The walls of books around him, dense with the past, formed a kind of insulation against the present world and its disasters.

Ross MacDonald

 
 
 
 
 
Tác giả: William Colby
Thể loại: Lịch Sử
Nguyên tác: Lost Victory
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: Nguyen Ngoc Hai
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2424 / 52
Cập nhật: 2017-03-24 12:42:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần III: Một Sự Cắt Bỏ Tự Nguyện – Chương 1: Một Ông Quan Và Những Lời Chỉ Trích
ầu năm 1960, Nam Việt Nam bắt đầu cảm nhận và để bộc lộ những tác động của chiến dịch tuyển mộ và tranh thủ quần chúng do cộng sản tiến hành cũng như những hành động khủng bố kèm theo. Trong bốn tháng cuối 1959, đã có một trăm mười chín người phụ trách ở cấp địa phương do chính phủ cử ra bị sát hại. Tình trạng căng thẳng ở nông thôn tăng lên kéo theo những hậu quả trực tiếp đối với những chương trình của chính phủ.
Nỗ lực Diệm bỏ ra từ năm năm nay với sự giúp đỡ lúc đầu của Mỹ nhằm xoá bỏ sốt rét là một trong những nạn nhân đầu tiên. Một chiến dịch tương tự được làm ở Ý sau Thế chiến thứ hai đã thực sự xoá sổ được nạn sốt rét. Cách làm là phun thuốc D.D.T. ở các làng nông thôn (cách mà người ta vẫn thường làm trước khi phát hiện ra những tác động độc hại đặc biệt của thứ thuốc ấy).
Dân làng đã hết sức vui mừng đón nhận, những người được chính phủ phái đến phun thuốc, hy vọng những người này sẽ giúp họ tiệt trừ được cái tai họa lâu đời đó. Nhưng cộng sản, thấy rằng chương trình diệt sốt rét này sẽ là một phương tiện để giúp chính phủ tạo được những quan hệ tốt đối với dân chúng, nên họ đã quyết định phải chấm dứt nó. Họ bèn sát hại một số giới trong các nhóm đến phun thuốc và qua đó cảnh cáo rằng một số phận tương tự sẽ chờ đợi những ai còn tiếp tục làm việc đó. Kết quả là những người khác trong các nhóm phun thuốc đã thấy tốt hơn hết là không nên mạo hiểm tới những vùng hẻo lánh xa xôi nữa. Chương trình diệt sốt của chính phủ sụp đổ. Cộng sản đã đạt được mục đích của họ, còn dân làng thì nhẫn nhục chịu đựng và qua đó họ nhìn thấy chứng cứ về ưu thế của quyền lực cộng sản ở nông thôn, một quyền lực mới mà họ phải phục tùng, như trước đây trong quá khứ, họ đã phải phục tùng những quyền lực khác.
Một thất bại khác là chương trình những “khu trù mật” của Diệm, đưa ra vào giữa năm 1959, nhằm tạo thuận lợi cho việc tập trung dân ở vùng đồng bằng Cửu Long. Nhiều “khu trù mật” đã được xây dựng. Dân đến ở những ngôi nhà mới. Những biện pháp đầu tiên đã được tiến hành để mở mang trường học, trạm y tế và chợ búa. Kế hoạch cấp cho mỗi gia đình một mảnh đất xung quanh nhà để trồng rau. Ruộng để cấy lúa thì phân chia ở chu vi quanh đấy. Nhưng kế hoạch có một điểm yếu tai hại. Bị phân cách bởi vườn tược, các nhà của dân thường ở rất xa nhau. Vậy là với thế phân tán như thế, các thôn ấp rất khó có thể tự bảo vệ trước sự xâm nhập của du kích và các nhóm tuyển mộ cộng sản. Quan niệm xây dựng “khu trù mật” chắc sẽ hữu hiệu trong một khung cảnh hoà bình, nhưng ở đây trong tình hình nông thôn bị cộng sản gây rối loạn thì nó đã trở nên không thể thực hiện được. Hơn nữa, các nhân viên phụ trách áp dụng chương trình cũng như các viên chức sở tại thì lại tỏ ra thiếu khả năng trong việc tạo ra cho nó một nền tảng chính trị bằng cách giải thích cho dân hiểu những mục tiêu của nó. Trái lại, họ chỉ biết có tống dân ra khỏi nhà cũ của họ một cách tàn nhẫn rồi để bắt dân phải di chuyển đến chỗ ở mới, những chỗ do những người phụ trách kế hoạch vạch ra. Cùng với thời gian, những khu trù mật và những lời hứa hẹn mà nó mang theo đã dần dần tan rã và người nông dân lại trở về với căn nhà tre lá dựng ven các kênh rạch của họ.
