Số lần đọc/download: 1587 / 50
Cập nhật: 2017-06-11 10:58:24 +0700
Chương 6 - Anh Chàng Cóc
D
ó là một buổi sáng rực rỡ đầu mùa hè; dòng sông đã lại tiếp tục chảy giữa đôi bờ xưa với tốc độ quen thuộc của mình, và mặt trời nóng bỏng dường như đang nhổ bật khỏi mặt đất mọi thứ màu xang lục, rậm rạp và sắc nhọn mà kéo về phía mình, như thể bằng những sợi dây. Chuột Chũi và Chuột Nước đã ngủ dậy từ sáng sớm và đang bận rộn với những công việc liên quan đến thuyền bè và buổi khai mạc mùa bơi thuyền; nào sơn, đánh bóng và sửa các mái chèo, nào nắn lại những tấm đệm và lùng tìm những chiếc sào móc bị thất lạc, vân vân. Lúc hai đứa sắp sửa ăn xong bữa điểm tâm trong gian phòng khách nhỏ bé và đang hăm hở bàn bạc các kế hoạch cho ngày hôm đó thì có tiếng gõ cửa rất mạnh.
“Phiền quá đi mất!” Chuột Nước nói, vẻ khó chịu. “Cậu ra xem là ai, Chuột Chũi, có thể là một thằng cha tốt đấy, cậu ăn xong rồi mà!”
Chuột Chũi ra cửa xem có ai gọi và Chuột Nước nghe tiếng nó la to đầy kinh ngạc. Sau đó cu cậu mở toang cửa phòng khách ra và thông báo rất trịnh trọng: “Bác Lửng”
Điều này quả thật kỳ lạ, bác Lửng mà lại phải đích thân đến thăm hai đứa chúng nó hoặc bất kỳ ai khác thì lạ thật. Nói chung, nếu bạn rất cần đến bác ấy thì phải chộp được bác đang trong lúc bác lẳng lặng lủi dọc một hàng rào cây vào lúc sáng sớm hoặc đêm khuya, hay sục tìm ngay tại nhà bác ấy ở giữa rừng, mà việc này thì rất rủi ro.
Bác Lửng sải bước nặng nề vào trong phòng và đứng nhìn hai con vật với một vẻ mặt rất trầm trọng. Chuột Nước để rơi cái thìa của mình lên mặt khăn trải bàn và ngồi há hốc mồm ra.
“Thời khắc đã điểm rồi!” cuối cùng bác Lửng nói bằng một vẻ rất trang trọng.
“Thời khắc nào?” Chuột Nước vừa bứt rứt hỏi vừa liếc nhìn cái đồng hồ trên bệ lò sưởi.
“Lẽ ra cậu phải hỏi thời khắc của ai thì mới đúng,” bác Lửng trả lời. “Tại sao ư, thời khắc của thằng Cóc! Thời khắc của thằng Cóc! Ta đã nói là ngay khi mùa đông qua đi là ta sẽ uốn nắn nó, và hôm nay ta sẽ uốn nắn nó!”
“Thời khắc của thằng Cóc, cố nhiên rồi!” Chuột Chũi vui sướng kêu lên. “Hoan hô! Bây giờ thì tớ nhớ rồi! Bọn mình sẽ rèn cho cu cậu trở thành một anh chàng Cóc biết điều!”
“Ngay buổi sáng hôm nay,” bác Lửng vừa nói tiếp vừa ngồi xuống một cái ghế bành “vì tối hôm qua, từ một nguồn tin đáng tin cậy, ta được biết là lại thêm một chiếc xe hơi mới đặc biệt khỏe sẽ tới Lâu đài Cóc để xem cu cậu có đồng ý mua hay trả lại. Có lẽ ngay lúc này thằng Cóc đang bận thắng bộ trang phục gớm ghiếc lạ đời mà nó rất quý, lối ăn vận này biến nó từ một anh chàng Cóc (tương đối) bảnh trai trở thành một kẻ lố lăng khiến bất kỳ con vật đứng đắn nào tình cờ gặp nó cũng phải cười rộ. Cánh ta phải hành động ngay trước khi quá muộn. Hai cậu sẽ lập tức cùng ta tới Lâu đài Cóc, và việc giải cứu ắt phải thành công.”
