Số lần đọc/download: 1103 / 5
Cập nhật: 2015-11-05 18:32:06 +0700
Chương 7
T
hời gian gần đây Sergei thường hay bị cảm lạnh. Sáng sổ mũi, tối nhức đầu. Có thể là do ảnh hưởng của thời tiết - ngoài trời lúc thì lầy lội, lúc thì băng bắt đầu đông lại, lúc thì những lớp tuyết bụi nhè nhẹ rắc xuống. Mùa đông thật sự vẫn chưa đến.
- Trông anh ốm yếu thế nào ấy! - Valia nói với anh. - Sự chuyển hoá các chất ở anh tiến triển không tốt. Cần phải hoạt động thể thao nhiều hơn.
Nhưng tất nhiên có nói vậy chỉ làm cho anh thêm bực mình và thấy bị xúc phạm - có những nhân vật thích nói những chuyện khó chịu dưới vẻ chân tình bè bạn. Thử hỏi còn ai lúc đó là vận động viên của khoá này, nếu không phải là anh? Anh là cây đập số một của đội tuyển bóng chuyền đấy chứ!
Bà mẹ tin rằng vấn đề là ở chỗ mặc ấm và bà cho rằng Sergei hút thuốc quá nhiều. Bà làm cho anh phát ớn lên vì sự lo lắng tất tưởi của mình, vì những lời khuyên và những ý kiến dây cà ra dây muống, mà anh có cảm giác là chẳng khác gì so với những lời khuyên và ý kiến mà bà đã nói với anh từ mười năm trước đây. Đôi lác anh bực mình nói với bà: “Con đã ở bộ đội, đã ngủ như quỷ ở ngoài trời, trong đầm lầy - và không bị một thứ bệnh nào chạm đến cả. Thế mà vừa trở về thì y như rằng chỉ thấy những sự quan tâm và than vãn kiểu này của mẹ, chỉ thấy xuýt xoa với thở dài - chỉ thế con cũng đủ bị cảm rồi. Chứ không thì mẹ bảo vì sao? Vì sao nào?
Đáng bực mình hơn cả là mẹ anh, sau khi anh ở bộ đội về được ba năm, hầu như đã quên tiệt mất rằng anh đã từng sống ngoài mặt trận, đã chứng kiến nhiều điều khủng khiếp và ác liệt, rằng trong chiến tranh anh đã trở thành một người đàn ông thật sự và đã biết về cuộc sống những điều mà bà chưa hề mơ thấy.
Thời gian đầu mẹ đối xử với anh với một thái độ kính trọng, xúc động một cách ngây thơ khi nghe anh kể những câu chuyện về mặt trận, và rất tự hào về anh. Hồi ấy điều đó khiến anh cảm thấy dễ chịu. Nhưng rồi thì chẳng có gì để mà nhớ lại nữa, mà nếu có câu chuyện gì đó bị lãng quên bỗng nhiên hiện lên thì cũng chẳng còn hứng thú gì để mà kể lại nữa. Anh cảm thấy rằng cả mẹ anh, và ngay cả thẳng em nhỏ, Xasa, ngồi nghe anh lúc này cũng chỉ là để làm cho anh thấy dễ chịu mà thôi.
Sergei ở nhà một mình - bà Irina Vichtorovna còn chưa đi làm về, Xasa thì đi trượt băng với các bạn.
Sang ngày thứ hai nhiệt độ vẫn bình thường, nhưng Sergei vẫn chưa đến trường được. Đến nay anh vẫn bị khổ sở vì chứng sổ mũi và do vậy mà tâm trạng cũng kém vui. Chẳng thiết làm gì cả, chân tay cứ rã rời. Mà công việc thì rất nhiều, và điều chủ yếu là anh cần phải viết.
Anh tự điều trị cho mình: uống biệt dược can- xéc, quấn khăn kín cổ, lấy thảm che kín cửa ở ban công để tránh gió lùa và cố gắng tránh phải đi ra ngoài hành lang.
Công việc chẳng đi đến đâu cả. Anh ngồi vào bàn suốt hai giờ liền - và vẫn chẳng viết được một dòng nào cả. Anh cũng không thể học được nữa. Tuy nhiên về các bài học anh đã tìm ra một “phương pháp“ có hiệu quả tốt. Trước khi thi anh ngồi liền hai đêm, dự trữ thuốc lá, thuốc Fenamin - và hầu như đều luôn luôn thi đạt “điểm năm”.
Buổi trưa Liuxia Voronkova đến chơi một cách bất ngờ. Cô học yếu môn tiếng Anh và Sergei vẫn giúp cô học. Đó là một trong những công tác xã hội của anh.
- Thế nào! anh đỡ rồi chứ? - Liuxia hỏi, mắt nhìn vào chiếc khăn quấn quanh cổ và nét mặt ngái ngủ của anh: “Hơi đơ đỡ…”.