Tình hình căng thẳng ngự trị ở nông thôn cuối cùng đã gây một cách không thể tránh khỏi những tác động đến các thành phố. Sự bất ổn lớn lên cùng với những dấu hiệu gia tăng ngày càng nhiều của những hoạt động cộng sản, kéo theo sức ép ngày càng mạnh đối với chế độ Diệm. Trong phòng trà hay những nơi giới trí thức thường gặp nhau, người ta chỉ trích mạnh chính quyền đã không biết cách nào để đối phó với sự đe doạ của cộng sản. Nhân viên và những tiếp xúc của C.I.A. trong giới chính trị ở thành thị cho biết nhiều người tỏ ra rất lo ngại trước thái độ chuyên quyền và những hành động độc đoán của chế độ. Không loại trừ có người cho rằng chỉ có một quan niệm dân chủ hơn của chính phủ mới có khả năng tranh thủ được sự ủng hộ cần thiết của dân chúng để vượt qua sức ép và những biểu hiện của cộng sản.
Các nhân viên C.I.A. và các viên chức của toà đại sứ tỏ ra rất hào hứng khi mang những lời bình luận đó về, nhất là khi nó lại được phát ra từ những nhân vật có quyền có chức trong chính phủ hay chính họ là đại biểu đảng của chính phủ trong Quốc hội. Người ta nêu những bình luận ấy như đại diện cho thái độ thực sự của các nhà chính trị sành sỏi, để đối lập với cái giọng điệu ngợi ca muôn thuở của những bản thống kê lạc quan của chính phủ hay những lời tràng giang đại hải mà Diệm bắt các nhân vật Mỹ phải chịu đựng mỗi khi họ đến thăm Việt Nam.
Trong các cuộc tiếp xúc ấy nếu người của chúng tôi hiểu được văn hoá và phong cách truyền thống của người Việt Nam, thì chắc họ sẽ có thể làm sáng tỏ được tầm quan trọng của những thông tin mà họ nhận được.
Những người đối thoại Việt Nam, vì muốn cuộc gặp gỡ sẽ đưa đến một kết quả thuận lợi, nên họ thường lựa ý để đưa ra những câu trả lời mà người Mỹ có vẻ muốn nghe. Và khi người ta hỏi họ việc tập trung quyền hành cả vào dinh tổng thống có gây nên những lo ngại và bất ổn nào không thì bao giờ họ cũng gật đầu trả lời là có. Việc thiếu tự do ngôn luận và trao đổi thông tin trong những câu lạc bộ chính trị ở Nam Việt Nam cũng đóng một vai trò nhất định nên do đó thay cho những thông tin có thể sử dụng được làm cơ sở cho câu chuyện thì người ta chỉ có được những lời đồn thổi và những lập luận trừu tượng viển vông.
Một phần khó khăn người Mỹ gặp phải trong quan hệ với những trí thức và dân thành thị miền Nam là ở chỗ những người ấy đồng tình với nhau về một điểm: đó là phải coi trọng những quy định dân chủ của hiến pháp năm 1956. Thế nhưng điều đó lại khác với quan điểm của người dân nông thôn, những người sống trong một thế giới gắn bó với những truyền thống của quá khứ nhiều hơn. Những mong ước của người dân nông thôn không vượt quá khỏi khuôn khổ của gia đình và cộng đồng làng xã. Đó cũng là chỗ mà ở đấy người ta có thể tìm ra một phần lời giải thích cho những khác biệt giữa cánh dân sự và quân sự Mỹ ở Nam Việt Nam.
Được đào tạo theo con đường binh nghiệp và khuôn theo kiểu một hệ thống tôn ti trật tự mà họ nhìn thấy vận hành ở miền Nam, giới quân nhân thường thích cái thứ kỷ luật trật tự mà họ nghĩ nó xuất phát từ hệ thống đó.
Những viên chức Việt Nam, phần lớn già đời trong kinh nghiệm phục vụ chế độ thực dân Pháp, đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá những lời đồn thổi hay những triết lý viển vông. Họ ở ngoài lề của chính quyền mà họ có nhiệm vụ thi hành những quyết định. Khi họ thiếu những thông tin xác thực - mà thường là như thế - thì sự hiếu kỳ của họ đối với những gì xảy ra ở “triều đình”, nay là Việt Nam chứ không phải Pháp, đều làm cho họ cảm thấy bị giày vò thực sự.
Về phương diện quản lý xã hội, cộng sản Bắc Việt nêu ra một sự trái ngược với những gì diễn ra ở miền Nam.
Ít bị ảnh hưởng bởi chế độ thực dân, cộng sản miền Bắc sử dụng cán bộ phần lớn được đào tạo trong chiến tranh, đã từng trải qua nhiều thử thách. Và theo một truyền thống tốt đẹp của cộng sản, ngoài sự trung thành tuyệt đối, những cán bộ ấy đều có ý thức coi công việc của họ như một nhiệm vụ thực hiện sự chỉ đạo chính trị hơn là một công việc hành chính quản lý bình thường. Ở miền Nam, trái lại, do tình hình cởi mở hơn là tự nguyện, các viên chức thường hay sẵn sàng cung cấp cho các quan chức chính thức và các nhà báo Mỹ những lời bình luận có tính chất phê phán khi họ được đòi hỏi.