“Bác nói thật chí lý!” Chuột Nước vừa kêu lên vừa đứng phắt dậy. “Bọn mình sẽ giải cứu cho con vật bất hạnh tội nghiệp ấy! Bọn mình sẽ cải tạo cu cậu. Chỉ đến khi cu cậu trở thành chú Cóc cải tạo tốt nhất từ trước tới giờ thì bọn mình mới buông tha!”
Ba người lên đường đi thực hiện một sứ mệnh nhân đạo, bác Lửng đi trước dẫn đường. Khi đi cùng nhau, loài vật cũng đi đứng theo một cung cách hợp lý và biết điều chứ không chạy bừa phứa qua đường và vô tích sự hoặc chẳng trợ giúp gì nhau trong trường hợp có chuyện phiền toái hay nguy hiểm bất ngờ.
Họ tới con đường dành cho xe ngựa tại Lâu đài Cóc thì thấy, như bác Lửng đã dự đoán trước, một chiếc xe hơi mới bóng nhoáng, cỡ lớn, sơn màu đỏ chói (màu ưa thích của thằng Cóc) đậu trước nhà. Lúc họ đến gần cửa ra vào thì cánh cửa mở toang ra và anh chàng Cóc, mắt đeo kính bảo hộ, đầu đội mũ lưỡi trai, chân đi ghệt, mình choàng một chiếc áo khoác đại, vừa nghênh ngang bước xuống các bậc cửa vừa xỏ đôi găng tay bố tướng.
“Xin chào! Mau lên nào, các bạn!” nó sung sướng kêu lên khi nhìn thấy bọn họ. “Các vị đến đúng lúc để cùng với tớ làm một cuộc – một cuộc – ờ – một cuộc – thú vị – ”
Giọng nói hồ hởi của nó bỗng ấp úng và biến mất khi nó để ý thấy vẻ mặt nghiêm nghị và cứng rắn của các bạn mình đang đứng lặng thinh không nói năng gì, và lời mời của nó vẫn còn bỏ dở.
Bác Lửng sải bước lên những bậc cửa. “Đưa cu cậu vào trong nhà,” bác nói với các bạn mình. Sau đó, trong lúc thằng Cóc bị đẩy qua cửa, đang giãy giụa và phản kháng, bác quay ra nói với anh tài xế được giao trông nom chiếc xe hơi mới đó.
“Tôi e rằng hôm nay người ta sẽ không cần đến anh,” bác nói. “Ông Cóc đã đổi ý rồi. Ông ấy không muốn dùng cái xe ấy nữa. Xin hiểu rằng ý kiến này là dứt khoát. Anh không cần phải chờ đợi.” Rồi bác theo các bạn vào trong nhà và đóng cửa lại.
“Mà này!” bác nói với thằng Cóc, khi cả bốn người cùng đứng trong phòng lớn, “trước hết, cậu hãy cởi bỏ tất cả những thứ lố lăng kia đi!”
“Không!” thằng Cóc trả lời, đầy khí phách. “Cái sự xúc phạm thô bạo này nghĩa là thế nào? Tôi đòi được giải thích ngay lập tức.”
“Vậy thì hai cậu hãy cởi bỏ những thứ đó ra cho nó,” bác Lửng ra lệnh ngắn gọn.
