The mere brute pleasure of reading - the sort of pleasure a cow must have in grazing.

Lord Chesterfield

 
 
 
 
 
Tác giả: Alain Wasmes
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: La Peau Du Pachyderme
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Thanh Binh
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1895 / 36
Cập nhật: 2016-07-06 02:05:58 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2: Chẳng Có Người Thắng Kẻ Thua
ấn đề trước mắt đối với những người cách mạng là hoàn thành việc đoạn tuyệt với xã hội cũ. Đó là nhiệm vụ được giao cho bộ máy chính quyền mới được thành lập: Uỷ ban quân quản, một bộ máy nắm giữ trong tay mọi quyền hành về hành chính và trật tự trị an. Nhiệm vụ chủ yếu của nó là đập tan mọi âm mưu và hành động phản cách mạng, đồng thời thiết lập những cơ sở ban đầu cho tương lai.
Vấn đề cấp bách đầu tiên của Uỷ ban là nhanh chóng lập lại trật tự trị an, bởi quân đội ngụy Sài Gòn đã “tự tan” vào trong nhân dân. Tuy đại bộ phận bọn chúng đã thực sự tan rã, nhưng còn một bộ phận nhỏ khác vẫn còn âm mưu chống phá lại chế độ mới. Đối với chính quyền cách mạng, họ cần phải truy lùng và quét sạch những gì là tàn dư của bộ máy cưỡng bức khổng lồ của chế độ cũ, đặc biệt những tổ chức cảnh sát mật vụ, nó phá vỡ hoàn toàn công cụ bạo lực phản cách mạng ấy.
Ngay từ những ngày đầu tiên, Uỷ ban quân quản đã ra lời kêu gọi tất cả các nhân viên, các sĩ quan và binh sĩ chế độ cũ ra trình diện chính quyền mới để tiến hành đăng ký. Thực ra việc làm này là nhằm để nắm được những ai chấp nhận những đổi thay của thời thế mới hơn là để nắm được tên tuổi họ. Bởi nếu chỉ để thế thì không cần thiết: toàn bộ trung tâm đăng kiểm của Bộ chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam (Militairy Assistance Command of Vietnam), trung tâm đầu não chiến tranh của Mỹ cũ, đã rơi nguyên vẹn vào tay giải phóng. Trên một trong năm máy tính của trung tâm đăng kiểm Mỹ, toàn bộ quân đội Sài Gòn, từ tổng chỉ huy cho đến anh binh nhì, đều được chương trình hóa trong những phích đục lỗ với toàn bộ những chi tiết về lai lịch và chính trị cần thiết của họ. Thậm chí cả với lớp sắp tuyển, cũng có đầy đủ tất cả như thế.
Nhiều binh lính, sĩ quan, nhân viên chính quyền cũ đã ra trình diện theo lời kêu gọi, nhưng hàng năm nghìn người khác đang còn lần hồi do dự. Vài nghìn người cố tình nằm im, thậm chí một số tên còn tính chuyện chạy ra “chiến khu”. Trong số ra ngày 18 tháng Mười một năm 1975, xã luận báo Quân đội nhân dân đã đưa ra một tổng kết đầu tiên về “Lực lượng tự vệ” thành phố Hồ Chí Minh - tên đặt từ nay cho thành phố Sài Gòn: “Bảy âm mưu chạy trốn bằng đường biển đã bị phá vỡ, hơn 200 tên phản loạn bị bắt giữ; hàng trăm tên đang lẩn trốn bị truy lùng; ta thu được nhiều vũ khí các loại.” Xã luận cũng cho biết trong đồng bằng Cửu Long và xung quanh Sài Gòn “hàng nghìn kẻ địch” đã bị bắt giữ với “hàng nghìn vũ khí” thu được. Vẫn theo báo Quân đội nhân dân số ra tháng trước thì trong tháng Tám và tháng Chín, riêng trong tỉnh Phú Yên cách Sài Gòn 630 kilômét về phía Bắc, số người trong quân đội ngụy cũ ra trình diện cách mạng là: 3269 người, trong đó có 4 đại uý, 51 trung uý, 9 thiếu uý và 73 chuẩn uý. Trong khi đó thì một nhóm “phản động đội lốt tôn giáo” đã bị bắt giữ khi chúng sắp sửa “gây rối loạn trật tự công cộng” ở Đèo Cả trên quốc lộ 1. Cách mạng đã thu được nhiều bằng chứng cụ thể như “điện đài, giấy tờ, sổ sách”. Ngoài ra trong toàn tỉnh, ta còn thu được hơn 9000 vũ khí các loại và 360 tấn đạn dược và đồ quân dụng.
