Outside of a dog, a book is man's best friend. Inside of a dog it's too dark to read.

Attributed to Groucho Marx

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 7
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 105 / 23
Cập nhật: 2020-06-17 09:38:34 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chú Thích
[1] Đại E, là tiếng lóng để chỉ hàng không mẫu hạm Enterprise, trọng tải 85.000 tấn, chạy bằng 8 điện trì nguyên tử, hạ thủy sau năm 1961, chở 100 phi cơ và trực thăng, 100 phi công, 4.600 sĩ quan và thủy thủ.
[2] Catapulte: Phi đạo trên mẫu hạm nên phải dùng máy phóng để đẩy phi cơ lên.
[3] Xin đọc Nữ Thần Ám Sát, đã xuất bản, thuật lại cưộc đời éo le của Nguyệt Hằng.
[4] 161 V-1, được chế tạo năm 1938, gồm 2 nhân viên phi hành, 1 đại liên, tốc độ trên 600 cs/giờ.
[5] 110 G-2, được chế tạo năm 1936,cũng gồm 2 nhân viên phi hành, 2 đại bác 30 li và 6 đại liên 13 li, tốc độ 600 cs/giờ.
[6] Đó là phi cơ siêu thanh phản lực Chance Vought FSU-2N Crusader II, khu trục cơ, nặng 13 tấn, 1 nhân viên phi hành, tốc lực 1.600 cây số giờ.
[7] Có 3 phiếu vàng và 3 phiếu lục, ghi chú sự kiểm soát. Phiếu vàng J01, kiểm soát động cơ, phiếu vàng J02 áp lực dưỡng khí, phiếu vàng J03, thắng và bánh đáp xuống. Các phiếu lục được dùng để ghi chú sự kiểm soát bên ngoài, bên trong phi cơ.
[8] QGO: Danh từ chuyên môn phi hành, có nghĩa là cấm (phi cơ) cất cánh và đậu xuống.
[9] Roger: Danh từ quốc tế, có nghĩa là Okay, nghe rồi, được.
[10] GCA. Radar d’approche, máy radar kiểm soát phi cơ gần đến phi trường. Hiện có nhiều thể thức kiểm soát: đài kiểm soát, kiểm soát bằng mắt, ở độ cao 300 thước, và trong đường bán kính 10 cây số quanh phi trường. Còn radar d’approche thì kiểm soát trong phòng kín trước màn radar. Danh từ GCA mà thiếu nữ dùng ở đây là muốn Văn Bình hôn.
[11] QAN là tốc độ của gió. Ý nói chàng hôn nàng như vũ bão.
[12] UIR tức là Upper Information Region, một vùng trời ở độ cao từ 6.000 tới 12.000 mét. Vùng bên dưới được dùng cho phi cơ thương mãi. Hành lang không vận bắt đầu từ độ cao 1.500 mét, mỗi hành lang dài 418 cây số và cao 4 cây số.
[13] Các hành lang thường được đặt tên khác nhau như đỏ 1, xanh 2, vàng 3 vân vân. Chẳng hạn hành lan Lục 1 là con đường Shannon đến Francfort, muốn quẹo sang Strasbourg thì phải dùng hàng lang Đỏ 7 vân vân.
Nhân tiện, tác giả xin giải thích về phương pháp phân chia hàng lang trên không trung như sau: hành lang có thể dài, ngắn khác nhau, và không nhất thiết phải thẳng. Có thể ví nó như một cái hộp, mặt dưới ở độ cao 1.500 mét, mặt trên ở độ cao 6.000 mét, bề rộng 18 cây số. Gần mặt đầt, hành lang mang hình trục tròn, giống như một đồng tiền khổng lồ, dầy 300 mét, bán kính 10 cây sồ, sát với mặt đất, mà phi trường là trung tâm. Bên trên trục tròn (nghĩa là từ 300 mét tới 1.500 mét) thì hình thù đổi khác, mỗi phi trường một kiểu, gần như một tấm đan (dalle) dầy hơn 1.000 mét, góc cạnh không đều nhau. Vùng « trục tròn » thuộc quyền của đài kiểm soát phi trường, vùng từ 300 mét đến 1.500 mét thuộc bộ phận kiểm soát phi-cận (contrôle d’approche), còn vùng ở trên 1.500 mét (hành lang không vận) thì thuộc cơ sỡ kiểm soát địa phương. Phi công muốn cất cánh hoặc đáp xuốngphải lần lượt tuân theo mệnh lệnh của 3 cơ sở kiểm soát này trên 3 làn sóng điện khác nhau.