Họ phải đè thằng Cóc ra sàn nhà, cu cậu còn quẫy đạp và lăng mạ đủ điều trước khi họ có thể bắt tay vào việc thật sự. Rồi Chuột Nước ngồi đè lên cu cậu còn Chuột Chũi thì cởi bộ quần áo lái xe của cu cậu ra, từng món một, và hai đứa lại dựng cu cậu lên. Phần lớn khí thế hung hăng của cu cậu dường như đã bốc hơi cùng với việc cởi bỏ bộ cánh bảnh bao. Vì chỉ là thằng Cóc, không còn là Nỗi Hãi hùng Xa lộ nữa, cu cậu rúc rích cười yếu ớt và đảo mắt hết nhìn đứa này lại nhìn đứa kia bằng một vẻ cầu khẩn, dường như đã hiểu rõ tình thế.
“Cậu đã biết sớm muộn rồi sự thể cũng phải thế này, Cóc à,” bác Lửng nghiêm giọng giải thích. “Cậu đã chẳng đếm xỉa gì đến tất cả những lời cảnh báo của bọn ta, cậu vẫn cứ tiếp tục phung phí tiền bạc mà cha cậu để lại cho cậu, và cậu đang khiến cho các loài vật chúng ta mang tiếng xấu trong vùng này bằng việc phóng xe như điên, bằng những vụ va quệt và những vụ cãi lộn với cảnh sát. Sống độc lập thì rất tốt đấy, nhưng loài vật bọn mình không bao giờ cho phép bạn bè tự biến thành trò hề, vượt quá một giới hạn nhất định; mà cậu thì đã đạt tới giới hạn đó. Mà này, cậu là một anh chàng có nhiều mặt tốt, và ta không cần phải quá nghiêm khắc với cậu làm gì. Ta sẽ cố gắng thêm một lần để đưa cậu trở về với lẽ phải. Cậu sẽ cùng với ta vào phòng hút thuốc, và tại đó cậu sẽ nghe một vài sự việc có thật về bản thân cậu; và bọn ta sẽ xem liệu khi ra khỏi phòng đó cậu có vẫn là cái thằng Cóc lúc đi vào hay không.”
Bác Lửng nắm chặt lấy cánh tay thằng Cóc, dẫn cu cậu vào phòng hút thuốc và đóng cửa lại.
“Chẳng ăn thua gì đâu!” Chuột Nước nói, giọng khinh bỉ. “Có quở trách thằng Cóc cũng chẳng sửa được tính nết nó đâu. Nó sẽ cãi chài cãi cối.”
Hai đứa cảm thấy khoan khoái trong những chiếc ghế bành và kiên nhẫn chờ đợi. Qua lần cửa khóa, chúng chỉ nghe được giọng bác Lửng đều đều liên tục một hồi lâu, lúc bổng lúc trầm trong những đợt hùng biện; và lát sau chúng để ý thấy bài thuyết giáo ấy chốc chốc lại bị ngắt quãng bởi những tiếng nức nở kéo dài, hiển nhiên là xuất phát từ lồng ngực thằng Cóc. Cu cậu vốn là một anh chàng đa cảm và có tình, rất dễ cảm hóa – vòa lúc này – theo bất kỳ quan điểm nào.
Sau khoảng ba phần tư giờ đồng hồ, cánh cửa mở ra và bác Lửng lại xuất hiện, trịnh trọng dắt tay một thằng Cóc vừa ẽo ợt vừa ủ dột. Khắp người cu cậu da dẻ nhẽo nhèo, hai chân loạng choạng và đôi má ròng ròng những giọt nước mắt mà bài diễn thuyết cảm động của bác Lửng vừa khơi ra.
“Ngồi xuống chỗ kia, Cóc à,” bác Lửng vừa ân cần nói vừa trỏ một chiếc ghế. “Các cậu thân mến,” bác nói tiếp, “ta vui mừng thông báo với các bạn là cậu Cóc cuối cùng đã nhận ra sai sót trong lối sống của mình. Cậu ấy thực sự lấy làm tiếc về cách cư xử lầm lạc của mình trong quá khứ, và cậu ấy đã cam đoan hoàn toàn và vĩnh viễn từ bỏ xe hơi. Ta đã nhận được lời hứa long trọng của cậu ấy với nội dung như thế.”
