If you have never said "Excuse me" to a parking meter or bashed your shins on a fireplug, you are probably wasting too much valuable reading time.

Sherri Chasin Calvo

 
 
 
 
 
Tác giả: Madeleine L'engle
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: A Wrinkle In Time
Dịch giả: Nguyễn Lan Hương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4527 / 198
Cập nhật: 2017-09-04 05:50:56 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6 - Cô Đồng Tốt Phúc
ọn trẻ lại dán mắt vào quả cầu pha lê. Trái đất với lớp che phủ đáng sợ của bóng đen đã lướt ra khỏi tầm mắt và họ đang di chuyển rất nhanh xuyên qua Ngân Hà. Và một lần nữa cái Bóng lại xuất hiện.
“Cẩn thận!” cô Đồng bảo chúng.
Bóng tối dường như sôi sục và quằn quại. Có phải điều này là để an ủi chúng?
Đột nhiên, có một vụ bùng nổ dữ dội ánh sáng xuyên qua Bóng tối. Ánh sáng lan tỏa ra và ở những chỗ ánh sáng chạm tới Bóng tối, Bóng tối biến mất. Ánh sáng cứ lan tỏa cho đến khi mảnh vụn của Bóng Đen biến mất, chỉ còn lại quầng sáng dìu dịu, và xuyên qua quầng sáng đó là đến các vì sao, trong sạch và thanh khiết. Rồi, chầm chậm, quầng sáng thu nhỏ lại cho đến khi chính nó cũng biến mất và chẳng còn gì ngoài những ngôi sao và ánh sao. Không hình bóng. Không sợ hãi. Chỉ còn lại những ngôi sao và bóng tối trong sạch của không gian, khác hẳn với bóng tối đáng sợ của cái Bóng.
“Các cháu thấy chưa!” cô Đồng gào lên, mỉm cười hạnh phúc. “Nó có thể bị khuất phục! Lúc nào nó cũng bị khuất phục!”
Bà Gì Đó thở dài, một tiếng thở dài não nuột đến nỗi Meg chỉ muốn vòng đôi cánh tay ôm lấy bà và trấn an bà.
“Vậy thì làm ơn hãy nói cho chúng cháu biết chính xác điều gì đã xảy ra”, Charles Wallace khẽ nói.
“Đó là một ngôi sao”, Bà Gì Đó buồn bã nói. “Một ngôi sao từ bỏ mạng sống của mình trong cuộc chiến chống lại cái Bóng. Ngôi sao đã thắng, ừ, đúng thế, các cháu của ta, nó đã thắng. Nhưng nó đã đánh mất mạng sống của mình trong chiến thắng”.
Bà Cái Nào nói tiếp. Giọng bà nghe mệt mỏi, và họ hiểu rằng việc biểu đạt của bà lúc này là một nỗ lực lớn lao. “Mmớii ttrướcc đđâyy cchưưa llâuu đốii vvới ccô, phhải kkhhông nàoo?” bà nhẹ nhàng hỏi.
Bà Gì Đó lắc đầu.
Charles Wallace đi đến gần Bà Gì Đó. “Cháu biết. Giờ cháu đã hiểu. Bà từng là một ngôi sao, phải không ạ?”
Bà Gì Đó bưng mặt như thể đang rất bối rối, và bà gật đầu.
“Và bà đã... bà đã làm cái điều mà ngôi sao đó vừa mới làm, phải không ạ?”
Vẫn vùi mặt sau đôi tay, Bà Gì Đó lại gật đầu.
Charles Wallace nhìn bà, vẻ mặt rất nghiêm túc. “Cháu muốn hôn bà”.
Bà Gì Đó bỏ tay khỏi mặt, kéo Charles Wallace lại phía mình thành cái ôm chầm. Nó ôm lấy cổ bà, áp má nó vào má bà và đặt lên đó một nụ hôn.
Meg cảm thấy nó cũng đã muốn hôn Bà Gì Đó, nhưng sau Charles Wallace, tất cả những điều nó hay Calvin làm hoặc nói sẽ trở nên không mấy ý nghĩa. Nó tạm bằng lòng với việc đứng nhìn Bà Gì Đó. Cho dù nó đã quen với trang phục kỳ quái của Bà Gì Đó (và chính cái vẻ kỳ quái của trang phục ấy lại khiến bà trở nên vô cùng dễ mến), nó vẫn còn sốc nguyên khi nhận ra rằng hoàn toàn không phải là nó vẫn nhìn thấy chính Bà Gì Đó. Bà Gì Đó hoàn chỉnh, đích thực, giờ Meg đã hiểu, nằm ngoài sự hiểu biết của con người. Những gì nó nhìn thấy chỉ là trò chơi mà Bà Gì Đó đang chơi; đó là một trò chơi vui vẻ và hấp dẫn, một trò chơi đầy tiếng cười và sự thoải mái, nhưng đó chỉ là khía cạnh nhỏ nhất của tất cả những gì có thể là Bà Gì Đó.
“Ta không hề có ý kể cho các cháu nghe”, Bà Gì Đó ngập ngừng. “Ta còn chưa từng định cho các cháu biết. Nhưng, ôi, các cháu yêu của ta, ta rất thích được làm một ngôi sao!”
“Ccô vvẫnn ccòn rrấtt trrẻ”, Bà Cái Nào nói, giọng bà pha chút quở trách nhẹ nhàng.
Cô Đồng ngồi vui vẻ ngắm nhìn bầu trời đầy sao trong quả cầu của cô, mỉm cười và gật gù, rồi lại khẽ chặc lưỡi. Nhưng Meg để ý thấy đôi mắt cô rũ xuống, rồi đột nhiên đầu cô gục về phía trước và cô phát ra một tiếng ngáy yếu ớt.
“Sinh vật tội nghiệp”, Bà Gì Đó nói, “chúng ta đã làm cô ấy rã rời. Đây là công việc rất nặng nhọc cho cô ấy”.
“Bà Gì Đó, làm ơn đi”, Meg hỏi, “đang xảy ra chuyện gì vậy? Tại sao chúng ta lại ở đây? Tiếp theo chúng ta sẽ làm gì? Bố cháu đang ở đâu ạ? Khi nào thì chúng ta đến chỗ ông ấy?” Meg đan tay vào nhau giọng van nài.
“Từng việc một nào, cháu yêu!” Bà Gì Đó nói.
