Nguyên tác: The Clocks (1963)
Số lần đọc/download: 298 / 22
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:48 +0700
Chương 6
Khi chúng tôi đã ở bên ngoài để thưởng thức những miếng thịt nướng tái, nuốt xuống cùng với những ngụm bia, Dick Hardcastle buông một tiếng thở dài xả hơi thoải mái, thông báo ông ấy đã cảm thấy khá hơn, rồi nói: “Quỷ tha ma bắt lũ nhân viên bảo hiểm chết toi, những cái đồng hồ kiểu cách và bọn con gái la hét đi! Ta hãy nghe chuyện của cậu, Lamb ạ! Tôi cứ tưởng cậu đoạn tuyệt với phần đất này của thế giới rồi chứ. Thế mà ở đây cậu đang lang thang khắp các con đường đằng sau Crowdean. Chả có đất dụng võ cho một nhà hải dương học ở Crowdean đâu, tôi cam đoan với cậu đấy.”
“Ông anh chớ có cười nhạo môn hải dương học chứ, Dick! Đó là một môn học rất hữu ích. Chỉ cần đề cập đến nó thôi cũng đủ làm cho người ta chán chường quá đỗi và sợ ta sẽ nói về nó nữa, cho nên ông anh không cần phải tự mình giảng giải gì thêm đâu.”
“Chả có cơ hội nào cho cậu cống hiến sao hử?”
“Ông anh đã quên,” tôi lạnh lùng đáp lại, “rằng tôi là một nhà hải dương học. Tôi đã lấy bằng về môn đó ở Cambridge. Một bằng cấp không tốt lắm, nhưng cũng là bằng cấp. Đó là một môn học rất thú vị, và một ngày nào đó tôi sẽ trở về với nó.”
“Tôi biết cậu đang làm việc trong lĩnh vực nào mà, dĩ nhiên rồi,” Hardcastle nói. “Và xin chúc mừng cậu. Vụ án Larkin tháng tới ra tòa, phải không?”
“Vâng.”
“Thật đáng kinh ngạc cái cách hắn ta cố tiếp tục chuyển tài liệu ra ngoài trót lọt trong một thời gian dài. Cậu nghĩ hẳn có người đã nghi ngờ.”
“Người ta đã không nghi ngờ, ông anh biết rồi đó. Khi trong đầu ông anh mà đã đinh ninh đó là một anh chàng rất tốt, thì anh nghĩ hắn không thể như thế.”
“Chắc hắn đã khôn lanh lắm,” Dick nhận xét.
Tôi lắc đầu.
“Không, tôi không nghĩ hắn khôn lanh, thật vậy đó. Tôi nghĩ hắn chỉ làm theo lời sai bảo. Hắn đã được tiếp cận những tài liệu rất quan trọng. Hắn cầm chúng đi ra ngoài, chúng được phôtô và trả lại cho hắn, rồi chúng lại trở về chỗ cũ cũng trong ngày hôm ấy. Sắp đặt hay thật. Hắn đã tạo thói quen ăn trưa hằng ngày ở những chỗ khác nhau. Chúng tôi nghĩ hắn đã treo áo khoác của hắn lên ở chỗ lúc nào cũng có một cái áo khoác giống hệt như thế — dù người đàn ông mặc cái áo khoác kia không phải lúc nào cũng là cùng một người. Những cái áo khoác bị tráo đổi, nhưng người tráo đổi không bao giờ nói với Larkin, và Larkin cũng không bao giờ nói với hắn. Chúng tôi muốn biết thêm thật nhiều về cơ chế vận hành vụ việc ấy. Nó được vạch kế hoạch thật kỹ lưỡng với lịch trình hoàn hảo. Ai đó cực kỳ thông minh đã điều khiển việc này.”
“Và chính vì thế mà cậu vẫn lảng vảng quanh căn cứ Hải quân ở Portlebury?”
