Bread of flour is good; but there is bread, sweet as honey, if we would eat it, in a good book.

John Ruskin

 
 
 
 
 
Tác giả: Jo Nesbo
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 52
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1233 / 34
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6: Ớt
hững ánh nắng đầu tiên vừa vượt qua đỉnh núi Ekcherg, lọt qua rèm cửa kéo lên nửa chừng trong phòng họp của Đội Hình sự và lách vào giữa những nếp gấp trên vùng da quanh đôi mắt nheo lại của Harry. Rune Ivarsson đứng giữa chiếc bàn dài, hai chân giạng ra, nhún nhảy trên hai bàn chân, tay chắp sau lưng. Một tờ giấy đặt trên giá vẽ có dòng chữ CHÀO MỪNG màu đỏ to tướng ở phía sau ông ta. Harry đoán đây là thứ mà Ivarsson đã học lỏm được trong một buổi hội nghị chuyên đề về thuyết trình và đã miễn cưỡng cố kiềm chế không ngáp khi vị Trưởng Đơn vị Chống Cướp bắt đầu trình bày.
“Chào các anh chị. Tám người chúng ta đang ngồi quanh bàn đây sẽ họp thành một đội để điều tra vụ cướp ngân hàng xảy ra tại Bogstadveien hôm thứ Sáu vừa qua.”
“Giết người,” Harry lẩm bẩm.
“Xin lỗi anh nói gì?”
Harry ngồi thẳng lại trên ghế. Ánh nắng đáng ghét làm anh quay hướng nào cũng vẫn bị chói. “Tôi nghĩ phải tiến hành điều tra dựa trên căn cứ rằng đây là một vụ giết người mới là chính xác.”
Ivarsson mỉm cười giễu cợt. Không phải với Harry, mà là với những người khác đang ngồi xung quanh bàn mà ông ta vừa liếc nhanh. “Tôi nghĩ rằng tôi nên bắt đầu bằng việc giới thiệu các bạn với nhau, nhưng người bạn của chúng ta ở Đội Hình sự đã mở đầu rồi. Thanh tra Harry Hole đã được cấp trên của anh, Bjarne Møller, có nhã ý cho chúng ta mượn vì anh chuyên về các vụ giết người.”
“Trọng án,” Harry chữa lại.
“Trọng án. Ngồi bên trái thanh tra Hole là Torleif Weber bên Phòng Giám định Pháp y, người đã điều hành việc điều tra tại hiện trường. Như nhiều người đã biết, Weber là một trong những thanh tra pháp y dày dạn kinh nghiệm nhất của chúng ta. Nổi tiếng về năng lực phân tích và trực giác nhạy bén. Giám đốc Sở từng nói rằng ông rất muốn có Weber đi cùng như một chú chó nghiệp vụ trong những bữa tiệc đi săn của ông.”
Cả bàn cười rộ. Harry không cần nhìn Weber cũng biết ông không cười. Weber hầu như chưa bao giờ cười, ít nhất là với những người ông không ưa, mà ông thì hầu như chẳng ưa ai. Nhất là trong cái đám sếp trẻ mà, theo ý ông, rặt những hạng háo danh bất tài, chẳng có lấy một gam yêu nghề hay yêu ngành nhưng lại thính nhạy hơn đối với quyền lực và ảnh hưởng hành chính có thể giành được nhờ thỉnh thoảng ghé qua Sở Cảnh sát.
Ivarsson mỉm cười và xoay lên xoay xuống như hoa tiêu trên một chiếc tàu lớn đang tiến ra biển trong lúc ông ta đợi tràng cười lắng xuống.
“Beate Lønn còn khá mới mẻ trong tình huống này và là chuyên gia phân tích băng ghi hình của chúng ta.”
Mặt Beate đỏ lựng.
“Beate là con gái của Jørgen Lønn, người đã từng phục vụ hơn hai mươi năm ở đơn vị mà về sau được gọi là Đơn vị Chống Cướp và Ban Trọng án. Tới nay, có vẻ như cô đang tiếp bước người cha huyền thoại của mình. Cô đã đóng góp những bằng chứng vô cùng quan trọng giúp phá nhiều vụ án. Không biết tôi đã từng nhắc tới chưa, nhưng trong năm vừa qua, Đơn vị Chống Cướp chúng tôi đã lập được tỷ lệ kết án gần năm mươi phần trăm, mà xét trong bối cảnh quốc tế được cho là…”
“Ông đã từng nói rồi, Ivarsson ạ.”