Bà Ai Đấy xen vào. “As paredes tem ouvidos. Đó là tiếng Bồ Đào Nha. Tai vách mạch rừng”.
“Được rồi, giờ chúng ta đi ra ngoài”, Bà Gì Đó nói. “Đi nào, chúng ta hãy để cô ấy ngủ”.
Nhưng họ vừa quay người định đi thì cô Đồng thình lình ngẩng đầu lên và mỉm cười rạng rỡ với họ. “Mọi người không định bỏ đi mà không chào tạm biệt tôi đấy chứ?” cô hỏi.
“Chúng tôi nghĩ là nên để cô ngủ, cô gái thân mến ạ”, Bà Gì Đó vỗ nhẹ lên vai cô Đồng. “Chúng tôi đã khiến cô phải làm việc thật vất vả và chúng tôi biết là cô đang rất mệt”.
“Nhưng tôi đang định mời quý vị một chút cao lương, hay rượu hoặc ít ra một chút trà...”
Đến đây thì Meg nhận ra là nó đang đói. Bao nhiêu thời gian đã trôi qua kể từ lúc chúng ăn bữa đồ hầm? nó tự hỏi.
Nhưng Bà Gì Đó nói, “Ồ, cám ơn, cô gái thân mến, nhưng tôi nghĩ tốt hơn là chúng tôi nên đi thôi”.
“Họ không cần ăn, chị biết đấy”, Charles Wallace thì thầm với Meg. “Ít nhất là không phải thức ăn, theo cách của chúng ta. Ăn uống chỉ là một trò chơi với họ. Ngay khi chúng ta được sắp xếp lại em nên nhắc họ là sớm hay muộn thì họ cũng phải cho chúng ta ăn”.
Cô Đồng mỉm cười và gật đầu. “Có vẻ như tôi nên làm được việc gì đó chu đáo cho mọi người, sau khi đã phải chỉ cho lũ trẻ đáng thương này xem những thứ thật kinh khủng như vậy. Chúng có muốn nhìn thấy mẹ chúng trước khi đi không nhỉ?”
“Chúng cháu có thể nhìn thấy Bố không ạ?” Meg nôn nóng hỏi.
“Kkhông”, Bà Cái Nào nói. “Cchúnng tta đđang đđến cchhỗ bbố ccháuu, Meeg ạ. Đđừnng nnôn nnóng nhhư vvậy”.
“Nhưng con bé vẫn có thể trông thấy mẹ nó chứ?” Cô Đồng vòi vĩnh.
“Ồ, tại sao lại không”, Bà Gì Đó xen vào. “Sẽ không mất nhiều thời gian đâu và cũng chẳng hại gì”.
“Cả anh Calvin nữa?” Meg hỏi. “Anh ấy cũng có thể trông thấy mẹ anh ấy chứ ạ?”
Calvin chạm tay vào Meg trong một cử chỉ vội vàng, và đó là cách để tỏ lòng cám ơn hay nỗi e sợ, Meg cũng không dám chắc.
“Ttaa nngghĩ đấyy llà mmột saai llầmm”, Bà Cái Nào không tán thành. “Nhưnngg vvì mmọii nngườii đđã đđề nnghhị, nêên tta ngghĩ mmọii nngườii ccứ llàmm thhôi”.
“Ta rất ghét mỗi khi bà ấy cáu”, Bà Gì Đó nói, liếc mắt sang Bà Cái Nào, “và rắc rối cái là, lúc nào bà ấy cũng có vẻ đúng. Nhưng ta thực sự không thấy việc đó có thể gây hại gì, mà có khi còn khiến tất cả các cháu cảm thấy thoải mái hơn ấy chứ. Cứ tiếp tục đi, cô Đồng yêu quý”.
Cô Đồng, mỉm cười và khẽ ngân nga trong cuống họng, xoay xoay một chút quả cầu pha lê giữa hai bàn tay. Những vì tinh tú, sao chổi, những hành tinh vụt ngang bầu trời, và rồi trái đất lại hiện ra trong tầm mắt, trái đất tối sầm, gần hơn, gần hơn nữa, cho tới khi lấp kín cả quả cầu, và bằng cách nào đó họ đi xuyên qua lớp sạm đen cho đến khi màu trắng nhẹ của mây cùng đường nét hiền hòa của các lục địa tỏa sáng rỡ ràng.
“Mẹ Calvin trước ạ”, Meg thì thầm với cô Đồng.
Quả cầu trở nên mù mịt, u ám, và rồi những cái bóng bắt đầu đặc lại, trong ra; và họ đang nhìn vào một gian bếp bừa bãi với chiếc bồn rửa đầy bát đĩa bẩn. Đứng trước bồn rửa là một người phụ nữ nhếch nhác với mái tóc bạc ôm lấy khuôn mặt. Miệng bà ta há ra và Meg trông thấy hai hàng nướu không còn răng và hầu như con bé có thể nghe thấy tiếng bà ta đang hét vào mặt hai đứa bé đứng cạnh. Rồi bà ta chộp lấy một chiếc thìa bằng gỗ ở trong chậu rửa và bắt đầu đập túi bụi một trong hai đứa.
“Ôi, cưng ơi...” Cô Đồng lẩm bẩm, và hình ảnh bắt đầu tan ra. “Ta thực sự không...”
“Không sao đâu”, Calvin nói khẽ. “Cháu nghĩ thà mọi người biết còn hơn”.
Lúc này, thay vì với sang Calvin để tìm kiếm cảm giác an toàn, Meg nắm lấy tay Calvin trong tay mình, không nói gì thành lời nhưng cố biểu lộ với Calvin những cảm xúc trong lòng bằng những ngón tay xiết chặt. Chỉ một ngày trước, nếu ai đó nói với nó rằng nó, con bé Meg, con bé sứt răng, kẻ cận thị, đồ hậu đậu, sẽ nắm lấy tay một đứa con trai để an ủi và tiếp thêm sức mạnh, đặc biệt là một đứa con trai nổi tiếng và quan trọng như Calvin, thì ý tưởng này nhất định sẽ vượt quá khả năng nhận thức của nó. Nhưng giờ đây ý muốn giúp đỡ và bảo vệ Calvin có vẻ cũng tự nhiên như với Charles Wallace vậy.