“Thật là một tin lành,” Chuột Chũi nghiêm trang nói.
“Quả là một tin lành,” Chuột Nước hoài nghi bình phẩm, “giá mà, giá mà…”
Khi nói câu này, nó nhìn thằng Cóc bằng một vẻ thật nghiêm khắc và không khỏi nghĩ rằng mình đã nhận được một cái gì đó tựa hồ một ánh long lanh trong đôi mắt vẫn còn sầu não của con vật đó.
“Chỉ còn phải làm có mỗi một việc,” bác Lửng hài lòng nói tiếp. “Cóc à, ta muốn cậu long trọng nhắc lại, trước các bạn cậu ở đây, tất cả những gì cậu vừa mới đây đã hoàn toàn thừa nhận với ta trong phòng hút thuốc. Thứ nhất, cậu lấy làm tiếc về những gì cậu đã làm và cậu nhận thấy hết sự ngu xuẩn của những hành động đó, phải không nào?”
Tiếp theo là một khoảng lặng dài. Thằng Cóc ngó nghiêng thảm hại, trong khi đó những con vật khác nghiêm trang chờ đợi trong yên lặng. Cuối cùng, cu cậu nói:
“Không!” nó nói, giọng hơi rầu rĩ nhưng quyết liệt, “Tớ không lấy làm tiếc. Và chẳng có gì là ngu xuẩn hết. Những hành động đó quả là vẻ vang!”
“Cái gì?” bác Lửng kêu lên, cảm thấy bị xúc phạm nặng nề. “Cậu là đồ tráo trở, cậu chẳng vừa mới nói với ta, ở trong kia – “
“Ờ, phải, phải, ở trong kia,” thằng Cóc sốt ruột nói. “Cháu đã nói đủ thứ ở trong kia. Bác hùng biện hay quá, bác Lửng thân mến à, lại quá ư lâm ly và thuyết phục nữa; và cái cách bác đặt vấn đề thật vô cùng khéo léo – bác có thể làm bất kỳ điều gì bác muốn với cháu ở trong kia, và bác biết điều đó. Nhưng từ lúc đó cháu đã tự vấn mình và ôn lại tất cả mọi việc, và cháu thấy mình thực sự chẳng lấy làm tiếc hoặc ân hận gì hết, vì vậy có bảo cháu là như thế thì cũng hoàn toàn vô ích, phải không nào?”
“Vậy là cậu không hứa,” bác Lửng nói, “là sẽ không bao giờ mó đến một chiếc xe hơi nữa?”
“Chắc chắn là không!” thằng Cóc nói, giọng dứt khoát. “Mà trái lại, chúa hứa một cách trung thành rằng nhìn thấy cái xe hơi đầu tiên là cháu sẽ nhảy lên và píp píp phòng đi!”
“Tớ đã bảo cậu rồi, phải không?” Chuột Nước nói với Chuột Chũi.
“Thôi được,” bác Lửng nói, giọng kiên quyết và đứng dậy. “Vì cậu không chịu nghe theo lời thuyết phục, bọn ta sẽ thử xem vũ lực có ăn thua gì không. Ta e rằng suốt từ giờ trở đi sẽ phải dùng đến nó. Cậu vẫn thường mời ba người bọn ta đến ở với cậu – thằng Cóc – trong tòa nhà đẹp đẽ này của cậu; được, bây giờ thì bọn ta sắp sửa đến. Khi nào đã cải hóa được cậu theo một quan điểm thích đáng thì bọn ta có thể rời đi, chứ không phải là trước lúc đó. Hai cậu, đưa nó lên gác mà nhốt trong phòng ngủ của nó và khóa cửa lại, trong lúc chúng ta cùng nhau thu xếp mọi việc.”