“Cảm ơn anh.”
Lần này thì Ivarsson nhìn thẳng vào Harry khi ông ta mỉm cười. Một nụ cười cứng đơ của loài bò sát, nhăn nhở cả hai hàm răng. Và ông ta tiếp tục điệu cười đó trong suốt màn giới thiệu. Harry biết hai người trong nhóm. Một là Magnus Rian, một thanh tra trẻ bên Tomrefjord, từng ở Đội Hình sự sáu tháng và để lại ấn tượng mạnh mẽ. Người kia là Didrik Gudmundson, thanh tra dày dạn kinh nghiệm nhất nhóm và là sếp phó Đơn vị Chống Cướp. Một cảnh sát kín đáo, làm việc có phương pháp, khiến Harry chưa từng gặp vấn đề gì khi hợp tác. Hai người cuối cùng cũng ở Đơn vị Chống Cướp, cả hai đều có họ Li, nhưng Harry ngay lập tức biết chắc rằng họ không phải là một cặp sinh đôi cùng trứng. Toril Li là một phụ nữ tóc vàng, cao lớn với cái miệng nhô và khuôn mặt khó đăm đăm, trong khi Ola Li lại là một người đàn ông béo lùn, tóc đỏ với khuôn mặt tròn và cặp mắt vui vẻ. Harry gặp họ trong hành lang đủ để nhiều người nghĩ rằng chào hỏi là việc hết sức tự nhiên, nhưng anh lại chưa một lần nào nghĩ tới chuyện đó.
“Còn về tôi, chắc các bạn đã nhẵn mặt tôi trong nhiều trường hợp khác rồi,” Ivarsson kết thúc màn giới thiệu. “Nhưng để cho đúng thủ tục, xin giới thiệu tôi là Trưởng Đơn vị Chống Cướp và đã được giao nhiệm vụ chỉ đạo cuộc điều tra này. Và, trở lại với việc anh đã nói lúc đầu, thanh tra Hole, đây không phải là lần đầu tiên chúng tôi điều tra một vụ cướp với một người vô tội bị giết.”
Harry cố gắng không cắn câu. Thật ra là anh đã làm được, nhưng cái nụ cười cá sấu kia khiến anh không nhịn nổi.
“Cùng với tỷ lệ kết án gần năm mươi phần trăm ư?”
Chỉ có một người duy nhất trong nhóm cười, nhưng lại cười rõ to. Weber. “Xin lỗi các bạn, rõ ràng là tôi quên không đề cập đến một chuyện về Hole,”
Ivarsson nói nhưng không cười. “Anh ấy được đánh giá là có khiếu hài hước. Một cây hài, tôi nghe người ta bảo vậy.”
Một giây im lặng đầy lúng túng. Rồi Ivarsson bật cười một tiếng ngắn và cả bàn khùng khục cười theo.
“OK, hãy bắt đầu với một bản tóm lược.” Ivarsson lật qua trang đầu. Trang kế tiếp có dòng tiêu đề CHỨNG CỨ PHÁP Y. Ông ta mở nắp bút viết bảng, chuẩn bị sẵn sàng. “Xin mời anh, Weber.”
Karl Torleif Weber đứng dậy. Ông thấp người, mái tóc xám bạc như bờm sư tử và để râu. Giọng ông trầm trầm như âm thanh tần số thấp, nghe đầy hăm dọa, nhưng rành rọt. “Tôi sẽ nói ngắn thôi.”
“Xin tùy ý,” Ivarsson nói, đặt bút lên giấy. “Nhưng anh cần nói bao lâu cũng được, Karl.”
“Tôi nói ngắn thôi vì tôi không cần nhiều thời gian,” Weber làu bàu. “Chúng tôi chưa tìm được gì cả.”
“Ra vậy,” Ivarsson nói, hạ bút xuống. “Các anh chưa tìm được gì cả. Chính xác thì ý anh là gì?”
