Số lần đọc/download: 1193 / 58
Cập nhật: 2018-01-29 23:07:33 +0700
Chương 7
T
ôi cảm thấy mình cần phải kể câu chuyện này ở chương kế tiếp, mặc dù nó xảy đến ngay trong đêm ấy, không lâu sau khi tôi chia tay đôi vợ chồng trẻ và người phụ nữ bán quán dễ mến.
Con phố vắng trở nên tĩnh lặng hơn bao giờ hết. Không còn hàng quán, không còn bóng người, không còn cả những chiếc xe gắn máy hoang dại. Tôi dừng chân, thử nhắm mắt lại, lắng tai nghe. Nhưng màn đêm ở thành phố này không hàm chứa một âm thanh nào cả. Mắt tôi tìm lên tầng cây lá, tôi nghĩ về nàng.
- Này, nói gì đi chứ!
Trả lời tôi đầu tiên lại là tiếng chuông điện thoại trên chính tay tôi. Tôi giật thột, nhưng phần nào lại cảm thấy khá hơn. Có điều, giá như đó đã là ai khác chứ không phải là hắn.
- Alo, xin chào! Tôi Chiến đây! Anh ngủ chưa đấy?
- Chưa – Tôi đáp theo phản xạ, còn chưa kịp nghĩ xem tại sao J lại gọi tôi một lần nữa vào giờ này – Tôi… đang trên đường về.
- À há! Chơi đây! – Hắn cười cợt – Được nghỉ một hôm mà đi bay đến giờ chưa về! Anh sắp về tới nhà chứ hả?
- Có việc gì không?
- Này, khi nào về nhà thì anh bật connector lên ngủ hộ tôi đến sáng được không? Tôi trả anh thêm 50% giá của trung tâm nhé, coi như làm thêm giờ đi?
Lẽ ra tôi đã phải đoán ra. Lí do duy nhất để gọi cho một người ngủ thuê là để thuê ngủ mà thôi. Nhưng không phải là đêm nay. Tôi đáp sau vài giây lựa lời:
- Giờ thì không được rồi. Đêm nay tôi cũng cần ngủ.
- Sao thế? Anh ngủ bù ngày mai cũng được chứ! – Hắn nói điều đó một cách hiển nhiên – Đằng nào thì cả ngày anh cũng chỉ có ngủ thôi, phải không nào? Về bật máy lên cái là được thêm tiền rồi còn gì?
- Xin lỗi – Tôi hít vào một hơi làn không khí đêm lạnh buốt – Tôi muốn dành thời gian cho bản thân một chút.
- Sao cơ? – Tôi hình dung J đang nhướn mày cười nhạt – Anh cần thời gian để làm gì cơ?
- Đó là việc của tôi! – Tôi lạnh lùng.
- Nó không nhận hả anh?
Một giọng nữ nũng nịu chen vào. Tôi có thể đoán được đó chính là cô nàng váy xanh, mà giờ có lẽ cô ta cũng chẳng còn váy áo gì hết ráo. J hẳn đang nằm trên giường ôm cô ta, và điều đó lí giải tại sao hắn lại cần đến tôi. Chẳng buồn che cổng mic, hắn trả lời cô nàng:
- Ừ, có vẻ cứng! – Hắn chép miệng – Làm thế nào đây nhỉ?
- Thì em bảo rồi! Mai anh ngủ bù đi chứ còn gì nữa?
- Mai anh còn đi làm chứ!
- Thì nghỉ một hôm! Anh làm lắm làm gì?
- Để anh bảo nó lại lần nữa xem! – Giọng J vang lớn trở lại – Tôi bảo này! Anh có biết là bên cạnh làm tròn trách nhiệm của mình thì một người làm dịch vụ cũng cần phải chăm sóc đến cảm nhận của khách hàng không? Anh không ngủ thay tôi đêm nay, ừ rồi, tôi tự ngủ bù lấy. Nhưng còn anh, anh sẽ mất điểm trong mắt khách hàng, công việc của anh sẽ khó khăn hơn đấy! Thế nào?