“Chẳng qua cũng vì lợi ích của cậu, Cóc à, cậu cũng biết đấy,” Chuột Nước ân cần nói, trong lúc thằng Cóc quẫy đạp và giãy giụa được hai người bạn trung thành của mình kéo lên cầu thang. “Cứ nghĩ mà xem, tất cả bọn mình sẽ cùng tha hồ vui chơi, như hồi xưa ấy, khi mà cậu vượt qua được cái – cái căn bệnh khổ tâm này!”
‘Chúng tớ sẽ trông nom mọi việc cho cậu thật chu đáo cho tới khi cậu khỏe hẳn, Cóc à,” Chuột Chũi nói, “và chúng tớ sẽ không để tiền của cậu bị phung phí như từ trước đến nay nữa.”
“Sẽ không còn những vụ rắc rối đáng tiếc xảy ra với cảnh sát nữa, Cóc à,” Chuột Nước nói trong lúc hai đứa đẩy cu cậu vào phòng ngủ.
“Cậu sẽ không còn phải nằm bệnh viện hàng tuần lễ và bị các nữ y tá sai làm hết việc này đến việc nọ nữa,” Chuột Nước vừa nói thêm vừa xoay chìa khóa nhốt cu cậu lại.
Hai đứa xuống cầu thang, còn thằng Cóc thì gào thét nguyền rủa chúng qua lỗ khóa; và sau đó ba người bạn họp nhau lại bàn bạc tình hình.
“Việc này rồi sẽ chán ngắt,” bác Lửng vừa nói vừa thở dài. “Chưa bao giờ ta thấy thằng Cóc kiên quyết đến thế. Tuy nhiên, bọn mình sẽ liệu cách giải quyết được. Không bao giờ được rời mắt khỏi cu cậu dù chỉ trong chốc lát. Bọn mình sẽ phải phân công nhau lần lượt có mặt cùng với cu cậu cho tới khi cách suy nghĩ độc hại ấy thoát ra hết khỏi phủ tạng cu cậu.”
Theo đó, họ sắp xếp các phiên gác. Từng con vật luân phiên nhau ngủ đêm trong phòng thằng Cóc, và họ phân chia nhau phần thời gian ban ngày. Thoạt đầu, hiển nhiên là những người canh gác thân trọng của thằng Cóc thấy thật khó chịu về nó. Khi bị những cơn rồ dại ám ảnh, nó thường xếp mấy cái ghế trong phòng ngủ thành hình na ná giống một chiếc xe hơi và thường ngồi thu lu trên chiếc ghế đầu, khom mình lại và nhìn chằm chằm về phía trước mà phát ra những âm thanh thô bỉ và ghê rợn cho tới khi đạt tới đỉnh điểm, khi mà, sau một cú nhảy lộn tùng phèo, cu cậu ngã sấp mặt giữa đống ghế đổ lỏng chỏng, hầu như hoàn toàn mãn nguyện trong khoảnh khắc ấy. Tuy nhiên, cùng với thời gian, những trường hợp khổ tâm như vậy trở nên ngày một bớt thường xuyên hơn và các bạn nó nỗ lực chuyển hướng quan tâm của nó sang những kênh mới. Nhưng những thích thú của nó về các vấn đề khác dường như không hồi lại và nó trở nên uể oải chán chường.
Một buổi sáng đẹp trời, đến lượt trực nhật, Chuột Nước lên gác để đổi phiên cho bác Lửng và thấy bác đang bồn chồn muốn rời khỏi nơi ấy để mà tản bộ cho thư giãn bằng một chuyến ngao du dài quanh khu rừng và xuống những cái hang của mình. “Thằng Cóc còn đang ngủ,” bác bảo Chuột Nước, phía ngoài cửa. “Chẳng buộc được nó nói gì mấy, ngoại trừ câu ‘Ồ, cứ mặc kệ nó, nó chẳng cần gì hết, có lẽ lát nữa là nó sẽ khỏe ra hơn, căn bệnh ấy sớm muộn rồi sẽ qua, đừng quá lo lắng quá mức,’ và vân vân. Mà này, Chuột Nước, cậu hãy cẩn thận nhé! Khi thằng Cóc yên lặng, dễ bảo và chơi cái trò nhân vật chính nhận giải thưởng của một Trường Chủ nhật[1], chính là lúc nó xảo quyệt nhất đấy. Nhất định thế nào nó cũng giở trò. Ta biết nó mà. Thôi, bây giờ ta phải đi đây.”