“Chúng tôi thu được dấu vết của một chiếc giày Nike mới tinh, cỡ 45. Hầu hết mọi chi tiết trong vụ cướp này đều có dấu hiệu chuyên nghiệp đến mức thông tin duy nhất mà tôi suy ra được là đây có lẽ không phải cỡ giày hắn thường đi. Viên đạn đã được phân tích bởi bên đạn đạo học. Đó là một viên 7,62 li thông thường cho súng AG3, loại đạn phổ biến nhất trong vương quốc Na Uy này, vì trong trại lính, cửa hàng bán vũ khí và nhà của sĩ quan dự bị hay tình nguyện nào trên khắp đất nước cũng có. Nói cách khác là không thể lần ra dấu vết. Ngoài ra, các vị sẽ tưởng rằng hắn chưa từng đặt chân vào trong ngân hàng. Hay thậm chí là bên ngoài. Chúng tôi cũng đã tìm kiếm chứng cứ cả ở đó nữa.”
Weber ngồi xuống.
“Cảm ơn anh Weber, thông tin của anh thật… ừm, hữu ích.” Ivarsson lật sang trang tiếp theo. NHÂN CHỨNG.
“Hole?”
Harry ngồi lún sâu hơn vào trong ghế. “Tất cả những người có mặt tại ngân hàng đều được thẩm vấn ngay sau đó, nhưng không ai có thể nói cho chúng tôi bất cứ điều gì nằm ngoài cuốn băng. Tức là, họ nhớ được vài chuyện mà chúng tôi biết là không chính xác. Một nhân chứng đã nhìn thấy tên cướp đi lên phố Industrigata. Chưa có ai khác gọi điện đến Sở Cảnh sát nữa.”
“Thông tin đó đưa chúng ta đến với vấn đề tiếp theo - xe tên cướp dùng để bỏ trốn,” Ivarss nói. “Toril?”
Toril Li bước lên, bật máy chiếu treo trên đầu, trong đó đã để sẵn một tấm phim đèn chiếu có tóm tắt về những chiếc xe cá nhân đã bị đánh cắp trong vòng ba tháng qua. Bằng giọng đặc vùng Sunnmørsk, cô ta trình bày về bốn chiếc xe mà cô ta cho là có khả năng được tên cướp sử dụng nhất, phán đoán dựa trên thực tế rằng chúng là xe của những thương hiệu và kiểu dáng tầm thường, màu sáng, trung tính, và đủ mới để tên cướp cảm thấy tự tin rằng chúng sẽ giúp hắn chạy thoát. Một trong số đó, một chiếc Volkswagen GTI đỗ trên phố Maridalsveien, rất đáng quan tâm vì nó bị đánh cắp vào đêm ngay trước vụ cướp ngân hàng.
“Bọn cướp ngân hàng thường đánh cắp xe vào thời điểm gần với vụ cướp nhất có thể để chúng không xuất hiện trong danh sách của cảnh sát tuần tra,” Toril Li giải thích. Cô ta tắt máy chiếu trên đầu và cầm tấm kính ảnh trong lúc về chỗ ngồi.
Ivarsson gật đầu. “Cảm ơn cô.”
“Vì đã chẳng làm được gì,” Harry thì thầm với Weber.
Tiêu đề của trang tiếp theo là PHÂN TÍCH BĂNG GHI HÌNH. Ivarsson đã đóng nắp cái bút lại. Beate nuốt khan, hắng giọng, nhấp một ngụm nước từ cái cốc trước mặt và lại ho trước khi bắt đầu nói, mắt dán chặt xuống mặt bàn. “Tôi đã ước tính chiều cao…”
“Cô làm ơn nói to lên được không, Beate.” Nụ cười rắn độc.
Beate hắng giọng vài lần.
“Tôi đã ước tính chiều cao của tên cướp từ cuốn băng ghi hình. Hắn cao khoảng 1 mét 79. Tôi đã kiểm tra lại với Weber và ông ấy cũng đồng ý.”
Weber gật đầu.
“Xuất sắc!” Ivarsson nói to với vẻ nhiệt tình giả tạo. Ông ta giật phắt nắp cái bút ra và ghi: CAO 1 MÉT 79.
Beate nói tiếp, mắt vẫn nhìn xuống bàn. “Tôi vừa nói chuyện với Aslaksen ở trường đại học, chuyên gia phân tích giọng nói. Anh ta đã xem qua năm từ mà tên cướp nói bằng tiếng Anh. Anh ta…” Beate hồi hộp ngước lên nhìn Ivarsson đang quay lưng lại với cô, sẵn sàng ghi chú. “… nói rằng chất lượng của cuốn băng ghi âm quá kém nên không thu được gì. Nó không sử dụng được.”