- Tôi nói rồi. Công việc là công việc, ngoài đó ra, tôi có cuộc sống của riêng tôi! – Tôi sẽ nhổ vào mặt J nếu như hắn đang ở trước mặt tôi – Anh có thể gọi đến trung tâm hoặc làm thế nào tuỳ anh. Vậy thôi!
- Gọi đến trung tâm có được đâu… Thôi được rồi! Chào anh!
“Cạch” một tiếng, có vẻ J đã thảy máy điện thoại của hắn lên đâu đó mà không thèm tắt máy đi, không biết vô tình hay hữu ý. Giọng nữ kia lại ré lên chói lói, theo sau là những rúc rích tỉ tê vô nghĩa. Chẳng có lí do gì để lắng nghe, tôi tắt máy. Vừa lúc ấy, một chiếc taxi trờ tới.
Ngày hôm sau, gã mặt choắt gọi tới cho tôi, thông báo hợp đồng của tôi với J đã bị cắt. Tôi nghe những lời an ủi của hắn bằng một tai, không hề cảm thấy nuối tiếc hay lo lắng gì như hắn nói. Cho dù đó là một bài học J dành cho tôi về nghiệp vụ chăm sóc khách hàng, hay thực sự gã trai trẻ đã không còn cần thêm thời gian từ người khác đi chăng nữa thì đối với tôi cũng chẳng có ý nghĩa gì cả. Tôi đã có một giấc ngủ êm dịu trong nửa còn lại của đêm qua.
Bên kia, N đã mở bung rèm cửa, gương mặt tươi tỉnh rạng ngời. Cô đặt lên bàn một bình hướng dương và đứng ngắm nó hồi lâu.
***
Thế giới bên ngoài dường như có điều gì thay đổi. Màu nắng, màu mây trời, màu cây lá, và những bông hoa bên ô cửa số của N. Tôi có cảm giác mình đã từng quen thuộc với những điều này nhưng lại không nhớ ra đó là gì. Cảm giác nhớ nhớ quên quên này bứt rứt đến độ vào một buổi tối, sau khi lùa sơ sịa một vài miếng cơm, tôi lại đứng dậy lấy áo khoác, bỏ vào túi cây bút chì, viên tẩy, cầm theo mình cuốn sổ kí hoạ và bước xuống đường. Tôi sẽ có từ giờ đến tận sáng hôm sau để tìm cho mình câu trả lời, nhờ vào khoảng trống hợp đồng của J để lại.
Tôi ngồi xuống ghế đợi của bến xe bus và nhìn vào bức tường vàng chạy dài phía bên kia đường. Ghế bên cạnh tôi, một cặp tình nhân đang cuốn lấy nhau, ôm hôn say đắm. Trong không khí phảng phất một thứ mùi tươi mát, xốn xang giữa cái se sắt cuối ngày. Những làn gió trôi qua dường cũng đang mang theo một điều gì đó mới mẻ. Vẻ âu lo tất tả trên gương mặt người lớn và niềm hào hức trong trẻo nơi đám trẻ con ngồi sau lưng. Tất cả đều rất đỗi quen thuộc. Và tôi vẫn chưa nghĩ ra.
Tôi đợi đến trước xe bus thứ ba đi qua rồi mới quyết định leo lên, để thay đổi là chính. Cặp tình nhân ghế bên vẫn đang mê mải tình tự khi tôi đứng lên. Họ đã bỏ qua mấy chuyến xe trước rồi, và tôi phải tự hỏi không biết có nên đánh thức họ hay không. Cuối cùng, chiếc xe tôi lên chuyển bánh tiếp tục mà không có họ. Đài phát thanh trên xe chuyển sang một ca khúc với giai điệu da diết khi tôi tìm được cho mình một chỗ ngồi. Tai tôi lùng bùng lời hát giữa những âm thanh khác trên một chiếc xe bus, nhưng chỉ cần những nốt cao ngân lên miên man ấy thôi đã đủ lay động trong tôi một điều gì đó như là nỗi nhớ mơ hồ không thể chịu đựng nổi. Tôi bước xuống xe vừa khi đài lại chuyển sang một bài hát khác nữa. Không còn run rẩy, không còn lảo đảo và cần thời gian để hoàn hồn, tôi đảo mắt nhanh một vòng quanh điểm dừng xe, và rồi choáng ngợp nhận ra đường phố so với lần cuối tôi tìm đến cũng đã khác rồi.