“Phải, bọn tôi biết rõ đầu mối ở căn cứ Hải quân của vụ án, và bọn tôi biết rõ đầu mối ở London. Bọn tôi còn biết đích xác lúc nào và ở đâu Larkin lãnh tiền thù lao, và như thế nào. Nhưng có một lỗ hổng. Ở giữa hai đầu mối ấy có một tổ chức rất nhỏ. Đó là bộ phận tụi tôi muốn tìm hiểu thêm, vì đó là bộ phận có đầu não. Ở đâu đó có một bộ chỉ huy rất tài tình, lên kế hoạch thật xuất sắc, để lại một dấu vết rối tung rối mù không phải một lần mà có lẽ bảy tám lần gì đó.”
“Larkin làm thế để làm gì cơ chứ?” Hardcastle tò mò hỏi. “Vì một lý tưởng chính trị, vì bốc phét về cái tôi của hắn, hay đơn thuần chỉ vì tiền?”
“Hắn không có lý tưởng lý tiếc gì hết, phải nói là chỉ vì tiền.”
“Chẳng phải cậu tóm được hắn sớm hơn nhờ mua chuộc bằng tiền đấy hay sao? Hắn đã tiêu tiền, phải không? Hắn đã không dành dụm.”
“Ô không. Đúng là hắn vung tiền như rác. Quả thật bọn tôi đã tóm được hắn hơi sớm hơn thời điểm đã công bố.” Hardcastle gật đầu tỏ ra hiểu biết.
“Tôi hiểu. Các cậu đã vấp váp và rồi cậu dùng hắn làm mồi nhử. Có phải thế không?”
“Ít nhiều là vậy đó. Hắn đã chuyển ra ngoài một số thông tin rất giá trị trước khi tụi tôi tóm được hắn, vì thế tụi tôi để hắn chuyển ra thêm một số thông tin nữa bề ngoài cũng có vẻ đáng giá lắm. Trong sở tôi làm, thỉnh thoảng bọn tôi đành phải làm cho mình trông có vẻ ngốc nghếch.”
“Tôi nghĩ mình không nên quan tâm đến công việc của các cậu, Colin à,” Hardcastle có vẻ trầm tư.
“Đó không phải công việc hứng thú như người ta tưởng. Quả thật nó thường hết sức nhàm chán. Nhưng ngoài ra còn có một vấn đề. Ngày nay người ta bắt đầu cảm thấy không có gì thực sự bí mật cả. Ta biết bí mật của chúng, và chúng biết bí mật của ta. Điệp viên của ta thường cũng là điệp viên của chúng, và điệp viên của chúng rất thường xuyên làm việc cho ta. Rốt cuộc lại, điệp viên hai mang trở thành cơn ác mộng! Đôi khi tôi nghĩ ai cũng biết bí mật của người khác. Và người ta mắc phải cái tội đồng lõa giả vờ như không phải thế.”
“Tôi hiểu ý cậu muốn nói gì rồi,” Dick có vẻ trầm ngâm. Rồi ông tò mò nhìn tôi.
“Tôi có thể hiểu vì sao cậu vẫn cứ phải quanh quẩn ở Portlebury. Nhưng mà Crowdean cách Portlebury đến mười dặm đấy.”
“Cái mà tôi đang thực sự theo đuổi,” tôi đáp, “là mấy cái Crescent.”
“Trăng lưỡi liềm ư?” Hardcastle có vẻ sửng sốt.
“Phải. Hay là các vầng trăng luân phiên xuất hiện. Những trăng non, trăng già các kiểu đang mọc lên, và vân vân. Tôi khởi sự truy tầm từ Portlebury. Ở đó có một quán nhậu gọi là Vầng Trăng Khuyết. Tôi đã lãng phí một thời gian dài vì nó. Nghe có vẻ lý tưởng lắm. Thế rồi có Trăng và Sao, Trăng Mọc, Lưỡi Liềm Vui, Chữ Thập và Trăng Lưỡi Liềm — ở một vùng nhỏ bé gọi là Seamede. Không có gì làm. Tôi từ bỏ những vầng trăng và bắt đầu tìm hiểu các Crescent. Rất nhiều Crescent ở Portlebury. Lansbury Crescent, Aldridge Crescent, Livermead Crescent, Victoria Crescent.”
Bắt gặp vẻ mặt ngơ ngác của Dick, tôi bật cười: “Đừng rối, Dick à. Tôi đã có cái rõ ràng để khởi sự rồi.”