Ivarsson hạ cánh tay xuống vừa vặn lúc vầng mặt trời đã xuống thấp lặn vào sau đám mây và vệt sáng hình chữ nhật trên bức tường đằng sau họ nhạt dần. Cả căn phòng lặng phắc như tờ. Ivarsson hít vào một hơi rồi nhón chân đi lên phía trước.
“May thay, chúng tôi đã để dành lá bài chủ tới phút cuối.” Vị sếp của Đơn vị Chống Cướp lật qua trang cuối cùng. THEO DÕI.
“Với các anh chị không làm trong Đơn vị Chống Cướp, có lẽ chúng tôi phải giải thích rằng khi chúng tôi có một cuốn băng ghi hình một vụ cướp ngân hàng thì chúng tôi luôn xem xét phần theo dõi trước. Mười vụ thì có đến bảy vụ băng ghi hình sẽ tiết lộ danh tính của tên cướp, nếu hắn là một trong số những người bạn cũ của chúng ta.”
“Cho dù hắn đeo mặt nạ sao?” Weber hỏi.
Ivarsson gật đầu. “Một thanh tra nằm vùng giỏi sẽ xác định một kẻ từng có tiền án qua dáng vóc, ngôn ngữ cơ thể, cách nói trong quá trình vụ cướp diễn ra, tất cả những chi tiết nhỏ mà người ta không thể giấu sau mặt nạ.”
“Nhưng việc biết được danh tính của hắn chưa đủ,” sếp phó của Ivarsson, Didrik Gudmundson ngắt lời. “Chúng ta phải…”
“Đúng thế,” Ivarsson cắt ngang. “Chúng ta phải có bằng chứng. Một tên cướp có thể đánh vần tên của hắn trước máy ghi hình, nhưng nếu hắn đeo mặt nạ và không để lại một chứng cứ xác thực nào thì trước pháp luật ta vẫn chẳng có gì hết.”
“Vậy, bao nhiêu trong số bảy tên ông nhận ra đó cuối cùng đã bị kết án?” Weber hỏi.
“Một vài tên,” Gudmundson nói. “Dù kẻ gây án vẫn nhởn nhơ thì việc biết được hắn là ai vẫn tốt hơn. Nhờ thế chúng ta sẽ biết được chút gì đó về mô thức tiến hành và phương pháp của chúng. Và lần sau chúng ta sẽ tóm chúng.”
“Và nếu như không có lần sau?” Harry hỏi. Anh nhận thấy những mạch máu trên tai Ivarsson vốn đã to lại càng phình ra thêm khi ông ta cười.
“Chuyên gia về những vụ giết người thân mến,” Ivarsson nói, vẫn còn vẻ tếu táo. “Nếu anh nhìn xung quanh mình, thì anh sẽ thấy hầu hết mọi người đều đang tủm tỉm phía sau chòm râu trước điều anh vừa hỏi. Đó là vì một tên cướp ngân hàng nếu đã thực hiện trót lọt một vụ thì sẽ luôn luôn - luôn luôn - tái phạm. Đó là định luật vạn vật hấp dẫn đối với đám cướp ngân hàng.” Ivarsson nhìn ra ngoài cửa sổ và cho phép mình cười thêm tiếng nữa rồi mới xoay người trên gót chân. “Nếu như buổi học dành cho người lớn hôm nay kết thúc ở đây thì có lẽ chúng ta có thể xem xem có nghi phạm nào không.”
Ola Li nhìn Ivarsson, không chắc có nên đứng dậy không, nhưng cuối cùng vẫn quyết định ngồi tại ghế. “Ừm, cuối tuần trước tôi có ca trực. Chúng tôi đã có một cuốn băng được biên tập xong sẵn sàng vào tám giờ tối thứ Sáu, và đã cho cả đội theo dõi xem cuốn băng trong Nhà Đau đớn. Những người không có ca trực được gọi tới vào thứ Bảy. Cả thảy là mười ba cảnh sát theo dõi đã tới đây, tốp đầu vào lúc tám giờ tối thứ Sáu, tốp sau…”
“Được rồi, Ola,” Ivarsson nói. “Hãy nói luôn kết quả anh tìm được.”