“Hôm nay có được khỏe không, anh bạn thân mến?” Chuột Nước vui vẻ hỏi thăm khi nó tới bên giường thằng Cóc.
Phải đợi vài phút nó mới có tiếng đáp. Cuối cùng, một giọng nói yếu ớt trả lời, “Cảm ơn cậu rất nhiều, Chuột Nước thân mến à! Cậu hỏi thăm như thế thật là tốt bụng quá! Nhưng trước hết hãy cho tớ biết bản thân cậu có được khỏe không, và cả anh chàng Chuột Chũi tuyệt vời nữa?”
“Ồ, bọn mình đều khỏe cả,” Chuột Nước trả lời. “Chuột Chũi,” nó sơ suất nói thêm, “đang đi chơi lòng vòng cùng với bác Lửng. Đến bữa trưa thì họ mới về, vì vậy cậu và tớ sẽ vui chơi với nhau suốt buổi sáng, và tớ sẽ cố hết sức để cậu được vui. Đứng dậy đi nào, anh bạn tớ giỏi quá đi, đừng nằm đó mà rầu rĩ trong một buổi sáng đẹp trời như thế này!”
“Chuột Nước thân mến và hiền hậu ơi,” thằng Cóc thì thào, “cậu chẳng biết gì mấy về bệnh trạng của tớ, còn bây giờ tớ làm sao mà đứng dậy nổi – thật đấy! Nhưng cậu đừng bận tâm về tớ. Tớ rất không thích trở thành gánh nặng cho bạn bè, và tớ không mong muốn là một gánh nặng lâu dài nữa. Quả thật, tớ hy vọng sẽ không như thế.”
“Ồ, tớ cũng hy vọng sẽ không như thế,” Chuột Nước thật lòng nói. “Dạo này cậu lúc nào cũng là một nỗi phiền toái ra trò đối với bọn tớ, và tớ mừng khi được biết là nó sắp sửa kết thúc. Mà lại vào lúc thời tiết đẹp như thế này và mùa bơi thuyền vừa mới bắt đầu! Cậu thật là tồi, Cóc à! Đâu phải là bọn tớ bận tâm về sự phiền toái ấy, mà là cậu khiến bọn tớ lỡ mất cả những dịp quan trọng như vậy.”
“Tuy thế, tớ vẫn e rằng cậu bận tâm về nỗi phiền toái này,” thằng Cóc uể oải trả lời. “Tớ có thể hiểu rõ điều đó. Cũng là lẽ tự nhiên thôi mà. Cậu mệt mỏi vì bận tâm về tớ. Tớ không thể đề nghị cậu làm thêm bất kỳ việc gì nữa. Tớ là một nỗi phiền toái, tớ biết chứ.”
“Quả đúng là thế,” Chuột Nước nói. “Nhưng hãy nghe tớ nói, tớ sẵn lòng làm bất kỳ công việc khó nhọc nào trên đời vì cậu, giá như cậu là một con vật biết điều.”
“Chuột Nước ơi, thế thì nếu tớ nghĩ rằng,” thằng Cóc thều thào yếu ớt hơn bao giờ hết, “tớ sẽ cầu xin cậu – có thể là lần cuối – rảo bước thật nhanh vào làng – thậm chí bây giờ có thể đã quá muộn – và tìm bác sĩ. Nhưng cậu đừng bận tâm. Việc đó chỉ gây phiền toái, và có lẽ chúng mình cũng có thể cứ để cho mọi việc tiến triển một cách tự nhiên.”