Không còn là những nguồn sáng không tên, chồng chéo từng mảng màu, không còn là những tưng bừng nhộn nhạo của một thành phố không có đề tài nữa, đường phố giờ đây dường như chịu một hiệu ứng chung hầu khắp. Đèn lồng đỏ treo dọc hai bên đường, nối với nhau đôi một bởi những dải đèn kết hình hoa năm cánh hồng hoặc cặp rồng nâng biểu tượng của thành phố. Những gian hàng tạm được dựng lên cách nhau năm mười căn nhà một cũng cùng một tông màu đỏ, từ màu sơn trên vách, những quả tú cầu treo giữa cửa cho đến những hộp quà được bán. Và trong một giây tưởng đâu mình đã bị hoa mắt rồi, tôi còn thấy màu đỏ trên những môi son, trên đôi má các cô gái đi ngang qua. Một vài giai điệu vui tươi được nối từ cột loa này tới cột loa khác, không ngừng trở đi trở lại một từ ở thanh cao mà ngay sau đây mẹ tôi cũng nhắc đến.
Vẫn có những góc trong thành phố này mà hiệu ứng ấy hãy còn chưa lấn tới. Tôi tìm đến một ngã ba, hay đúng hơn là một ngã tư cụt, nơi một con phố đâm xuyên qua một con phố khác rồi dừng lại tức thì, tạo nên một vùng “vịnh” trong phố. Nơi đây tập trung nhiều các quán café đông đúc với nhạc nhẹ và ánh sáng mờ mờ. Lần đầu tiên sau quá nhiều ngày, tôi nhìn vào một cuốn lịch treo tường. Ấy là cuốn lịch trên tường một trong những quán cà phê ấy. Ngày tháng trên lịch cũng được in một màu đỏ! Tôi đứng sững lại trước tấm lịch, trong mắt tưởng như chẳng còn gì khác ngoài màu đỏ, không nhận ra một cô gái đeo một nửa chiếc tạp dề đen vừa đến bên cạnh tôi.
- Sao thế anh? – Cô hỏi, làm tôi giật bắn người, và nhìn theo hướng mắt tôi – À chết, nay em quên chưa xé lịch!
Cô bật cười rồi đi đến bên tường, bóc đi tờ lịch đỏ và cả ánh nhìn của tôi dán trên đó. Tờ lịch dưới vừa mở ra in màu xanh. Tôi thở phào, và rồi lại choáng váng một lần nữa khi đã đọc được ngày tháng trên lịch: Vậy là tôi đã ngủ quên cùng các hợp đồng “chia sẻ thời gian” được trọn một mùa rồi, tất cả những biến đổi quanh tôi những ngày này đơn giản là một khúc giao mùa, chỉ vậy thôi. Một mùa, đó thực sự là một kỉ lục về sự lãng quên thời gian, nếu như có một thống kê nào về việc đó. Hẳn một mùa kia đấy, tôi sẽ cười lớn vào mặt H như vậy nếu như gã có ở đây. Rồi lòng tôi lại quặn lại khi nghĩ ra đó là quãng thời gian tôi có nàng ở bên, trong những chiêm bao của mình. Tôi đã không gặp lại nàng kể từ đêm trước. Nàng đã hối thúc tôi đi ra ngoài một lần nữa đấy sao?
Nhưng đó vẫn chưa phải là tất cả những gì tôi cần nhớ. Cảm giác trong tôi vẫn còn gì đó khác hơn… Tôi gọi một li trà chanh, thứ rẻ nhất có thể, rồi ngồi xuống một ghế nhựa trên vỉa hè. Lúc ấy thì mẹ tôi gọi tới:
- Sắp Tết rồi, bao giờ về thế con?
