Số lần đọc/download: 0 / 50
Cập nhật: 2023-04-08 21:56:59 +0700
Chương 7: Vị Thần Trong Chai
Vị thần trong chai
Abdullah lại chớp chớp thêm cho cát rơi khỏi mắt, và nghiêm túc nhìn gã đàn ông cầm súng lục. Gã thực sự khớp với hình ảnh tên cướp hung ác trong những mộng tưởng của anh. Đây hẳn là sự trùng hợp ngẫu nhiên người ta vẫn nói đến.
“Tôi xin ngài thứ lỗi hàng trăm lần, thưa quý ngài sa mạc,” anh nói, cực kỳ lịch sự, “vì đã mạo phạm ngài theo cách này, nhưng liệu có phải tôi đang được nói chuyện với ngài Kabul Aqba vô địch, tay cướp cao quý nhất và nổi tiếng khắp thế gian này hay không?”
Những gã đàn ông hung ác quanh hắn có vẻ ngạc nhiên. Abdullah nghe được rõ ràng một tên nói, “Làm sao hắn biết điều đó?” Nhưng gã cầm súng lục chỉ cười nhếch mép. Đó là kiểu cười mà gương mặt gã rõ ràng được cơ cấu đặc biệt để nặn ra. “Tao đúng là tên cướp đó,” gã nói. “Tao nổi tiếng đấy chứ?”
Đó đúng là sự trùng hợp ngẫu nhiên người ta vẫn nói đến, Abdullah nghĩ. Chà, ít nhất thì giờ anh biết mình đang ở đâu. “Chao ôi, hỡi những khách bộ hành vùng hoang mạc,” anh nói. “Tôi cũng giống như những con người cao quý các ngài, là một kẻ bị xua đuổi và đàn áp. Tôi đã thề báo thù tất cả người Rashpuht. Tôi tới đây mong muốn gia nhập các ngài và dâng sức mạnh trí tuệ cùng cánh tay tôi cho các ngài.”
“Thật vậy chứ?” Kabul Aqba hỏi. “Và làm sao mày tới được đây? Rơi xuống từ bầu trời trong xiềng xích kia ấy hả?”
“Nhờ phép thuật,” Abdullah khiêm tốn nói. Anh nghĩ đó là điều dễ gây ấn tượng cho những kẻ này nhất. “Tôi đúng là đã rơi xuống từ bầu trời, thưa những người du mục cao quý nhất.”
Thật không may, lũ cướp có vẻ không mấy ấn tượng. Hầu hết bọn chúng đều phá lên cười. Kabul Aqba gật đầu, cử hai tên cướp lên cồn cát để kiểm tra nơi Abdullah đáp xuống. “Nghĩa là mày có thể dùng phép thuật?” hắn hỏi. “Xiềng xích mày đang đeo có liên quan gì đến điều đó không?”
“Chắc chắn rồi,” Abdullah nói. “Tôi là một pháp sư hùng mạnh đến nỗi chính nhà vua của thành Zanzib đã xích tôi lại vì sợ những gì tôi có thể làm được. Chỉ khi phá vỡ xiềng xích và mở còng tay cho tôi, các ngài mới thấy được những điều hay ho.” Từ khóe mắt, anh thấy hai tên đang quay lại, khiêng theo tấm thảm. Anh rất hy vọng rằng đây là chuyện tốt. “Như các ngài biết đấy, sắt thép ngăn cản pháp sư làm phép thuật,” anh chân thành nói. “Cứ chém nó rớt khỏi tôi, và các ngài sẽ thấy cả một cuộc đời mới mở ra trước mắt.”
Những tên cướp còn lại nhìn anh nghi ngờ. “Chúng tôi không có dùi hay búa,” một tên nói.
Kabul Aqba quay sang hai tên cướp khiêng tấm thảm. “Chỉ có thứ này,” chúng báo cáo. “Không có dấu hiệu của thứ gì để cưỡi. Không có vết chân.”