Cùng với những tệ nạn xã hội của chế độ cũ, cách mạng còn phải đặc biệt đương đầu với nạn cướp; lợi dụng những lộn xộn lúc giao thời, khi lực lượng trật tự trị an của cách mạng còn thiếu, nó đã bùng lên dịch phát. Bọn cướp có hai loại: loại những thanh niên lầm lỗi, cướp của giết người theo cách làm ăn lẻ, chúng giống như những tên “cao bồi” phi Honda trên đường phố để thực hiện phi vụ; còn loại thứ hai thì tổ chức thành băng đảng hẳn hoi và thường thường có quan hệ chặt chẽ với người của chính quyền cũ. Một số nhóm mafia đã phân chia nhau những khu vực của Sài Gòn tạo thành những “lãnh địa” riêng thực sự, thậm chí còn có nơi còn trở thành những vùng cấm ngay cả với cảnh sát Sài Gòn, như ở một vài khu vực của Chợ Lớn. Mỗi một “ông trùm cỡ bự” đều bao cho một hoặc nhiều sĩ quan cao cấp và có người bảo trợ nếu không phải là thủ tướng Khiêm, hay đám tay chân của tổng thống Thiệu, thì có khi là... chính bản thân tổng thống Thiệu. Đó còn chưa kể một vài nhân vật “đáng kính” người nước ngoài khác.
Đối với nạn cướp bùng phát ấy, chính quyền cách mạng đã thẳng tay trấn áp: đối với những tên bị bắt quả tang khi đang thực hiện hành vi tội ác những nhóm tuần tra được quyền bắn hạ chúng ngay tại chỗ. Một vài tên tàn ác, nguy hiểm nhất bị đưa ra xét xử, lại kết án tử hình và đưa ra bắn công khai để làm gương. Nhưng để giải quyết một cách cơ bản tệ nạn trên thì cần phải có một hành động rộng lớn hơn, sâu sắc hơn.
Chính quyền quân quản tồn tại trong mười tháng, rồi được thay thế bằng một chính quyền dân sự. Trong khi nó được tổ chức ra như một bộ máy chiến tranh để chống lại những cơ cấu của chính quyền Sài Gòn cũ, thì cũng là điều bổ ích khi chúng ta xem xét xem nó đã thực hiện vai trò đó như thế nào?
Một cách hiển nhiên, chính quyền mới được lập ra không phải bằng bạo lực và bằng đàn áp độc tài, mù quáng. Vậy đối với quân đội và nhân viên chế độ cũ, đường lối chính sách của cách mạng đối với họ ra sao?
Sau giải phóng ít lâu, một lãnh đạo của Việt Nam đã giải thích với tôi: “Về vấn đề này, bản chất của nó là một vấn đề có tính giai cấp. Chúng tôi cần phải tránh không để tạo ra mầm mống của một cuộc phản loạn có tổ chức; chúng tôi có đủ phương tiện để làm việc đó. Nhưng vấn đề là phải làm thế nào để khả năng ấy không thể xảy ra. Càng có trong tay những công cụ bạo lực chừng nào, người ta lại càng phải mềm dẻo để đập tan mọi chống đối giai cấp chừng nấy. Chúng tôi cần phải tránh chính sách “trả thù”, bằng mọi giá.”