Những cái bóng lại cuồn cuộn trong quả cầu pha lê, và khi chúng sáng ra, Meg bắt đầu nhận ra phòng thí nghiệm của mẹ nó ở nhà. Bà Murry đang ngồi trên chiếc ghế đẩu cao của bà, viết liên tục lên một tờ giấy trên bìa kẹp hồ sơ đặt trong lòng bà. Mẹ đang viết thư cho Bố, Meg nghĩ vậy. Như mẹ vẫn luôn làm. Vào mỗi tối.
Những giọt nước mắt mà nó chưa bao giờ học được cách chế ngự giờ ướt đẫm đôi mắt lúc nó quan sát mẹ. Bà Murry ngước lên khỏi lá thư, như thể bà đang hướng ánh mắt về phía bọn trẻ, và rồi bà gục đầu xuống và úp mặt trên tờ giấy, và cứ ngồi đó, co ro, thả mình thư giãn trong mối ngổn ngang mà bà không bao giờ cho phép những đứa trẻ của mình trông thấy.
Lúc này nỗi thèm muốn được khóc đã không còn trong Meg. Cơn cáu giận chở che nó dành cho Calvin khi nãy lúc nhìn vào nhà anh, giờ đây xoay sang mẹ nó.
“Đi thôi!” nó gào lên cay nghiệt. “Hãy làm điều gì đó đi!”
“Bà ấy luôn đúng”, Bà Gì Đó lẩm bẩm, nhìn về phía Bà Cái Nào. “Thỉnh thoảng tôi ước gì bà ấy cứ nói tôi đã bảo cô rồi mà, vậy cô vẫn cứ làm”.
“Tôi chỉ có ý giúp đỡ...” Cô Đồng rên rỉ.
“Ồ, cô Đồng yêu quý, đừng thiểu não thế”, Bà Gì Đó lập tức nói. “Hãy trông vào điều gì vui vẻ ấy, đi nào. Thấy cô buồn phiền thế tôi không sao chịu nổi!”
“Không việc gì đâu”, Meg quả quyết với cô Đồng một cách nghiêm túc. “Thực sự là thế mà, cô Đồng, và chúng cháu cám ơn cô rất nhiều”.
“Các cháu chắc chứ?” Cô Đồng hỏi lại, mặt mày rạng rỡ.
“Dĩ nhiên rồi ạ! Thật sự rất có ích bởi vì nó khiến cháu phát điên, mà cháu đã điên lên thì không còn chỗ đâu để sợ hãi nữa.”
“Tốt rồi, vậy hãy hôn tạm biệt ta lấy may nào”, cô Đồng nói.
Meg đến gần và hôn cô chụt một cái, Charles Wallace cũng vậy. Cô Đồng tươi cười nhìn Calvin và nháy mắt. “Ta cũng muốn chàng trai trẻ đây hôn ta nữa. Ta luôn thích mái tóc đỏ. Và nó sẽ mang lại may mắn cho cháu, chàng trai yêu mến ạ”.
Calvin cúi người, mặt đỏ bừng và ngượng nghịu hôn vào má cô.
Cô Đồng véo mũi nó. “Cháu còn phải học hỏi nhiều điều đấy, chàng trai của ta ạ”, cô nói với nó.
“Giờ thì tạm biệt, cô Đồng yêu quý, và cám ơn rất nhiều”, Bà Gì Đó nói. “Tôi dám chắc chúng tôi sẽ còn gặp lại cô sau một hoặc hai niên kỷ gì đó”.
“Mọi người đang định đi đâu, phòng khi tôi muốn điều chỉnh quả cầu?” Cô Đồng hỏi.
“Camazotz”, Bà Gì Đó nói với cô. (Camazotz ở đâu và là cái gì? Meg không thích âm thanh của từ này hay cái cách Bà Gì Đó phát âm nó). “Nhưng xin đừng lo lắng gì cho chúng tôi. Cô cũng biết cô không thích nhìn vào những hành tinh tăm tối, và sẽ rất là bối rối cho chúng tôi một khi cô không vui vẻ”.
“Nhưng tôi phải biết chuyện gì xảy ra với bọn trẻ”, cô Đồng nói. “Đâm ra yêu thương, đó mới là rắc rối tồi tệ nhất của tôi. Nếu chẳng yêu ai thì lúc nào tôi cũng vui vẻ. Ồ, được rồi, hô hưm, tôi có thể phấn chấn vui vẻ được rồi này, lúc này chợp mắt được một lúc thì thật là tuyệt vời. Chào tạm biệt mọi ng...” và những lời cuối cùng của cô mất hút trong tiếng ngáy bờ-bờ-bờ-zừ-zừ mơ hồ.
“Đđi thhôi”, Bà Cái Nào ra lệnh, và họ theo sau bà ra khỏi cảnh tối tăm của cái hang vào màu xám xịt lạnh lùng trên hành tinh của cô Đồng.
“Nào, ccác cchháu, bbây ggiờ nnhé, ccác cchháu kkhônng ccầnn phhảii ssợ hhãi điiềuu ssắp xxảy rra đđây”, Bà Cái Nào cảnh báo.
“Hãy cứ tức giận, Meg bé nhỏ”, Bà Gì Đó thầm thì. “Lúc này cháu sẽ cần tới tất cả sự tức giận của cháu đấy”.
Không hề được cảnh báo, Meg lại bị cuốn vào hư vô. Lần này, hư vô bị ngắt quãng bởi một cảm giác lạnh lẽo ẩm ướt mà trước đây nó chưa từng cảm thấy. Cái lạnh lẽo ngập sâu, xoáy tròn xung quanh nó, xuyên qua nó, và rồi bị lấp đầy bởi một thứ bóng tối mới mẻ và lạ lẫm, một thứ hữu hình trọn vẹn, một thứ muốn ăn ngấu nghiến và tiêu hóa con bé giống như con quái vật khổng lồ độc ác nào đó trước con mồi.
Rồi bóng tối ấy biến mất. Đó có phải là cái bóng, là cái Bóng Đen không nhỉ? Liệu họ có phải đi xuyên qua cái đó để đến với bố nó không?
Lại xuất hiện cái cảm giác tê tê giờ-đã-thành-quen trên mấy đầu ngón tay và bàn chân nó, và lực đẩy mạnh qua một vật rắn, và thế là nó đã đang đứng trên đôi chân của mình, hổn hển nhưng vô sự, bên cạnh Calvin và Charles Wallace.
