However rare true love may be, it is less so than true friendship.

Unknown

 
 
 
 
 
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Azazel123
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 68
Cập nhật: 2020-11-14 06:29:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B (2)
uổi chiều anh Bính nói cho các A nắm cơm sẵn. Nhưng đến tối thì anh lệnh cho A tôi để một tổ ở lại, còn tất cả ghép vào B3 lên đường ngay. Tôi quyết định để tổ Minh ở lại. Mấy cậu Thành, Phái như trẻ con, lúc đòi ở lại, lúc đòi đi.
Tôi dẫn Tổ 1 và Tổ 2 lên C bộ tập hợp. Hai cậu liên lạc Đại đội là Chính “cá gỗ” và Toàn chọc bưởi chia cho cả bọn ngồi ăn. Anh Y chính trị viên phó C sẽ phụ trách toán đi trước này. Ban chỉ huy Đại đội nói chung sinh hoạt thoải mái hơn anh em lính nhiều. Cụ chủ nhà ở đây có con đi bộ đội, trên tường thấy treo nhiều Giấy khen và Bằng Huân chương Chiến công hạng 3 tặng cho con của cụ. Rồi B3 đến, chúng tôi ngược đường hôm nọ ra bến ô-tô. Hai bên đường trồng rất nhiều mía. Lại gặp một đoàn thương binh đi ra, tôi vội chạy đến gửi thư về nhà. Trời tối đã lâu, chúng tôi ngồi nghỉ ở một bãi tha ma cạnh đường cái. Rồi xe của binh trạm tới, toàn loại Vọt tiến (xe tải hai cầu của Trung Quốc, theo kiểu Gas 63 của Liên Xô) và Molotova nhỏ nhắn. Chúng tôi được xếp lên ngồi cùng hai tiểu đội của B3. Tôi gặp lại cậu Hòa cùng A4 trước khi đi B. Xe thì chật chội, đường xóc kinh khủng, có lúc chúng tôi bị nhồi lắc tơi bời như nhảy Rum-ba 15 phút liền. Thỉnh thoảng chiếc xe vấp phải „ổ voi“, chúng tôi bị nâng bổng lên rồi dập mạnh đít xuống sàn xe đau điếng. Các bác sĩ mà bị nhét vào đây hẳn phải la lên rằng. “Xương sống người ta sinh ra không phải để cho những cú đập như vậy!”. Còn chúng tôi thì vẫn nghiến răng chịu đựng. Cái mạng chúng tôi còn chả tiếc, tiếc gì đến cái xương sống. Xe nhãn hiệu “Vọtcứt” có khác. Có lúc tôi thấy xe như cắm mõm xuống vực, thực ra là nó xuống ngầm đá qua suối. Có lúc tôi lại nghe tiếng máy phành phạch ngay cạnh, nhìn sang tôi rất ngạc nhiên thấy con đường giờ đây rộng ra hàng trăm mét. Một bãi trống thì đúng hơn, xe đi hàng năm hàng bảy, đất tơi vụn màu trắng xanh dưới ánh trăng, chằng chịt vết bánh xe. Mấy chiếc máy xúc đang bận rộn san ủi những hố bom mới. Biđông của cậu ngồi cạnh tuột nắp, nước đổ ra ướt cả sườn tôi. Tôi sờ lại bi-đông của mình, thấy nắp cũng đã lỏng. Trên ô-tô dù khát tôi cũng không uống nước. Kinh nghiệm cho thấy: trước khi lên xe và trong quá trình đi, không nên ăn uống, vì rất dễ bị nôn do xe xóc. Chiếc xe chợt dừng lại. Tôi ngó ra thấy một ngã ba gần chân núi, bom đánh be bét. Anh lái xe chạy tới hỏi mấy người Thanh niên xung phong ở ven đường cái gì đó, rồi lại lái xe đi tiếp. Mấy cậu xì xào: “Ngã ba Đồng Lộc!”. “Thế à?”. Tôi ngó lại, cái ngã ba đã khuất sau xe mất rồi. Xe vẫn chạy tiếp men theo núi. Chợt có tiếng máy bay: “Bọn săn xe!”. Chúng tôi báo tin cho người lái. Bỗng “xoẹt! xoẹt!” hai chiếc máy bay to như tàu lá chuối rà sát mặt đường, kéo theo màn tiếng động rền rĩ. Xe chúng tôi quặt ngay vào lùm tre ven đường. Tất cả sẵn sàng phóc ra khỏi xe. Có tiếng bom nổ ì ầm. Sau bom, xe chúng tôi chạy tiếp. Qua một quãng đường hai bên là rừng, tôi bỗng cảm thấy ánh trăng như bị màn sương bao phủ, và mùi khét lẹt xộc vào mũi tôi. Thì ra là khói bom. Xe chạy qua một hố bom mới nổ. Để bù vào thời gian phải dừng, xe tôi luôn đòi vượt. Cậu phụ lái xin vượt không được, lôi AK ra bắn chỉ thiên. Lẫn trong tiếng máy xe, tiếng súng AK chỉ nghe: “Pách! Pách”. Chúng tôi ngủ gà ngủ gật. Rồi xe dừng hẳn: đã đến Binh trạm.
Tôi đứng dậy, thấy chân hơi tê. Kể cũng lạ, trước đây tôi mà ngồi tư thế gò bó như vậy thì sẽ không đứng lên nổi, vì hai chân đờ dại, đau nhói như có trăm ngàn mũi kim châm vào. Thế mà bây giờ không bị nữa, có thể vì trước khi lên xe bao giờ tôi cũng uống vài viên Vitamin B1. Từ các xe khác lính ta cũng đang lục tục nhảy xuống. Kiểm tra trên xe thấy thừa một khẩu AK, anh Y hỏi khắp mà không ai nhận, anh đành phải vác. Chúng tôi im lặng đi thành hàng dọc theo anh giao liên. Cỏ ướt đẫm sương đêm. Anh giao liên kể gần đấy có một tiểu đoàn chủ quan không giữ bí mật, làm lộ nơi đóng quân. Máy bay Mỹ đến đánh trúng vị trí, thương vong nặng, cả Tiểu đoàn trưởng cũng hy sinh. Đi một lúc nữa thì thấy thấp thoáng có nhà trước mặt. Đây là khu đồng bào đi sơ tán nên nhà cửa khá thưa thớt. Tới căn nhà đầu tiên, anh Y quay lại nói: “A4 vào đây!”.
Cả tiểu đội lặng lẽ đi vào sân. Tôi khẽ gọi cửa, bác gái chủ nhà hình như đã quen với chuyện này, mời chúng tôi vào nhà. Nhà nhỏ, nên mọi người chỉ cất súng vào, rồi ra ngoài sân mắc võng ngủ. Hôm sau thức dậy, tôi thấy đây là một xóm nhỏ trên đồi thấp. Nhà cửa bé tí, cây cối mới trồng. Máy bay Mỹ bắt đầu hoạt động, nhìn rất rõ.