[14] ICM là Improved Capability Missile, hỏa tiễn đặc biệt của Hoa Kỳ. Loại này còn ở trong thời kỷ tìm tòi, mãi đến sau năm 1970, vấn đề sản xuất qui mô mới được tiến hành.
[15] Phi đạo cho máy bay cất cánh hoặc hạ cánh được quan niệm như là một vòng tròn 360 độ. Phi trường được chia thành nhiều phi đạo mang tên khác nhau. Tuy nhiên, việc đặt tên được theo một lề lối quốc tế nhất định, gồm bằng con số và chữ. Con số là « độ « của vòng tròn, còn chữ thì chỉ có 2, là L và R, nghĩa là Left (trái) và Right (phải). Chẳng hạn: phi đạo 06/28, tức là phi đạo 60 độ đông bắc - 280 độ tây nam (để khỏi rườm rà, người ta bỏ con dê rô phía sau. 06 là 60 độ. 28 là 280 độ). Trong trường hợp còn có một phi đạo song song với phi đạo 06/28, ngươòi ta thêm vào chữ L hoặc R. Chẳng hạn phi đạo 06/28R.
Vì đây là một vấn đề thuần túy chuyên môn nên rất khó hiểu. Tác giả trân trọng cáo lỗi vì thiếu chỗ, không thể nào minh dẫn thêm nữa. Bạn đọc tò mò có thể vẽ một hình tròn, ở đỉnh trên là hướng bắc, đỉnh dưới là hướng nam, bên phải là đông, bên trái là tây, chia vòng tròn làm 4 miếng bằng nhau bằng đường kính bắc nam, đông tây.
[16] Tức là Post-combustion.
[17] Poseidon, tên của Thủy Thần Địa Chấn, theo thần thoại Hy-Lạp, là một biến thể tân tiến của hỏa tiễn gắn trong tiềm thủy đỉnh, Polaris. Tổng thống Johnson cho biết là kề hoạch nghiên cứu đã hoàn tất năm 1965. Công cuộc chế tạo đợt đầu sẽ tốn 900 triệu đô-la. Poseidon mạnh gấp đôi Polaris A-3., mang một đầu đạn nguyên tử cũng lớn gấp đôi và đặc biệt là tụ động tìm mục phiêu mà rớt xuống. Với tốc độ nhanh, và các dụng cụ điện tử, nó được coi là một võ khí tuyệt đối, vì khi được phóng ra, đối phương trở tay không kịp.
[18] Orca là một chương trình sản xuất hỏa tiễn do công ty General Dynamics đệ trình cách đây vài ba năm và được không quân Mỹ lưu ý. Chương trình này trù liệu sản xuất một loại hỏa tiễn nặng hơn hỏa tiễn Polaris nhiều lần, bỏ trong thùng thép gắn chặt và thả ra ngoài hải phận cuốc tế, đối dien đất địch. Khi nào lâm chiến, chỉ cần bấm nút từ xa cho nổ. Với loại hỏa tiễn Orca, vấn đề sản xuất được rẻ, khỏi cần chiến hạm hoặc tièm thủy đỉnh mà chỉ cần tàu đánh cá cỡ nhỏ để bấm nút điều khiển. Đối phương lại không thể biết thùng thép chìm ớ đâu để khám phá nữa.
[19] LES là Life Extension Society (Hội Trường Sinh) do Ev Cooper sáng lập, hiện có nhiều phân cuộc trên khắp nước Mỹ, và có 35 đại diện trên khắp thế giới, với nhiệm vụ chỉ dẫn công luận về phương pháp ướp lạnh sau khi chết.
[20] Tính đến tháng 2-1967, con số hội viên của hội LES mới là 700 người.
[21] Hàn học là Cryogenics (tiếng Anh), khoa học nghiên cứu sự sống ở độ lạnh rất thấp (đúng ra Cryobiology mới là hàn học, Cryogenics là hàn sinh học, song tác giả xin đơn giản hóa để dễ hiểu). Tại Mỹ, có một hội nghiên cứu hàn học, mệnh danh là Cryogenics Society of California.