“Đây là Camazotz ư?” Charles Wallace hỏi khi Bà Gì Đó hiện hình trước mắt nó.
“Phải”, bà trả lời. “Giờ chúng ta hãy cứ đứng nguyên đây và lấy hơi và quan sát xung quanh xem sao đã”.
Họ đang đứng trên một ngọn đồi và khi Meg nhìn ra xung quanh, nó cảm thấy rất có thể đây là một ngọn đồi trên trái đất. Có những loại cây quen thuộc mà ở nhà nó biết quá rõ: bu-lô, thông, cây thích. Và mặc dù trời đã ấm áp hơn lúc họ đột ngột rời khỏi vườn táo, vẫn còn thoảng chút hơi hướng của mùa thu trong không gian; gần chỗ chúng có vài bụi cây nhỏ với những chiếc lá đỏ tía rất giống cây sơn, và một khóm lớn những bông hoa giống những cái que màu vàng. Khi nó nhìn xuống phía dưới đồi, nó có thể thấy những ống khói của một thành phố, và đây có thể là một trong bất kỳ thành phố quen thuộc nào. Dường như chẳng có điều gì xa lạ, hay khác biệt, hay đáng sợ, trong cảnh vật này.
Nhưng Bà Gì Đó đã đến bên và choàng tay ôm lấy nó dỗ dành. “Ta không thể lưu lại đây với các cháu nữa, cháu biết đấy, cháu yêu”, bà nói. “Ba đứa trẻ các cháu sẽ phải ở lại một mình. Chúng ta sẽ ở gần bên các cháu, chúng ta sẽ quan sát các cháu. Nhưng các cháu sẽ không thể nhìn thấy chúng ta hay yêu cầu chúng ta giúp đỡ, và chúng ta cũng sẽ không thể đến với các cháu”.
“Nhưng Bố cháu có ở đây không ạ?” Meg run run hỏi.
“Có”.
“Nhưng ở đâu ạ? Khi nào chúng cháu sẽ gặp ông ấy?” Nó ở tư thế sẵn sàng chạy, như thể nó sắp sửa chạy nước rút, ngay lập tức, đến bất kỳ chỗ nào có bố nó.
“Điều đó thì ta không thể nói với cháu. Cháu chỉ phải đợi đến thời điểm thích hợp”.
Charles Wallace bình thản nhìn Bà Gì Đó. “Các bà đang lo sợ cho chúng cháu phải không?”
“Một chút”.
“Nhưng nếu như bà đã không sợ làm cái điều mà bà đã làm khi còn là một ngôi sao, thì tại sao bây giờ bà lại lo sợ cho chúng cháu?”
“Nhưng lúc đó ta có sợ mà”, Bà Gì Đó nhẹ nhàng nói. Bà bình thản nhìn vào từng đứa một. “Các cháu sẽ cần sự giúp đỡ”, bà nói với chúng, “nhưng tất cả những gì ta được phép trao cho các cháu là một tấm bùa nhỏ. Calvin, năng khiếu lớn nhất của cháu chính là khả năng giao tiếp, giao tiếp với mọi loại người. Vì vậy, với cháu, ta sẽ gia cố thêm cho năng khiếu này. Meg, ta trao cho cháu những khiếm khuyết của cháu”.
“Những khiếm khuyết của cháu!” Meg gào lên.
“Những khiếm khuyết của cháu”.
“Nhưng cháu lúc nào cũng cố để tống khứ những khiếm khuyết đó đi!”
“Đúng”, Bà Gì Đó nói. “Tuy nhiên, ta nghĩ cháu sẽ thấy chúng trở nên rất có ích trên Camazotz này. Charles Wallace, với cháu, ta chỉ có thể trao cho khả năng phục hồi vốn có của tuổi thơ”.
Từ đâu đó, cặp kính của Bà Ai Đấy le lói và họ nghe thấy tiếng của bà. “Calvin”, bà nói, “một lời gợi ý. Cho cháu một lời gợi ý. Nghe kỹ nhé:
... Bởi đó là một tinh linh quá đỗi thanh cao
Để thực hiện những mệnh lệnh của chúng
phàm tục và ghê tởm,
Chối từ những chỉ thị vô cùng quan trọng,
chúng đã giam cầm người ấy
Nhờ sự giúp đỡ của những kẻ cầm đầu quyền lực nhất,
Và trong cơn thịnh nộ rành rành của chúng,
Vào trong một cây thông chẻ; bên trong kẽ nứt đó
Bị cầm tù, người ấy sống sót đau đớn...
Shakespeare. Cơn bão”.
“Bà ở đâu vậy, Bà Ai Đấy?” Charles Wallace hỏi. “Bà Cái Nào đâu rồi ạ?”
“Lúc này, chúng ta không thể đến chỗ các cháu được”. Giọng Bà Ai Đấy thoảng đến chỗ chúng như một cơn gió. “Allwissend bin ich nicht; doch viel ist mir bewusst. Goethe. Ta không biết mọi điều; nhưng ta hiểu được nhiều điều. Đấy là dành cho cháu, Charles. Hãy nhớ rằng cháu không biết hết mọi điều”. Rồi giọng nói hướng về phía Meg. “Với cháu ta sẽ để lại cặp kính của ta, bé cưng mù-như-một-chú-dơi. Nhưng đừng dùng đến chúng trừ phi đó là phương sách cuối cùng. Hãy dành chúng cho khoảnh khắc nguy kịch cuối cùng”. Bà vừa nói thì lại có một tia kính lấp lánh nữa, rồi nó biến mất, giọng nói cũng lịm theo. Cặp kính giờ đang trên tay Meg. Nó cẩn thận đặt chúng vào trong túi ngực áo vest, và sự thực là có chúng ở đó chẳng hiểu sao khiến nó đỡ lo sợ phần nào.
“Tta trraao ccho ccả bbaa ccháuu mệnnh lệnhh ccủa tta”, Bà Cái Nào nói. “Hhãy đđi vvào tthành pphố. Đđi ccùng nhhaau. Đđừng đđể chhúng cchia rrẽ ccác chháu. Ccan đđảm lêên”. Ánh sáng lung linh và tan biến. Meg rùng mình.
Bà Gì Đó hẳn đã trông thấy cái rùng mình đó, vì bà vỗ nhẹ vào vai Meg. Rồi bà quay sang Calvin. “Hãy trông chừng Meg”.