Thực vậy, hố sâu ngăn cách xã hội thành thị có học của Sài Gòn với thực tế nông thôn đã khiến cho giới tinh hoa của thành phố, những người chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình, không biết gì đến những biện pháp thực sự mà chính phủ đã đề ra trong những chương trình phát triển xã hội. Những chương trình ấy làm nên chiến lược cơ bản của cuộc đấu tranh, chủ yếu đối với con mắt chính phủ: đó là cải thiện bằng công cuộc hiện đại hoá số phận của nhân dân nông thôn để đưa lại cho họ một tương lai tốt đẹp hơn tương lai mà cộng sản hứa hẹn. Chính vì vậy chính phủ đã tập trung nỗ lực của mình vào sự phát triển trong khi đó thì giới tinh hoa thành thị lại chỉ phàn nàn về chuyện mất dân chủ, không một người nào, cả phía chính phủ lẫn phía những người chỉ trích, nhìn thấy cần phải có một sự cân bằng giữa hai khái niệm.
Cá nhân tôi tôi nghiêng về một sự thông cảm tốt hơn giữa những nhu cầu của phát triển ngắn hạn, đương nhiên là kèm theo dân chủ với điều kiện là loại trừ được nguy cơ cộng sản.
Tháng Một năm 1960, cộng sản tấn công sở chỉ huy của một trung đoàn quân đội Nam Việt Nam đóng gần Tây Ninh, chỉ cách Sài Gòn tám mươi kilômét, giết hai mươi ba binh sĩ và đoạt hàng trăm súng. Sự việc này đã làm Sài Gòn náo động. Tháng Tư, mười tám nhân vật chính trị thuộc các giáo phái và đảng phái cũ, phần lớn là những người có tuổi, quốc gia và không thân cộng, đã họp ở Caravelle, một khách sạn hiện đại của Sài Gòn. Mục đích của họ là tiến hành một cuộc biểu tình nhằm bày tỏ sự lo ngại và yêu cầu tổng thống Diệm “tự do hoá chế độ, xúc tiến dân chủ, bảo đảm những quyền công dân sơ đẳng và thừa nhận sự đối lập”. Theo họ khẳng định thì nếu nghe họ, nhân dân sẽ có được một sự so sánh hiển nhiên giữa chế độ Nam Việt Nam với chế độ cộng sản miền Bắc, “đánh giá được giá trị của tự do thực sự và dân chủ đích thực”, và nhân dân sẽ sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nó.
Như người ta có thể chờ đợi, phản ứng của Diệm Nhu là tiêu cực. Hai anh em họ Ngô chẳng những từ chối không nghe những người kháng nghị mà còn coi họ là những tàn dư của chế độ thực dân, cho rằng ngay chỉ việc chọn khung cảnh rực rỡ của một khách sạn hiện đại nằm giữa đô chính để tung ra một tuyên ngôn cũng đã đủ để chứng tỏ rằng họ đã xa cách và thiếu hiểu biết đối với nhân dân và xã hội nông thôn, những đối tượng mà những chương trình của Diệm đang nhằm hiện đại hoá, biết chừng nào. Về sự việc thì chắc Diệm Nhu đúng, nhưng về ý nghĩa đích thực của tuyên ngôn thì cả hai người đều đã sai lầm một cách nghiêm trọng. Bởi nếu tuyên ngôn không phản ánh được những gì nông dân thấy cần thì nó cũng gây ra một tác động thực sự đối với hai nhóm có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự thành công của một nước Việt Nam tự do, đó là tinh hoa của giới trí thức, những người duy nhất có thể thực hiện tốt chương trình của Diệm, chừng nào mà nó chưa bị thay thế bởi một nhóm khác, và những người Mỹ mà sự ủng hộ của họ là cái chìa khoá của sự sống còn của đất nước.
Vậy là tuyên ngôn ấy là một hòn đá thử vàng bổ trợ cho việc đánh giá “độ chênh” trong tiến trình chính trị của Nam Việt Nam. Trong khi sức ép cộng sản thu hẹp quyền lực của chính phủ ở nông thôn thì giới tinh hoa thành thị và những phần tử chính trị lại tách ra khỏi chế độ Diệm. Nếu Diệm, Nhu nằm ở trung tâm mối đe doạ chính trị của Nam Việt Nam, thì sức lực của họ sẽ tan rã từ cả hai bên.