[22] Bác-sĩ James H. Bedforde là người chết đầu tiên trên thế-giới được ướp lạnh. Năm 1966, Robert Ettinger phát hành cuốn sách Viễn Tượng Bất Tử (The Prospect of Immortality, đã bán hết 10.000 cuốn), nói về hàn học. Bác-sĩ Bedford bị ung-thư nặng, sắp chết, yêu cầu ông Ettinger thí-nghiệm hàn học cho ông. Nhóm hàn học đầu tiên phụ trách ướp lạnh bác-sĩ Bedford gốm Robert Nelson, Renault Able, Dante Brunol và Robert W. Prehoda. Ngày 12.01.1967, Bedford từ trần, bác-sĩ Able tiêm Heharin vào máu cho máu khỏi bị đông đặc, đoạn áp dụng phương pháp thở nhân tạo và xoa nắn trái tim người chết cho máu không mất hết dưỡng khí, trong khi đá lạnh được đổ xuống. Mục đích là làm cho các tế-bào trong cơ-thể, nhất là trong óc, luôn luôn có dưỡng khí để khỏi bị hư hại. Đoạn các ông Nelson, Brunol và Prehoda chích vào người chết chất DMSO để ngăn ngừa thối rữa, rồi tiếp tục ướp đá trong 6 giờ liên tiếp. Mấy ngày sau, bác-sĩ Bedford được bỏ vào một cái thùng tròn bằng mylar pha nhôm, bên trong được rút hết không khí, giống như cái bình thủy lớn, chứa chất nước nitrogen, khiến nhiệt lượng được hạ xuống -196 độ (tức -320độ Fahrenheit). Như vậy, các tế-bào, các vi-khuẩn đều bị đông lạnh, khi nào y học tìm ra cách chữa khỏi ung-thư, người ta sẽ hâm nóng cho bác-sĩ Bedford trở dậy. Mỗi cái thùng tròn như vậy trị giá 4.200 đô-la, và mỗi năm mất chừng 300 đô-la để bảo trì.
[23] Xin đọc Bà Chúa Thuốc Độc (đã xuất bản2 cuốn trọn bộ) và Nữ Thần Ám sát(đã xuất bản) để hiểu mối tình của Quỳnh-Loan và Văn Bình.
[24] Đội Thunderbirds (Mỹ) chính là đội biểu diễn không thuật 4520 (4520th Aerial Demonstration Team), nằm trong tổng hành dinh của USAF (United States Air Force) khônglực Hoa-Kỳ. Nhân viên đội xiệc không gian này hoạt động song song với một cơ sở huấn luyện, mệnh danh là phi đội huấn luyện phi hành đoàn tác chiến 4520 (4520th Combat Crew Training Wing) mà tổng hành dinh được đạt tại căn-cứ không quân Nellis, Thuộc tiểu bang Nevada. Hai phi đội này đều đặt dưới quyền trực thuộc của TAC (Tactical Air Command), bộ chỉ huy không quân chiến thuật. Phi đội gồm toàn phi-cơ Thunderbird (mỗi chiếc giá tiền 740.000 đô-la), và thường biểu diễn trên khắp thế-giới, từ sau Đệ-chiến thứ hai. Trong thế-chiến, không quân Mỹ ở Âu-châu cũng có đoàn xiệc tương tự, gọi là Skyblazers.
[25] Năm 1959, trên không phận Đài loan, cùng với bạn là Bill Creech, một nhân viên đội xiệc không gian của phi đội Thunderbirds là Burt Spalding tử trên độ cao 6.000 thước đã trúc mũi xuống đất và khi cách mặt đất 1m20 mới dựng cho phi cơ bay ngang. Trước khi được gia nhập đội xiệc không gian, phi cơ phải thụ huấn tại căn cứ Nellis, và phải biết bay cao hơn bốn ngàn thước rồi đổ xuống cách mặt đầt gần 7 thước mới bay nganq. Vì Ổđược huấn luyện tinh vi như vậy nên trong chiến tranh Cao ly, không quân chiến thuật Mỹ TAC đã hạ 1.000 khu, trực cơ Mig-15 cộng sản mà chỉ tổn thất 80 Sabre F-86.
[26] Altimètre (altimeter), máy đo độ cao.
[27] Tiếng Pháp là "voile noir".
[28] Dù B-5 là loại dù tự động, có một bộ phận tự động đặc biệt gỡ dù ra khỏi ghế, sau khi được phóng khỏi phi cơ.
[29] Về thuật Ninjitsu, xin bạn đọc Phù Tang Nổi Sóng, cùng một tác gỉa, đã sản xuất, hai cuốn trọn bộ. Còn về Thần Ảo Công, Văn Bình đã tập luyện trong thời gian thế phát quy y tại một ngôi chùa gần Vạn Tượng. Xin đọc Tia Sáng Giết Người, hai cuốn trọn bộ, đã sản xuất.