Nghe thấy thế, tên cướp đầu lĩnh vuốt ria mép. Abdullah bất chợt tự hỏi liệu có bao giờ ria mép của gã bị rối vào cái khuyên xỏ mũi không. “Hừm,” gã nói. “Vậy thì ta cược rằng nó là một tấm thảm mầu nhiệm. Tao sẽ giữ nó ở đây.” Gã quay sang cười khinh bỉ với Abdullah. “Rất tiếc làm mày thất vọng, pháp sư,” gã nói. “Nhưng vì mày giao nộp chính mình trong hoàn cảnh quá tiện lợi là bị xích sẵn, tao sẽ để mặc mày trong tình trạng đó và lấy thảm của mày, chỉ để đề phòng sự cố. Nếu mày thật sự muốn gia nhập với chúng tao, mày phải chứng minh mình hữu dụng trước.”
Chính Abdullah cũng hơi ngạc nhiên khi thấy mình giận dữ nhiều hơn là sợ hãi. Có lẽ anh đã dùng cạn kiệt nỗi sợ hãi của mình vào buổi sáng hôm đó khi đối mặt nhà vua. Hoặc có lẽ chỉ bởi anh đang nhức nhối khắp người. Anh đau đớn và trầy xước vì vừa trượt xuống cồn cát, và một vòng xích cổ chân đang cọ điên cuồng vào da anh. “Nhưng tôi đã nói với ngài,” anh kiêu căng nói, “rằng tôi sẽ không có ích với ngài chừng nào xiềng xích chưa được tháo ra.”
“Bọn tao không muốn phép thuật ở mày. Mà là tri thức,” Kabul Aqba nói. Gã vẫy gọi tên cướp đã lội xuống ao nước. “Cho bọn tao biết thứ này là cái gì,” gã nói. “Và có lẽ bọn tao sẽ thưởng cho chân mày thoát xiềng.”
Tên cướp đã nhảy xuống ao nước ngồi xổm xuống và lấy ra một cái chai xanh khói có phần bầu tròn. Abdullah chống khuỷu tay nâng mình dậy và nhìn nó căm ghét. Nó có vẻ mới. Một cái nút mới lộ ra qua lớp thủy tinh màu khói ở cổ chai, bên trên dập một dấu niêm phong chì, trông cũng có vẻ mới. Nhìn nó như một lọ nước hoa mất nhãn. “Nó khá nhẹ,” tên cướp đang ngồi xổm nói, lắc lắc cái chai. “Và nó chẳng lách cách cũng chẳng lõm bõm.”
Abdullah tìm cách dùng thứ này để thoát khỏi xiềng xích. “Nó là một cái chai linh thần,” anh nói. “Các ngài biết đấy, những cư dân của hoang mạc, thứ này có thể rất nguy hiểm. Hãy tháo xiềng xích cho tôi và tôi sẽ khống chế linh thần bên trong để đảm bảo hắn sẽ nghe theo mọi điều ước của các ngài. Nếu không, tôi không nghĩ có ai nên chạm vào nó.”
Gã đang cầm cái chai căng thẳng đánh rơi nó, nhưng Kabul Aqba chỉ phá lên cười và nhặt nó lên. “Trông nó giống như một món đồ uống ngon hơn,” gã nói. Gã vứt cái chai cho một tên cướp khác. “Mở ra đi.” Tên này đặt kiếm xuống và lấy ra một con dao to để cạy mở dấu chì niêm phong.
Abdullah thấy cơ hội thoát khỏi xiềng xích đang dần biến mất. Tệ hơn, anh sắp bị bóc mẽ là kẻ lừa gạt. “Việc này thực sự vô cùng nguy hiểm, thưa những viên hồng ngọc trong giới cướp bóc,” anh phản đối. “Một khi các ngài đã phá dấu niêm phong, nhất định không được rút nút ra.”
Trong khi anh nói, tên cướp bóc dấu niêm phong và thả nó xuống cát. Hắn bắt đầu cạy cái nút ra, trong khi một gã khác giữ chắc cái chai cho hắn làm. “Nếu các ngài phải rút cái nút ra,” Abdullah lảm nhảm, “ít nhất hãy vỗ lên cái chai theo đúng cách, và theo số lần bí mật, và khiến linh thần bên trong thề rằng...”