Tháng Chín, đại sứ Durbrow báo cáo về Washington quan điểm của ông về những quan hệ giữa Mỹ và Nam Việt Nam, và nêu những ý kiến về sự ủng hộ của Mỹ đối với Nam Việt Nam. Ông lưu ý rất đúng rằng miền Nam Việt Nam đang bị đe doạ bởi hai mối nguy: một bên là cộng sản ở nông thôn, còn bên kia là những cuộc biểu tình hay những cuộc đảo chính ở Sài Gòn, mà cộng sản sẽ là người thủ lợi được từ cả hai bên. Trước đó ông đã đưa ra một loạt những lời khuyến cáo liên quan đến vấn đề an ninh ở nông thôn, đề nghị chủ yếu là phải sửa đổi, cải tiến những phương pháp quản lý chính phủ. Trong đó có việc thành lập một Hội đồng an ninh nội địa và theo gợi ý của tôi (lúc đó từ tháng Sáu tôi đã được bổ nhiệm làm giám đốc chi nhánh C.I.A. địa phương) thành lập một tổ chức tình báo trung ương, tập trung và phối hợp những hoạt động của các cơ quan tình báo Việt Nam để chống lại sự đe doạ của cộng sản. Trong báo cáo tháng Chín, Durbrow cũng đề cập đến những biện pháp chính trị và tâm lý theo ông là cần thiết. Danh sách những việc ông đề ra phản ánh sự mập mờ đến khó hiểu trong những mối quan hệ giữa Mỹ và chế độ Diệm ở Nam Việt Nam.
Để bắt đầu, đại sứ khẳng định cần phải gây một “hậu quả sốc tâm lý” để chứng tỏ cho những người cộng sản và không cộng sản biết rằng chính phủ đã nắm lấy quyền chủ động. Trong những biện pháp gây “sốc” ấy, có việc: cử phó tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ, một dân người miền Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Diệm, làm bộ trưởng Bộ Nội vụ; Diệm từ chức bộ trưởng Quốc phòng và giao ghế này cho một bộ trưởng khác, cử Nhu đi làm đại sứ nước ngoài, kéo theo tay chân đắc lực là Tuyến cùng đi, đưa vào chính phủ hai, ba nhân vật đối lập. Các biện pháp ấy còn kèm theo hành động giải tán đảng Cần Lao với việc công bố danh sách số đảng viên của nó bị bãi bỏ trong công tác kiểm soát thông tấn báo chí và xuất bản, việc khuyến khích như ở Mỹ những cuộc điều tra về nạn tham nhũng cũng như sự quản lý kém của chính phủ, cuối cùng là một loạt những biện pháp kinh tế như hỗ trợ cho nông dân trong sản xuất gạo.
Khí chất hiếu chiến và nóng nảy của Durbrow hẳn không tạo thuận lợi cho ông trong quan hệ đối với Diệm, song tôi vẫn đánh giá cao và kính trọng ông, ngay cả khi tôi có điểm nào không đồng ý với ông. Ông dũng cảm truyền cho các quan chức Mỹ cùng các tổ chức độc lập của họ ở Sài Gòn một tinh thần đồng đội. Tuy nhiên, tôi kiên quyết phản đối ông cũng như số quan chức trong sứ quán của ông khi họ đưa ra những biện pháp chính trị kiểu Mỹ có nguy cơ làm thay đổi hay làm lung lay cái ghế của chính quyền Việt Nam mà không lường trước những hậu quả có thể xảy ra đối với cuộc chiến đấu ở nông thôn. Thậm chí cả khi cơ cấu và những biện pháp chính trị mà ông đại sứ đề nghị là có đáng làm ở những nước phát triển đi chăng nữa thì hiển nhiên là về bản chất, nó vẫn không phù hợp ngay với tính chất của tình hình và của xã hội Việt Nam, đó còn chưa nói đến mối ác cảm không buồn giấu giếm của ông đối với Diệm và nhiệm vụ cai trị đất nước của ông ta.
Thực vậy, báo cáo tháng Chín của Durbrow đã gợi ý rằng: một nước Đông Nam Á đang trên đường phát triển thì nên vận dụng một hệ thống kiểm soát, thẩm tra và cân bằng, một hệ thống đặc trưng cho việc quản lý nhà nước ở Hoa Kỳ. Hơn thế nữa, khi đề nghị giải pháp đó Durbrow còn tuyệt đối chắc chắn là nó sẽ được đón nhận một cách nồng nhiệt như một giải pháp thích hợp trong thế buộc phải lựa chọn trước cuộc cách mạng dân tộc và xã hội do cộng sản lãnh đạo ở nông thôn, và nó sẽ chấm dứt được những lời chỉ trích của những trí thức tinh tế ở Sài Gòn, những người đang phản đối chế độ quan lại của Diệm. Đoạn cuối bức điện của Durbrow thật là những lời tiên đoán:
Trong lúc này, Hoa Kỳ cần phải ủng hộ Diệm bởi ông là một nhà lãnh đạo Việt Nam tốt nhất hiện chúng tôi đang có, nhưng Hoa Kỳ cũng cần phải xác định rằng mục tiêu hàng đầu của Mỹ là lập lên một chính phủ Việt Nam mạnh và tích cực chống cộng, có khả năng liên kết được sự ủng hộ trung thực và nồng nhiệt của đại bộ phận nhân dân Việt Nam có thể được, và cũng có khả năng tiến hành một cuộc chiến đấu hữu hiện chống du kích cộng sản. Nếu vì lý do bất lực trong áp dụng những biện pháp chính trị, tâm lý, kinh tế và an ninh thích hợp mà tình thế trong nước của Diệm tiếp tục xấu đi thì sẽ có thể chính phủ Mỹ sẽ phải tính đến những con đường khác và những nhà lãnh đạo khác để đạt tới mục tiêu.