Ola bật cười vẻ bồn chồn. Nghe như tiếng kêu ngập ngừng của con hải âu.
“Thế nào?”
“Espen Vaaland nghỉ ốm,” Ola nói. “Anh ta khá rành về bọn cướp ngân hàng. Mai tôi sẽ cố gọi anh ta tới đây.”
“Cái mà anh định nói là…?”
Mắt Ola đảo như rang lạc quanh bàn. “Không nhiều lắm,” anh ta nói khẽ.
“Ola vẫn còn chưa quen với những vụ thế này,” Ivarsson nói và Harry nhận thấy các cơ hàm của ông ta bắt đầu nghiến lại. “Ola muốn chắc chắn một trăm phần trăm khi xác định danh tính của ai đó, và điều đó rất đáng biểu dương, nhưng như thế thì quả là kỳ vọng hơi nhiều khi mà tên cướp…”
“Tên sát nhân.”
“… bịt kín người từ đầu tới chân, với chiều cao tầm trung, không để lộ giọng, hành động khác thường và đi giày lớn hơn cỡ chân của mình.” Ivarsson cao giọng. “Vì vậy, hãy cho chúng tôi toàn bộ danh sách, Ola. Kẻ nào nằm trong cuộc đua?”
“Không có ai cả.”
“Phải có vài cái tên chứ!”
“Không,” Ola nói và nuốt khan.
“Anh đang định bảo chúng tôi rằng không ai đưa ra đề xuất nào, rằng tất cả những kẻ cung cấp tin tình nguyện, những cảnh sát nằm vùng nhiệt huyết đến thế, vốn luôn tự hào về những cuộc chạm trán hằng ngày với đám cặn bã xấu xa nhất ở Oslo, những người mà mười vụ thì chín vụ nghe được những lời xì xào về kẻ lái xe bỏ trốn, kẻ mang theo đồ ăn cắp, kẻ canh chừng, đột nhiên lại không dám đưa ra dù chỉ là một phỏng đoán hay sao?”
“Họ có đưa ra phỏng đoán,” Ola nói. “Nhắc tới sáu cái tên.”
“Nào, vậy thì nói ra nhanh lên đi, chàng trai.”
“Tôi đã kiểm tra tất cả những cái tên đó. Ba trong số đó đang bóc lịch. Một thì được nhìn thấy ở quảng trường chợ Plata khi vụ cướp diễn ra. Một thì đang ở Pattaya, Thái Lan. Tôi đã kiểm tra rồi. Và còn một tên mà tất cả các cảnh sát nằm vùng của chúng ta đều nhắc đến vì hắn có vóc dáng tương tự và vụ cướp lại quá chuyên nghiệp, và đó là Jim Johansen ở băng Tveita.”
“Vậy ư?”
Nom Ola như thể muốn trượt xuống khỏi cái ghế mà biến mất dưới gầm bàn. “Hắn đang nằm trong bệnh viện Ulleval, và thứ Sáu tuần trước hắn đang được phẫu thuật vì chứng aures alatae.”
“Aures alatae ư?”
“Tai vểnh,” Harry rên lên, gạt giọt mồ hôi trên lông mày.
Ivarsson tức phát điên lên.
○○○
“Cậu đạt được bao nhiêu rồi?”
“Tôi mới qua hai mươi mốt.”
Giọng Halvorsen vang vọng khắp các bức tường. Vì mới đầu giờ chiều nên trung tâm thể hình ở tầng hầm của Sở Cảnh sát hầu như chỉ có mình họ.
“Cậu đã chọn đường tắt hay sao thế?” Harry nghiến răng và nâng tốc độ lên một chút. Đã có cả vũng mồ hôi quanh cái xe đạp có gắn đồng hồ đo ca lo của anh, trong khi trán của Halvorsen mới chỉ hơi rịn rịn.
“Vậy là anh vẫn chưa thu được gì hả?” Halvorsen hỏi, thở đều và điềm tĩnh.
“Trừ phi có gì đó trong thông tin mà Beate Lønn báo cáo vào lúc cuối còn không thì chúng ta chẳng có gì nhiều cả.”
“Thế cô ta đã nói gì?”
“Cô ấy đang phát triển một chương trình có thể tái tạo hình ảnh 3D của đầu và mặt tên cướp từ cuốn băng.”