Sau một vài câu hỏi thăm quen thuộc, mẹ hỏi cái điều bà cần biết nhất. “Tết”, cái từ đã được vang lên rất nhiều lần trong buổi tối hôm ấy, giờ được chính mẹ tôi nhắc lại, và cuối cùng tôi đã nhớ ra. Các giác quan đã tuần tự tái hiện đúng những cảm nhận cần thiết của nó trong một chu kì, trong lúc bản thân còn chưa ý thức được. “Tết”, cái từ này mang một âm hưởng kì lạ, đủ khiến tôi thấy nhói trong lòng. Đã bao lâu rồi tôi quên mất rằng còn có những ngày như thế trong năm…
- Con… cũng chưa biết được ạ! – Tôi nói dối, với một ngút ngập ngừng – Công ti chưa có thông báo gì, sợ phải trực qua Tết mẹ ạ.
- Thế à? – Giọng mẹ nghe buồn hẳn – Ừ, thế cứ cố gắng mà công tác, mà cũng sắp sắp thời gian mà về con ạ…
Thực ra đó không hẳn là một lời nói dối. Sắp Tết, nhưng Happy Time đã không có một thông báo nào cả. Những con người ấy… họ sẽ không tự mình ngơi nghỉ trong dịp này sao? Nghĩ đến những điều đó đang là thứ giữ chân tôi lại thành phố này khiến tôi cảm thấy cắn rứt và buồn khổ ghê gớm. Giọng mẹ đã tắt rồi mà tôi vẫn còn giữ máy trên tai, cắn chặt môi ngăn không cho nỗi niềm ấy oà ra. Cô gái mang tạp dề đặt khay trà chanh xuống ghế, ái ngại hỏi tôi:
- Anh có sao không ạ?
- Không, không… – Tôi mở mắt, quẹt nhanh tay ngang mặt – Mình không sao. Cảm ơn nhé!
Nụ cười của cô gái ngọt lịm, mát lành như trà chanh vậy. Cả hai thứ đó giúp tôi thấy khá hơn trong chốc lát. Đặt li trà xuống lại khay, tôi ngẩng lên để thấy một toà nhà đồ sộ với hai mái tháp vuông và cây thập giá: một nhà thờ Công giáo. Và không chỉ là một nhà thờ Công giáo bình thường, trí nhớ của tôi dần vận hành trở lại, đây chính là nhà thờ mà tôi đã khám phá ra cách đây hơn hai năm, là khung cảnh tôi đã ghi lại trên trang đầu tiên cuốn sổ kí hoạ trước. Tôi mượn một hớp nước trà nữa để nở một nụ cười.
***
Cuốn sổ kí hoạ ấy là thứ tôi đã mua bằng tháng lương đầu tiên kể từ khi bắt đầu dọn ra ngoài thuê trọ, như một vật đánh dấu cuộc đời riêng và một phần thưởng cho chính mình. Tại thời điểm mà đối với tôi chưa gì có thể gọi là ổn định cả, việc cắt ra một khoản bằng hai bữa tối no nê cho một thứ kém thiết yếu cỡ đó quả là một sự kiện. Nhưng tôi đã không nghĩ quá nhiều như thế ở tuổi mười chín. Và lẽ ra tôi không nên nhớ về những điều đó nữa mới phải.
Tôi bắt gặp cuốn sổ trong một nhà sách lớn, trong khi đang thơ thẩn tìm một vài cuốn giáo trình. Tôi có thể dễ dàng mua được bản photo của chúng ở một tiệm sách trong ngõ nhỏ gần trường, nhưng sao phải làm vậy kia chứ? Cái thú của việc sống một mình ấy là được thong thả về chiều, điều ấy tới lúc đó tôi mới nhận ra. Cuốn sổ kí hoạ đã xuất hiện khi đó, giản dị trên tầng gần dưới cùng của kệ sách, giữa vô số những cuốn sổ khác. Nó có vẻ như là cuốn cuối cùng trong chuỗi thiết kế ấy, lớn hơn cỡ A4 một chút, đặc biệt thu hút tôi bởi lớp bìa giả gỗ màu xanh dương. Không cần tới một giây suy tính, tôi nhặt nó lên và đi về phía quầy thanh toán. Đám giáo trình có thể đợi theo cách quen thuộc dành cho chúng.