Tôi móc ví rút ra một tờ giấy đưa cho ông. Đó là một tờ giấy viết thư của khách sạn, trên đó vẽ nháp một phác thảo.
“Một anh chàng tên là Hanbury đã để cái này trong ví. Anh ta đã làm nhiều việc trong vụ án Larkin. Là người tốt— rất tốt. Anh ấy bị một chiếc xe hơi đụng rồi cán qua người ở London. Không ai nắm được số xe. Tôi không biết cái này có ý nghĩa gì, nhưng Hanbury đã ghi vội hay sao chép lại, vì anh ấy nghĩ là quan trọng. Anh ta có ngụ ý gì không? Hay là cái gì đó mà anh ta đã từng nhìn thấy hay nghe thấy? Cái gì đó có liên quan tới mặt trăng hay trăng lưỡi liềm, số sáu mốt và chữ cái đầu M. Tôi đã tiếp nhận sau khi anh ấy mất. Tôi chưa biết mình đang tìm kiếm cái gì, nhưng tôi khá chắc chắn có cái gì đó cần phải tìm ra. Tôi không rõ sáu mốt có ý nghĩa gì. Không biết chữ cái M nghĩa là gì. Tôi đã làm việc trong vòng bán kính từ Portlebury ra bên ngoài. Ba tuần làm việc cật lực không ngừng nghỉ và không có kết quả. Crowdean nằm trên lộ trình của tôi. Chỉ có thế thôi. Nói thật tình, Dick à, tôi đã không trông mong gì nhiều lắm ở Crowdean. Ở đây chỉ có một Crescent thôi. Đó là Wilbraham Crescent. Tôi định dạo qua Wilbraham Crescent để xem mình nghĩ gì về số 61, rồi mới hỏi ông anh có nắm được mẩu chuyện vặt nào đó có thể giúp tôi không. Đó là việc tôi đã làm chiều nay, và tôi đã không tìm ra số 61.”
“Tôi đã bảo cậu rồi đấy, số 61 là nhà một thầu khoán ở địa phương.”
“Và đó không phải là điều tôi đang theo đuổi. Công ty ấy có nhận viện trợ nước ngoài kiểu nào đó không?”
“Cũng có thể. Ngày nay rất nhiều người vẫn làm thế. Nếu nhận viện trợ, công ty ấy ắt có đăng ký. Mai tôi sẽ tra giúp cậu.”
“Cám ơn ông anh, Dick.”
“Mai tôi sẽ làm công việc điều tra thường nhật ở hai nhà hai bên số 19. Họ có thấy ai đến đấy hay không, vân vân… Có thể tôi sẽ đưa vào cả những ngôi nhà đằng sau số 19, có vườn liền kề với số 19. Tôi nghĩ không chừng số 61 gần như ở ngay sau số 19 đấy. Tôi có thể dẫn cậu theo, nếu cậu muốn.”
Vô cùng háo hức, tôi gút lại lời đề nghị ấy ngay: “Tôi sẽ là Trung sĩ Lamb của ông anh và sẽ ghi tốc ký.”
Chúng tôi đồng ý sáng hôm sau tôi sẽ đến đồn cảnh sát lúc chín giờ rưỡi.
Sáng hôm sau tôi đến đúng giờ đã thỏa thuận và thấy ông bạn mình đang nổi cơn thịnh nộ.
Khi ông ấy cho gã nhân viên cấp dưới bất hạnh ra ngoài rồi, tôi mới tế nhị hỏi thăm chuyện gì đã xảy ra.
Trong chốc lát dường như Hardcastle không nói được nên lời. Sau đó ông ấy lắp ba lắp bắp: “Những chiếc đồng hồ chết tiệt!”
“Đồng hồ nữa sao? Chuyện gì xảy ra vậy?”
“Thiếu mất một chiếc.”
“Thiếu à? Cái nào thế?”
“Chiếc đồng hồ lữ hành nhỏ, có chữ ‘Rosemary’ ở một góc ấy.”
Tôi huýt sáo.
“Có vẻ quái dị đây. Sao có thể xảy ra được chứ?”