[30] Down on the deckis where you stay alive (chính ở gần mặt đất là nơi ta còn sống). Huấn luyện viên thường dặn phi công câu này khi tham dự oanh tạc ở độ thấp, và áp dụng kỹ thuật over the shoulder (ném bom qua vai). Để tránh radar, phi sông bay thấp ngang ngọn cây, rồi khi đến mục phiêu, bay vọt lên cao 2 ngàn thước, rồi thả bom, bat lên cao 2 ngàn thước nữa. Trái bom mất 55 giây mới xuống tới đất, nên phi sơ đã có thể bay ra khỏi khu vực.
[31] Trên thực tế, các danh từ chuyên môn đã được sử dụng. Tác giả cố gắng giản dị hóa để bạn đọc dễ hiểu. Xin cáo lỗi cùng bạn đọc hải và không quân.
[32] 3 giờ, tức là phía trước, bên mặt, giống như kim đồng hồ chỉ 3 giờ trên mặt đồng hồ.Không quân dùng cách này để định vị trí.
[33] Hết là Over. Hướng 47 là "cap" 47. Trên thực tế, sau khi nghe Văn Bình nói, phòng kiềm soát phải trả lời Roger, nghĩa là hiểu rồi. Nói xong thì chấm dút bằng chữ Over, nghĩa là hết rồi. Nhường cho người khác nói.
[34] Danh từ chuyên môn là clear: you are clear.
[35] QFF: áp lực phong vũ biểu ở ngang mặt biển.
[36] Kính sáng là "mirroir aux alouettes", một dụng cụ tân tiến do người Anh phát minh, giúp phi cơ phản lực hạ xuống mẫu hạm (lệ thường, muốn hạ xuống, phải cần chuyên viên điều khiển bằng hiệu lịnh). Kính sáng gồm một cái kính cong (hình trục cắt đôi), ở giữa một giàn đèn pha nhiều màu được dùng làm đích. Kính sáng phản chiếu một điểm sáng mà phi công trên trời nhìn thấy, hoặc ở bên trên giàn đèn hoặc ở bên đưới giàn đèn làm đích, tùy theo vị trí phi cơ. Muốn đáp đúng phi đạo, hoa tiêu phải giữ cách nào làm cho điểm sáng luôn luôn ở ngang với giàn đèn pha làm đích.
"Kính sáng" được dùnh để giúp hoa tiêu ước lượng được chiều cao. Còn muốn lái thẳng vào phi đạo thì hoa tiêu dựa vào vêt dài màu vàng, dọc theo chiều dài của boong tàu.
"Kính sáng" được dùng trên các mẫu hạm có phi đạo nghiên, và có thể đạt ở bên tả hoặc bên hữu của tàu.
Một lần nữa, tác giả trân trọng xin lỗi bạn đọc nếu những giòng chú thích vẫn còn tối nghĩa, đồng thời xin lỗi những anh, em không và hải quân vì đã giản dị hóa vấn đề tới mức tối đa.
[37] Xin đọc Nữ Thần Ám Sát, đã xuất bản, để biết câu chuyện éo le gìữa Như Luyến, Quỳnh-Loan và Văn Bình.
[38] Convair R4 Y-2 Tradewind nặng hai tấn rưỡi, phi hành đoàn gồm 3 người, hai động cơ.
[39] Bạn đọc quen thuộc của Người Thứ Tám chắc đã nhận xét rằng trong mấy bộ truyện trước tác giả đã mô tả xe hơi riêng của ông Hoàng. Nhưng đây là loại động cơ mới, nên tác giả mạn phép nhắc lại, tuy nhiêng không đi sâu vào chi tiết, sợ trùng.
[40] Tiếng Anh là Scrambler. Tác giả đã có lần giải thích, tác dụng của bộ phận điện tử Scrambler trong máy điện thoại. Gần đây, các cơ quan điệp báo đã phát minh một loại Scrambler xách tay vô cùng hữu hiệu.
[41] Ở Sàigòn chỉ có một vài con chow-chow. Bề ngoài, nó gần giống chó ta, song thông minh và hữu hiệu hơn nhiều. Chỉ tiếc là dân chúng Hoa-Nam thích đánh đụng, vì thịt nó rất ngon. Loại chó này rất trung thành và chỉ thờ một chủ. Lông nó có thể màu xanh, lưỡi nó thường tím hoặc màu chàm, tính tình hơi ngang tàng, kém khả ái.
[42] STOL: Short Take+off and Landing. Pháp là ADAC (Avion à Décollage et Atterrissage Court).
[43] VTOL: Vertical Take+off ang Landing. Pháp là ADAV (Avion à Décollage et Atterrissage Vertical).
[44] Loại phi cơ này giống Bréguet 941 của Pháp. Ngoài ra còn một số phi cơ lên thẳng thí nghiệm như VJ 101C+X2 của Tây-Đức, Marchetti, Bell, X+22, Dornier DO+31E (bay từ tháng 1+1967). Ling+Temco+Vought XC+142A, được thí nghiệm trên hàng không mẫu hạm Mỹ Bennington.