Cuốn sổ cho tôi một lí do để đi lang thang quanh thành phố vào những buổi chiều tối rảnh rỗi ít ỏi, đi tìm một khung cảnh, hay là, như các tay viết bí rị hay nói, đi tìm nguồn cảm hứng. Điều gì đã đưa tôi đến trước nhà thờ này? Chỉ có sự vô định mà thôi. Đó hẳn là một buổi chiều đầy nắng, căn cứ vào những nét bóng đổ mà tôi đã tỉ mỉ tô trong ngày hôm đó. Lọt thỏm giữa biển người, nhấn chìm vào trong những thanh âm phố thị, chỉ có một li trà chanh bầu bạn, trở thành một phần, mà lại hoàn toàn tách biệt với khung cảnh ấy, tôi nhớ là mình đã ngồi cho tới tận khi tắt nắng.
Tôi nhớ lại tất cả những điều đó, đối chiếu trong tâm tưởng bức vẽ ngày đó với nhà thờ tôi đang thấy lúc này. Khi ấy, tất cả những gì trong tầm nhìn của tôi đều được tắm trong ánh nắng chiều, còn giờ đây, dù đang ở ngay giao điểm của hai con phố nhộn nhịp, ánh sáng đô thị vẫn không thể nào phủ lên được dù chỉ một nửa toà nhà thờ cổ. Im lìm trong đêm tối, bàng quan với những hỉ nộ ái ố dưới chân mình, nhà thờ như được trở về là chính nó, toàn vẹn, chân phương. Tựa như vừa trút bỏ một làn xiêm y mượt mà để phô ra những gì góc cạnh nhất. Ít ra, đối với tôi, hai ngọn tháp này có vẻ hợp với buổi đêm hơn là ban ngày. Tôi mở cuốn sổ kí hoạ mang theo, cuốn thứ tư kể từ đó, lấy bút chì, tẩy và lặp lại điều mình đã từng làm vào một buổi chiều hai năm về trước. Không còn bóng đổ, tôi có thể tập trung vào từng vệt rêu phong trên tường gạch cũ, cẩn thận đi những nét chì mờ. Rêu phong… cũng giống như nơi góc phố ấy.
Đêm xuống dần, người ta cũng lần lượt đứng lên khỏi những câu chuyện bên li trà chanh của mình, nhưng tôi đã không nhận ra điều đó cho tới khi cô gái mang tạp dề đến cạnh tôi và nhã nhặn xin phép thu dọn để đóng cửa quán. Khi ấy thì tôi đã gần như là vị khách cuối cùng ở nơi vịnh phố này. Tiếng lạch cạch của bàn ghế được gom lại và tiếng loẹt quẹt chổi quét những vỏ hạt hướng dương trên mặt đất làm nền cho một hai câu chuyện thưa thớt cuối ngày của những người bán quán. Họ đang nói về một nhóm khách ngồ ngộ hay một mẩu chuyện hài hước nào đó họ nghe lỏm được trong ngày. Và chút nữa thôi, biết đâu họ sẽ kể với nhau câu chuyện về chàng hoạ sĩ trẻ cặm cụi với bức vẽ nhà thờ trong suốt một buổi tối. Có thể lắm.
Tôi đứng dậy, hít lấy một hơi đầy cái không khí mát rượi tươi mới của một đêm chuyển mùa. Vẫy tay chào cô gái mang tạp dề đen và nhận lại một nụ cười ngọt lịm nữa, tôi lững thững thả bước xuống con phố vắng. Tôi bắt gặp tượng Đức Mẹ bồng Chúa Jesus ở chính diện cổng nhà thờ, trên một bục cao được vây quanh bởi bốn mặt hàng rào, và chợt nghĩ có khi nào người ta nghĩ đến việc mời bà một li trà chanh hay không. Nỗi cô đơn hình như chẳng chừa một ai cả. Đã quá nửa đêm khi tôi về tới phòng mình, tôi chợt nghe mắt mình cay cay một nỗi niềm chẳng liên quan gì tới sự thiếu ngủ.