Cái nút bật ra. BỐP. Một làn khói màu xanh hoa cà mỏng mảnh tràn ra khỏi cổ chai. Abdullah hy vọng thứ này đầy độc dược. Nhưng làn hơi gần như ngay lập tức dày lên thành một đám mây phun ra khỏi miệng chai như thể làn hơi nước màu xanh tím bốc lên khỏi cái ấm đang sôi. Luồng hơi cuộn thành hình một cái mặt - xanh, to lớn và giận dữ - và hai cánh tay, cùng một thân hình sương khói nối vào cái chai, và tiếp tục tràn ra cho tới khi nó cao tới dễ chừng ba mét.
“Ta đã thề!” cái mặt gầm lên với giọng gầm rú ầm ầm. “Kẻ thả ta ra sẽ phải chịu khốn khổ. Đó!” Cánh tay sương khói cử động.
Hai tên cướp đang cầm cái nút và cái chai như thể biến mất khỏi thế gian. Cái nút và cái chai rơi xuống đất, buộc linh thần cuồn cuộn trôi chệch đi khỏi cổ chai. Từ giữa làn sương khói màu xanh hoa cà của linh thần, hai con cóc lớn bò ra, và dường như đang nhìn quanh kinh hoảng. Linh thần chầm chậm bảng lảng bay thẳng lên, khoanh đôi cánh tay mây khói lơ lửng bên trên cái chai, với vẻ căm ghét cực độ trên gương mặt sương khói của mình.
Tới lúc này, tất cả mọi người đều đã bỏ chạy, chỉ còn lại Abdullah và Kabul Aqba, Abdullah ở lại bởi anh khó di chuyển nổi khi bị xiềng xích, và Kabul Aqba rõ ràng bởi gã gan dạ đến đáng ngạc nhiên. Linh thần quắc mắt nhìn cả hai bọn họ.
“Ta là nô lệ của cái chai này,” linh thần nói. “Cho dù ta có căm ghét sự sắp đặt này đến thế nào, ta phải nói cho hai ngươi biết rằng kẻ sở hữu ta sẽ có được một điều ước mỗi ngày, và ta buộc phải thực hiện những điều ước đó.” Rồi hắn cay độc bổ sung, “Ngươi ước điều gì?”
“Tôi ước...” Abdullah mở lời. Kabul Aqba nhanh chóng bịt miệng Abdullah lại. “Tao là người sẽ ước,” gã nói. “Nghe rõ chưa, linh thần!”
“Ta nghe thấy rồi,” linh thần nói. “Ngươi ước gì?”
“Đợi một lát,” Kabul Aqba nói. Gã gí mặt vào sát tai Abdullah. Hơi thở của gã có mùi còn tệ hơn tay hắn, mặc dù Abdullah phải thừa nhận cả hai đều chẳng bằng mảng lông của con chó Jamal nuôi. “Chà, pháp sư,” tên cướp thì thào, “mày đã chứng minh được mày biết rõ mình đang nói gì. Hãy khuyên tao nên ước điều gì, rồi tao sẽ thả mày ra và cho mày vinh dự trở thành một thành viên băng cướp của tao. Nhưng nếu mày định cố đưa ra điều ước cho bản thân, tao sẽ giết mày. Hiểu rồi chứ?” Gã gí miệng súng lục vào đầu Abdullah và buông miệng anh ra. “Tao nên ước điều gì?”
“Chậc,” Abdullah nói, “điều ước sáng suốt và tử tế nhất sẽ là ước hai con cóc của ngài biến trở lại thành người.”
Kabul Aqba ngạc nhiên liếc nhìn hai con cóc. Chúng đang bò vô định dọc theo bờ nước lấm bùn của cái ao, rõ ràng đang tự hỏi liệu chúng có thể bơi được hay không. “Phí cả điều ước,” gã nói. “Nghĩ lại đi.”
Abdullah vắt óc nghĩ xem điều gì có thể làm hài lòng một tên cướp đầu lĩnh nhất. “Ngài có thể ước của cải nhiều vô tận, dĩ nhiên,” anh nói. “Nhưng rồi ngài sẽ mang theo tiền của mình, cho nên có lẽ đầu tiên ngài nên ước một đàn lạc đà khỏe mạnh. Và ngài sẽ phải bảo vệ số của cải này. Có lẽ đầu tiên ngài nên ước một mớ vũ khí phương Bắc nức tiếng, hoặc...”