“Cháu có thể trông chừng chị Meg”, Charles Wallace nói, hơi lên giọng. “Cháu luôn làm như vậy”.
Bà Gì Đó nhìn Charles Wallace, và cái giọng kèn kẹt kia không hiểu sao có vẻ vừa dịu đi vừa trầm xuống cùng một lúc. “Charles Wallace, nguy hiểm nhất ở đây là cho cháu đấy”.
“Tại sao ạ?”
“Bởi con người của cháu. Chính xác là bởi con người của cháu nên cháu sẽ dễ bị tấn công nhất, hơn hẳn mọi người. Cháu phải ở bên cạnh Meg và Calvin. Cháu không được bỏ đi một mình. Hãy coi chừng cái tính kiêu căng và ngạo mạn, Charles ạ, vì chúng có thể phản bội lại cháu”.
Nghe giọng nói của Bà Gì Đó, vừa cảnh báo vừa đe dọa, Meg lại rùng mình. Còn Charles Wallace thì dụi đầu vào Bà Gì Đó như nó vẫn thường làm với mẹ nó, thì thầm, “Giờ thì cháu nghĩ cháu đã hiểu ý bà khi bà bảo thấy sợ rồi”.
“Chỉ có kẻ ngốc mới không sợ”, Bà Gì Đó bảo nó. “Giờ hãy đi đi”. Và rồi chỗ bà vừa mới đứng, giờ chỉ còn bầu trời, cây cỏ và một tảng đá nhỏ.
“Thôi nào”, Meg nóng lòng. “Thôi nào, chúng ta đi thôi!” Nó hoàn toàn không nhận thức được rằng giọng nói của nó giờ đang run bắn như cầy sấy. Nó nắm tay Charles Wallace và Calvin mỗi đứa một bên, rồi bắt đầu đi xuống đồi.
Phía dưới chúng, thành phố được sắp đặt theo mô tuýp góc cạnh nghiêm ngặt. Tất cả những ngôi nhà ở ngoài rìa giống nhau như đúc, những khối hộp vuông sơn màu xám. Mỗi ngôi nhà có một bãi cỏ nhỏ hình chữ nhật phía trước, với một hàng thẳng tắp những bông hoa trông tẻ ngắt viền dọc lối đi đến cửa ra vào. Meg có cảm giác rằng giả sử nó có thể đếm được số bông hoa ở đây, thì ở mỗi nhà con số cũng sẽ y như vậy. Trước tất cả các ngôi nhà, bọn trẻ đang chơi đùa. Một số nhảy dây, số khác đang đập bóng. Meg mơ hồ cảm thấy có gì đó không bình thường trong trò chơi của chúng. Có vẻ giống hệt bọn trẻ con đang chơi quanh bất kỳ khu dân cư nào ở nhà, song vẫn có gì đó thật khác lạ. Nó nhìn sang Calvin và thấy anh cũng đang bối rối.
“Nhìn kìa!” Charles Wallace đột nhiên nói. “Bọn nó đang nhảy dây và đập bóng theo nhịp điệu! Tất cả thực hiện chính xác cùng một lúc”.
Đúng là như vậy. Khi sợi dây đập xuống mặt đường, quả bóng cũng vậy. Khi sợi dây cong qua đầu đứa trẻ đang nhảy, đứa chơi bóng bắt được quả bóng. Sợi dây đi xuống. Quả bóng đi xuống. Lặp đi lặp lại. Lên. Xuống. Tất cả theo nhịp. Tất cả giống hệt nhau. Như những ngôi nhà. Như những con đường. Như những bông hoa.
Rồi cánh cửa của tất cả các ngôi nhà đồng loạt mở, những người phụ nữ bước ra giống như một hàng búp bê bằng giấy. Hoa văn in trên váy họ khác nhau, nhưng mọi vẻ bề ngoài của họ đều cho thấy là họ giống hệt nhau. Từng người phụ nữ đứng trên bậc thềm nhà họ. Từng người vỗ tay. Từng đứa trẻ chơi bóng nhặt lấy quả bóng. Từng đứa trẻ chơi nhảy dây cuộn sợi dây lại. Từng đứa quay người và bước vào trong nhà. Những cánh cửa đóng sập lại sau lưng chúng.
“Bằng cách nào họ có thể làm thế được nhỉ?” Meg kinh ngạc hỏi. “Nếu mình có cố cũng không thể làm được ấy chứ. Thế nghĩa là sao?”
“Mình hãy quay lại đi”. Giọng Calvin nài nỉ.
“Quay lại ư?” Charles Wallace hỏi. “Quay lại đâu?”
“Anh không biết. Bất kỳ đâu. Quay lại ngọn đồi. Quay lại chỗ Bà Gì Đó, Bà Ai Đấy và Bà Cái Nào. Anh không thích chỗ này”.
“Nhưng họ không còn ở đó nữa. Anh có nghĩ họ sẽ đến nếu lúc này chúng ta quay trở lại không?”
“Anh không thích chuyện này”, Calvin nhắc lại.
“Thôi nào”, Meg nôn nóng thét lên. “Anh biết chúng ta không thể quay lại mà. Bà Gì Đó đã bảo đi vào trong thành phố”. Nó bắt đầu xuống phố và hai thằng con trai theo sau. Những ngôi nhà, tất cả giống hệt nhau, kéo dài mãi, đến tận cùng tầm mắt chúng.
Rồi bất thình lình, chúng cùng nhìn thấy một chuyện, và dừng lại để quan sát. Đằng trước một ngôi nhà có một thằng bé với một quả bóng, và thằng bé đang đập bóng. Nhưng nó đập bóng khá vụng và chẳng theo nhịp gì cả; thỉnh thoảng lại đánh rơi quả bóng và chạy theo với những bước nhảy vụng về và len lén, thỉnh thoảng lại tung quả bóng lên cao trên không trung rồi cố gắng bắt lấy. Cánh cửa nhà thằng bé bật mở và bước ra một trong những bà mẹ lúc nãy. Bà nháo nhác nhìn ngược xuôi con phố, trông thấy bọn trẻ và đưa tay lên miệng như thể để kiềm một tiếng thét, rồi chộp lấy thằng bé con và chạy ào vào trong nhà cùng với nó. Quả bóng rơi khỏi tay thằng bé và lăn ra ngoài phố.