Quyết tâm ấy đã được thể hiện bằng những biện pháp đối với những nhân viên của chế độ Sài Gòn cũ, đó là đường lối mà Chính phủ cách mạng lâm thời gọi là “đường lối hòa giải dân tộc”. Tất cả những nhân viên và binh lính của chế độ cũ đều phải theo học những lớp “giáo dục và cải tạo”. Vốn nhân viên thường và binh lính thì lớp học ấy chỉ kéo dài có ba ngày và được tổ chức ngay tại phường, xã nơi họ cư trú. Chương trình học chỉ nhằm giúp họ nhìn nhận lại quá khứ, thấy được sự can thiệp và hành động của Mỹ ở Việt Nam và nhất là thấy được tương lai, “phát hiện ra một thế giới” theo như cách nói của một giáo viên trẻ theo học một lớp ở Huế. Sau lớp học, họ được cấp một chứng chỉ có giá trị như một tấm căn cước và theo sắc lệnh của Chính phủ cách mạng lâm thời, thì nó cho phép họ “chính thức được hưởng những quyền và nghĩa vụ của công dân như tất cả các công dân khác”, trong đó có quyền tham gia bầu cử.
Đối với những sĩ quan cao cấp, những viên chức bậc cao, những cán bộ lãnh đạo những đảng phái phản động cũ, chính sách nhấn mạnh vào khâu “cải tạo”: lớp học với thời hạn kéo dài hơn được tiến hành tại những trung tâm đặc biệt trên cơ sở một chương trình giáo dục gồm mười điểm: những tội lỗi của chế độ cũ, những tội ác của Mỹ, những tội lỗi của tập đoàn lãnh đạo ngụy quyền, những nguyên nhân của sự thất bại hoàn toàn của người Mỹ và chế độ cũ, truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam, chính sách của Chính phủ cách mạng, giá trị của lao động, những nguyên tắc của chính quyền mới và cuối cùng là những trách nhiệm của họ...
Sắc lệnh ngày 28 tháng Một dự kiến một số trường hợp: những người làm công tác khoa học, kỹ thuật như bác sĩ, kỹ sư, công nhân và nhân viên kỹ thuật, giáo sư, giáo viên, kể cả những người phụ trách và giám đốc những cơ quan thuộc giáo dục, y tế những ngành khoa học, kỹ thuật, chủ nhiệm khoa những trường cao đẳng, trung học hay chuyên nghiệp... sẽ được sử dụng lại trong chuyên môn của mình nhưng phải qua một thời gian thử thách từ sáu tháng đến một năm, và hết thời gian đó, họ sẽ được cơ quan nhận xét, đánh giá kết quả, thái độ, tư cách. Trong trường hợp tốt, họ sẽ được khôi phục lại hoàn toàn mọi quyền công dân. Khả năng này cũng được xét đối với những người có người nhà tham gia kháng chiến bảo lãnh. Trong trường hợp này, những người ấy phải chịu sự giám sát trong một thời gian từ sáu tháng đến một năm.
Chính sách khoan hồng của cách mạng được áp dụng với đại đa số những người lầm lạc. Sắc lệnh phân biệt rất rõ ràng, kỹ lưỡng “đa số những binh lính, những hạ sĩ” “bị bắt buộc phải đi làm bia đỡ đạn” và “đa số những người thợ, những viên chức” mà họ chỉ là “những người làm thuê sống bằng đồng lương” với “một thiểu số những kẻ “tham gia” một cách cố tình” vào đường lối, chính sách của chế độ cũ.
Có một trường hợp không thể được hưởng lượng dung thứ, đó là “những tên ác ôn nguy hiểm nhất”.