- Anh uống Streptoxit chưa? Canxec là loại thuốc ấm ớ, anh cứ uống Streptoxit ấy! Hay là thế này, anh hãy nghe… - cô nói bằng cái giọng có vẻ hiểu biết một cách dứt khoát thường ngày: “Anh cứ mua ở hiệu thuốc một ít hoa tường vì, pha như pha chè, rất công hiệu! Còn mũi thì anh nên xoa bằng cao bạc hà. Và nếu dùng Streptoxit - ngày mai anh sẽ thấy người khác hẳn. Trông anh vẫn chưa khỏe lắm! chúng mình có học nữa không?
- Có chứ, tất nhiên rồi! Cô hãy cởi áo bành tô ra!
Trong thâm tâm anh có thái độ nhạo báng đối với Liuxia Voronkova, chủ yếu là do anh không thấy ở cô những nét của một người phụ nữ. Mọi vẻ ở cô đều thấy vụng về, khô cứng thế nào ấy và giọng nói của cô thì the thẻ, vừa quá to vừa quá tự tin đối với một cô gái. Tóc cô cắt ngắn, nhưng lúc nào cũng thấy bù xù. Liuxia là ủy viên ban chấp hành công đoàn của trường, là một trong các cán bộ chủ chốt của câu lạc bộ và luôn luôn có mặt ở tất cả các hoạt động của trường.
- Thứ hai có môn kiểm tra đấy anh ạ, - Liuxia nói, - nếu em làm bài hỏng, em sẽ không được dự thi cuối khoá. Mà em thì chắc là sẽ hỏng. Cô Olga rất hắc! Nghe nói cô ấy đang ly dị chồng.
Thông báo xong bằng cái giọng có vẻ hiểu biết đó về một số tình tiết trong sinh hoạt gia đình của cô Olga, Liuxia ngồi xuống chiếc ghế bành và bày ra trước mặt mấy quyển vở. Họ bắt đầu học bài. Sergei đi đi lại lại trong phòng và bằng giọng mũi khụt khịt anh đọc các bài tập trong sách giáo khoa.
“Chiều chiều tôi uống trà với bánh bích qui… Chiều chiều tôi có uống trà với bánh bích qui không? - Suy cho cùng thì việc cô ta đến đây cũng không phải là hoàn toàn khó chịu, viết thì dù sao anh cũng chẳng viết được gì và cũng chẳng học được gì cả - “Không, tôi không uống món đó… Uống trà với bánh bích qui rất có lợi… - “Và chủ yếu là điều đó không phiền toái gì lắm, không choán mất nhiều thời gian, và dù sao ở một chừng mực nào đó - nó là một sự giúp đỡ đồng chí… “Thỉnh thoảng anh có thích uống trà với bánh bích- qui không?”.
Liuxia viết chữ xấu, mà đọc lại còn kém hơn. Rõ ràng là cô cho rằng phát âm càng khó nghe bao nhiêu càng đúng bấy nhiêu và thế là cô uốn lưỡi hệt như sưng mộng răng ấy.
Họ cùng học độ chừng một giờ, và Liuxia nói rằng cô không thể học hơn được nữa.
- Em cứ học ngoại ngữ độ một giờ là lại thấy nhức đầu. Sao em lại bất tài với môn ngoại ngữ thế, anh Sergei nhỉ? Em cũng có đến nổi đần độn gì đâu, đúng không anh?
- Đúng thế, - anh nói vẻ khoan dung. - Uarte, một triết gia Tây Ban Nha, cho rằng trí nhớ và trí tuệ sinh ra bởi những nguyên nhân đối lập nhau. Trí nhớ chỉ phát triển nhờ có trí tuệ, còn trí tuệ - nhờ có trí nhớ. Vì vậy mà cô có thể tự an ủi rằng ở cô trí tuệ quá nhiều đấy.
- Thật thế không? Đúng là có một triết gia như vậy không? - Liuxia, phấn khởi hẳn lên. - Ông ấy thông thái thật đấy! Anh vừa nói tên ông ấy là gì nhỉ?
Sau đó họ uống trà - Liuxia từ chối, nhưng Sergei một mực kiên quyết mời, chính anh đang muốn uống. Lúc uống trà, Liuxia bí mật kể cho Sergei nghe rằng anh đang được đề nghị hưởng mức học bổng mang tên Belinsky. Anh và Andrei Syryk. Trong số hai người, ai sẽ được tiêu chuẩn đó - Hội đồng khoa học sẽ quyết định. Nhưng tin anh được đề nghị, thì cô biết một cách chính xác. Cô không thể nói được là ai nói cho cô biết tin đó, nhưng điều đó là chính xác. Còn giáo sư Kretsetov thì rất ủng hộ Andrei Syryk.
Đối với Sergei đó là một tin bất ngờ.
- Nếu thế thì Andrei đáng được hưởng tiêu chuẩn đó. - Anh vừa nói vừa đứng dậy để giấu nỗi xúc động đột ngột và đi đi lại lại trong phòng. - Cậu ấy là một người tốt, được mọi người quý mến. Cậu ấy sẽ được cấp tiêu chuẩn đó.
- Vì sao? Anh hoàn toàn có thể được cấp!
Sergei phẩy tay.