Nói một cách khác, chúng tôi đã định nghĩa “sốc tâm lý” bằng những ngôn từ hoàn toàn trái ngược với nhân cách của Diệm và với thực tế của cơ cấu quyền lực cũng như thực tế của xã hội Việt Nam (vả lại, mỗi khi nghĩ đến những phái đoàn điều tra của quốc hội thì người ta sẽ nghĩ thế nào về giá trị của nó). Rồi chúng tôi lại được gợi ý rằng chúng tôi sẽ tìm những “nhà lãnh đạo khác” nếu Diệm không đi theo con đường như khuyên bảo của chúng tôi. Vậy là việc đối đầu với Diệm đã được tung ra.
Bức điện của Durbrow còn làm hé lộ một khó khăn khác: sự bất đồng giũa những người Mỹ. Những vụ việc ngày một gia tăng ở nông thôn đã khiến M.A.A.G., mới đầu do “Sam, người treo cổ” Williams phụ trách, sau đó trung tướng Lionel Mc Garr, phải xin Mỹ tăng cường viện trợ cho quân đội Nam Việt Nam đặc biệt là kinh phí cần thiết để đưa quân số của nó từ một trăm năm mươi nghìn lên một trăm bảy mươi nghìn binh sĩ. Cánh dân sự Mỹ biết Diệm rất kết biện pháp này nên muốn lấy nó làm phương tiện gây sức ép để ép Diệm phải có những thay đổi mong muốn. Còn cánh quân sự thì phản bác, cho rằng quân đội với nhiệm vụ đẩy lui kẻ thù không phải là một thứ tiền để mua bán trên một thị trường chẳng có một chút gì gọi là hiện thực. Tôi cố gắng tránh ra bên cuộc tranh chấp đó và phát hiện rằng cả hai bên đều sao lãng một vấn đề chủ yếu: đó là làm thế nào để đương đầu với một cuộc chiến tranh do nhân dân tiến hành ở nông thôn. Đưa thêm quân gồm toàn lính chuyên nghiệp vào chẳng giải quyết được gì hết, cũng như những gợi ý chính trị vô bổ nhằm vào giới tinh hoa chính trị cũng chẳng làm thay đổi được tình hình. Kết quả tức thì của cái ngõ cụt đó là quan hệ giữa Durbrow với dinh Tổng thống xấu thêm khi Diệm hiểu ra rằng chính vì Durbrow mà khoản viện trợ bổ sung ông rất cần đã bị khoá lại. Tôi bắt đầu tìm kiếm một giải pháp vừa ý hơn.
Nhưng trong khi tôi đang làm việc đó thì xung đột trở nên trầm trọng hơn. Ngày 10 tháng Mười một năm 1960, đội lính thuỷ đánh bộ Mỹ gác sứ quán Sài Gòn tổ chức vũ hội truyền thống của họ. Trong trang phục lễ hội, áo đuôi tôm và rốp lụa, khách nhộn nhịp đến dự cuộc vui với cái đơn vị nhỏ bé, hãnh diện được tổ chức kỷ niệm truyền thống lâu đời của mình, giống như tất cả các đơn vị Mỹ khác trong binh chủng lúc này đang có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Sau lễ hội trước khi đi nghỉ, gia đình Durbrow và gia đình tôi ra chơi trên một khách sạn nổi trên sông Sài Gòn để thưởng thức không khí của một đêm nhiệt đới. Sau đó chúng tôi trở về và đi nằm thì bất thình lình vào 3 giờ sáng, một loạt tiếng nổ đanh gọn vang lên trên đường phố, ngay trước nhà chúng tôi và dinh tổng thống. Rõ ràng đây không phải sấm chớp trong một đêm giông bão khi tôi nhìn thấy trên bầu trời vạch lên ngang dọc những vệt sáng của đạn chỉ đường.
