền trong việc tâu thưa xin lại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây để dò ý, cầu hôn một vị Công chúa để chọc giận. Cẩn thận đấy! Cẩn thận đấy! Tình thế dụng binh ở như chuyến đi này cả. Ngày khác làm tiên phong chính là khanh đấy! Kính thay lời sắc sai này!
Ngày rằm tháng tư, năm Quang Trung thứ 4 (1791).”
Cứ như ý trong lời sắc mệnh trên đây thì ra vua Quang Trung chỉ mượn hai việc đòi đất và cầu hôn ấy làm cớ để dò ý và chọc giận vua Thanh. Vì nếu vua Thanh nổi giận mà cự tuyệt thì cuộc giao thiệp giữa hai nước Việt Thanh sẽ nổi lên những trận giông tố quyết liệt, Bắc Nam sẽ nói chuyện với nhau bằng gươm lớn, súng dài: bấy giờ cuộc chiến tranh sẽ ngả ra một trong hai thế: một là vua Quang Trung tự làm binh thủ, cho Vũ quốc công Vũ Văn Dũng làm tiên phong, đường đường trống giong cờ mở, kéo binh sang tận đất Tàu mà vấn tội vua Thanh; hai là lừa cho vua Thanh nhân lúc quá giận, không kịp suy nghĩ sâu xa, hấp tấp sai tướng xuất quân sang Nam để mua lấy cuộc thất bại đau đớn nhục nhã như trận Đống Đa ngày trước. Bấy giờ bên ta lại đứng vào thế nghinh địch, ứng chiến. Mà chuyến đi đòi đất và cầu hôn này, Vũ Văn Dũng phải đóng một vai chính trị tối quan trọng: vừa làm Chính sứ trong cuộc ngoại giao, vừa làm trinh thám chuyên môn về quân sự. Vì có phải chỉ chuyên một việc uấn ba tấc lưỡi để giao thiệp với triều đình Mãn Thanh thôi đâu, Dũng lại còn phải dò xét núi sông hiểm dễ thế nào, đường sá gần xa thế nào, thủy lục tiện nghi thế nào và binh lực nhà Thanh thực, hư, mạnh yếu thế nào, nhất nhất phải nhận xét cho tinh tường, ghi nhớ cho rành mạch, rồi đem những tài liệu quân sự ấy để dâng vua Quang Trung để ngài tính kế, bày mưu liệu cơ chế thắng.
Nhưng kết cục việc Dũng đi ấy ra sao?
Cứ theo như gia phả họ Vũ mà ông Hòe đã thuật ấy, thì khi vào bệ kiến vua Thanh Càn Long, Vũ Văn Dũng có tâu xin hai việc:
Việc thứ nhất là cầu hôn, vì phối sất là việc quan trọng, quốc vương hiện nay đã to tuổi, mà hôn nhân chưa định xong bởi chưng trong nước thì toàn là hạng thần tử, các phiên phong láng giềng thì lại không được quốc vương ưa thích, nên muốn vua Thanh xét tình cho.
Việc thứ hai là xin đất đóng đô, vì lấy cớ rằng quốc vương ở một nước hẻo lánh, thủy bộ không tiện, mà vượng khí trong nội địa thì hết mất rồi!
Hai việc ấy tâu lên, vua Thanh châu phê giao cho đình nghị.
Nhưng trong khi đình thần nhà Thanh chưa kịp bàn xét thì liền hôm sau, bọn Vũ Văn Dũng nhận được bệ kiến ở Ỷ Lương các, lại dâng tấu chương thứ hai xin vua Thanh ban cho hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây làm đất đóng đô và ly giáng một vị Công chúa để gây cho nước biên thùy cái phong hóa của Trung Quốc.
Thì may sao hai việc ấy đều được vua Thanh chuẩn y cả. Nhưng vua Thanh chỉ ưng cho một tỉnh Quảng Tây để làm đất đóng đô thôi.