- Không, mình không hy vọng! Hãy chờ họ…
Sau một hồi im lặng và bước đi trong phòng mỗi lúc một nhanh, anh nói vẻ đăm chiêu:
- Vấn đề, tất nhiên, không phải là chuyện tiền nong… Vinh dự mới là điều đáng quý! Dù sao cũng là Belinsky, đúng không? Thôi được, bây giờ còn chưa rõ gì cả, và chúng ta cũng không nói gì về chuyện đó nữa.
Nhưng anh cũng thấy ấm lòng và vui vẻ với ý nghĩ là sắp tới - có lẽ là tháng sau - anh sẽ nhận được khoản học bổng đặc biệt anh tin rằng anh sẽ được cấp, chứ không phải là Andrei. Thoạt đầu người ta sẽ dán quyết định lên, và tất cả sẽ đến chúc mừng anh, sau đó ngày hai mươi, anh sẽ đến phòng tài vụ. “Anh, hình như, là người được học bổng đặc biệt?“ “Không phải là hình như, mà là đúng thế! - Trước mặt mọi người đang xếp hàng để lĩnh theo một danh sách chung, dài đằng đặc và chán ngán trông như cuốn danh bạ điện thoại, chị thủ quỹ sẽ lấy ra một bản danh sách riêng ghi tên một số ít người thôi. Vấn đề, tất nhiên, không phải là chuyện tiền, nhưng dù sao… Thêm một trăm rưỡi - hai trăm chứ có phải là ít ỏi đâu?
Anh lại đi xuống bếp đặt ấm pha trà. Lần này anh không còn thấy khát nữa, nhưng anh chưa muốn để Liuxia ra về - có lẽ, cô ta sẽ còn kể một chuyện gì nữa, hoặc sẽ nhớ lại những chi tiết nào đó nữa.
Nhưng về chuyện học bổng Liuxia chẳng còn gì để có thể nói thêm nữa ngoài một điều “đó là chuyện nghiêm túc giữa chúng ta, anh nhớ đừng có nói với ai, bởi vì sẽ phiền cả cho em, cả cho một người nữa. Nhưng điều đó là chính xác đấy”.
Sergei ngả người xuống đi- văng, còn Liuxia thì ngồi trong ghế bành, gác chân chữ ngũ và hút thuốc. Chân cô khẳng khiu, đầu gối nhọn hoắt, cằm cô cũng nhọn. Và mũi cũng vậy.
Cô nói luôn miệng và toàn là những chuyện không đâu vào đâu cả. Sự có mặt của cô đã bắt đầu làm anh cảm thấy nặng nề. Tuy vậy cô còn báo một tin quan trọng nữa: thứ tư sẽ có cuộc họp Đoàn để thảo luận về hành động của Lagodenko. Bây giờ chưa có thông báo, nhưng thứ hai sẽ có. Về hành động này Sergei đã được biết qua câu chuyện mà Vadim kể: trong lúc thi Lagodenko đã nói năng thô tục với giáo sư Kodensky, nhưng cụ thể Lagodenko nói gì và nói như thế nào với giáo sư thì Sergei chưa biết. Anh cũng có những mắc mớ cũ với Lagodenko và họ vốn không ưa gì nhau.
- Từ lâu mình không thể chịu được anh bạn gàn dở đó, - anh nói. - Đúng, cần phải cho cậu ta một bài học.
- Đúng, đúng! Cần phải như vậy! Tập thể phải cho cậu ta một bài học để cậu ấy thấm thía! - Liuxia nói với vẻ sôi nổi bất ngờ. - Coi mình cao hơn tất cả - hãy liệu đấy, anh chàng gàn dở ạ! Thế mà có khi vẫn có những anh chàng bảo vệ cậu ta ở hội nghị đấy!
- Những ai?
- Còn ai nữa - nhiều lắm… Andrei Syryk, bạn của cậu ta, Rai- ca Volkova, các bạn khác trong ký túc xá. Ở ký túc xá bọn con gái chúng em đã tranh luận với nhau đến hai ngày rồi đấy! Cuộc họp sẽ ầm ĩ lắm, đấy rồi anh xem! Bởi vì không phải mọi người chỉ nói về Lagodenko, mà cả về thầy Boris Matveyevich, cũng có người không ưa thầy ấy. Anh hiểu chứ?
- Andrei sẽ bảo vệ Lagodenko à?
- Bảo vệ thì có lẽ không đâu, nhưng anh ta sẽ bắt đầu nói về thầy Kodensky. Và… chắc anh hiểu, anh ta có thể khiến các giáo sư ác cảm với anh ta. Rất dễ thôi. Suy cho cùng thì nhiệm vụ của chúng ta không phải là can thiệp vào việc giảng dạy, không phải là việc “lên lớp“ các giáo sư…
- Đúng thế, không phải lúc nào cũng thích hợp.
- Điều đó sẽ hết sức là ngu ngốc và thiếu lịch sự! Nếu giả dụ, thầy Boris Matveyevich có sai lầm một Việc gì đó, thì người ta cũng vẫn góp ý với thầy không cần đến chúng ta. Có ban chủ nhiệm khoa, ban giám hiệu và cuối cùng có đảng ủy chứ!