Nhà không thấy bác trai, chỉ thấy bác gái trạc 50 tuổi, một chị khoảng 24 tuổi và mấy em nhỏ. Trong nhà có nhiều biđông, hăng-gô và vài thứ lặt vặt khác, chắc của lính để quên rồi biến thành của gia đình. Tổ trực nhật nấu cơm. Tôi đi gánh nước. Sau một hồi quanh co mãi, tôi cũng tìm được khe, nước chỉ láng mặt, có chỗ trơ đất. Bên mép dòng nước, dân khoét những hố nhỏ sâu xuống để chứa nước. Phải lấy gáo múc từng tý đổ vào thùng gánh về. Bác chủ nhà rất tốt, nấu hộ cơm cho bọn tôi, lại nấu cả một nồi nước chè xanh nữa. Ăn xong chúng tôi ngồi nghỉ trong nhà. Chắc chị thanh niên công tác phong trào nên tôi thấy trên giá có vài quyển sách về thanh niên, Điều lệ Đoàn, Kỹ thuật nông nghiệp. Đất ở đây cằn cỗi, cây cối chả ra gì. Đến chiều có lệnh chuẩn bị đi, chúng tôi lại nấu cơm ăn và nắm cơm. Nhà ở đây thưa thớt nên tiểu đội tôi hầu như bị tách ra khỏi nhóm anh Y và B3. Khoảng 6 giờ chiều, trời vẫn sáng, chúng tôi chợt thấy Tiểu đoàn trưởng Khanh đeo ba-lô, cầm gậy đi trước, mấy cậu liên lạc chạy theo sau. Tôi vội hô tiểu đội lên ba-lô, ngó ra đã thấy anh Y tới. Chúng tôi chạy ra đường nhập vào đơn vị. Anh Y cho mọi người ngồi tản mát hai bên đường, vì hình như còn phải đợi C50 ra nữa. Tôi sờ túi quần sau thì thấy bị mất quyển sổ tay bìa ni-lông mầu xanh và chiếc bật lửa của tiểu đội. Chắc là rơi trên xe tối qua rồi.
Trời tối đã lâu mà vẫn không thấy giao liên đến, chúng tôi bèn hành quân ra đường cái. Cứ dò theo lối mòn giữa hai vệ cỏ mà đi, xuống một khe nước bên trên có vòm cây phủ, sang đến bờ bên kia thì hết lối. Lại phải leo ngược dốc lên, dò dẫm mãi mà không thấy đường, chúng tôi ngồi phệt xuống cỏ nghỉ. Rồi giao liên cũng tìm được chúng tôi, may mà lúc nãy không đi vào bãi bom bi nổ chậm. Thỉnh thoảng từ trên đầu hàng quân lại truyền xuống: “Cho C50 vượt lên!” hoặc “Bám sát! Xuống dốc!”. Anh giao liên có khi đi ngược lại hàng quân, vừa đi vừa hỏi: “C50 lên chưa?”… Ra tới đường cái, sau một hồi lộn xộn, rồi chúng tôi cũng leo hết lên yên vị trên các thùng xe. Ai đó nói: “Quãng đường sắp tới có nhiều bãi B52, phải cẩn thận!”. Tạm biệt huyện Kỳ Anh, tạm biệt Hà Tĩnh quê hương!
Tôi ngồi sau anh Y, tay bám chặt vào thùng xe. Nhiều thanh gỗ nẹp thùng xe đã biến mất, nên mỗi lần xe xóc, tôi phải bám thật chặt, vì sợ mình sẽ bị văng ra ngoài. Nhưng mặt khác, nếu có máy bay địch, tôi sẽ có thể tẩu ra ngoài rất nhanh. Anh Y cho tôi nắm Polyvitamin, ngồi nhai rau ráu cũng khoái. Trăng đã lên, mờ mờ sau màn sương. Thỉnh thoảng xe lại bật đèn và tôi có thể nhìn thấy bóng đen to lớn của chiếc xe lướt loang loáng trên những bụi sim mua bên đường. Chợt chiếc xe phanh kít lại. Tôi đứng lên ngó thì thấy phía trước mấy chiếc Zil 3 cầu đang rồ máy chậm chạp tránh nhau. Có người nói: “Bãi B52”. Đây là lần đầu tôi thấy một B52. Hố bom trắng xóa trong đêm, đủ các cỡ to nhỏ chi chít. Chiếc xe đang bò trên khúc cua khuỷa tay, có thể nhìn rõ những chiếc xe khác đang chạy ở phía bên kia. Xe nhảy chồm chồm. Cái bi-đông lúc chiều ở sau lưng, bây giờ đã ra trước bụng, mấy lần tôi phải siết lại nắp cho chặt. Những khẩu súng đặt dưới sàn xe đập lạch cạch tơi bời. Chúng tôi thường tháo băng đạn rồi để ngửa súng xuống sàn như vậy, không biết cái thước ngắm hay cái đầu ruồi liệu có bị biến dạng không? Nhiều cậu lại cho rằng, vào đến nơi người ta sẽ phát cho súng khác để chiến đấu?
Nửa đêm đến nơi trú quân. Chúng tôi nhanh chóng xuống xe. Tiểu đoàn hành quân theo hàng một, có giao liên dẫn đầu. Tới ngôi nhà có rào râm bụt, anh Y nói: “A4 vào đây“.Tôi dẫn A4 tách khỏi đội hình.
Cả nhà chủ đã ngủ yên, tôi khẽ gọi. Một bà già lệt sệt đi ra, tôi nói xin ngủ nhờ, rồi cả bọn nhanh chóng mắc võng lăn ra ngủ.
Sáng hôm sau tôi dậy sớm, lấy quang gánh đi nhận thực phẩm cho Tiểu đội. Các A của B3 cũng cử người đến. Loanh quanh một hồi mới tìm được kho Binh trạm. Lúc lấy gạo rất lộn xộn, người của C50 ra đông quá, gọi nhau í ới. Tôi phải chạy mệt nhoài để lấy số gạo chung với C50, mỗi B của họ phải san cho một ít. Sau đó tất cả lại sang nhà bên lấy thực phẩm gồm rau, bí đỏ, thịt muối. Không có đường, họ phát cho chúng tôi kẹo bọc giấy bản để thay thế.