“Có cả mặt nạ?”
“Chương trình này sử dụng thông tin từ các hình ảnh ghi lại được. Ánh sáng, bóng, những chỗ lồi ra lõm vào. Mặt nạ càng ôm sát thì càng dễ tạo ra hình ảnh giống với mặt người bên trong. Tuy nhiên, đó chỉ là phác họa thôi, nhưng Beate bảo rằng cô ấy có thể sử dụng nó để so sánh với ảnh của các nghi can.”
“Đó có phải là chương trình nhận dạng của FBI không?” Halvorsen quay sang Harry và, với một thoáng thích thú, xác nhận lại rằng vết mồ hôi hình thành từ chỗ logo của câu lạc bộ kết bạn trên ngực Harry giờ đã loang ra khắp cái áo thun.
“Không, chương trình của cô ấy tốt hơn,” Harry nói. “Bao xa rồi?”
“Hai mươi hai. Loại nào?”
“Hồi hình thoi.”
“Của Microsoft hay Apple Mac?”
Harry gõ ngón trỏ lên cái trán đỏ phừng phừng. “Phần mềm ai cũng có. Nằm trên thùy thái dương trong não với chức năng duy nhất là nhận ra mọi người. Công việc của nó chỉ có thế. Chính cái mẩu đó đảm bảo chúng ta có thể phân biệt được hàng trăm, hàng nghìn khuôn mặt người, nhưng không phân biệt nổi một tá tê giác.”
“Tê giác ư?”
Harry nhắm chặt hai mắt và chớp liên tục để đẩy giọt mồ hôi cay sè ra khỏi mắt. “Nói để ví dụ thôi, Halvorsen ạ, nhưng chắc chắn Beate Lønn là một trường hợp đặc biệt. Hồi của cô ấy có thể hoạt động tốt hơn vài lần mà nhờ thế cô ấy nhớ được tất cả các khuôn mặt từng nhìn thấy trong đời, có thể nói thế cũng được. Và ý tôi là không chỉ những người mà cô ấy quen hay từng nói chuyện, mà cả những khuôn mặt đeo kính râm mà cô ấy chỉ nhìn lướt qua trên một con phố tấp nập từ mười lăm năm trước.”
“Anh đang đùa à?”
“Không.” Harry cúi đầu xuống khi đã hít thở đủ để tập tiếp. “Chỉ có khoảng một trăm trường hợp giống cô ấy. Didrik Gudmundson bảo rằng cô ấy đã từng tham gia một bài kiểm tra ở Trường Cảnh sát và thắng cả mấy chương trình nhận dạng nổi tiếng. Cô gái đó là một kho dữ liệu sống về các khuôn mặt. Nếu cô ấy hỏi anh rằng Chẳng phải tôi đã gặp anh ở đâu đó rồi sao? thì anh có thể tin tôi rằng đó không phải là một câu hỏi cho có.”
“Trời ạ. Cô ta làm gì trong ngành cảnh sát vậy? Ý tôi là với một tài năng như thế.”
Harry nhún vai. “Anh có nhớ viên sĩ quan đã bị bắn trong một vụ cướp ngân hàng hồi thập niên 1980 ở đường Ryen không?”
“Hồi đó tôi chưa vào ngành.”
“Ông ta tình cờ ở gần đó khi chuông báo động kêu và, vì là người đầu tiên có mặt tại hiện trường, ông ta đã đi người không vào ngân hàng để điều đình. Ông ta bị bắn gục bằng một khẩu súng tự động còn bọn cướp thì cao chạy xa bay. Về sau, vụ đó được Sở Cảnh sát sử dụng làm ví dụ về những việc không nên làm khi có thể khiến cho bọn cướp bị bất ngờ.”
“Phải đợi cho đến khi có quân tiếp viện. Không được đối đầu bọn cướp hoặc đặt bản thân, nhân viên ngân hàng hay bọn cướp vào tình huống nguy hiểm không cần thiết.”
“Đúng thế, trong tài liệu hướng dẫn viết thế. Có điều lạ ông ta lại là một trong những thanh tra giỏi và có kinh nghiệm nhất hồi đó. Jørgen Lønn. Cha của Beate.”
“Ra vậy. Anh nghĩ đó là lý do cô ấy gia nhập lực lượng cảnh sát ư? Vì cha mình?”