Charles Wallace chạy theo và nhặt quả bóng lên, giơ ra cho Meg và Calvin nhìn thấy. Nó có vẻ là một quả bóng cao su màu nâu hoàn toàn bình thường.
“Mình mang trả cho nó xem chuyện gì xảy ra đi”, Charles Wallace đề nghị.
Meg kéo em lại. “Bà Gì Đó dặn là chúng ta phải tiếp tục đi vào trong thành phố”.
“Ô hay, chẳng phải chúng ta đang ở trong thành phố hay sao? Dù gì thì cũng là vùng ngoại vi. Em muốn hiểu thêm về chuyện này. Em có linh cảm như thế sẽ có ích cho chúng ta về sau. Hai anh chị cứ đi tiếp nếu như không muốn đi cùng em”.
“Không”, Calvin cương quyết. “Chúng ta sẽ đi cùng nhau. Bà Gì Đó đã dặn không được để chúng chia rẽ chúng ta. Nhưng anh ủng hộ em lần này. Hãy thử gõ cửa xem chuyện gì sẽ xảy ra”.
Chúng đi lên lối vào nhà, Meg ngần ngừ, vẫn còn háo hức muốn đi tiếp vào trong thành phố. “Nhanh thôi nhé”, nó van nài, “làm ơn đi! Em không muốn tìm Bố sao?”
“Có chứ”, Charles Wallace nói, “nhưng không phải một cách mù quáng. Làm sao chúng ta có thể giúp được Bố khi không biết chúng ta đang phải đối mặt với những gì? Và rõ ràng là chúng ta được đưa đến đây để giúp bố, đâu phải chỉ để tìm ra ông”. Nó bước dứt khoát lên bậc thềm và gõ cửa. Chúng chờ đợi. Chẳng có gì xảy ra. Rồi Charles Wallace nhìn thấy một cái chuông, nó rung chuông. Chúng nghe thấy tiếng chuông réo rắt trong nhà, âm thanh vọng cả xuống phố. Sau giây lát người mẹ ra mở cửa. Khắp dọc con phố, những cánh cửa khác cũng mở ra, nhưng chỉ he hé, và những ánh mắt chăm chú hướng về phía ba đứa trẻ, người phụ nữ sợ hãi ghé mắt nhìn chúng qua cửa ra vào.
“Các ngài muốn gì ạ?” bà ta hỏi. “Đã đến giờ giấy tờ đâu; tôi vừa mới xong giờ vắt sữa; chúng tôi đã xong lễ Người Prush Kéo của tháng này; và tôi vẫn nộp Vật Cúng Theo Thể Thức đều đặn. Tất cả giấy tờ của tôi đều hợp lệ”.
“Cháu nghĩ cậu con trai bé bỏng của bà vừa làm rơi quả bóng”, Charles Wallace nói và chìa quả bóng ra.
Người phụ nữ đẩy quả bóng đi. “Ôi, không! Những đứa trẻ trong khu vực chúng tôi không bao giờ làm rơi bóng! Chúng được tập luyện rất hoàn hảo. Đã ba năm rồi chúng tôi không có Phút Lầm Lạc nào''.
Trên dưới khắp khu phố, những cái đầu đều gật gù đồng tình.
Charles Wallace tiến tới gần người phụ nữ hơn và nhìn qua bà ta vào bên trong nhà. Trong bóng tối đằng sau bà, nó có thể thấy thằng bé, hẳn cũng trạc tuổi nó.
“Ngài không thể vào trong”, người phụ nữ nói. “Ngài vẫn chưa cho tôi xem giấy tờ gì. Tôi không cần phải cho ngài vào bên trong nếu như ngài không có giấy tờ”.
Charles Wallace giơ quả bóng ra xa người phụ nữ để thằng bé trông thấy. Nhanh như chớp, thằng bé nhảy về phía trước và chộp lấy quả bóng từ tay Charles Wallace, rồi lao trở lại bóng tối. Người phụ nữ mặt trắng bệch, há mồm ra như muốn nói điều gì, rồi thay vì làm vậy lại đóng sầm cửa trước mặt chúng. Trên dưới khắp con phố, những cánh cửa cũng đóng sầm.
“Họ sợ cái gì thế nhỉ?” Charles Wallace hỏi. “Có chuyện gì với họ vậy?”
“Em không biết à?” Meg hỏi nó. “Em không biết tất cả những chuyện này là sao à, Charles?”
“Chưa ạ”, Charles Wallace nói. “Ngay cả một ý niệm mơ hồ cũng chưa. Và em đang cố đây. Nhưng em chưa đến được đâu cả. Thậm chí một kẽ hở cũng không. Đi thôi”. Nó lộp cộp bước xuống.
Sau vài khu, những ngôi nhà dẫn tới những tòa chung cư; ít nhất Meg cũng cảm thấy chắc chắn đó phải là chung cư. Chúng khá cao, những tòa nhà hình chữ nhật, tuyệt đối đơn điệu, từng cửa sổ, từng cửa ra vào đều giống hệt nhau. Rồi xuôi theo con phố tiến về phía chúng là một thằng con trai tầm tuổi Calvin, đang lái một cỗ máy kiểu pha trộn giữa xe đạp và xe mô-tô. Cỗ máy có dáng thon và gọn nhẹ của xe đạp, nhưng khi quay hai bàn đạp dường như phát ra một nguồn năng lượng không trông thấy, vậy nên thằng bé có thể đạp rất chậm rãi mà vẫn di chuyển dọc theo con phố hết sức nhanh. Đến từng cổng nhà, nó lại thọc một tay vào trong cái túi khoác trên vai, rút ra một cuộn báo và quẳng vào trong cổng. Đó có thể là Dennys hay Sandy hay bất kỳ đứa nào trong hàng trăm đứa con trai với lộ trình phát báo ở bất kỳ thành phố nào trong hàng trăm thành phố nơi quê nhà, vậy mà giờ đây, cũng như những đứa trẻ chơi bóng và nhảy dây khi nãy, có điều gì đó không hẳn bình thường. Nhịp điệu của động tác không hề thay đổi. Những tờ báo bay theo hình vòng cung y hệt nhau vào cửa, rơi xuống một chỗ y hệt nhau. Bất kể là ai thì cũng không thể ném hoàn hảo đến nhất quán như vậy.
Calvin huýt sáo. “Tớ đang tự hỏi ở đây họ có chơi bóng rổ không?”