Hôm nay đến tổ của Quang “xỉu” xuống bếp nấu ăn. Dưới bếp thấy có rá trứng luộc, sau mới biết bà chủ nhà luộc bán cho lính. Tôi phát cho mỗi cậu 4-5 cái kẹo, cho cả hai đứa con chủ nhà. Nhà có hai gian, chúng tôi được nhường ở một gian. Tôi chợt nhìn thấy khắp nơi trên cánh cửa, trên cột nhà, trên vách gỗ, trên các bức tranh dán tường…chi chít những dòng chữ bằng mực, chì, bút bi, to nhỏ xiên xẹo đủ kiểu chữ. Một hàng chữ viết bằng bút bi: “Đỗ Văn Tính, quê Đồng Tiến, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Đã qua đây ngày 01-08-72. Chúc các đồng chí đi sau mạnh khỏe, hẹn gặp lại ở chiến trường“. Một hàng khác bằng bút mực: “Lê Tiến Chung, quê La Sản, Lý Nhân, Nam Hà. Qua đây ngày 14.06.72“. Một hàng khác nữa có khung vuông đậm nét:“ Đặng Tài Đức, Phương Liên, Hoài Đức, Hà Tây. Đã ở đây 2 ngày 16-17.07.72“. Tôi cố tìm trong hàng trăm cái tên đó xem có ai quen không, nhưng cả tiếng đồng hồ lò dò trên các bức vách mà không kết quả gì. Bèn rút bút ra, nắn nót viết lên cánh cửa: “Nguyễn Quang Vinh, B1 KTT Nguyễn Công Trứ, Hà Nội. Qua đây ngày.../08/72. Chúc các đồng chí đi sau mạnh khỏe, hẹn gặp lại ở chiến trường“.
Bữa trưa có bí đỏ xào thịt khá ngon. Ăn xong chúng tôi nằm nghỉ. Hình như có tiếng ai khóc, tôi dỏng tai lên nghe. Đúng rồi, từ ngôi nhà phía sau chúng tôi có tiếng khóc vẳng tới. Vườn cây khuất nên tôi không nhìn thấy gì, chỉ đoán đó là 1 bà mẹ đang khóc, dóng lên từng hồi nức nở nghe rất lạ. Có tiếng ai đó an ủi, tôi nghe câu được câu chăng nhưng cũng hiểu chuyện: Bà mẹ vừa nhận được tin con gái đi Hỏa tuyến (Dân công hỏa tuyến) đã hy sinh. Lòng tôi chợt nao nao. Chiến tranh đã gây đau khổ cho biết bao bà mẹ, biết đâu lại chẳng có mẹ mình… Tôi lắc đầu cố xua đuổi ý nghĩ ghê rợn đó.
Buổi chiều, đùa cợt với Thành “ma tịt” một lúc, tôi tha thẩn tản bộ dọc đường cái. Đây là một cái làng gần sông. Chợt thấy Nghĩa trang Liệt sĩ trên đồi thông tôi bèn rẽ vào. Có nhiều nấm mồ còn mới, mộ chí bằng gỗ hoặc sắt tây. Phần lớn các mộ mới là của Liệt sĩ Thanh niên Xung phong, nữ chiếm đa số. Quê các chị thấy ghi Nam Hà, Thái Bình, Nghệ An…
Từ trên Nghĩa trang tôi nhìn được ra sông. Ở phía dưới ấy có một bến đò. Hố bom nham nhở trên bờ dốc, xới lên mầu đất nâu đen. Hôm nay trời mù, mây xám xịt nên máy bay Mỹ ít hoạt động. Buổi tối cả tiểu đội lại nhao nhao đòi tôi kể chuyện. Từ khi được nghe “Hầm bí mật bên bờ sông En-bơ” ở Đức Thọ, các cu cậu đâm ra mê chuyện kể của tôi. To mồm đòi nhất là Thành “ma tịt” và Phái “con”. Tôi bèn kể cho cả bọn nghe chuyện ngắn “Phát súng” của Pushkin.
Hôm sau, trời vừa sáng đã thấy một chiếc F4 trinh sát đến quần đảo. Tôi giở giấy bút ra viết thư về nhà, mặc cho tiếng máy bay gào điếc cả tai. Rồi 2 chiếc A6A bay tới. Nghe tiếng súng 12,7 ly nổ “pách, pách”, tôi vội chạy ra nhìn. Chiếc A6A thứ nhất đang bổ nhào xuống, to đến nỗi tôi nhìn rõ cái đầu tròn rụt của nó với thanh kim loại cắm ở mũi. Nó bắn một tràng dài rồi ngóc cổ bay lên. Đến lượt chiếc A6A thứ 2 bổ nhào, to nhanh một cách kinh khủng lao xuống phía bờ sông. Tiếng súng 12,7 ly của ta vẫn bắn trả liên hồi. Từ dưới cánh máy bay tách ra 4 đốm đen, nhanh chóng hiện nguyên hình là 4 quả bom vun vút lao xuống. Tôi vội hô tiểu đội nằm và nhoài ra đất. Hơi bom nổ phần phật, ngôi nhà lay chuyển kêu răng rắc. Một mảnh ván thuyền từ phía sông bị văng lên rất cao, quay tít. Mẹ kiếp, nó phát hiện được bến đò của ta rồi. Tôi quay trở vào tiếp tục viết nốt bức thư cho gia đình.
Đến chiều, chúng tôi lên đường, đi qua nghĩa trang rồi xuống bến sông bị đánh lúc sáng. Trời tối sẫm, nhìn thấy lờ mờ hàng quân của Đại đội đi trước. Vượt qua con đê nhỏ, chúng tôi xuống sát mé nước. Mấy cái sà-lan to, kiểu toa tầu điện có ca-nô kéo, đã trực sẵn. Lính đông quá, chen chúc lộn xộn. Tiểu đội tôi cứ chờ đến lượt mình, mặc dù B3 đã xuống hết rồi. Không thể nhét thêm người vào khoang này nữa, người ta chỉ cho chúng tôi lên khoang trên. Chen nhau đi trên miếng ván mảnh mai, bập bềnh như muốn hất mọi người xuống sông. Còn khoảng 2-3 bước nữa, tôi chồm lên chạy bám vào sà-lan, suýt ngã. Trong khoang tối như hũ nút, tôi nhảy đại từ trên cửa xuống sàn tàu. Hai bên mạn có hai hàng ghế, bên trên có chỗ để đồ. Ở giữa, dọc theo tàu, hình như có cái bàn dài cũng đã đầy lính. Tôi dò được một chỗ trống trên bàn, bèn ngồi xuống, ngả người dựa lên ba-lô. Mệt thật, xung quanh toàn là lính xa lạ, A tôi mỗi đứa tản một góc. Tôi nhìn qua cửa sổ trắng đục, thấy cái bóng đen thẫm của bờ xa dần. Cậu phụ trách sà-lan kêu mọi người dịch ra để rút cái ván vào, gác từ bậu cửa bên này sang bậu cửa bên kia. Tấm ván dầy, nặng, ướt và bùn nhớp nháp. Con phà trôi đi chậm chạp. Một cậu nào đó ngồi gần cửa rút cái kèn Harmonica ra thổi. Cậu ta thổi liến thoắng, hết bài này sang bài khác. Hắn thổi khá thật, toàn theo bản năng, chỉ vấp váp lần đầu, còn lần sau trở đi bài nào cũng trơn tru. Hết “Nổi lửa lên em” lại “Hoa Chăm pa”, “Niềm hạnh phúc” rồi “Lăm tơi”, tiếng kèn rộn ràng náo nức. Cả khoang tàu bị lôi cuốn, lính ta dậm chân xuống sàn, đấm bàn, gõ vào ghế cành cạch để nhịp theo tiếng kèn, tạo ra những âm thanh ầm ĩ điếc tai. Tôi cũng bị lôi vào vào cái không khí cuồng nhiệt ấy. Không một ai còn cảm thấy hơi lạnh của màn đêm trên sông.