Việc đòi đất mới đến đây. Còn việc ly giáng Công chúa thì đã đi được bước dài hơn:
Sau ngày tiếp Nam sứ ở Ỷ lương các, vua Thanh liền sai bộ Lễ sửa soạn nghi lễ việc cưới gả, định ngày cho Công chúa sang Nam đẹp duyên với quốc vương.
Nhưng chẳng may, sau đó mấy hôm, Vũ Văn Dũng nhận ngay được tin chẳng lành: Vua Quang Trung băng! Vì vậy, mọi việc đều lỡ làng lỡ dở, bọn Dũng đành ôm mối hận mà trở về.
Rồi từ đó, việc thôn tính Lưỡng Quảng chỉ là câu chuyện mỹ đàm trên trang lịch sử Đại Việt, mà cơ đồ vua Quang Trung cũng dần dần tan theo giấc xuân mộng của nàng Công chúa Tàu!
MA BỊNH CƯỚP ANH HÙNG
Dưới triều Quang Trung, võ công, văn trị, nội tu, ngoại nhương, mọi mặt đều có vẻ khả quan cả. Một vị Hoàng đế anh hùng mới 40 tuổi, cái tuổi đương hăng hái, đầy hứa hẹn, phải gánh vác một công cuộc phi thường, bỗng bị thần Chết đến nạt rồi cướp đi há chăng phải là một cái hận nghìn thu còn ngậm?
Một buổi chiều thu, gió heo may vi vút nhả khí tiêu sơ trong lùm thông núi Ngự, hơi lạnh lay gợn làn sóng yếu đuối trên mặt sông Hương… Vua Quang Trung đang ngồi, bỗng hoa mắt, sầm tối mặt mũi, đâm mê man.
Chứng bịnh ấy, sử chữ nho chép là “huyễn vận” (眩暈). Mà “huyễn vận” là một thứ bịnh do thiếu máu, bộ tiểu não bị tổn thương và thần kinh suy yếu mà sinh ra. Khi phát thì, trong một lúc, mắt hoa, tri giác mờ tối không biết gì cả.
Rồi từ đó bịnh ngày một tăng thêm, khó có hy vọng qua khỏi!
Khi bịnh xoay nặng, ngài triệu Trần Quang Diệu, trấn thủ Nghệ An, về triều, bàn việc thiên đô về Nghệ An, nhưng việc đó chưa quyết định xong thì bịnh tình nhà vua ngày một nguy kịch.
Ngài có trối trăng cùng bọn Diệu: “Sau khi ta mất, việc tang chế chỉ nên sơ sài thôi, nội trong một tháng phải liệu mà chôn cất. Các ngươi phải nên hiệp sức giúp Thái tử (Quang Toản), sớm thiên đô về Nghệ An để khống chế thiên hạ…”406
Qua ngày hai mươi chín, tháng chín, năm Nhâm Tý407 niên hiệu Quang Trung thứ 5 (1792), Thái Tổ Võ hoàng đế thăng hà bỏ dở công cuộc định đánh Mãn Thanh, khôi phục lấy Lưỡng Quảng!
LỜI KẾT
Trước khi hạ lời kết thiên lịch sử ký sự này, tôi hẵng xin dịch một bài bằng chữ Hán của một nhà báo ngoại quốc viết về “Nguyễn Huệ”, trước để thay lời tóm tắt ôn lại suốt cả hai tập sách của tôi đã ghi chép về lịch sử, sự nghiệp vua Quang Trung (1788-1792), sau để giới thiệu với các bạn đọc thân mến: “người lịch sử” ấy của chúng ta đối với con mắt người ngoài ra thế nào. (Chỗ nào tôi có phụ chú hoặc có tỏ ý dị đồng với nguyên tác thì chua ở dưới. Còn lời chú của bài báo ấy thì tôi nói là “lời chua của nguyên tác” cho khỏi lẫn).
Nguyễn Huệ
Hồi thế kỷ XVIII, Việt Nam nảy một vị anh chúa, cưu hùng, cương nghị, chiến công rực rỡ, oai danh ngang với Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh và Lê Lợi cùng được người đời xưng tụng: Ấy là vua Quang Trung408 Nguyễn Huệ, triều Tây Sơn.