Nhìn thấy chúng, thằng con trai hãm cỗ máy chậm lại rồi dừng hẳn, bàn tay nó ngừng lại như thể sắp sửa thọc vào cái túi báo. “Mấy đứa nhóc các cậu đang làm gì ngoài phố thế này?” nó hỏi gặng. “Bây giờ chỉ những đứa giao hàng mới được phép ra ngoài thôi, các cậu biết mà”.
“Không, chúng tôi không biết điều đó”, Charles Wallace nói. “Chúng tôi là người lạ ở đây. Nói cho chúng tôi biết gì đó về nơi này được không?”
“Ý cậu là giấy tờ thông hành của các cậu và mọi thứ đã được giải quyết rồi chứ gì?” thằng con trai hỏi. “Chắc chắn là vậy nếu các cậu đã có mặt ở đây”, nó tự trả lời. “Thế các cậu đang làm gì ở đây, nếu như chẳng biết gì về chúng tôi?”
“Cậu nói cho tôi biết đi”, Charles Wallace nói.
“Các cậu là thẩm tra viên phải không?” thằng con trai hỏi, giọng có chút lo lắng. “Mọi người đều biết thành phố của chúng tôi có Trung tâm Tình báo Trung ương tốt nhất trên hành tinh này. Trình độ sản xuất của chúng tôi cao nhất. Các nhà máy của chúng tôi không bao giờ đóng cửa; máy móc của chúng tôi không bao giờ ngừng hoạt động. Hơn nữa, chúng tôi có năm nhà thơ, một nhạc sĩ, ba họa sĩ và sáu nhà điêu khắc, được dẫn dắt hoàn hảo hết”.
“Cậu trích dẫn từ đâu ra vậy?” Charles Wallace hỏi.
“Sách giáo khoa, đương nhiên rồi”, thằng con trai trả lời. “Chúng tôi là thành phố có định hướng nhất trên hành tinh này. Không có rắc rối bất cứ kiểu nào nhiều thế kỷ rồi. Tất cả Camazotz đều biết đến thành tích của chúng tôi. Đó là lý do vì sao chúng tôi là thủ đô của Camazotz. Đó là lý do vì sao Tình báo Tập trung TRUNG ƯƠNG lại được đặt tại đây. Đó là lý do tại sao NÓ lại chọn nơi đây làm nhà”. Có cái gì đó trong cách thằng bé nói “NÓ” khiến một cơn rùng mình chạy rần rần dọc sống lưng Meg.
Nhưng Charles Wallace lại mau mồm hỏi, “Trung tâm Tình báo Trung ương của các anh ở đâu?”
“Là Tập trung TRUNG ƯƠNG”, thằng bé sửa lại. “Cứ đi tiếp, các cậu sẽ không thể không trông thấy. Các cậu là người lạ, phải không! Các cậu làm gì ở đây?”
“Cậu được phép đặt câu hỏi hay sao?” Charles Wallace gay gắt hỏi.
Mặt thằng bé trở nên trắng bệch, giống y như người phụ nữ. “Tôi nghiêng mình cầu xin sự tha thứ ở ngài. Bây giờ, tôi phải tiếp tục giao hàng không thì tôi sẽ phải giải trình về giờ giấc của mình với giảng giải viên”. Và nó vụt biến xuống phố trên cỗ máy của mình.
Charles Wallace chòng chọc nhìn theo. “Gì vậy nhỉ?” nó hỏi Meg và Calvin. “Có gì đó thật kỳ cục trong cách cậu ta nói chuyện, như thể... ừm, như thể cậu ta không thực sự nói chuyện vậy. Hiểu ý em không?”
Calvin gật đầu trầm ngâm. “Kỳ cục thì đúng. Kỳ cục bất thường. Cũng không chỉ mỗi cách cậu ta nói chuyện đâu. Toàn thể chỗ này bốc mùi”.
“Thôi nào”, Meg giật giật hai thằng con trai. Nó đã phải giục giã hai thằng bao nhiêu lần rồi không biết? “Đi tìm Bố thôi. Có thể Bố sẽ giải thích tất cả cho chúng ta hiểu”.
Chúng bước tiếp. Qua vài khu nữa, chúng bắt đầu nhìn thấy những người khác, người lớn, không phải trẻ con, rảo bộ ngược xuôi và băng qua những con phố. Những người này hoàn toàn phớt lờ bọn trẻ, dường như hoàn toàn mải mê với công việc của mình. Một số người đi vào trong những tòa nhà chung cư. Hầu hết họ đi cùng hướng với bọn trẻ. Khi những người này đi tới con phố chính từ những con phố bên cạnh, họ liền quặt góc với cú sải chân kỳ cục và máy móc, như thể đang quá chìm đắm vào đống vấn đề của riêng họ và chặng đường thì đã quá quen thuộc đến nỗi họ chẳng cần phải để ý là đang đi đâu nữa.
Sau một chốc, những tòa chung cư nhường chỗ cho khung cảnh hẳn là những tòa trụ sở, những công trình trang nghiêm khổng lồ cùng nhiều cổng vào to lớn. Đàn ông và đàn bà mang cặp tài liệu tấp nập ra vào.
Charles Wallace tới gần một người phụ nữ, lịch sự nói, “Xin lỗi, liệu bà có thể làm ơn nói cho cháu biết...” Nhưng bà ta hầu như không buồn liếc nhìn nó đã lại tiếp tục đi đường mình.
“Nhìn kìa”, Meg chỉ. Phía trước chúng, bên kia một quảng trường, là tòa nhà lớn nhất chúng từng được thấy, cao hơn cả Tòa nhà Bang New York và dài cũng suýt soát bằng chiều cao của nó.
“Chắc nó đây”, Charles Wallace nói, “Tình báo Tập trung TRUNG ƯƠNG hay là cái quái gì đấy. Mình đi vào trong thôi”.
“Nhưng nếu Bố đang gặp rắc rối gì đó với cái hành tinh này”, Meg phản đối, “chẳng phải đó chính là nơi ta không nên vào sao?”
“Ồ, vậy chị định tìm bố kiểu gì?” Charles Wallace hỏi gặng.
“Chị dĩ nhiên không yêu cầu vào đó!”