Dòng sông hình như rộng mênh mông ra. Trông giống như ngã ba sông, hay gần ra biển rồi? Đây là sông Gianh chăng? Một chiếc phà đi ngược chiều chúng tôi, chỉ thấy một vệt đen sẫm trên mặt nước nhờ nhờ, nhận ra phà nhờ có hai cái đèn xanh đỏ. Thủy thủ hai bên bắn đạn lửa lên trời báo hiệu cho nhau. Hình như lúc chiều ở đây có bom từ trường. Xa xa một dãy đèn dù vừa bật sáng. Chà, nếu bây giờ máy bay Mỹ chợt đến nhỉ? Kệ, không nghĩ tiếp nữa, muốn đến đâu thì đến.
Chợt trên cao thoáng có những ánh chớp, rồi một loạt tiếng “bụp, bụp” dội xuống. Cái gì thế? Về sau tôi mới biết đó là pháo tăng tốc của Hải quân Mỹ, loại pháo nổ 3 lần. Lần đầu khi đạn ra khỏi nòng. Bay được một quãng đường nhất định, quả đạn lại nổ lần thứ 2 ở trên không, đẩy đầu đạn bay xa nữa. Rồi mới rơi xuống và nổ lần thứ 3. Pháo biển bắn hàng loạt, nên đạn nổ tăng tốc trên không cũng hàng loạt. Như vậy đạn pháo biển có thể đi được rất xa. Từ biển mà chúng bắn lên tới Cồn Tiên, cao điểm 135 và thậm chí tới sườn Trường Sơn.
Tôi mò nắm cơm ra ăn với ruốc thịt. Ăn xong lại ngả người nằm, gối đầu lên ba-lô cậu ngồi sau. Không hiểu hắn nhét cái gì vào đó mà cứng khiếp, tôi ngủ gà ngủ gật.
Tới nửa đêm tàu cập bến. Cả bọn choàng dậy đeo đồ đạc rồi chen chúc nhau trèo ra ván cầu. Trên bờ, một đám đông đang nhốn nháo. Đó là đoàn thương binh đi ngược ra, ăn mặc đủ kiểu lộn xộn. Tiếng thăm hỏi nổi lên rào rào, ai cũng thử tìm đồng hương. Thấy 1 cậu nhận là người Hà nội, tôi dúi vào tay cậu ta mấy lá thư nhờ hắn gửi hộ. Chạy ngược chạy xuôi trên bãi cỏ, gọi khản cả cổ tôi mới tập hợp được Tiểu đội vào 1 góc. Các đại đội khác vẫn đang gọi nhau í ới thì bộ phận của chúng tôi đã lên đường trước. Vượt qua con dốc, nhìn thấy những quả núi nhỏ trước mặt. Chúng tôi đi trên con đường đá đắp cao, chắc là đường xe lửa hay xe goòng ngày xưa. Con đường dài thật, hai bên toàn là những bụi cây lau lách rậm rạp. Chúng tôi nghỉ giải lao đã mấy lần, thỉnh thoảng lại phải dạt vào vệ đường tránh một chiếc xe đi ngược lại. Mệt nhọc, vai nặng trĩu, đôi mắt cứ díp lại. Tôi luôn tự nhủ rằng tất cả nỗi vất vả này rồi sẽ qua đi, và hai chân cứ bước đều đều như cái máy.
Chợt thấy đường ô-tô bằng đất. Chúng tôi dừng ở một ngã tư, có mấy cái xe đang đỗ. Cả bọn tản ra nghỉ, đợi những toán đi sau. Khi đã dồn đủ đội hình, chúng tôi lại đi tiếp. Đến một chỗ ngoặt, đoàn quân bắt đầu lội qua sông bằng một ngầm đá. Nước lạnh buốt làm chúng tôi tỉnh ngủ. Dưới ánh trăng mờ tất cả xắn quần lên đến bẹn và lò dò thận trọng lội từng bước. Ngầm đá này làm bằng những hòn đá to như chiếc mũ cối, bị ô-tô qua lại làm xáo lộn lổn nhổn dưới nước. Khi dẫm lên, hòn đá dễ bị lật, hoặc bị thụt chân xuống kẽ đá, làm lính ta với đủ thứ lỉnh kỉnh trên người vất vả lắm mới được thăng bằng. Tất cả vịn vào sợi dây cáp ven ngầm để lội sang. Dây cáp nhiều người bám vào, nên lúc nó chùng xuống, lúc lại căng lên, làm nhiều cậu vồ ếch. Có cậu ngã ngửa, chân rút không lên, cứ đành nằm ngâm nước đợi người sau tới kéo dậy. Sang tới bờ bên kia chúng tôi tranh thủ đi tiếp một quãng dài nữa mới nghỉ. Bên đường là mấy ruộng rau muống lẫn cỏ, cá đớp tí tóp. Sao lâu tới thế nhỉ? Đã tới một ngôi làng, bóng tre phủ tối om. Rẽ ngoặt một hồi, chúng tôi dừng lại cạnh kho binh trạm ở giữa làng, đợi giao liên đưa đi nhận nhà. Hỏi chủ nhà xong, cả lũ nhanh chóng mắc võng và chìm ngay vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau Tỵ và Quang đi lĩnh thực phẩm. Tôi củng cố lại chỗ ngủ, sắp xếp lại đồ đạc cho gọn, rồi ra giếng ở góc vườn rửa mặt. Sau nhà có cái chuồng gà cao như cái lô-cốt, đan bằng nứa. Chủ nhà là một phụ nữ khoảng 37-38 tuổi, có đứa con trai khoảng 13-14, và mấy đứa nhỏ hơn. Cũng như ở trạm trước, tôi thấy trên cửa và vách nhà chi chít những dòng chữ, nên lại rút bút viết mấy dòng lưu niệm. Biết đâu Tiến Dũng đi sau sẽ bắt gặp những dòng chữ này, tôi mỉm cười nghĩ vậy.