“Lũ ngốc chết tiệt — tôi đúng là một thằng trong lũ ngốc ấy, tôi tưởng…” (Dick vốn là một người rất trung thực) “… người ta phải nhớ gạch ngang mọi chữ t, chứ và đặt dấu chấm trên mọi chữ i, bằng không mọi sự sẽ hỏng bét. À, những chiếc đồng hồ hôm qua vẫn ở đấy chả sao cả trong phòng khách. Tôi đã bảo cô Pebmarsh sờ chúng để xem có cảm thấy quen thuộc hay không. Bà cô ấy đã không giúp được. Rồi họ đến để di dời cái xác.”
“Rồi sao?”
“Tôi đã ra cổng để giám sát, rồi trở vào nhà, nói với cô Pebmarsh đang ở trong bếp, bảo sẽ lấy mấy chiếc đồng hồ đi và sẽ cho bà một biên nhận.”
“Tôi nhớ rồi. Có nghe ông anh nói.”
“Sau đó tôi bảo với cô gái là cho xe đưa cô về nhà, rồi tôi nhờ cậu đưa cô ấy ra xe.”
“Phải.”
“Tồi đã đưa biên nhận cho cô Pebmarsh, mặc dù bà cô ấy bảo chả cần vì những chiếc đồng hồ ấy chả phải của bà. Rồi tôi ra gặp cậu. Tôi bảo Edwards rằng tôi muốn mấy chiếc đồng hồ được đóng gói cẩn thận mang về đây. Tất cả trừ chiếc đồng hồ cúc cu, và dĩ nhiên cả chiếc đồng hồ đứng nữa. Và đấy là chỗ tôi mắc sai lầm. Đáng lẽ tôi phải nói một cách hoàn toàn xác định là bốn chiếc đồng hồ. Edwards nói anh ta đã đi vào ngay lập tức và làm như tôi bảo. Anh ta luôn khẳng định chỉ có ba chiếc đồng hồ ngoài hai chiếc cố định.
“Không có nhiều thời gian,” tôi nói, “nghĩa là…”
“Có thể cái bà cô Pebmarsh kia đã làm chuyện ấy. Có thể bà ta đã lấy chiếc đồng hồ sau khi tôi rời khỏi phòng và bà ta cầm nó đi thẳng vào nhà bếp.”
“Đúng rồi. Nhưng để làm gì?”
“Chúng ta có rất nhiều điều cần phải tìm hiểu. Phải chăng còn có ai khác? Có thể nào cô gái đã làm chuyện ấy không?”
Tôi trầm ngâm suy nghĩ. “Tôi không nghĩ thế. Tôi…” Tôi ngừng lại, sực nhớ ra một chuyện.
“Thế là cô ta đã làm rồi,” Hardcastle nói. “Tiếp tục đi! Lúc nào vậy?”
“Chúng tôi đang đi ra xe cảnh sát,” tôi nói với giọng không được vui, “thì cô ấy nói đã bỏ quên đôi găng tay. Tôi nói để tôi vào lấy cho thì cô ấy bảo, ‘Thôi, tôi biết chỗ đã để chúng. Không còn gì phải sợ khi vào phòng nữa, vì cái xác đã được mang đi rồi.’ Sau đó cô ấy chạy trở vào. Nhưng chỉ đi chừng một phút thôi…”
“Cô ta có đeo găng hay cầm chúng trên tay khi gặp lại cậu hay không?”
Tôi ngần ngừ. “Có — có, tôi nghĩ là có.”
“Rõ ràng cô ta không có,” Hardcastle, “bằng không cậu đâu phải ngập ngừng.”
“Có lẽ cô ấy đã nhét vào túi xách rồi.”
“Vấn đề rắc rối là,” Hardcastle có vẻ muốn quy kết, “cậu mê tít cô ta rồi.”
“Đừng có nói vớ vẩn nhé,” tôi tự vệ một cách mạnh mẽ. “Tồi gặp cô ấy lần đầu tiên chiều hôm qua, không phải cái mà ông anh thường gọi là buổi ban đầu quen nhau lãng mạn đâu.”