“Nhưng ước cái nào?” Kabul Aqba gặng. “Nhanh lên. Linh thần đang sốt ruột rồi.”
Thật thế. Linh thần không hẳn giậm giậm chân, vì hắn không có chân để giậm, nhưng có gì đó trong gương mặt tối sầm và cau có của hắn cho thấy sẽ có thêm hai con cóc bên hồ nếu hắn phải chờ đợi lâu hơn.
Một ý nghĩ chớp nhoáng đột ngột vụt qua là đủ để thuyết phục Abdullah rằng tình huống của anh, bất chấp đám xiềng xích, sẽ còn tồi tệ hơn nhiều nếu anh trở thành cóc. “Tại sao không ước một bữa tiệc?” anh nói yếu ớt.
“Thế tốt hơn đấy!” Kabul Aqba nói. Gã vỗ vai Abdullah và nhảy lên vui sướng. “Ta ước một bữa tiệc thịnh soạn nhất,” gã nói.
Linh thần cúi đầu, khá giống một ngọn lửa nến bị thổi dạt trước gió. “Xong,” hắn chua chát nói. “Và mong là nó tốt cho ngươi.” Rồi linh thần cẩn thận chui lại vào cái chai.
Đó quả thực là một bữa tiệc rất thịnh soạn. Bữa tiệc xuất hiện gần như ngay lập tức, với một tiếng rầm trầm đục, giữa một cái bàn dài có mái hiên kẻ sọc phía trên để lấy bóng râm, và cùng với nó là các nô lệ mặc chế phục đi theo phục vụ. Những tên cướp còn lại nhanh chóng vượt qua nỗi sợ hãi và lao trở lại để nằm ườn trên ghế đệm và thưởng thức sơn hào hải vị đựng trong những chiếc đĩa vàng và hét lên với nô lệ đòi thêm nữa, thêm nữa, thêm nữa! Khi có cơ hội nói chuyện với một vài người hầu, Abdullah phát hiện ra họ là nô lệ của chính nhà vua thành Zanzib, và bữa tiệc đáng lẽ ra để dành cho lão.
Tin tức này khiến Abdullah thấy khá hơn chút xíu. Cả bữa tiệc anh bị cột vào cây cọ vừa hay đang ở đó, xiềng xích vẫn trên người. Dù anh không mong chờ điều gì tốt đẹp hơn từ Kabul Aqba, chuyện này vẫn rất tệ. Chí ít Kabul Aqba thỉnh thoảng vẫn nhớ tới anh, và với một cái vẫy tay uy quyền, gã cử nô lệ mang ra cho anh một chiếc đĩa vàng hay một cốc rượu.
Có rất nhiều đồ ăn. Cứ chốc lát lại có một tiếng rầm nghèn nghẹt, và một món mới tinh xuất hiện, được các nô lệ đương sửng sốt mang theo, hoặc lại nảy ra thứ trông giống phần tinh túy nhất trong hầm rượu của nhà vua chất đầy trên xe đẩy đính châu báu, hoặc một ban nhạc đương kinh ngạc sững sờ. Bất cứ khi nào Kabul Aqba cử một nô lệ nữa đến chỗ Abdullah, anh thấy người này lại càng sẵn lòng trả lời câu hỏi hơn.
“Thực ra, thưa tù nhân cao quý của ông vua sa mạc,” một nô lệ nói với anh. “Nhà vua cực kỳ phẫn nộ khi món ăn đầu tiên và thứ hai biến mất một cách bí ẩn. Khi món ăn thứ ba được dọn lên, cũng chính là con công nướng mà tôi mang theo, ngài cử một người lính trong đội lính đánh thuê tháp tùng chúng tôi từ trong bếp ra, nhưng chúng tôi bị bắt đi ngay cạnh họ, thậm chí ngay trước cánh cửa phòng tiệc, rồi lập tức thấy mình ở trong ốc đảo này.”
Abdullah nghĩ nhà vua hẳn càng lúc càng đói bụng rồi.