Bỗng anh Y và cậu liên lạc đi từ ngoài ngõ vào. Tôi ngạc nhiên thấy anh mang cả ba-lô và đầy đủ lệ bộ cùng những thứ thực phẩm vừa lĩnh. Nét mặt anh vẫn chưa hết bực bội. Thì ra anh có chuyện xích mích với chủ nhà bên kia và hai ông bà già tỏ ý không muốn cho anh ở nhờ nữa. Anh bèn chuyển sang đây, thỉnh thoảng lại lầm bầm nguyền rủa. Lúc này Quang và Tỵ đã về, nhìn thấy đống thực phẩm anh Y mang sang, các cậu nháy nhau có vẻ khoái chí. Quả thật suất thực phẩm của cán bộ bao giờ cũng tươi hơn của anh em nhiều lắm.
Vì đông người, chúng tôi dọn cơm ra ngoài sân ăn. Đứa bé con chủ nhà cầm bát sắt chạy tới. Quang xới cơm và lấy thức ăn cho nó. Hình như chú bé làm việc này đã quen lắm rồi. Nó bê cơm vào buồng với mẹ, ăn hết nó lại chạy ra xin nữa. Anh Y phá cả gói ruốc thịt lợn nửa cân bày ra mâm, làm chúng tôi lác cả mắt. Đến lượt gia đình dọn cơm ăn, họ đến xin chúng tôi mì chính rất tự nhiên.
Trời mây chì. Chợt nghe 3 phát súng, hiệu lệnh báo có B52 tới. Chúng tôi cũng chẳng biết nấp vào đâu, vì cái hầm chỉ đủ chứa gia đình chủ nhà. May quá sau đó không có chuyện gì xảy ra.
Buổi chiều có lệnh đi, lại ngược ra kho binh trạm hôm qua. Tới bãi xe thì trời đã tối, thấy có nhiều bóng người và đốm thuốc lập lòe. Tất cả ngồi nghỉ dọc theo một con hào phòng không. Mãi hai tiếng sau xe mới tới. Chúng tôi khẩn trương lên xe, vừa kịp ổn định chỗ ngồi thì chiếc xe đã bật đèn rồ máy chạy luôn. Đường xóc nghiêng xóc ngửa, nhưng so với loại “Vọt cứt” thì xe này đỡ hơn nhiều. Có thể loại ZIL130 này bánh sau là bánh kép nên êm hơn chăng? Trăng đã lên, tỏa ánh vàng nhợt nhạt qua các đám mây mù. Chợt chiếc xe dừng lại, có lệnh chặt lá ngụy trang cho xe. Anh Y nhảy xuống đường rút dao găm chặt những cành lá to chuyền lên cho chúng tôi cắm vào thùng xe. Trong đêm khuya tĩnh mịch chiếc xe của chúng tôi mở hết tốc lực lao trên con đường giữa những cánh rừng nhỏ.
Đã khuya lắm rồi, xe từ từ giảm tốc độ, hình như đã đến nơi. Chúng tôi dỏng tai nghe đối thoại giữa anh lái xe và 1 người nào đó đứng dưới đường: Binh trạm đã chuyển sang chỗ khác. Anh lái không biết vì hôm nay mới chạy lại đường này. Anh bèn cho xe tách khỏi con đường, chạy đè lên cây cỏ, những bụi sim mua, có người dẫn đường đứng bên ca bin. Có lúc chiếc xe bị dệ xuống hố, bánh sau quay tít mà không lên được, chúng tôi phải xuống đẩy. Rốt cuộc rồi cũng tới được một con đường khác. Chay một lúc nữa thì anh lái tuyên bố hết đường, tất cả phải xuống đi bộ vào binh trạm. Các xe sau chưa thấy cái nào đến cả. Anh lái bèn cho xe thụt lùi để chuẩn bị đón một đoàn khách ra. Chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy đoàn này toàn là những em bé 6-7 tuổi, đội mũ Giải phóng (mũ tai bèo), cả trai lẫn gái. Giọng Miền Nam của trẻ nhỏ nói nghe hay hay, chắc là con em cán bộ Miền Nam ra đi học.
Có lệnh dừng lại đợi bộ phận đi sau. Đây là một quãng đường đất vắng vẻ, hai bên toàn cỏ và những bụi sim lúp xúp. Chúng tôi đặt ba-lô xuống nghỉ rồi giở cơm nắm ra ăn. Nhưng chỉ được một lúc, mọi người bỗng ồn ào xôn xao cả lên. Muỗi, muỗi tấn công tới tấp. Tiếng phì phạch khắp nơi, vì lính ta lấy cành lá đập vào chân tay hoặc lấy khăn mặt phe phẩy. Không ăn thua gì vì đây là loài dĩn chứ không phải muỗi. Tất cả phải hạ ống quần, ống tay áo, nhưng chúng vẫn không tha các ngón tay, bàn chân, gáy, mặt. Phát điên lên được, tôi chồm dậy đi đi lại lại như một thằng rồ, nhiều người khác cũng vậy. Đến hơn giờ sau mới dồn đủ đội hình, các A tới sau định ngồi nghỉ, nhưng rồi họ bật dậy ngay vì dĩn, và chúng tôi vội vàng đi tiếp. Con đường dốc sỏi lổn nhổn, hai bên là đồi cao. Có tiếng máy bay, rồi đột nhiên hai chiếc F4 xoẹt qua trên đầu, để lại sau một màn tiếng động rền rĩ. Mấy cái pháo sáng bung ra, leo lét trong ánh trăng mờ. Tất cả bì bõm lội qua con suối nhỏ. Sương đêm lạnh buốt, đọng lấp loáng trên lá cây hai bên đường. Nhiều quãng vừa đi vừa phải gạt cành lá sang hai bên lấy lối. Thỉnh thoảng bị tắc đường phải dừng lại hàng nửa giờ. Đang đà đi mà đứng lại lâu thì chồn chân lắm. Nhiều cậu cứ phải dậm chân tại chỗ. Một số khác đưa súng ra sau làm que chống nâng Ba-lô lên cho đỡ nặng. Vài cậu quăng mình nằm xuống vệ đường, đè lên cả ba-lô, để rồi lại vội vã đứng dậy đi tiếp khi có lệnh. Tôi đi như người mộng du. Hình như lại lội qua một lạch nước nhỏ và bắt đầu đi lên quả đồi có nhiều cây cao to, âm u. Bãi khách (1) đây rồi, khắp nơi í ới căng tăng mắc võng. Tôi và Đệ mắc hai võng liền nhau rồi chìm ngay vào giấc ngủ mê mệt.