“Sao, cậu cần bác sĩ để làm gì?” Chuột Nước vừa hỏi vừa tiến lại gần hơn và xem xét. Rõ ràng là thằng Cóc đang nằm bẹp không nhúc nhích, còn giọng nói của nó thì yếu hơn và thái độ của nó đã thay đổi nhiều.
“Chắc chắn là gần đây cậu đã để ý – “ thằng Cóc thều thào. “Nhưng không – việc gì cậu phải để ý? Để ý đến mọi sự chỉ thêm phiền toái. Chắc chắn ngày mai cậu có thể tự nhủ, ‘Ồ, giá mà mình để ý sớm hơn! Giá mà mình đã làm một điều gì đó!’ Nhưng mà, không; việc đó chỉ gây phiền toái. Đừng bận tâm – hãy quên cái việc tớ đã đề nghị đi”
“Hãy nghe tớ nói, anh bạn thân mến,” Chuột Nước nói, bắt đầu thấy khá hoảng hốt, “cố nhiên tớ sẽ tìm bác sĩ cho cậu, nếu cậu nghĩ rằng cậu thật sự cần. Nhưng cậu đâu có thể ốm yếu đến mức cần đến bác sĩ bây giờ. Chúng mình hãy nói chuyện gì khác nhé.”
“Anh bạn thân mến, tớ sợ,” thằng Cóc vừa nói vừa mỉm cười buồn rầu, “rằng ‘nói chuyện’ chẳng có tác dụng gì đối với một trường hợp như thế này – mà cả các bác sĩ cũng vậy, đối với căn bệnh này; nhưng mà còn nước thì ta còn phải tát. À, nhân thể – trong lúc cậu tiến hành việc đó – tớ rất không thích gây thêm phiền toái cho cậu, nhưng tớ bỗng nhớ ra là cậu sẽ đi ngang qua nhà ông luật sư – phiền cậu vui lòng mời giúp ông ấy nữa nhé? Như thế sẽ thuận tiện cho tớ, và có những khoảnh khắc – có lẽ tớ phải nói có một khoảnh khắc – khi người ta phải đối mặt với những nhiệm vụ khó chịu, bằng bất cứ giá nào, vào lúc sức cùng lực kiệt!”
“Một luật sư! Ồ, cu cậu hẳn phải thật sự nguy kịch lắm!” Chuột Nước thất kinh tự nhủ trong lúc hối hả rời khỏi phòng, tuy vẫn không quên khóa cửa lại cẩn thận.
Ra đến bên ngoài, nó dừng lại suy tính. Hai người bạn kia đang còn ở tận đẩu tận đâu, nó chẳng có ai để mà hỏi ý kiến.
“Tốt nhất là phải chắc chắn,” nó nói sau khi đã cân nhắc kỹ. “Mình biết trước kia thằng Cóc đã bỗng dưng tưởng tượng là nó ốm nặng; song mình chưa bao giờ nghe nó đề nghị cho gặp một luật sư cả! Nếu sự thể không có gì nghiêm trọng, bác sĩ sẽ bảo nó là đồ đại ngu xuẩn, và khích lệ nó; và như thế sẽ là một điều có ích. Mình cứ chiều ý nó mà đi thì tốt hơn; cũng chẳng mất nhiều thì giờ lắm.” Thế là nó vội vã chạy tới ngôi làng kia với một mục đích từ thiện.
Thằng Cóc đã nhẹ nhàng nhảy ra khỏi giường ngay lúc nó nghe tiếng chìa khóa vặn trong ổ khóa, hí hửng theo dõi từ trên cửa sổ cho tới khi bạn mình khuất dạng cuối con đường dành cho xe ngựa. Rồi, vừa cười vang hoan hỉ, nó vừa mặc thật nhanh bộ cánh bảnh nhất mà nó có thể tìm được
vào lúc ấy, nhét đầy các túi số tiền nó lấy trong chiếc ngăn kéo nhỏ của cái bàn trang điểm, và sau đó buộc thắt nút những tấm khăn trải giường với nhau và cột một đầu sợi dây tự tạo ấy vào chấn song giữa của cái cửa sổ được xây theo phong cách Tudor[2] tạo ra một nét riêng cho phòng ngủ của nó, rồi nó trèo ra ngoài và nhẹ nhàng tụt xuống đất. và, nhằm hướng ngược chiều với Chuột Nước, nó vừa vô tư đều đều tiến bước vừa huýt sáo một giai điệu tươi vui.