[45] Tức là National Security Agency, cơ quan An ninh Quốc gia Hoa-kỳ, một cơ quan bí mật không kém Trung ương Tình Báo CIA. Nhiều dụng cụ bí mật đếu do NASA nghiê cứu và phát minh. NASA còn có một đoàn phi công thí nghiệm (Pilote d’essai) để thử những phi cơ đang được chế tạo theo thể thức tân kỳ.
[46] Tức là Beech T-34B Mentor, huấn luyện cơ, nặng gần 1 tấn rưỡi. Loại phi cơ này bay rất chậm, tốc độ tối đa là 290 cây số giờ. Phi hành đoàn gồm hai nguời.
[47] Loại trực thăng Kaman HOK-I này nặng gần 2,500 kí, phi hành đoàn gồm 4 người. Ngoài trực thăng Kaman quan sát này, hải quân Hoa kỳ còn loại Kaman HU2K-I trực thăng cứu cấp đặt trên mẫu hạm và Kaman HUK-l trực thăng tạp dụng.
[48] Sikorski là chiếc trực thăng xung kích của kải qân Hoa-Kỳ, nặng 16.000 kí-lô, phi hàng gồm hai người. Nguồn tin tình báo cho biết trong những hoạt động tình báo ngụy danh, Tình báo Sở thường sử dụng quân trang Hoa-Kỳ.
[49] Loại cá mập ăn thịt người là Carcharadon. Dường như cố Thủ tướng Úc Harold Hoyt mất tích dọc bờ biển Úc trong thời gian gần đây vì bị cá mập Carcharadon. Giống này hiện đã lên tới vùng Phi-Việt.
[50] Đơn vị người nhái phá hoại đắc lực của Hải quân Đức-Quốc-xã trong thế chiến thứ hai.
[51] Đó là hóa chất acétate de cuivre hợp với nigrosine. Người Mỹ mệnh danh thuốc đuổi cá mập này là Shark Chaser. Khoa học đã chế ra một số hóa chất trừ cá mập mạnh hơn Shark Chaser nữa. Một số lớn nhân viên không, hải lực, đặc biệt là ở Tây bán cầu, khi đi công tác đều mang theo thuốc trừ cá mập.
[52] Zulu Lima là ZL. Zulu Kilô là ZK. Nghành liên lạc hàng không quốc tế dùng 26 chữ cái riêng để liên lạc vô tuyến cho khỏi lầm lẫn. Đó là Alpha, Bravo, Charlie, Delta, Echo, Foxtrot, Golf, Hotel, India, Juliette, Kilo, Lima, Mike, November, Oscar, Papa, Quebec, Rodeo, Sierre, Tango, Uniform, Victor, Whisky, X-Ray, Yankee, Zulu. Trước kia, chữ C là Coca, hiện giờ đổi là Charlie. M trước kia là Métro, hiện giờ đổi là Mike. Tưởng cần nói rõ là ngành điện thoại thương mại hiện dùng một số tiếng khác.
[53] Riz à la Valencienne.
[54] Riz créole.
[55] Risengrod.
[56] Risengrynsklatter.
[57] Rijstpudding.
[58] Rijstrand met lever.
[59] Rijsttaart.
[60] Risgrot.
[61] Risgrynsgrot bánh bột gạo, ăn với sữa lạnh và đường.
[62] Risotto alla finanziera.
[63] Risotto con gamberi.
[64] Risotto con junghi.
[65] Ngày 31-3-1961, phi cơ X-15 do Joe Walker lái đã lên tới độ cao 50.000m với tốc độ 4.170 cây số giờ. Ngày 21-4, thiếu tá White đạt tốc độ 5.055 cây số giờ. Sau đó, phi cơ X-15 đạt tới độ cao phi thường là 94.425 m và tốc độ 6.000 cây số giờ. Gần đây, có tin là nó đã trèo lên tới 120 cây số trên thượng tầng không gian. Chiếc VTOL viết trong tác phẩm này là một biến thể của X-15 song lại lên thẳng và xuống thẳng như trực thăng, không cần phi đạo dài hàng cây số.
[66] Phi cơ này thuộc loại vận tải, nặng 51.000 kí, có thể chở được 17.000 kí bom, phi hành đoàn gồm 5 nhân viên.
Phi Tuần Vĩnh Biệt Phi Tuần Vĩnh Biệt - Người Thứ Tám Phi Tuần Vĩnh Biệt