-------------
(1) "Bãi khách“ là tên gọi một kiểu trạm giao liên thời chống Mỹ, nơi nghỉ tạm của của bộ đội, TNXP, cán bộ... giữa rừng, trên đường hành quân vào chiến trường và từ chiến trường ra. Nhà thơ Xuân Sách có bài thơ "Trạm giao liên và bãi khách“ có những câu: Trạm giao liên nhỏ như cái nấm/ Chủ có dăm người khách thì hàng vạn/ Lo ăn lo ở toát mồ hôi/ Mà trước nhà còn có khóm hoa tươi/ Khách toàn những chàng trai trẻ đẹp/ Cô chủ nhà giữ vẻ nghiêm trang:/ - Các anh ngủ, ngày mai còn đi tiếp/ Nhưng cả rừng lại cất tiếng cười vang/ Giữa những khuôn mặt hiền như ánh trăng/ Nào có biết ai sẽ là dũng sĩ/ Ai sẽ tung hoành trong trại đồn giặc Mỹ/ Ai là anh hùng đốt cháy xe tăng?/ Ai ngày sau thám hiểm Trường Sơn/ Có còn nhớ trạm giao liên mọc như cái nấm/ Và bãi khách, rừng cây mòn vết võng/ Đã đi qua một thời đại anh hùng (BT).
Sáng hôm sau tôi cử Đệ nhóm lò nấu ăn, còn mình cầm Ny-lông đi lấy nước. Cái lạch tối qua chúng tôi lội qua rất bẩn, nước tù, xâm xấp mắt cá chân, ngập đầy lá cây mủn đen, hôi thối. Tôi phải đi ngược dòng, tới 1 chỗ lòng lạch rộng hơn, 2 bên vòm nứa âm u, nước khá trong, có rong lượn lờ ở dưới. Tôi vục nước vào Ny-lông túm lại vác về. Đệ đã chọn bếp và nhóm lò xong, chúng tôi nấu cơm rồi hâm thịt hộp. Khắp bãi khách cũng đang ý ới tiếng gọi nhau, tiếng chẻ củi… Bọn B3 mãi không nhóm nổi lò, chắc chọn phải cái bếp Hoàng Cầm tồi quá. Tiểu đội tôi đã đàng hoàng dỡ cơm ra ăn. Anh Y có vẻ hài lòng, mang 1 gói ruốc thịt nữa ra cùng ăn với chúng tôi. Bọn B3 cuối cùng đành phải sang xin nấu nhờ bếp. Thành và Phái nằm 1 góc sát với B3, chúng lười quá, lay mãi mới chịu dậy ăn cơm. Xong xuôi, anh Y đi họp, tôi cầm nilông đi lấy thêm nước. Dọc đường tôi cố để ý xem có gặp Đại Cường, Quốc Hưng hoặc Phổ Thọ (những người bạn cùng trường) không? Hưng tôi đã gặp ở Nghĩa Đàn, đen và khỏe, ở trường cậu ta tập xà kép rất giỏi. Còn Cường và Thọ thì chưa gặp. Khi trở về, anh Y ra lệnh nấu cơm nắm, chuẩn bị hành quân ngay.
Mặc dù còn rất mệt, chúng tôi vẫn phải thu dọn đồ đạc, tập hợp nghe anh Y phổ biến. Sẽ hành quân bộ, lá ngụy trang được cắm vào ba-lô. Tôi lơ đãng nhìn chùm hoa phong lan đuôi sóc màu vàng nhạt bám lủng lẳng trên một thân cây. Chợt nhớ bi-đông mình rỗng không, tôi vội chạy đi lấy nước. Hỏi đường mấy cậu cầm bi-đông đi ngược lại, tôi chạy sâu vào rừng. Tới một hồ nước nhỏ, xung quanh là vách đá, dây leo um tùm, tôi thận trọng trèo xuống. Một tấm ván áo quan sơn đỏ đã phai dùng làm cầu, cạnh cầu có lạch nước tuôn vào hồ làm nước hồ sủi lên ùng ục. Xung quang tĩnh mịch quá khiến tôi rờn rợn: nếu bất chợt một mõm cá sấu nổi lên giữa hồ thì sao? Tôi vục bi-đông thật nhanh rồi vội vã bám dây leo ngược lên, chạy biến về đơn vị.
Đoàn quân lên đường. Đi dưới tán lá của rừng già Trường Sơn, chúng tôi rất yên tâm mặc dù máy bay Mỹ đang quần đảo trên đầu. Khi nghỉ giải lao, cả bọn ngồi dạt vào các lùm cây ven đường cho các C sau vượt lên. Ngồi nhìn từng khuôn mặt lướt qua để tìm người quen. Ba-lô, xanh-tuya, súng đạn, thùng đạn lỉnh kỉnh diễu qua. Một cậu dáng thư sinh đi tới. Đôi mắt cậu ấy đẹp quá, như mắt con gái, lông mi dài cong, lòng trắng trắng xanh. Tôi nhớ ra cậu này là bạn của Duy Minh, tiếc là Duy Minh không có ở đây. Gặp cậu Bình, trước học cùng Trường Đoàn Hoàng Văn Thụ, tay xiết chặt tay, ai ngờ lại gặp nhau ở rừng Trường Sơn này. Chúng tôi lên ba-lô đi tiếp. Máy bay Mỹ vẫn quần đảo trên đầu, tôi vừa đi vừa theo dõi chúng. Lính đại đội trước đã dạt vào vệ đường nghỉ, các cậu ấy vừa cười nói vừa ngắm chúng tôi diễu qua. Cảnh như vậy cứ lặp đi lặp lại mãi. Hình như bọn Mỹ đánh phá ở hướng chúng tôi đang đi tới, tiếng bom ình ình, máy bay gào rú trên đầu. Qua vòm lá rừng già tôi thấy một tốp 4 chiếc F4 chui vào mây. Tiếng rít váng óc lao qua cùng với một chiếc F4 bay rất thấp, để lại dải khói đen dài. Tới một chỗ nghỉ khác, cả bọn ngồi ngắm mấy chú sóc đang chuyền cành. Chúng nhỏ bé, màu đen hoặc vàng bẩn, không đẹp như trong sách và phim ảnh thường thấy. Hành quân bộ tốn nước thật, tôi phải uống hết sức dè sẻn. Từ sáng đến giờ thấy toàn lên dốc, hết cái dốc này đến cái khác, chắc đang đi lên đỉnh một quả núi nào đấy. Ở một vài chỗ nghỉ, tôi nói chuyện với anh Ngạn B3, trước là giáo viên cấp II (anh Ngạn về sau hy sinh khi vượt sông Thạch hãn tháng 11.1972). Đội hình trở nên loạc choạc, mạnh ai nấy đi, lính C này lẫn với lính C khác. Một số cậu nằm thẳng cẳng trong các búi cây ven đường. Cái dốc hầu như vô tận, thỉnh thoảng nó chùng xuống để rồi lại cao vút lên. Trước một đoạn dựng đứng, chúng tôi phải nghỉ lấy sức, ngồi ngổn ngang trên các thân cây đổ. Cái dốc khủng khiếp thật. Mũi người sau chạm gót người trước, và cái ba-lô người trước luôn lủng lẳng trên đầu người sau. Phải dùng cả bốn chi, bám vào cây cối hai bên đã tơi tả mà nhích lên. Vô phúc nếu có cậu nào ở phía trên tuột tay, chắc cả một dây người phía dưới sẽ gặp tai họa. Tôi bò lên khỏi dốc, cố đi vài bước nữa rồi ngồi phịch xuống nghỉ. Xung quanh đấy cũng có nhiều lính đang nghỉ. Tôi rút bi-đông nước lã ra, đem pha đường sữa vào và uống luôn. Nhiều cậu khác cũng làm như vậy, mà chả bao giờ thấy đau bụng cả.