Tôi mở chiếc rađio vẫn thường đặt trong một hốc tủ tường để dùng trong những trường hợp khẩn cấp và bắt gặp được lúc mở đầu của một cuộc tấn công của lính dù vào dinh tổng thống. Dùng chiếc tủ sách làm chỗ ẩn nấp tạm thời cho vợ con xong, tôi chuẩn bị súng đề phòng nếu trận đánh tiến vào đến đây. Sáng sớm, tình hình trở nên ổn định. Một đơn vị dù bao vây dinh trong khi bên trong hàng rào, đơn vị bảo vệ dinh vẫn ở tư thế chống cự. Lợi dụng cơ hội đó, tôi cho vợ con chạy đến nhà một người bạn ở đủ xa ngoài vòng lửa đạn và bí mật tìm đường lẻn vào sứ quán.
Hôm sau, qua nguồn tin của chúng tôi và của một số sĩ quan Mỹ (những sĩ quan này đã đến gặp số bạn bè mà họ đoán nằm trong phe đảo chính) chúng tôi được biết: Quân dù muốn thuyết phục Diệm nên có những thay đổi quan trọng trong chính phủ cũng như trong hệ thống quân sự để đương đầu với tấn công của cộng sản ở Nam Việt Nam một cách tốt hơn. Với một sự ngây thơ nào đấy những người chỉ huy quân dù đã không suy nghĩ đến những hành động “đặc trị” mà họ muốn Diệm làm (tựa như cách người ta dùng những môn thuốc đặc trị để chữa bệnh). Tuy nhiên chỗ trống đó đã được nhiều lãnh tụ chính trị thuộc nhóm Caravelle và các đồng chí của họ do bác sĩ Đán cầm đầu (tuy ông ta không ký vào tuyên ngôn) lấp vào. Họ lập tức thành lập một hội đồng và bắt đầu đưa ra những lời tuyên ngôn chính trị giúp cho cuộc nổi dậy của quân dù có được một hình thức.
Trong thời gian ấy, không phải Diệm ngồi im. Với sự giúp đỡ của tướng Nguyễn Khánh (cũng là quân dù nhưng được đề bạt tướng), tuỳ viên quân sự của mình - khi súng bắt đầu nổ, Khánh đã vượt tường sứ quán báo tin đảo chính, Diệm đã sử dụng mạng lưới thông tin độc lập của dinh để bắt liên lạc với các đơn vị đóng ở các tỉnh quanh Sài Gòn. Trong số sĩ quan Diệm bắt liên lạc có đại tá Nguyễn Văn Thiệu chỉ huy sư đoàn 5 đóng ở Mỹ Tho. Các sĩ quan đều hiểu rằng cuộc binh biến của quân dù, thiếu một kế hoạch trước và không có sự trợ giúp của các đơn vị khác, đã nắm chắc thất bại. Họ tập họp quân sĩ để về cứu Diệm. Đại sứ Durbrow đến văn phòng C.I.A. gặp tôi để trong đêm được ở gần chiếc rađio của chúng tôi, nơi luôn luôn nhận được những tin tức cho biết diễn biến của tình hình ở trong dinh, ở sở chỉ huy quân dù, ở Bộ Tổng tham mưu và ở chỗ đầu não chính trị của phe đảo chính. Có một lúc, khi nghe có tiếng súng nổ rộ một hồi ngắn, chúng tôi chạy ra ngoài xem. Tôi vừa giục Durbrow quay vào thì một viên đạn lạc từ đâu bay tới nhưng may sao, chỉ có viên trợ lý của tôi bị thương nhẹ vào vai.
Sáng hôm sau, chúng tôi thấy những người lính Sài Gòn, một dải khăn màu nâu quấn quanh cổ để chỉ rõ đơn vị họ (đồng thời cũng để phân biệt với các đồng đội dù), tiến trên các đường phố Sài Gòn, và chỉ một lát sau những người lính dù ít hơn họ rất nhiều đã bị bao vây. Dân Sài Gòn thì ở kín trong nhà, mặc cho bọn lính đánh nhau. Cuộc đảo chính đã hoàn toàn thất bại cùng với việc chạy trốn của những người cầm đầu sang Campuchia trên một chiếc máy bay vận tải của không quân do đại tá Nguyễn Cao Kỳ cung cấp. Sau này ở dinh, ông khẳng định những người đảo chính đã dùng vũ lực để đoạt lấy máy bay.
Mấy nhân vật thuộc phe đối lập đi theo đảo chính và đã cố tạo cho cuộc chính biến một nội dung chính trị nay mất mọi sự ủng hộ và bị giao cho công an mật của dinh. Tất cả bị giam vào lao Chí Hoà và ở đấy họ đã gặp lại số các đồng chí cũ thuộc mấy thế hệ trước đã nổi dậy giống như họ chống lại người Pháp. Cũng như những người đã ký vào tuyên ngôn Caravelle, bác sĩ Đán cũng bị giam đến 1963, tức đến khi chế độ Diệm đổ. Kết luận chính rút ra từ cuộc đảo chính bất thành này đã rõ: Mọi âm mưu đảo chính tương tự kiểu này, nếu không được chuẩn bị kỹ càng và có sự trợ giúp của toàn thể quân đội thì chắc chắn sẽ thất bại.