- Đúng, đúng, - Sergei cau mày nói. - Có lẽ, mình sẽ phát biểu tại hội nghị. Tùy tình hình.
- Vâng, đúng thế, ở hội nghị sẽ rõ mọi chuyện. Nhưng về vấn đề Lagodenko chắc chắn là anh có thể phát biểu được. Thậm chí anh có trách nhiệm phải phát biểu với tư cách là một đoàn viên lớn tuổi, một đoàn viên cốt cán - anh hiểu chứ? Mọi người tôn trọng anh, lắng nghe ý kiến của anh, anh không được im lặng.
- Được, mình sẽ phát biểu. - Sergei gật gật.
Trời đã tối hẳn. Ở buồng bên cạnh, máy thu thanh phát ba tiếng tín hiệu ngắn - đã bảy giờ. Liuxia vội vàng thu dọn sách vở. Sergei cũng mặc áo khoác để tiễn cô ra ga xe điện ngầm.
- Không, không, không nên! Anh cứ ở nhà, anh đang bị cảm kia mà, - Liuxia phản đối. - Em có còn bé nữa đâu?
Nhưng ngay cả lần này Sergei vẫn giữ ý mình và đã đưa tiến Liuxia đèn ga xe điện ngầm. Anh cũng đang cần phải mua thuốc lá.
Quay về nhà anh ngồi ngay vào bàn và lại thử viết một lần nữa. Phố xá làm cho anh sảng khoái lên, và đầu đỡ nhức hơn. Hai ngày qua Sergei tạm thời hoãn viết đề cương - anh đã mệt mỏi vì sách vờ - và bắt tay vào viết truyện.
Sergei Palavin đã bắt đầu viết truyện từ khi còn ở mặt trận - có một thời gian anh đã cộng tác với báo quân đội. Ở trường thỉnh thoảng anh có đăng trên báo tường những bài thơ và những tiểu phẩm ký tên “Sergei La- vin”. Ở năm thứ hai, anh đã bắt đầu viết một vở kịch về cuộc sống của sinh viên, nhưng rõ ràng là anh tập hợp tài liệu quá lâu, bàn bạc quá nhiều với các bạn về vở kịch của mình, và công việc vẫn không vượt qua những ý định và những buổi bàn bạc.
Nhưng cả trường đều biết rằng Palavin là một người thích viết, rằng anh “đang viết tác phẩm”, và bởi vì trong trường không có những người thích viết khác nữa, ít ra cũng không có ai biết về họ, nên quần chúng không viết lách gì có một tình cảm như kiểu tôn trọng đối với Palavin.
Một tháng trước đây anh đã bắt tay viết một truyện vừa về cuộc sống của thanh niên công nhân. Đồng chí biên tập viên tờ báo quân đội, mà trước đây Sergei đã gửi bài đến, hiện đang làm việc ở một tạp chí Moskva hứa sẽ in cho anh. Sergei bắt đầu viết một cách hào hứng. Trong vòng mười ngày, bằng kiểu chữ nhỏ li ti anh đã viết đặc bốn mươi trang mà còn lâu mới đến trang cuối. Nhưng sau đó công việc xem ra không trơn tru và nhanh như trước. Những nhân vật của anh trong những chương đầu là những người yêu đời có năng lực bỗng nhiên biến thành những con người cứng đờ không muốn hoạt động, suy nghĩ cùn, nói năng đểu giả…
Và thế là hôm nay anh ngồi viết đến trưa, nhưng ngoài hai đoạn cuối cùng, bị gạch sạch, và một hàng tên những nhân vật kỳ quặc viết bằng mực bên mép giấy, anh chẳng còn sáng tác được cái gì khác nữa. Rõ ràng là anh đã quá mệt trong những ngày đó. Cần phải giải lao thôi!
Anh đậy nắp lọ mực lại, nằm xuống đi- văng và hút thuốc. Lúc đó bà mẹ bước vào - bà có chìa khoá riêng của mình.
- Có mình con thôi à, Sergei? Con đỡ cúm rồi chứ? - bà hỏi và đặt chiếc cặp xuống.
Anh nói rằng bệnh cúm vẫn chưa giảm. Bà Irina Vichtorovna bắt tay ngay vào việc nấu ăn, - bà chạy xuống bếp, rồi lại chạy lên, lại xuống bếp, xếp bát đĩa loảng xoảng, cạo khoai tây xoàn xoạt, rồi đổ lộp bộp từ trong xô ra bát. “Bây giờ chắc chẳng thể tập trung tư tưởng được nữa”, - Sergei bực bội nghỉ. Anh còn đang hy vọng sẽ có thể tập trung tư tưởng và suy nghĩ về cuốn truyện vừa ấy. Thỉnh thoảng lúc ngồi ở đi- văng anh lại thấy nảy ra những ý không kém thú vị.