“Có lẽ thế.”
“Cô ta có xinh không?”
“Cô ấy giỏi. Bao nhiêu nữa rồi?”
“Vừa qua hai mươi tư, còn sáu nữa. Còn anh?”
“Hai mươi hai. Tôi sẽ đuổi kịp cậu cho xem.”
“Lần này thì không đâu,” Halvorsen nói và tăng tốc.
“Có chứ, tôi sẽ đuổi kịp, vì đến đoạn leo dốc rồi. Tôi tới đây rồi. Và cậu sẽ cuống cà kê và sẽ bị chuột rút. Như mọi lần.”
“Lần này thì không,” Halvorsen đáp, đạp nhanh hơn nữa. Một giọt mồ hôi hiện rõ ở chỗ đường chân tóc dày của anh ta. Harry mỉm cười và gò người trên ghi đông.
○○○
Bjarne Møller hết nhìn danh mục mua hàng mà vợ ông vừa đưa cho lại nhìn lên giá, chỗ đặt thứ mà ông nghĩ có lẽ là rau mùi. Margrete bắt đầu mê đồ ăn Thái sau chuyến du lịch của họ tới Phuket vào mùa đông năm ngoái, nhưng người đứng đầu Đội Hình sự vẫn không quen được với nhiều loại rau ngày ngày được chở từ Bangkok tới cửa hàng tạp hóa của một người Pakistan trên đường Grønlandsleiret.
“Đó là ớt xanh, thưa sếp,” một giọng nói vang lên ngay bên tai ông. Ông bèn quay ngoắt lại thì thấy khuôn mặt đỏ ửng, nhễ nhại mồ hôi của Harry. “Chỉ cần hai quả này cùng vài lát gừng là sếp nấu được món xúp tom yam rồi. Ăn vào thì xì khói ra đằng tai, nhưng sếp sẽ đổ mồ hôi ra được vài độc tố.”
“Nhìn như là cậu vừa nếm món đó hả, Harry?”
“Chỉ là một cuộc đua xe đạp ngăn ngắn với Halvorsen thôi.”
“Vậy hả? Thế cậu đang cầm cái gì ở tay kia?”
“Ớt Nhật. Một loại ớt nhỏ màu đỏ.”
“Tôi không biết là cậu nấu ăn đấy.”
Harry cũng nhìn chằm chằm cái túi đựng ớt với vẻ sửng sốt như thể chính anh cũng mới thấy nó lần đầu. “Mà may là gặp sếp ở đây. Chúng tôi có chút rắc rối.”
Møller có thể cảm thấy da đầu ông phồng rộp lên.
“Tôi không biết ai đã quyết định để Ivarsson chỉ đạo cuộc điều tra vụ giết người ở Bogstadveien, nhưng làm thế không ổn.”
Møller đặt tờ danh sách vào giỏ mua hàng. “Các cậu đã làm việc cùng nhau được bao lâu rồi? Hết hai ngày chưa?”
“Sếp à, vấn đề không phải là thế.”
“Cậu không thể cứ việc mình mình làm một lần trong đời sao, Harry? Và để những người khác quyết định chuyện tổ chức? Thử không chống lại mọi người một lần cũng không để lại hậu quả lâu dài gì đâu, cậu biết mà.”
“Sếp cũng biết là tôi chỉ muốn phá vụ án này càng nhanh càng tốt, để còn giải quyết vụ kia mà.”
“Đúng, tôi biết, nhưng cậu đã thụ lý vụ đó lâu hơn nhiều so với thời gian hai tháng tôi hứa với cậu, mà tôi thì không thể bảo vệ việc giao phó thời gian và nguồn lực bằng những lý do cá nhân và duy tình được, Harry.”
“Cô ấy là đồng nghiệp của chúng ta mà sếp.”
“Tôi biết!” Møller gắt lên. Ông ngừng bặt, nhìn ngó xung quanh rồi mới nói tiếp, giọng nhỏ hơn. “Vấn đề của cậu là gì vậy, Harry?”
“Họ đã quá quen xử lý những vụ cướp, còn Ivarsson thì chẳng thèm mảy may bận tâm đến những lời khuyên có tính xây dựng.”
Bjarne Møller không nén nổi một nụ cười ngoác miệng khi nghĩ tới những ‘lời khuyên có tính xây dựng’ của Harry.