Nguyễn Huệ, người làng Tây Sơn, thuộc Quy Nhơn, năm 1774 cùng anh em409 là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ dấy binh, một keo mà đánh đổ được họ Cựu Nguyễn (Sử chép hậu duệ Nguyễn Hoàng là Cựu Nguyễn, họ Nguyễn Huệ là Tân Nguyễn)410.
Năm 1786, Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long, nhất thống được cả bờ cõi ba kỳ.
Năm 1789411, vua Càn Long sai Tôn Sĩ Nghị đem hơn hai mươi vạn quân Lưỡng Quảng và Vân Quý ang Nam; thế mạnh như sóng xô lướt!
Huệ chỉ có mười vạn quân, nhưng hăng hái xông ra, đánh nước lạ, nắm phần thắng412, chia quân làm ba đạo, nhân đêm trừ tịch413 đổ ra đánh úp, huyết chiến hàng sáu ngày đêm: quân Tôn Sĩ Nghị bị thua một cách thảm hại, chết và bị thương đến quá nửa.
Trận ấy, Nguyễn Huệ cưỡi voi lớn, thân ra tận tiền tuyến414 đốc chiến, không nghỉ một chút nào. Chiếc Hồng bào Huệ mặc bị khói thuốc súng hun ám thành ra sắc đen.
Nguyễn Huệ, suốt đời khéo biết dùng binh, liệu việc như thần. Bộ hạ văn võ như Trần Văn Kỷ, Ngô Thì Nhậm, Vũ Nhậm, Nguyễn415 Văn Sở và Trần Quang Diệu… đều là những tay khai quốc tuấn kiệt cả.
Huệ từng hai lần vào thành Thăng Long416, bốn lần hạ Gia Định. Hùng tài như Nguyễn Phúc Ánh cũng vẫn không sao chống nổi.
Tiếc rằng trời không cho sống lâu, ở ngôi mới được 5 năm đã bị bịnh mất, khiến người bằng điếu bùi ngùi mất một anh hùng rồi vận mệnh triều Tây Sơn cũng do đó mà sụp đổ!
(Thần Long – Việt Nam danh nhân dật sử, IV – Nam Phong, Chợ lớn, tập 2, số 6, trang 23).
Sau 21 năm (1771-1792)417 tung hoành trên mảnh đất ngót 32 vạn thước vuông, mấy trận đánh bạt quân Xiêm, dăm ngày quét sạch hai mươi vạn quân Tôn Sĩ Nghị, sự nghiệp anh hùng ấy ngoài chút oai thừa ở mộ giả Linh Đường (thuộc huyện Thanh Trì), nắm xương nằm không yên ở phía nam sông Hương, nay còn gì để lại?
Dẫu vậy, còn chút dấu vết ở Đống Đa, võ công oanh liệt của vua Quang Trung vẫn còn trơ trơ ở bia miệng!
Mồng 5 tháng giêng, ngày giỗ trận, ta thử cùng nhau bằng điếu cổ nhân.
Vào chùa Đồng Quang, ta tham thiền: Thuyền từ đâu? Cành dương đâu? Nước cực lạc đâu? Phật ngồi tự tại, nào hay nông nỗi chúng sinh!
Lên đền Trung Liệt418 ta vãn cảnh: Hoàng Diệu đâu? Đoàn Thọ đâu? Nguyễn Tri Phương đâu? Bia đá đứng im, phó mặc bụi bay, gió thổi!
Ta không khỏi, bùi ngùi…
Loa Sơn, tức Đống Đa kia ơi! Có phải chính mi đã nuốt xác quân Thanh để ghi chiến công phi thường của vị anh hùng hoàng đế?
Vậy, mi hãy cùng cỏ xuân, hoa xuân, cây xuân hát khúc thiên lại để ca tụng cái sự nghiệp bất hủ của “chàng áo vải” con nhà nông dân ở ấp Kiên Thành, mẹ tên là Nguyễn Thị Đồng, cha tên là Nguyễn Phi Phúc!
Quang Trung Quang Trung - Hoa Bằng Quang Trung