Và bỗng nhiên anh thoáng nghĩ - cần phải gác cuốn truyện lại. Đúng! Gác lại đến học kỳ hai. Và bây giờ đây phải khẩn trương bắt tay vào bản đề cương và hoàn thành nó càng nhanh càng tốt để có thể kịp đọc nó trước khi hội đồng khoa học của Hội khoa học sinh viên họp. Điều đó rất quan trọng, chủ yếu bây giờ phải là bản đề cương!
Bước vào phòng bà Irina Vichtorovna hỏi:
- Con làm việc đấy à? Suy nghĩ à?
- Vâng, - anh nói.
Anh nghĩ rằng sẽ thật là đáng tiếc, nếu anh không được cấp học bổng Belinsky vào tháng này. Giá mà được đúng vào dịp trước Tết nhỉ!
- Được, mẹ sẽ nhẹ tay…
Cồ gắng không làm ồn, bà Irina Vichtorovna lấy bát đĩa ở chạn ra và đi xuống bếp. Trong bữa ăn, bà Irina Vichtorovna bỗng nhiên nói một cách sôi nổi:
- Đúng, mẹ quên tiệt cả! Hôm nay Valia có đến chỗ mẹ!
- Chổ nào hở mẹ? - anh hỏi, ngạc nhiên đến quên cả nhai.
- Chỗ mẹ làm việc. Nó đến đúng vào lúc nghỉ trưa. Mẹ với nó chuyện trò với nhau suốt nửa tiếng…
- Thế ạ?
- Chứ sao, mẹ kể cho nó nghe…
- Thế cô ấy cần gì hả mẹ?
- Mẹ không hiểu vì sao con lại cáu kỉnh, Sergei?
- Con không cáu kỉnh, mà con hỏi mẹ là cô ấy cần gì ở mẹ? - anh bực mình nhắc lại.
- À, nó chỉ rẽ đến thăm thôi… Nó hỏi chuyện con, hỏi công việc của con tiến hành đến đâu rồi. Nó rất bận, nó được cử đi đâu đó… Và mang đến cho mẹ cuộn len xanh mà nó đã hứa.
- Len gì?
- Ồ, đến bực mình! Con có nhớ một lần khi có mặt nó, mẹ nói rằng mẹ muốn đan cho con một chiếc áo len có cổ, nhưng lại không biết mua len màu ở đâu. Đan bằng len trắng thì rất dễ bị bẩn. Valia có hứa là sẽ mua cho mẹ. Con nhớ rồi chứ? Và thế là hôm nay nó mang đến… Sergei, ăn thì phải ăn cả bánh mì, không có bánh mì thì làm sao gọi là bữa ăn được.
Anh cau có nhìn mẹ, nhưng lại chẳng nhìn thấy bà, mà chỉ mải đăm chiêu với những suy nghĩ của mình. Rồi anh quẳng chiếc đĩa kêu loảng xoảng.
- Con không cần áo len áo liếc gì cái Và cũng đừng có lấy len của cô ấy làm gì? Con không muốn thế, mẹ hiểu không? Con không muốn… Cuối cũng không hiểu sao mẹ lại cứ xen vào những công việc không phải của mẹ thế?
- Sergei, hôm nay con thật là đáng sợ, - bà Irina Vichtorovna bối rối nói - Dù con đang ốm, con cũng phải biết…
- Con không ốm, mà điều đó làm con mất bình tĩnh… cái kiểu đạo đức giả ấy! Cứ làm như ở Moskva không kiếm đâu ra len nữa, ngoài chỗ cô Valia?
- Nếu con muốn…
- Con muốn mẹ trả lại len đó cho cô ta! Thế thôi!
- Thật buồn cười, mẹ sẽ đến chỗ nó ngay bây giờ đây. Không kịp ăn…
- Con chỉ bảo là - hãy trả lại! Cô ấy đến thăm mẹ… cũng tốt bụng đấy…
- Không phải chỉ tốt bụng, mà là một cô gái rất đáng yêu và có nhã ý, còn con thì trở thành một kẻ hay cằn nhằn không thể chịu được! điều đó ở lứa tuổi con thật là dễ ghét, - bà Irina Vichtorovna giận dỗi nói. - Và nói chung, nếu con không thích len…
- Nói chung không phải con không thích len, - Sergei mỉm cười. - Con chỉ không thích khi người ta làm trái ý con. Mẹ hãy nhớ điều đó cho con.
Bỗng thấy thú vị với câu chơi chữ đó của mình, anh vơ lấy đĩa và lại bắt đầu ăn. Bà Irina Vichtorovna cũng bắt đầu ăn, nhưng bà đang lộn tiết đến nổi ăn chẳng biết ngon là gì. Bà đẩy đĩa về một bên và đứng dậy.
- Còn con, từ nay làm ơn đừng có xin xỏ gì mẹ nữa! Và con hãy tự đan lấy áo len ở chổ nào mà con muốn!
Sergei không trả lời và tiếp tục ăn một cách ngon lành những miếng thịt băm viên phết đầy mù tạt. Khi anh ăn xong món thứ hai thì Xasa về. Người chú đỏ dậy lên sau buổi chơi trượt băng, toàn thân hồng hào và cặp mắt đen của chú sáng ướt lên vui thích. Từ người chú toả ra sự tươi mát và không gian lạnh giá của đường phố.