“Điều ấy thì tôi không chắc lắm. Đâu phải ngày nào chàng trai trẻ cũng được thiếu nữ lao vào trong vòng tay mà kêu thét lên cầu cứu theo cái kiểu bằng lòng chấp thuận thời Nữ hoàng Victoria. Làm cho người đàn ông cảm thấy mình là một đấng anh hùng, một người bảo vệ ga-lăng. Chỉ có điều cậu phải thôi đi, đừng bảo vệ cô ta nữa, chỉ có thế thôi! Cho đến nay như cậu đã biết, cô gái ấy có thể ngập đến tận cổ trong vụ mưu sát này.”
“Có phải ông anh đang nói cô gái mảnh khảnh ấy đã đâm một nhát dao vào người đàn ông, giấu nó ở đâu đó quá kỹ đến nỗi các điều tra viên của ông chẳng đứa nào tìm thấy, sau đó cố tình hấp tấp ra khỏi nhà rồi diễn cái màn kêu thét cho tôi xem, đúng không?”
“Chắc cậu sẽ kinh ngạc khi biết những gì tôi từng trông thấy vào thời của tôi,” thanh tra nói vẻ mập mờ.
“Chẳng lẽ ông anh không nhận thấy,” tôi phẫn nộ cật vấn, “đời tôi đầy rẫy các nữ điệp viên xinh đẹp đủ mọi quốc tịch? Tất cả các cô đều có số đo ba vòng thường làm cho một gián điệp người Mỹ quên bẵng trong ngực áo của mình có một lọ rượu whisky lúa mạch đen nhỏ xíu. Tôi đã miễn nhiễm với mọi quyến rũ của phái nữ rồi.”
“Cuối cùng anh hùng không qua ải mỹ nhân,” Hardcastle nói. “Tùy thuộc vào týp người hết thôi. Sheila Webb hình như là týp người hợp với cậu đấy.”
“Dù sao đi nữa tôi cũng không hiểu nổi vì lẽ gì ông anh cứ chăm chăm buộc vụ này vào cô ấy?”
Hardcastle thở dài.
“Chẳng phải tôi đang cáo buộc cô ta, mà tôi phải bắt đầu từ một điều gì đấy. Cái xác được tìm thấy ở nhà Pebmarsh. Bà ta không tránh khỏi liên can. Cái xác được cô gái tên Webb tìm thấy — tôi không cần nói cậu cũng biết rất thường xuyên người đầu tiên tìm thấy một xác chết cũng chính là kẻ đã gặp hắn lần cuối cùng lúc còn sống. Cho đến khi có thêm những sự kiện khác xuất hiện, hai người ấy vẫn còn nằm trong vòng điều tra.”
“Khi tôi vào phòng ấy ngay sau ba giờ, người đàn ông đã chết ít nhất nửa giờ, có lẽ còn lâu hơn thế. Điều ấy thì sao hả?”
“Giờ ăn trưa của Sheila Webb từ 1 giờ 30 đến 2 giờ 30 đấy.”
Tôi bực tức nhìn ông. “Ông anh đã tìm thấy gì về Curry rồi?”
Hardcastle đáp với giọng cay đắng bất ngờ: “Chả có gì.”
“Ông anh nói chả có gì nghĩa là sao?”
“Là ông ấy không tồn tại — chả có người nào như thế cả.”
“Công ty Bảo hiểm Metropolis nói gì hả?”
“Họ cũng chả có gì để nói, vì chả có cái gì như thế. Metropolis and Provincial Insurrance cũng không tồn tại. Còn chuyện ông Curry ở đường Denver thì chả có ông Curry nào cả. Chả có đường Denver. Chả có nhà số 7 hay bất cứ số nhà nào khác.”
“Thú vị thật,” tôi nói. “ông anh muốn nói hắn ta chỉ có mấy tấm danh thiếp bịp in một cái tên giả, một địa chỉ ma và công ty bảo hiểm ma?”
“Có lẽ vậy.”
“Theo ông anh thì hắn định bịp bợm kiểu gì?”
Thanh tra Hardcastle nhún vai.