Vùng núi chỗ này nhiều cây lá nón quá, mới đầu tôi cứ tưởng lá cọ. Dưới tán lá cây cổ thụ rừng già là giang sơn của lá nón. Sau này tôi mới hiểu câu thơ “...mà rừng lá nón đêm nay ngời ngời” là như thế nào. Tôi và Tỵ uống nước xong lại đi tiếp. Đến chỗ có mấy người nghỉ, thấy một cán bộ đang nói chuyện. Chúng tôi xem khẩu súng lục của anh và tý toáy học cách sử dụng. Hình như đỉnh cao nhất đây rồi, vì sau nó tôi thấy con đường dốc hun hút. Mặt trời đã ngả về tây, như vậy là lên đến đỉnh dốc chúng tôi đi mất nửa ngày. Xuống dốc tốc độ có nhanh hơn một chút. Qua màn lá thoáng thấy đỉnh quả núi bên cạnh, thấp hơn chúng tôi nhiều, đỉnh của nó xanh đen và mờ mờ như phủ khói. Xuống dốc thường có xu hướng chạy, tất cả đồ đạc trên người mình đều muốn kéo mình chạy. Cậu Tỵ lúc đầu còn chạy từ từ, sau mỗi lúc một nhanh và cuối cùng thì vấp vào rễ cây ngã sóng soài ra đất, ba-lô cùng nồi xoong lộn qua đầu bay xa gần chục mét. Tôi chạy lại nâng dậy, may không việc gì cả, chỉ trầy da tí.
Xuống dốc cũng khốn khổ. Những người sống nhiều ở rừng núi đều khẳng định rằng xuống dốc (nhất là dốc cao) khó nhọc hơn lên dốc. Thật vậy, xuống dốc chồn chân không thể tả được, gân cứ phải chùng liên tục, bánh chè muốn rơi ra ngoài. Nhiều đoạn phải ngồi bệt xuống, trượt đi từng tí một. Có những chỗ đường dốc hẳn về một bên, lại nhiều người đi nên đã nhẵn thín, dễ trượt xuống dưới lắm. Thỉnh thoảng lại cảm thấy như đang đi một mình, đằng trước đằng sau chẳng có ai cả. Có đoạn đi bên sườn núi, nhìn ra phía đông xuyên qua tán lá rừng, có thể nhìn thấy biển xa tít tắp. Rồi những cồn cát trắng nhỏ xíu, đồng ruộng, làng mạc xanh mờ và một dòng sông bạc đang uốn khúc, y như trên máy bay nhìn xuống. Tự nhiên lúc đó tôi thấy tự hào vô cùng. Dầu sao đôi chân của tôi cũng đã in dấu trong rừng Trường Sơn, in dấu lên con đường lớn của dân tộc, và lòng tôi cứ ngân lên hai câu thơ của Tố Hữu: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
Tôi đang ngồi nghỉ ở lưng dốc thì thấy một toán lính C50 đi tới, trong đó có Phổ Thọ. Thoáng chút bất ngờ, Phổ Thọ ngồi lại nói chuyện với tôi. Chắc 5h chiều rồi, chúng tôi đứng dậy. Thọ bảo tôi đi sau nhé, vì cậu ta không thể đi lò dò xuống dốc được, chồn chân lắm, mà phải chạy. Tôi chưa kịp can thì Phổ Thọ đã lao xuống dốc, với chiếc ba-lô kếch sù và đủ thứ lệ bộ súng ống trên người. Cậu ta thoăn thoắt nhảy qua các rễ cây với một tốc độ kinh người, và hun hút biến mất ở chân dốc. Một lúc sau tôi lại gặp Thọ đang ngồi nghỉ ở ven đường. Chúng tôi pha nước đường chia nhau, nước hứng ở một mạch đá nhỏ giọt gần đấy. Trời gần tối, xung quanh lính nghỉ ngổn ngang, nhiều cậu mặt mày xanh xám. Một số khác kiếm củi nước tính chuyện nấu cơm ăn nghỉ tại đây. Hình như binh trạm không còn xa lắm. Thọ lại đứng dậy đi trước, cậu ta nói đến nhận chỗ ở để nấu cháo cho tiểu đội.
Trời tối hẳn. Chúng tôi dò dẫm từng bước như đi trong hũ nút. Rồi bỗng nghe thấy nhiều tiếng í ới, thỉnh thoảng lại lóe lên vài đốm sáng của bật lửa. Tôi căng mắt nhìn, thấy cạnh các gốc cây lô nhô nhiều cọc phụ. Tôi gọi to để tập hợp tiểu đội, rồi nhanh chóng căng tăng mắc võng. Đói và mệt, chúng tôi cũng chẳng buồn nấu ăn nữa, leo lên võng ngủ luôn.
Sáng, đi tìm bếp nấu ăn. Hôm nay đến phiên Thành “ma tịt” và Phái “con”, hai cậu lười nhất tiểu đội làm cơm. Qua một ngày mệt nhọc và một đêm li bì, hai cậu không muốn dậy. Tôi kiên quyết dựng cổ hai tên này lên bắt làm việc. Cả A được lệnh đi kiếm củi, giúp nhóm bếp. Tôi xách ni-lông đi xuống suối. Có chỗ dòng suối đang hẹp bỗng phình rộng ra và sâu xuống, bốn xung quanh và đáy toàn đá rất to, màu đen, được nước mài nhẵn thín. Lính ta tụ tập khá đông để rửa mặt và lấy nước. Chúng tôi đào 1 hố gần bếp, lót ni-lông làm bể chứa và đổ nước vào. Sau đó tôi cũng cầm dao đi chặt củi. Nói chung củi khô rất hiếm, những cành nằm dưới đất thì cong queo và còn tươi cả. Chúng tôi phải tìm những cọc phụ cũ, giá ba-lô cũ, và tốt nhất là những bếp Hoàng cầm cũ, phá ra để lấy củi. Nước uống trở thành nhu cầu cấp thiết, có bếp đun, tội gì mà uống nước suối. Mọi người tranh nhau xoong nước sôi để đổ vào Bi-đông. Vài cậu còn lấy ống coóng (ống bơ) đun nước riêng.