- Báo cáo, con đã về! - chú vui vẻ kêu lên, quẳng đôi giày trượt băng bên cạnh cửa ra vào. - Ồ, mẹ ạ, thế là con đã trượt được rồi! Không phải đỡ nữa! Con và Lép- ca chạy thi với nhau… Ở đó thú lắm - có nhạc, có đèn chùm, người thì đông vô kể! Con đói bụng qua rồi!
- Con hãy xếp gọn giày trượt băng vào! - bà Irina Vichtorovna vừa nói, vừa bày bộ đổ ăn thứ ba lên bàn. - Vứt bừa bãi là một thói quen xấu! Đã bảo con bao nhiêu lần rồi, mà cứ như nước đổ lá khoai ấy!
Xasa ngạc nhiên hết nhìn mẹ lại nhìn anh:
- Mẹ với anh… làm sao thế?
- Làm sao… làm sao cái gì? Đừng có hỏi những câu ngu ngốc. Rửa tay đi, rồi vào nhanh mà ăn!
Bà Irina Vichtorovna bước xuống bếp.
- Anh Sergei! - Xasa vừa nói, vừa bước lại gần anh. - Mẹ với anh có chuyện gì…
- Không có chuyện gì cả! - Sergei bực mình đáp. - Còn bé lắm đấy! Đi rửa tay đi, rồi học bài và im mồm đi!
- Anh… sao anh cáu kỉnh thế! - Xasa phân vân dừng lời, rồi nói một cách dứt khoát: - Thôi được rồi! Thế thì em sẽ không nói cho anh biết em đã gặp ai ở sân băng!
- Tùy mày! Cũng chịu được thôi!
Sergei bước đến gần tủ sách và rút lấy một tập Gexety nằm xuống đi- văng. Một lúc lâu cả hai anh em đều lặng im ngồi trong phòng.
Sau đó Xasa hỏi bằng giọng khó chịu:
- Anh uống trà chứ? Với bánh bích- qui.
- Em muốn nói là với bánh bít- cốt à? - Sergei cười - Không, anh không muốn kiểu đó.
Anh vui lên sau khi nhớ đến Liuxia và nhớ đến món học bổng đặc biệt, rồi anh duỗi dài trên đi- văng một cách khoan khoái.
Ăn xong và thấy dễ chịu hơn, Xasa không kiên tâm được nữa:
- Thôi được, đành thế vậy, em sẽ nói, em đã gặp ai: anh Vadim và cái chị đã đến thăm anh ấy mà… chị Lena, đúng không?
Sergei nhỏm dậy, vẻ quan tâm:
- Chị Lena à? Họ… cùng đi với nhau hay thế nào?
- Chứ sao, cùng trượt với nhau! Còn chị Lena thì mặc chiếc áo xăng- đay có đan hình những con hươu như ở trong phim ấy, anh biết không…
Sergei lúng búng câu gì đó, rồi lại cúi xuống quyển sách. Lật được hai trang anh lại hỏi:
- Anh chị ấy có hỏi gì anh không? Vadim cũng không hỏi gì à?
- Không, anh ấy chỉ vẫy tay với em thôi!
Đọc chưa được mười dòng, Sergei quẳng sách xuống, quay mặt vào tường và cứ nằm Thế hồi lâu, mắt chăm chú nhìn lớp giấy dán ở tường. Sau đó anh đứng dậy khỏi đi- văng và đi vào phòng mình ngủ.
Vadim lúc này đang đi qua cầu Krymsky. Anh vừa tiến Lena đến ga xe điện ngầm và đi bộ quay về nhà.
Trên cầu vẫn lộng gió như mọi hôm. Bụi tuyết làm cho phần dưới của những hàng cột thép sáng lên, còn phần trên thì lại không nhìn thấy gì. Chúng mất hút trong màn đêm của bầu trời không phải màu đen mà là màu chì sáng đục bởi ánh đèn Moskva, và hình như có một lớp hơi nước bao phủ.
Moskva lúc nửa đêm trải dài vô tận trước mắt Vadim bây giờ là thành phố của những ánh đèn. Ban ngày nơi đây là người và bây giờ thì là đèn. Tất cả xung quanh đều là những dây đèn. Phía chân trời ánh đèn sáng lên thành cụm, tràn đầy như một lớp sóng biển lấp lánh ánh lân tinh, và ở xa hơn - cũng là những ánh đèn, nhưng không thấy rõ nữa và ánh hồng sáng chói của chúng chỉ còn như một bức tường ánh sáng in trên bầu trời.
Công viên ở phía bên kia cầu, sum suê và yên tĩnh, vắng lặng. Sân trượt băng lớn bên bờ sông, khoảng một giờ trước đây còn là một cuộc sống sôi nổi, náo nhiệt, lúc này đã không một bóng người. Những chiếc loa phóng thanh chói tai không ngớt lắp lại bài ca về những ngọn đèn chùm “Sáng lên… sáng lên… Sáng lên…” - lúc này cũng im bặt. Đứng từ đây không thể phân biệt được con đường nhỏ trồng cây tối om, nơi họ đã đến nghỉ ngơi.