“Em có nói gì về chuyện yêu cầu đâu. Nhưng chúng ta sẽ không thể biết phải bắt đầu tìm Bố ở đâu hay bằng cách nào cho đến chừng nào chúng ta khám phá ra được điều gì đó nữa về nơi này, và em có linh cảm rằng chính đó là chỗ phải bắt đầu. Nếu chị có ý kiến gì hay hơn, sao lại chỉ nói có vậy”.
“Ôi, thôi cái kiểu tự cao tự đại của em đi”, Meg gắt gỏng. “Thì vào cái Tình báo Tập trung TRUNG ƯƠNG gì gì đó của em vậy, cho xong chuyện này đi”.
“Anh nghĩ chúng ta phải có hộ chiếu hoặc cái gì đó”, Calvin gợi ý. “Cái này chắc chắn là hơn việc rời Mỹ để đi sang châu Âu. Hơn nữa thằng bé đó và người phụ nữ đều có vẻ rất quan tâm đến việc làm sao cho mọi thứ đúng thủ tục. Chúng ta dĩ nhiên chẳng có giấy tờ quái nào theo thủ tục cả”.
“Nếu chúng ta cần hộ chiếu hay giấy tờ gì thì Bà Gì Đó đã bảo chúng ta”, Charles Wallace nói.
Calvin chống tay vào hông và dòm xuống Charles Wallace. “Nào, giờ hãy nhìn đây, ông cụ non biến dị. Anh cũng yêu ba cô gái già đó chẳng kém gì em đâu. Nhưng anh không dám chắc rằng họ biếttất cả mọi thứ”.
“Họ biết nhiều hơn chúng ta nhiều”.
“Đồng ý. Nhưng em biết đấy, Bà Gì Đó có kể từng là một ngôi sao. Anh không nghĩ là làm một ngôi sao rèn luyện cho bà ấy được mấy tí về việc hiểu con người. Khi bà ấy cố gắng để trở thành một con người, bà ấy gần như đã làm hỏng mất việc đó. Chẳng bao giờ có ai trên đất liền lẫn dưới biển lại tự làm dáng cho mình như Bà Gì Đó cả”.
“Bà ấy chỉ vui vui thôi”, Charles nói. “Nếu bà ấy muốn trông giống như anh hoặc chị Meg, em chắc bà ấy có thể làm được”.
Calvin lắc đầu. “Anh thì không chắc. Và những người này còn có vẻ là con người, nếu như em hiểu ý anh. Họ không giống chúng ta, anh đồng ý với em điểm đó, ở họ có cái gì đó rất kỳ cục. Nhưng họ còn giống những người bình thường hơn là những người trên Uriel”.
“Anh nghĩ họ là người máy à?” Meg gợi ý.
Charles Wallace lắc đầu. “Không. Thằng bé đánh rơi quả bóng không thể là người máy. Những người còn lại cũng vậy. Để em nghe ngóng một phút xem sao đã”.
Chúng đứng bất động, sát bên nhau, dưới bóng của một trong những tòa trụ sở to. Sáu cái cổng lớn vẫn tiếp tục cọt kẹt mở ra, đóng vào, mở ra, đóng vào lúc mọi người vào và ra, nhìn thẳng về phía trước, thẳng về phía trước, chẳng hề bận tâm đến bọn trẻ bất kể điều gì, bất kể điều gì cũng vậy. Charles Wallace đeo cái vẻ mặt dò xét, nghe ngóng. “Họ không phải người máy”, bất thình lình nó nói, giọng dứt khoát. “Em không chắc họ là cái gì, nhưng họ không phải người máy. Em có thể cảm nhận được những khối óc ở đó. Em chưa thể hiểu gì về chúng, nhưng em có thể cảm nhận được chúng kiểu như nhịp đập vậy. Hãy để em cố một phút nữa”.
Ba đứa bọn chúng đứng đó như tượng. Những cánh cửa vẫn mở đóng, mở đóng, những dáng cứng nhắc người hối hả ra vào, vào ra, bước những bước nhát gừng giống như những nhân vật trong một bộ phim câm cổ lỗ. Rồi, bất thình lình, luồng chuyển động thưa dần. Chỉ còn một vài người và những người này rảo bước gấp gáp hơn, như thể phim bị tua nhanh. Một người đàn ông mặt-trắng trong trang phục màu đen, nhìn thẳng vào bọn trẻ nói, “Ôi trời, ta sẽ muộn mất thôi”, rồi vụt biến vào trong tòa nhà.
“Ông ta giống Thỏ trắng[8]”, Meg khúc khích vẻ bồn chồn.
[8] Thỏ trắng: nhân vật trong Alice lạc vào xứ thần tiên: “Ôi trời, ta sẽ muộn mất thôi” là câu của Thỏ khi Alice nhìn thấy nó lần đầu.
“Em sợ”, Charles nói. “Em không thể nắm bắt được họ chút nào hết, em hoàn toàn đầu hàng”.
“Chúng ta phải đi tìm Bố...” Meg lại bắt đầu.
“Chị Meg...” đôi mắt Charles Wallace mở to và khiếp đảm. “Em thậm chí không chắc là sẽ nhận ra Bố. Đã lâu quá rồi, mà em chỉ là một đứa bé con...”
Meg vội vàng an ủi. “Em sẽ nhận ra Bố thôi! Đương nhiên em sẽ nhận ra Bố! Cái cách em hiểu được chị mà chẳng cần phải nhìn, bởi vì chị luôn sẵn sàng giúp em, lúc nào em cũng có thể gọi...”
“Đúng vậy”, Charles đấm nắm tay nhỏ nhắn vào lòng bàn tay đang mở ra với một cử chỉ vô cùng quyết đoán. “Mình vào Tình báo Tập trung TRUNG ƯƠNG thôi”.
Calvin nhoài người ra chộp lấy cả Charles và Meg. “Các em có nhớ khi chúng ta gặp nhau, em hỏi anh vì sao anh lại ở đó? Và anh trả lời rằng, bởi vì anh có một cảm giác thúc bách, một linh cảm anh phải đến nơi cụ thể đó vào thời điểm cụ thể đó?”
“Vâng, nhớ chứ”.
“Giờ anh có một linh cảm nữa. Không phải kiểu đó, một linh cảm khác, linh cảm rằng nếu chúng ta đi vào tòa nhà đó, chúng ta sẽ rơi vào nguy hiểm khủng khiếp”.
Nếp Gấp Thời Gian Nếp Gấp Thời Gian - Madeleine L'engle Nếp Gấp Thời Gian