***
Chưa khi nào tôi thấy N xinh đẹp đến thế, ô cửa sổ phía bên kia đáng yêu đến thế. N mặc một chiếc váy suông trắng sữa, khoác ra ngoài một làn áo len vàng mỏng, cô đang tỉ mẩn cắm những chùm hoa bé xíu nhiều màu mà tôi không biết tên lên lọ hoa trên bàn. Khi đã hoàn thành lọ hoa, cô mỉm cười xoay trở ngắm nghía nó một vài vòng trước khi nhặt một chiếc mũ berret bằng nỉ đỏ đội lên đầu và đi xuống khỏi căn phòng. N thật đẹp hôm nay. Nhưng không phải vì những váy áo mới này, mà chính cái trở mình của khung cảnh những ngày này đang phản chiếu nơi cô mới khiến tôi bị choáng ngợp đến thế. Gần lắm rồi, nhưng với tôi lại chẳng có thay đổi gì cả.
Không có nghỉ Tết cho những người ngủ thuê, hay ít nhất là cho tôi. Hợp đồng các khách hàng đã kí không đề cập gì tới khoảng thời gian gọi là “Tết”, và để đảm bảo ổn định cho hệ thống, những người ngủ thuê được yêu cầu giữ nguyên mọi điều kiện và lịch trình làm việc. Đó là thông báo từ Happy Time. Cũng vẫn là gã mặt choắt gọi cho tôi từ quầy lễ tân, và vẫn với giọng thân tình phỉnh phờ, hắn chúc tôi “ăn Tết vui vẻ”. Rất vui tính đấy!
Bà chủ nhà trọ tỏ vẻ ngạc nhiên vô thưởng vô phạt khi tôi nói với bà mình sẽ tiếp tục ở lại nhà trọ trong mấy tuần Tết. Rồi bà điềm nhiên thông báo lại với tôi rằng giá thuê nhà sẽ tăng kể từ tháng tới. Đây hẳn sẽ là lời chào mừng năm mới của bà tới những người khách trọ khác khi họ quay trở lại đây sau kì nghỉ. Bà cũng là một người vui tính đấy!
Hai ngày tiếp sau đó, tôi không đếm được số lần mình nhấc điện thoại lên rồi lại đặt xuống, thở dài. Biết nói gì đây với những người đang mong chờ mình? Rằng tôi sẽ không thể về nhà vì còn có những người không muốn tự ngủ trong ngày Tết ư? Tôi trì hoãn việc gọi về nhà, như một đứa trẻ trì hoãn nhổ đi cái răng sữa đầu tiên, không biết thời hạn cho mình còn có thể đến bao giờ. Đã sang ngày thứ ba…
***
Đó hẳn đã là một buổi chiều nắng đẹp, nhưng khi tôi bắt đầu nhận ra những tia sáng phản chiếu lấp loáng trên mặt nước trà vàng ươm thì nắng cũng đã bắt đầu tắt rồi. Những tia nắng cuối ngày căng ngang qua những ô cửa sổ trên cao, hắt xuống những đường bóng đổ như đôi mắt người đang ngái ngủ. Nhà thờ và nơi vịnh phố này đang chuẩn bị đón thêm một đêm dài, bàng quan nữa. Nhưng hôm nay sẽ không có tôi ở lại với chúng. Tôi sắp sửa rời khỏi đây, chỉ một chút nữa thôi, trên đoàn xe lửa đang nằm dọc theo con phố sau lưng, phì phò những nhịp hơi nước.
H ngồi ngay trước mặt tôi, gã đang cười nói gì đó với người bên cạnh, một gã trai trẻ khác trông rất giống với J. Tôi không nghe được rõ câu chuyện của họ. Hai người đó chỉ ngồi đối diện với tôi qua một chiếc ghế nhựa lùn, vậy mà tiếng nói của họ dường như lại đang vọng xuống từ một ban công cao tầng. C xuất hiện trong chiếc tạp dề đen buộc quanh hông, cô mỉm cười khi chuyền cho tôi một li nước. Nhưng khi tôi còn chưa kịp đón lấy thì cô đã vội thu nó lại, tỏ vẻ nhầm lẫn. Cô quay đi, biến mất vào đám đông, rất nhanh trước khi tôi kịp đưa tay níu cô lại. Rồi tôi lại chợt thấy có ai đó đã vỗ liên tiếp vào vai mình. Tôi quay lại, nhận ra B đang gọi tên mình, tay ngoắc về phía cửa một toa xe, ra dấu cho tôi đã đến giờ lên tàu. Sân ga giữa phố thoắt ngập những người, như thể toàn bộ cư dân hai con phố này đã quyết định lên tàu hết một lượt. Cả bể người đang cuộn xoáy vào mấy ô cửa.