Kết luận thứ hai được rút ra là sự ủng hộ của Mỹ đối với chế độ Diệm còn xa mới có thể gọi là toàn diện. Trong lúc súng còn đang nổ, khi trao đổi với nhau trên điện thoại Durbrow đã nói rõ với Diệm lập trường của Mỹ là không đứng về phe nào. Vả lại thái độ lập lờ trong phản ứng của C.I.A. thế nào thì anh em họ Ngô đã sớm được biết, khi người của họ trông thấy một số sĩ quan Mỹ đến sở chỉ huy quân dù để liên lạc bằng rađio về chỗ chúng tôi. Một trong số sĩ quan của C.I.A., người đã có tình bạn lâu đời với người chỉ huy cú đảo chính, đã được ông này đón tiếp nồng nhiệt khi viên sĩ quan Mỹ đến gặp ông để quan sát tình hình tại chỗ.
Trong nhiều cuộc gặp gỡ sau này với Nhu, bằng một cánh rất rõ ràng Nhu tỏ ra cho chúng tôi hiểu là ông đã được báo cáo về sự có mặt của C.I.A trong cả hai phe. Tôi phải giải thích rằng nhiệm vụ của C.I.A. bắt buộc chúng tôi phải tìm hiểu xem thực sự tình hình là thế nào. Nhu bình luận: “Nước nào cũng chơi trò tình báo, chúng ta chẳng có gì mà phải làm to chuyện”. Tuy nhiên rõ ràng là bất bình, Nhu nói tiếp: “Nhưng không một nước nào có thể chấp nhận và chính phủ chúng tôi cũng thế việc một nước khác nhúng mũi vào quyền hành và tiến trình chính trị của chúng tôi”. Nhu đặc biệt nhấn mạnh việc một viên sỹ quan Mỹ đã tham gia bàn bạc với phe chống đối và người này đã vượt quá vai trò của một nhân chứng khi ông ta khuyến khích họ chống lại chế độ. Tôi biết chắc chuyện này không đúng, vì trong suốt thời gian đảo chính, tôi vẫn giữ liên lạc thường xuyên với viên “sỹ quan” mà Nhu ám chỉ, kiểm soát được hành động của anh ta và luôn luôn nhắc anh ta phải giữ vững chính sách trung lập của ông đại sứ (ngay cả khi nếu cần để bắt anh ta phải tuân lệnh, tôi cũng không ngần ngại mà không nói với anh ta một cách kiên quyết). Vậy là trước Nhu, tôi vẫn giữ cái “vỏ bọc” chính thức của anh ta là một nhân viên cấp dưới của sứ quán chứ không phải là một nhân viên C.I.A. Rõ ràng Nhu chẳng tin lấy nửa lời và yêu cầu chúng tôi phải cho người này về nước. Tôi phản bác lại, lấy cớ chúng tôi chẳng có lý do gì để làm thế và điều đó đã đưa cả hai bên vào ngõ cụt.
Song sự việc đã sớm được giải quyết một cách tinh tế và không để xảy ra điều gì đáng tiếc. Một hôm, người nhân viên nói trên thấy trong hòm thư của mình một lá thư trách anh ta đã khuyến khích họ đảo chính và bảo đảm Mỹ vẫn ủng hộ họ dù kết quả thế nào. Nay chính lúc họ cần được giúp đỡ để tránh bị chính quyền hỏi tội thì chẳng thấy sự ủng hộ ấy đâu. Bức thư còn dọa nếu anh không giữ lời thì cả anh ta lẫn gia đình đều bị sát hại. Hiểu ngay đây là cái mẹo của Tuyến thậm chí nhận ra được cả chữ đánh máy của văn phòng Tuyến tôi liền mang bức thư đến gặp Nhu và nói, để bảo vệ người nhân viên và gia đình anh ta tránh khỏi hậu quả của một lời cáo buộc oan, chúng tôi sẽ tổ chức cho anh ta về nước. Nhu trịnh trọng bày tỏ sự đồng tình và cho tổ chức canh gác cẩn mật để “bảo vệ” anh ta và gia đình cho đến lúc đi. Lúc ra sân bay, anh ta và gia đình còn đượccảnh sát võ trang đi xe zíp đi theo hộ tống! Thế là “sự cố” được ém nhẹm và không một ai bị mất mặt.
Một phần tử chính trị ly khai trước đây làm việc cho C.I.A. bỗng xuất hiện trước nhà một nhân viên chúng tôi và yêu cầu được giúp đỡ. Biết nếu không được giúp đỡ, chắc chắn anh ta sẽ bị bắt. Tôi cho giấu anh ta vào một ngôi nhà của cơ quan lúc này tạm thời chưa có người ở và anh ta đã bí mật sống ở đây nhiều ngày. Rồi một hôm, lấy cớ có một chuyến hàng cần phải chở bằng máy bay, chúng tôi cho chở anh ta đi, nằm giấu mình trong một túi đựng thư từ, công văn. Sau đó anh ta đến sống ở một nước Châu Âu và chúng tôi đã bảo vệ được “nguồn” của chúng tôi.