Hơn cả một sự đạo đức, chính sách “hòa hợp, hoà giải” này còn xuất phát từ một đánh giá thực tế tình hình: nhìn một cách tổng thể, thì quân đội, những tổ chức bán quân sự, hàng ngũ nhân viên của chế độ cũ, tất cả những lực lượng này có khoảng một triệu rưỡi người trong đó phần lớn là chủ của một gia đình có trung bình năm, sáu người. Một chính sách “trả đũa” đối với họ có nghĩa là đẩy một lúc toàn bộ năm, sáu triệu người khác vào một sự chống đối sau này có thể xảy ra.
Vả lại còn những khía cạnh khác nữa. Trong đó sự phân hóa trong gia đình là một thực tế: ngay một số những người có trách nhiệm cao ở Bắc Việt Nam cũng có những người thân trong gia đình hay trong họ tham gia quân đội hay chính quyền Sài Gòn. Không hiếm trường hợp một gia đình, người anh có con là sĩ quan trong Quân đội nhân dân, trong khi em của anh ta thì lại là sĩ quan của quân đội ngụy. Cũng như vậy, còn phải tránh làm kết tụ những chất men chống đối đang tồn tại: ví dụ như những giáo dân ở miền Nam; họ trước đây đã hình thành một thành phần cấu tạo nên cái cột trụ của chế độ cũ, được cấu trúc, được tổ chức theo thứ bậc hẳn hoi, và gần như họ là một giới xã hội duy nhất được trang bị và truyền bá một học thuyết chống cộng một cách có hệ thống. Chính trong số họ mà Diệm đã tuyển mộ được những kẻ cuồng tín nhất của chế độ Sài Gòn, đặc biệt là trong số những giáo dân ngoài Bắc, bị các cha cố phản động xúi giục, thúc đẩy chạy vào Nam năm 1954. Người công giáo chiếm 10% trong dân số ở miền Nam; từ khi có Hiệp định Paris, toà thánh Vaticăng đã có một thái độ thực tế hơn đối với Việt Nam Dân chủ cộng hòa; họ đã công nhận Việt Nam Dân chủ cộng hòa trên thực tế. Khi giải phóng tiến vào Sài Gòn, công giáo Nam Việt Nam, biết rằng không thể trông chờ gì nữa vào bên ngoài, đã chấp nhận gia nhập vào chế độ mới: vậy là người ta thấy tổng giám mục Sài Gòn, cha Bình, đã ngỏ lời với “những người anh em cộng sản” mời người đại diện các công đoàn giải phóng tới nói chuyện tại một chủng viện về vấn đề “quan niệm mác xít đối với lao động”, và trong một buổi thuyết giáo nhân dịp Noel. Cha đã kêu gọi cộng đồng công giáo hãy tham gia vào công cuộc xây dựng “một xã hội mới”, có “khuynh hướng tiến bộ”.
Mười tháng sau giải phóng, vào đêm 13 đến 15 tháng Hai năm 1976, một cuộc đụng độ quyết liệt đã xảy ra giữa lực lượng an ninh cách mạng với một nhóm bảy tên phản động núp trong một nhà thờ ở một quận phía Bắc Sài Gòn. Cầm đầu bọn này là một sĩ quan dù và một linh mục chống cộng có thâm niên, Nguyễn Quang Minh. Sự việc đã phơi bày ra ánh sáng: đó là một mạng lưới thực sự của bọn có âm mưu lật đổ. Điều đó khẳng định mối lo ngại của cách mạng là nhìn thấy ở một số giới trong công giáo, khả năng họ sẽ là cơ sở tiềm tàng cho một hành động chống phá cách mạng: từ tháng năm, một vài nhân chứng cho biết họ đã nhận thấy trong một số giáo khu những hiện tượng đáng lo ngại. Tuy nhiên, những người cách mạng vẫn khẳng định chính sách trước sau như một của họ vẫn là theo đuổi hai mục tiêu: tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của những người công giáo, và quyết tâm đưa những người công giáo, cũng như những cộng đồng thiểu số khác, gia nhập vào đời sống dân tộc.
Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam - Alain Wasmes Những Gì Tôi Thấy Ở Việt Nam