“Thế còn…?”, tôi ngơ ngác quay lại, nhưng cả H, J và C đã không còn ở đó nữa. Và nàng! Nàng đang đứng trên một bục cao, vây quanh bởi bốn mặt hàng rào. Khoác trên mình một tấm áo chùng lụa trắng, trông nàng thanh thản, an nhiên. Nàng cúi xuống nhìn tôi và mỉm cười, nụ cười nàng mang tôi ra khỏi chốn nhộn nhạo này trong chốc lát. Nhưng rồi tiếng còi tàu lại vang lên chói lói, nàng, vẫn đang mỉm cười, khẽ khàng lắc đầu. Tôi những muốn cất lời gọi tên nàng, vươn lên chạm vào nàng, nhưng cổ họng tôi cứ như nghẹn lại, cơ thể tôi đang tự nó chuyển động giật cục về phía xe lửa, theo tiếng thúc giục mỗi lúc một gấp của còi tàu. Tôi cố ngoái lại nhìn nàng lần nữa. Nàng gật đầu với tôi thay lời chào tạm biệt. “Không, đừng tạm biệt…”. Ấy là khi tôi vấp ngã.
***
Thay vì giáng lưng xuống mặt đất con phố đông, tôi lại thấy mình vừa bừng tỉnh dậy trên giường nệm phòng mình, bị thúc giục bởi tiếng chuông điện thoại thay vì tiếng còi tàu. Tôi không nghe máy ngay mà để mặc cho điện thoại đổ chuông thêm một vài hồi nữa, đến khi chắc chắn rằng mình đang thực sự quay trở lại phòng mình, tôi mới trở dậy, uể oải đến bên bàn. Tới khi nhìn rõ tên người gọi hiện lên trên màn hình, tôi mới ước giá mình đã trì hoãn thêm được một lúc nữa.
- Hôm nay nhà mình mới làm cúng ông Táo con ạ…
- Mấy hôm nữa nhà mình định nhờ người đến thịt lợn đấy. Mẹ tính làm cả giò thủ, giò xào với nem thính…
- Năm nay mẹ còn tưởng lạnh quá mạ khó lên, thế mà cũng lên đều lắm rồi.
- Bố mày cứ đòi mua cả đào lẫn quất. Hoang quá thể!
Mẹ thông báo tất cả những điều ấy bằng giọng tươi tỉnh, như thể đã không có cuộc gọi ngày hôm trước. Những điều bà kể hiện lên rõ mồn một trong đầu tôi, day diết trong lòng tôi một nỗi buồn nhớ khủng khiếp. Tôi sẽ phải nói thế nào đây?
- Mẹ ơi, con… con…
- Không về được thật hả con? – Giọng bà chùng xuống, không buồn, chẳng vui, chỉ miên man.
- V… vâng, con…
- Ừ thôi! Mẹ thương mày quá! Cố mà giữ sức khoẻ mà làm việc con nhé! Để mẹ xem có ai lên trên đấy thì mẹ làm gà gửi cho…
Tôi chực oà lên trong một cảm giác không hẳn sầu muộn, không hẳn nhẹ nhõm. Nhưng điều tiếp theo đây mới khiến tôi cảm thấy đau đớn đến không thể chịu nổi. Đó là khi mẹ chép miệng bâng quơ:
- Tết này chắc mẹ ra chợ mua một hai cái bánh chưng thắp hương thôi. Con không về thì nhà cũng thôi chẳng luộc bánh làm gì nữa.
Tôi không còn nhớ được cuộc gọi đã kết thúc thế nào. Bằng lời xót xa của mẹ, bằng tiếng nấc không thành hơi của tôi. Mắt tôi đỏ quạch, môi tôi khô rang và áo gối tôi nằm ướt đầm vào buổi sáng hôm sau. Trong giấc mơ đêm trước, những đào, những quất, những gà, những giò nhảy múa trên nền xa mờ những đồng lúa, ruộng muối, đâu đó lép bép tiếng củi cháy dưới nồi bánh chưng đại tướng trước sân nhà.