Cùng thời gian này lại xảy ra một sự kiện chính trị quan trọng khác. Trong thời kỳ chống Pháp, những người cộng sản đã lựa chọn một công cụ lợi hại, đó là Mặt trận Việt Minh, một mặt trận chính trị do Đảng cộng sản thành lập, nhằm thu hút được đông đảo những người không cộng sản tham gia vào sự nghiệp kháng chiến dưới sự kiểm soát chặt chẽ và kiên quyết của cộng sản. Trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, cộng sản không bao giờ dùng từ “Việt cộng”, dù dịch từng chữ một thì nghĩa chính xác của từ đó là “Cộng sản Việt Nam”. Vả lại, ngay từ 1945, cộng sản Việt Nam đã không dùng từ cộng sản mà che giấu nó bằng những từ cách mạng, mácxít hay lao động. Trái lại, chính phủ Nam Việt Nam và Mỹ thì dùng từ Việt cộng, nói lên rất rõ rằng người chỉ huy đích thực cuộc cách mạng ở Nam Việt Nam là cộng sản và đóng ở miền Bắc. Tuy nhiên sự đơn giản trong cách gọi này lại ngăn chúng tôi sớm có một cái nhìn tổng thể về những cơ cấu chính trị mà những người cộng sản sử dụng để huy động được nhân dân tới mức tối đa.
Năm 1960, cộng sản cần phải có một tổ chức tương tự như Việt Minh để tiến hành chiến tranh chống lại miền Nam. Một tổ chức mà nó thể hiện như một sự tập hợp đơn giản các tổ chức cộng sản và không cộng sản có mục đích công khai là thống nhất nỗ lực của những ai chống lại Mỹ-Diệm, và cộng sản có thể kiểm soát được ở bên trong. Những nỗ lực không mệt mỏi của các cán bộ từ miền Bắc thâm nhập vào và nay hoạt động ở miền Nam trong công tác tuyên truyền, xây dựng cơ sở, tổ chức lực lượng đã gặt hái được những kết quả. Một hệ thống đủ màu sắc: thanh niên, phụ nữ, nông dân, trí thức, không cộng sản... đã được xây dựng theo mô hình và kiểu cách tốt nhất của cộng sản. Nhờ có hệ thống này, cộng sản đã có thể tiến hành cuộc chiến tranh chống Mỹ - Diệm và thời cơ đã đến để đưa tất cả các tổ chức đó vào một cấu trúc có kỷ luật hơn, có khả năng trương lên làm biểu tượng cho một cuộc tổng khởi nghĩa chống Mỹ - Diệm.
Phù hợp với truyền thống của những cuộc mưu phản, một đài phát thanh bí mật đã loan tin: Ngày 12 tháng Mười hai năm 1960, tại một vùng rừng núi miền Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam đã được thành lập. Ngày 29 tháng Một năm 1961, Hà Nội xác nhận sự kiện đó và thông báo: “Ở miền Nam, Mặt trận Dân tộc giải phóng vừa được thành lập bởi các lực lượng chống lại chế độ phát xít Ngô Đình Diệm” và “các lực lượng ấy” đã đưa ra một chương trình chính trị và một bản tuyên ngôn ngày 20 tháng Mười hai năm 1960, ngày từ nay được công nhận là ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng.
Để làm mờ bớt đi lý lịch cộng sản của một tổ chức được coi là một phong trào Nam Việt Nam sẵn sàng đón nhận mọi đảng phái, năm 1962 những đảng viên cộng sản của Mặt trận đã đổi tên Đảng Lao động của họ thành “Đảng Cách mạng nhân dân”. Vai trò tiên phong của nó trong Mặt trận Dân tộc giải phóng vẫn y nguyên, đó là kiểm soát và lãnh đạo. Những nhân vật miền Nam mà tên tuổi của họ được người ta tung ra trên khắp thế giới như là những người lãnh đạo Mặt trận giải phóng dân tộc thì về thực chất, họ chẳng có quyền kiểm soát gì đối với những hoạt động của mặt trận, nghĩa là cũng giống như các đồng nghiệp của họ trước đây cũng chẳng có thực quyền gì trong Mặt trận Việt Minh hồi chống Pháp. Việc thành lập Mặt trận đơn giản chỉ có nghĩa là cái cơ cấu chính trị mà cộng sản cần cho một cuộc chiến tranh nhân dân thì nay đã được thành lập. Việc tổ chức chính trị trên một quy mô lớn và những cuộc tấn công của chiến tranh du kích địa phương đã có thể lập tức bắt đầu.
Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ - William Colby Một Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