“Ngay lúc này chỉ là phỏng đoán. Có lẽ hắn đi thu phí bảo hiểm ma. Có lẽ đó là một cách để hắn lọt vào các ngôi nhà rồi giở trò. Có lẽ hắn là một tên lừa đảo, một kẻ lạm dụng tín nhiệm, hoặc một gã chuyên cầm nhầm những món vặt vãnh không ai để ý hay một thám tử tư. Chỉ là chúng ta không biết thôi.”
“Nhưng rồi ông anh sẽ tìm ra.”
“Sẽ tìm ra chứ. Cuối cùng chúng tôi sẽ rõ. Chúng tôi đã gửi đi dấu vân tay của hắn để xem hắn có bất cứ kiểu tiền án tiền sự nào hay không. Nếu có sẽ tiến được một bước dài, bằng không sẽ khá khó khăn đấy.”
“Một thám tử tư,” tôi trầm ngâm suy nghĩ. “Tôi thích như vậy hơn. Nó mở ra — những khả năng.”
“Những khả năng là tất cả những gì chúng ta có được cho đến nay.”
“Bao giờ mới mở cuộc điều tra chính thức?”
“Ngày kia. Đơn thuần chỉ là hình thức và thay đổi nơi tiến hành điều tra mà thôi.”
“Chứng cứ pháp y thì sao?”
“Bị đâm bằng một dụng cụ nhọn. Cái gì đấy như là một con dao thái rau trong nhà bếp.”
“Điều ấy phần nào loại trừ cô Pebmarsh, phải không?” tôi nói với vẻ nghĩ ngợi. “Một người đàn bà mù hầu như không thể nào đâm một người đàn ông. Bà ấy thực sự bị mù, tôi nói có đúng không?”
“Đúng đấy, bà ta bị mù. Chúng tôi đã kiểm tra. Và bà ta đã khai về bản thân đúng sự thật. Bà ta từng là giáo viên dạy toán trong một trường ở miền bắc — bị mất thị lực cách nay chừng mười sáu năm — bắt đầu đi học lại chữ nổi, vân vân… và cuối cùng có một chỗ làm trong Viện Aaronberg ở đây.”
“Bà ấy có thể bị bệnh tâm thần, đúng không?”
“Vì quá bận tâm về những chiếc đồng hồ và nhân viên bảo hiểm hay sao?”
“Tất cả thực Sự kỳ quái đến nỗi không biết phải nói sao đây.” Tôi không đừng được phải nói với đôi chút hăng hái. “Như Ariadne Oliver trong những giờ phút tồi tệ nhất của bà, hay Garry Gregson quá cố trên đỉnh cao sung mãn của ông ấy…”
“Cứ nói tiếp… cho thỏa thích đi! Cậu có phải là thanh tra đảm nhiệm vụ này đâu chứ. Cậu không phải làm hài lòng cấp trên hay cảnh sát trưởng và tất cả những người còn lại.”
“Ừ nhỉ! Không chừng chúng ta sẽ có được điều gì đó hữu ích từ láng giềng.”
“Tôi nghi ngờ điều ấy,” Hardcastle nói một cách chua chát. “Nếu người đàn ông ấy bị đâm trong vườn trước rồi hai người đàn ông đeo mặt nạ khiêng hắn vào nhà — chả có ai nhìn ra cửa sổ hoặc trông thấy bất cứ điều gì. Đây đâu phải là một cái làng, thật không may. Wilbraham Crescent là con đường giới thượng lưu cư trú. Lúc gần một giờ, những người đàn bà đến giúp việc hằng ngày có thể thấy gì đó thì đã về nhà cả rồi. Chẳng có ngay cả một xe điện lăn bánh trên đường…”
“Không có người đau yếu bệnh tật cao niên nào suốt ngày ngồi bên cửa sổ hay sao?”
“Đấy là điều chúng tôi mong muốn mà chẳng có được.”
“Còn hai nhà số 18 và 20 thì sao?”
“Số 18 là nhà của ông Waterhouse, chưởng quản thư ký tòa án của Gainsford và Swettenham, và luôn bị bà chị quản lý. Tất cả những gì tôi biết được về số 20 là người đàn bà sống ở đấy có nuôi chừng hai mươi con mèo. Tôi không thích mèo…”
Tôi bảo ông đời cảnh sát thật cực khổ, rồi chúng tôi lên đường.