… Chiếc ghế dài đặt ở chỗ rẽ bên cạnh con đường lớn trồng cây hai bên. Băng bên cạnh đường đã đông cứng và lỗ chỗ vết giày trượt băng, còn ở giữa đường là một chiếc cọc tiêu bằng ván có kẻ sọc, giống như những chiếc pháo hiệu trên sông chỉ những quãng nông có viết hàng chữ “Băng bị nứt”. Cái nóng bức làm Vadim nghẹt thở - anh cởi khăn quàng ra và hất chiếc mũ từ phía trán ướt đẫm ra sau gáy.
- Em bị chóng mặt, ôi… Đầu óc quay cuồng, em bị say rồi! - Lena cười khe khẽ, ngửa người ra lưng ghề dài. - Vadim, anh hãy đặt tay xuống dưới đầu em, không có ghế cứng quá!
Anh ngồi nhích lại gần cô, duỗi tay dọc theo lưng ghế, và cô gối đầu lên tay anh. Khuôn mặt đỏ lựng của cô như tối thẫm lại, chỉ có cặp môi là sáng lên ươn ướt. Dọc con đường lớn, người qua lại không ngớt, các em nhỏ trượt sát bên cạnh và ngay trước ghế của họ, các em rẽ những vòng “cua” hẹp, tiếng giày trượt kêu ken két. Đồng chí cảnh sát trực nhật trượt đều đều trên đôi giày trượt băng. Như những chiến sĩ cảnh sát trên băng khác, anh trượt rất thẳng, vững vàng, hai tay dang ra và lạnh lùng nhìn khắp các phía. Anh choãi một chân ra. Một bác người đẫy đà, đeo kính, ăn vận như một vận động viên thật sự, nhưng rõ ràng là lần đầu tiên trong đời bác ta đến sân băng, đang chậm chạp theo sau đồng chí cảnh sát. Thỉnh thoảng bác ta lại cúi gập lưng lại như vội chào ai đó. Bỗng nhiên bác dừng lại, toàn thân bắt đầu rung rung một cách đáng sợ, bác làm động tác gọi là “đóng móng”, rồi vẫy tay và lặng lẽ làm động tác lộn nhào.
Lena cười khanh khách nhìn bác ta, và ưỡn thẳng người lên đúng vào lúc Vadim định ôm lấy cô.
- Anh có nhớ cuộc tranh luận của chúng mình không? về hạnh phúc ấy? - bỗng Lena hỏi. - Chính anh chẳng nói gì cả…
Lúc này anh không muốn nói về điều đó và nói chung là không muốn nói gì cả. Anh muốn ôm chặt lấy cô. Không có lời nào thích hợp với việc này và chỉ làm trở ngại thêm. Lena nhích gần về phía anh và cúi đầu tư lự nói:
- Hạnh phúc à? Đó là… anh biết là gì không? - Và im lặng, cô đọc bằng giọng thì thầm diễn cảm đầy nhạc điệu.
Có những phút khi cơn dông bất hạnh.
Chẳng mảy may xáo động nổi lòng ta.
Trên vai ta nhẹ nhàng tay ai đó.
Đáy mắt ta soi rõ bóng… bạn ta…
Và đây kia cuộc đời in một thoáng…
Lena lim dim mắt và kết thúc bằng một hơi dài nghe vang hơn:
… mất hút.
Như rơi vào vực không đáy tối om.
Và trên vực đang dần dần xuất hiện.
Vầng cầu võng bảy sắc với lặng im.
- Đúng, đúng, đó là hạnh phúc… - Vadim lắp bắp, ôm lấy cô, hôn lên cặp mắt nhắm lại của cô, lên má cô, lên đôi môi lạnh mà cháy bỏng của cô. Các em nhỏ lại trượt đến gần họ và lần lượt lượn quanh chiếc ghế.
- Nghỉ ở đây không được. Chúng mình đến chỗ nhà hóng mát kia đi, ở đó yên tĩnh hem, - Lena vừa nói vừa đứng dậy và cất tiếng hát nho nhỏ - “Sáng lên, sáng lên, sáng lên…” - Nhà này tuyệt thật!
Vadim đứng dậy một cách sảng khoái và nói:
- Chúng mình đi nào! Có điều ở đó chẳng có gì mà ngồi cả!
- Thế chúng mình mang chiếc ghế này đến đấy vậy nhé! đồng ý chứ?
- Chờ một chút, - anh gạt tay Lena ra và lắc lắc chiếc ghế. - Một mình anh mang cũng được!
Hai tay nắm lấy chiếc ghế, Vadim nhấc bỗng nó lên đầu. Bụi tuyết khô rơi lả tả xuống người anh. Trật nghiêng đôi giày trượt băng ra, anh chậm rãi bước đến bên nhà hóng mát.