Harry ghé lại gần. Anh nói nhanh và gay gắt. “Điều đầu tiên mà chúng ta hỏi bản thân khi xảy ra một vụ giết người là gì, sếp? Tại sao? Động cơ là gì? Chúng ta sẽ hỏi như vậy. Ở Đơn vị Chống Cướp, họ cứ mặc nhiên quy kết động cơ là vì tiền mà chẳng thèm đặt câu hỏi.”
“Vậy cậu nghĩ động cơ của vụ này là gì?”
“Tôi chẳng nghĩ gì cả. Vấn đề là họ áp dụng phương pháp sai hoàn toàn.”
“Một phương pháp khác, Harry ạ, chỉ khác thôi. Tôi phải ra thanh toán đống rau cỏ này để về nhà đây, nên nói thẳng ra điều cậu muốn đi.”
“Tôi muốn sếp nói chuyện với những người cần thiết, để tôi có được một người làm việc riêng với tôi thôi.”
“Rút lui khỏi nhóm điều tra hả?”
“Song song với nhóm điều tra.”
“Harry…”
“Đó là cách chúng ta tóm tên Chim Cổ đỏ, sếp nhớ chứ?”
“Harry, tôi không thể can thiệp…”
“Tôi muốn làm việc với Beate Lønn, để cô ấy và tôi có thể bắt tay từ đầu. Chưa gì Ivarsson đã bị sa lầy…”
“Harry!”
“Sao, sếp?”
“Lý do thật sự là gì?”
Harry đổi chân trụ. “Tôi không thể làm việc với con cá sấu biết cười ấy.”
“Ivarsson ư?”
“Tôi sẽ làm chuyện gì đó cực kỳ ngu ngốc đấy.”
Cặp lông mày của Bjarne Møller cau lại thành hình chữ V đen sì trên sống mũi: “Đó là một lời đe dọa đấy à?”
Harry đặt một bàn tay lên vai Møller. “Làm ơn, chỉ một lần này thôi, sếp. Tôi sẽ không bao giờ xin xỏ sếp lần nào nữa. Không bao giờ.”
Møller gầm gừ. Bao năm qua ông đã giơ đầu chịu báng cho Harry bao nhiêu lần, thay vì lưu luyến những lời khuyên thiện ý hòng tốt cho sự nghiệp của ông từ những đồng nghiệp lớn tuổi hơn? Họ bảo ông phải tránh xa anh. Rằng anh là một khẩu đại bác đã lên nòng. Điều duy nhất chắc chắn về Harry Hole là một ngày nào đó sẽ xảy ra sai phạm tày trời. Tuy nhiên, cho đến nay, vì ông và Harry vẫn luôn tai qua nạn khỏi một cách khó hiểu, nên chẳng ai thi hành những biện pháp quyết liệt được. Cho đến nay. Thế nhưng, câu hỏi thú vị hơn cả là: Tại sao ông lại chịu làm vậy? Ông đánh mắt sang Harry. Gã nghiện rượu. Gã hay sinh sự. Gã đầu bò đầu bướu ngạo mạn, không ai chịu nổi. Nhưng lại là nhân viên điều tra giỏi nhất của ông, ngoài Waaler ra.
“Cậu đừng có mà nhúng mũi vào chuyện gì đấy, Harry. Nếu không tôi sẽ đẩy cậu sau một cái bàn rồi khóa trái cửa lại. Hiểu chứ?”
“Nghe thấy rất to và rõ ràng, thưa sếp.”
Møller thở dài. “Ngày mai tôi họp với Giám đốc Sở Cảnh sát và Ivarsson. Phải đợi xem sao đã. Tôi sẽ không hứa trước bất cứ điều gì đâu, rõ chứ?”
“Nhất trí, nhất trí, thưa sếp. Cho tôi gửi lời hỏi thăm bà xã của sếp nhé.” Trên đường ra, Harry ngoái cổ lại. “Rau mùi ở giá dưới cùng, đầu dãy bên trái đằng kia kìa.”
Bjarne Møller đứng nhìn trân trân vào giỏ mua hàng. Ông nhớ ra lý do rồi.
Chính là ông mến cái tên khốn nghiện ngập, bất kham, bướng bỉnh này.
Kẻ Báo Thù Kẻ Báo Thù - Jo Nesbo Kẻ Báo Thù