Cơm chỉ có món độc nhất là canh đồ hộp, vị gây đến buồn nôn. Tôi ăn chẳng được mấy, cảm thấy hơi mệt. Hôm nay mà đi tiếp thì thật là gay, may quá, anh Y đi họp về tuyên bố hôm nay nghỉ. Tôi thơ thẩn đi ra suối. Lính ta đang tắm khá đông. Nhảy trên các phiến đá, tôi ngược lên phía thượng nguồn, nơi quang cảnh rất vắng lặng. Tôi ném vài hòn cuội đuổi các chú cá con rồi quay về. Mấy hôm nay bắt đầu có triệu chứng đi ỉa lỏng. Tôi sờ đến hộp thuốc cá nhân, sực nhớ còn có con sâm cao-ly gia đình trang bị cho, bèn lấy mấy miếng vụn để ra ngoài để khi cần dùng được ngay. Trên đường về gặp Tiểu đoàn trưởng Khanh đang chỉnh mấy cậu lính ỉa bậy bừa bãi.
Đến chiều có lệnh nấu cơm nắm chuẩn bị sáng mai đi sớm. Tôi cảm thấy mệt vô cùng bèn lên võng nằm. Chợt nghe có ai gọi tên mình, nghe như tiếng của Duy Minh. Đúng thật, bộ phận đi sau đã tới. Tôi ngồi dậy đón Duy Minh với Lâm Thành, Chính, Đường. Họ rất mệt, không hiểu mai có hành quân tiếp được không?. Tôi động viên họ và giúp tìm chỗ căng tăng mắc võng. Tôi nằm nhưng không ngủ được. Mệt quá, có lẽ ta ốm chăng? Hậu quả của mấy ngày leo núi cật lực chăng?. Đêm trong rừng già Trường sơn thật tĩnh mịch. Nhiều lúc mở căng mắt mà không thấy gì, bóng tối đặc quánh tưởng có thể xắn ra được. Tôi nằm nghe tiếng sương rơi lộp độp trên mái tăng mà lòng nhớ nhà da diết. Không biết mình có bao giờ còn được trở về nhìn thấy ngôi nhà bé nhỏ ấm cúng, thấy cái nhà Quàn, thấy phong cảnh Hà nội từ trên gác thượng nhà Tiến Dũng nữa không?. Rồi biết bao hình ảnh cũ lại diễu qua: bạn bè, nhà trường, phố phường… Nhớ nhung đến đau xót, nhiều lúc tưởng không chịu được. Đây chính là lúc đấu tranh tư tưởng căng nhất: Đảo ngũ hay không Đảo ngũ?. Trời ơi, mệt quá, nặng nhọc từng hơi thở, mặc dù người cảm thấy nhẹ tênh, môi khô, miệng đắng. Ở nhà mà hơi mệt một tý thì phải biết, hết mẹ đến bà, nhất là bà, lo cuống lên, nào xông hơi nào cháo hành nào thuốc cảm… Ở đây thì nằm cô đơn co quắp trong 1 xó rừng, chết cũng chẳng ai hay. Nhưng chẳng lẽ vì vậy mà đảo ngũ? Dù sao suốt 10 năm trời tôi đã luôn là học sinh tiên tiến, từng viết những bài văn rất hay với những câu kết hùng hồn, mà tôi thì không quen nói một đằng làm một nẻo. Tôi nhớ đến Bác và những lời hứa trong ngày Quốc tang, nhớ đến danh dự của Gia đình, của bố mẹ… Không, chết thì thôi chứ không chịu làm điều nhục nhã, phải làm 1 người chân chính, có nghị lực như Pavel Corsaghin. Và đâu phải chỉ có mình tôi trải qua cảnh ngộ này. Bao năm nay, hàng triệu người đã từng nằm võng trong đêm tối âm u của núi rừng, cũng đã chịu những dằn vặt âm thầm ghê gớm. Nhưng họ đã đứng vững, để rồi sáng hôm sau những tin chiến thắng vẫn dồn dập gửi về… Không, tôi nhất định không chịu thua kém họ. Càng nghĩ càng thấm thía câu nói đơn giản: “Dân tộc ta là 1 dân tộc anh hùng”. Đúng là 1 dân tộc anh hùng, vì đã có hàng triệu người con anh hùng, mà chỉ cần họ chiến thắng họ trong một đêm như đêm nay cũng đã đủ xứng đáng với danh hiệu đó. Tôi cứ nằm như vậy, mắt mở trừng trừng nhìn vào đêm tối và người mệt mỏi rã rời.
Khoảng 4 giờ sáng có lệnh chuẩn bị, tất cả tất bật cuốn tăng võng xếp vào ba-lô. Người mệt bã, thở phào phào như hết hơi, tôi lo lắng nhấc thử cái ba-lô nặng trịch, rồi mở ví lấy một mảnh sâm cho vào miệng. Trong bóng đêm, chúng tôi lên đường, người nọ bám vào ba-lô người kia. Thỉnh thoảng lại vấp vào rễ cây đau điếng. Quái, sao mà đi nhanh như ăn cướp thế này? Vượt qua một cái lạch nhỏ, lách mấy hòn đá, lính ta đi vội vã, thở hổn hển. Đại đội tôi đi thứ ba nên vất vả, vì vậy khi có lệnh nghỉ 15 phút, tôi tranh thủ vượt lên phía trên đầu đội hình. Đường hẹp, lính nằm ngổn ngang, tôi lách qua rất khó khăn, đi đến đâu tiếng phản đối ồn ào đến đó. May thay có một cán bộ, theo sau là liên lạc, đang cần lên gặp ban chỉ huy Tiểu đoàn ở phía trên. Tôi vội bám luôn vào sau cậu liên lạc, thành ra đi đến đâu người ta nhường đường đến đó. Ban chỉ huy Tiểu đoàn vẫn đang nghỉ, anh Khanh thỉnh thoảng lại nhắc truyền xuống: “C52 lên đủ chưa, báo cáo?!”. Trong bóng tối, mấy cậu liên lạc tiểu đoàn cũng không nhìn rõ mặt nhau, nên tôi đi lẫn vào họ.
Quảng Trị 1972 Quảng Trị 1972 - Nguyễn Quang Vinh Quảng Trị 1972