Lena cứ quay xung quanh anh, sợ hãi nhắc đi nhắc lại:
- Ôi, anh Vadim! Anh ngã mất! Ôi, cẩn thận nhé!. Có phải đỡ hộ anh không?
- Anh mang được…
- Vứt xuống anh… Vứt xuống đi! - Lena kêu lên. - ô, em tin rằng anh khỏe rồi, tin rồi! Ồ, anh đúng là lực sĩ Poddubnyi, Novak. Hercun!
Hai tay anh run lên và chùng lại, còn giày trượt thỉnh thoảng lại trật ra làm sái cả hai bàn chân. Cuối cùng anh cũng khập khiễng đến được chỗ nhà hóng mát và quẳng chiếc ghế đánh “rầm” xuống sàn gỗ lạnh buốt. Lena chạy lên theo anh, giày trượt băng nện thình thịch xuống sàn gỗ. Trong nhà tối mù mù và bỗng nhiên Vadim nhìn thấy trên mặt nền tàn lửa của một đầu mầu thuốc lá bị vứt xuống. Và phía trên đó, bên cạnh chiếc cột có hai bóng người đứng gần sát vào nhau.
- Anh Vadim, quay lại đi! - Lena thì thầm và chạy theo bậc thềm xuống mặt băng.
Vadim bối rối chạy xuống theo cô, Lena đã chạy vun vút theo đường cây và cười khanh khách không kìm lại được, Trong nhà hóng mát có giọng trầm trầm của ai đó nói một cách vui vẻ:
- Xin cảm ơn ông anh!
Và rồi lại là sân trượt băng lớn, là ánh đèn mờ mờ trên mặt băng, là tiếng nhạc. Và bàn tay Lena trong chiếc tất ấm, thon, nhẹ, bỗng trở nên rắn chắc ở những chỗ “cua”.
Buổi tối đó họ chẳng nói gì với nhau nữa. Anh hình dung rằng, sẽ còn có nhiều, rất nhiều buổi tối như vậy nữa trong đời anh. Có cả những chùm đèn như thế này bồng bềnh trên bầu trời, cả tiếng hát trên mặt băng, cả tiếng nhạc, cả cô gái mạnh dạn, có bàn tay thon thon, dễ bảo ở bên cạnh anh… Tất cả những thứ đó còn có nhiều, nhiều lần nữa trong đời anh. Anh vui sướng tin vào điều đó.
… Khi Vadim đi qua lối cổng công viên màu trắng có những tấm biển quảng cáo được chiếu sáng trưng, bỗng nhiên có hai cô gái chạy về phía anh.
- Vadim! Belov! - họ kêu lên từ xa: - Đứng lại đã!
Đó là Marina Gravet, cô gái mắt đen mập mạp, sinh viên lớp anh, còn cô kia - Xima Murtarova, cô gái xinh đẹp có khuôn mặt Di- gan - là sinh viên khoa sử. Cả hai cùng mặc quần dài thể thao và xách giày trượt băng.
- Không làm sao nói cho anh ta chuẩn bị kiểm tra môn tiếng Anh được! - Marina vui vẻ nói như hát, rối cười vang:
- Thế chúng mình sắp cổ kiểm tra à?
- Vào thứ hai. Cô Olga Markovna vừa mới đe doạ hôm kia. Sẽ có chuyện đáng sợ - có một không hai!
Bây giờ anh ấy không hiểu điều đó đâu, - Xima thì thầm. - đối với anh ta thì chỉ có trước mắt thôi!
- Ồ, đúng thế! - Marina hiểu ý gật đầu.
Vadim làm ra vẻ không nhận thấy gì cả.
Anh cùng với các bạn gái đi đến tận ga xe điện ngầm Kaluskaya. Suốt dọc đường Vadim vui đùa với họ, kể những chuyện cười, và chính anh cũng cười ầm lên vì những câu chuyện vô nghĩa. Anh thấy vui vẻ và dễ chịu hơn bao giờ hết.
- Chúng em biết vì sao hôm nay anh lại dễ tính như vậy rồi, - bỗng Marina nói và mỉm cười vẻ thách đố. - Đúng không, Xima?
- Đúng thế, chúng em biết cả rồi! - Xima đáp lại bằng giọng trầm.
Vadim cười mỉm:
- Các cô là những nhà tiên tri, gì mà chả biết!
Họ ra đến quảng trường và đứng chờ cho cả đoàn xe đi qua.
- Nhìn anh chị, em có cảm tưởng là, - Marina vẫn nói giỡn, - hình như anh chị đang tham dự buổi thảo luận chuyên đề lần cuối cùng về môn kinh tế - chính trị học.
- Ồ, cô bạn này! - Vadim nói. - Chúng mình tỏ tình với nhau và đọc thơ…
Marina khanh khách cười vang.
- Ồ… hô! Chỉ có điều là, anh Belov ạ, tỏ tình trên sân băng thường là trơn tuồn tuột.
- Và cô nói thêm một cách nghiêm túc: - Còn nói chung thì anh đều đạt kết quả cả!