Sau đó, một nhóm nữ vũ công xuất hiện, cũng bị bắt đi theo cách đó. Chuyện này chắc còn làm nhà vua tức giận hơn nữa. Nhóm vũ công khiến Abdullah thấy phảng phất buồn. Anh nghĩ tới Hoa Đêm, người con gái đẹp gấp đôi bất cứ cô vũ công nào ở đây, và rồi lệ trào lên mắt anh. Trong khi cuộc vui quanh bàn tiệc dần lên cao trào, hai con cóc ngồi bên bờ nông của ao nước kêu lên sầu thảm. Rõ ràng ít nhất chúng cũng cảm thấy tệ như Abdullah lúc này.
Khi màn đêm buông xuống, nô lệ, nhạc công và vũ công đều biến mất, dù chỗ đồ ăn và rượu thừa vẫn còn lại. Tới lúc này, bọn cướp đã no căng, rồi sau đó lại ăn thêm đến phát ngấy. Hầu hết đều ngủ gục ngay nơi mình ngồi. Nhưng Abdullah nản lòng khi thấy Kabul Aqba đứng dậy - hơi loạng choạng một chút - và nhặt cái chai linh thần từ dưới gầm bàn. Gã kiểm tra cẩn thận để đảm bảo nó đã được nút kín. Rồi gã loạng choạng đi tới cái thảm mầu nhiệm và nằm lên nó, cái chai vẫn cầm trong tay. Gã thiếp đi gần như ngay tức thì.
Abdullah ngồi dựa vào cây cọ, càng lúc càng lo lắng hơn. Nếu linh thần đã đưa những nô lệ về lâu đài ở Zanzib - và rất có vẻ hắn đã làm thế - thì sẽ có người đặt ra cho họ những câu hỏi đầy thịnh nộ. Tất cả bọn họ sẽ đều trả lời cùng một câu chuyện rằng mình bị ép phục vụ một lũ cướp, trong khi một thanh niên ăn mặc đẹp đẽ đeo xiềng xích ngồi quan sát từ bên dưới cây cọ. Nhà vua sẽ nhận ra ngay. Lão không ngu ngốc. Thậm chí ngay chính lúc này, một đạo quân có thể đã khởi hành trên những con lạc đà phi nước kiệu để truy lùng ốc đảo nhỏ bé giữa sa mạc này.
Nhưng đó không phải là nỗi bận tâm lớn nhất của Abdullah. Anh nhìn gã Kabul Aqba đang ngủ mà lòng càng lo lắng dữ dội hơn. Anh sắp mất cái thảm mầu nhiệm, và dĩ nhiên cả một linh thần cực kỳ hữu dụng đi kèm nữa.
Quả thật, sau khoảng nửa tiếng, Kabul Aqba lăn ngửa người và mở miệng ra. Và không nghi ngờ gì, giống hệt con chó của Jamal đã làm, giống chính Abdullah - nhưng chắc sẽ không to quá mức như thế chứ? - Kabul Aqba ngáy một tiếng cực lớn. Tấm thảm rung lên. Abdullah thấy nó nâng lên khoảng một phần ba mét, rõ rành rành trong ánh sáng của vầng trăng đang lên, rồi lơ lửng chờ đợi. Abdullah đoán nó đang bận phân tích bất cứ giấc mơ nào Kabul Aqba đang có lúc đó. Abdullah chịu không biết một tên cướp đầu lĩnh thì có thể mơ thấy điều gì, nhưng tấm thảm biết, nó lướt lên không trung và bắt đầu bay.
Abdullah ngước lên khi nó trượt qua những lá cọ trên đầu, và cố tác động tới nó lần cuối cùng. “Ôi tấm thảm thiếu may mắn nhất ơi!” anh kêu lên khe khẽ. “Ta đã có thể đối xử tốt đẹp với ngươi hơn nhiều!”
Có lẽ tấm thảm đã nghe thấy anh. Hoặc có lẽ đó chỉ là trùng hợp. Nhưng có thứ gì đó tròn tròn và lấp lánh nhẹ lăn xuống rìa cái thảm và rơi thịch xuống cát cách Abdullah vài thước. Đó là cái chai linh thần. Abdullah vươn ra, nhanh hết sức có thể mà không khiến xiềng xích leng keng loảng xoảng quá nhiều, và lôi cái chai vào giấu giữa lưng anh với cây cọ. Rồi anh ngồi xuống chờ đợi bình minh, lòng cảm thấy hy vọng hơn nhiều.