Bữa trưa hôm ấy đối với Chuột Nước thật là buồn chán khi mà rốt cuộc bác Lửng và Chuột Chũi cũng trở về, và nó phải đối mặt với chúng cùng câu chuyện tệ hại và không có sức thuyết phục của mình. Những lời nhận xét vừa chua cay lại vừa thô bạo của bác Lửng thì ta có thể hình dung được và chẳng phải bàn nhiều; nhưng thật đau xót cho Chuột Nước là ngay cả Chuột Chũi vẫn luôn hết sức ủng hộ nó, cũng không thể không nói, ‘Dạo này cậu là một kẻ hơi vô dụng đấy, Chuột Nước à! Thằng Cóc cũng vậy, vô dụng nhất trong các loài vật!”
“Nó diễn kịch khéo kinh khủng,” Chuột Nước tiu nghỉu nói.
“Nó lừa cậu khéo kinh khủng!” bác Lửng nóng nảy đốp lại. “Tuy nhiên, tranh cãi cũng chẳng cải thiện được tình hình. Lúc này nó đã đi khá xa rồi, chắc chắn là như thế; và khả năng tệ hại nhất là nó sẽ quá tự phụ về những gì mà nó cho là trí thông minh của mình đến nỗi có thể gây ra bất kỳ hành động ngu xuẩn nào. Có điều an ủi là lúc này bọn mình đang rỗi rãi và không cần phải uổng phí chút thời gian quý báu nào vào cái việc làm lính gác nữa. Nhưng bọn mình cũng nên ngủ lại Lâu đài Cóc thêm một lát. Có thể thằng Cóc sẽ được đưa trở về bất kỳ lúc nào – trên một cái cáng, hoặc giữa hai viên cảnh sát.”
Bác Lửng nói vậy vì bác cũng không biết rồi còn có sự kiện gì bất ngờ hay không, hoặc còn phải xảy ra bao nhiêu sự cố tệ hại nữa[3] rồi thằng Cóc mới lại được thanh thản ngồi trong tòa Lâu đài của tổ tiên nó để lại.
Cùng thời gian này, thằng Cóc hớn hở và vô trách nhiệm đang bước nhanh trên đường quốc lộ, cách nhà nó vài dặm. Thoạt đầu, nó men theo những đường mòn và băng qua nhiều thửa ruộng và thay đổi hướng đi vài lần để đề phòng trường hợp bị đuổi bắt; nhưng lúc này, cảm thấy đã an toàn và không thể bị bắt lại, và mặt trời mỉm cười rạng rỡ với nó, và tất cả Thiên nhiên đều đồng thanh với bài hát tự ca ngợi bản thân đến nỗi nó thấy trái tim mình ca vang, nó hầu như nhảy múa trên đường, lòng chứa chan mãn nguyện và tự hào.
“Màn kịch ấy hay thật!” nó vừa tự nhận xét vừa tủm tỉm cười. “Trí tuệ đối chọi với sức mạnh vũ phu – và trí tuệ ấy đã thắng – lẽ thường là phải thế. Tội nghiệp anh bạn Chuột Nước! Trời ơi! Cu cậu sẽ lãnh đủ khi bác Lửng trở về! Chuột Nước ơi, cậu là một người bạn đáng kính nể, với nhiều phẩm chất tốt, nhưng lại quá ít thông minh và hoàn toàn vô học. Một ngày nào đó mình sẽ phải rèn cho cu cậu xem có khôn ra được một chút không.”
Đầu nó đầy ắp những ý nghĩ cao ngạo như thế trong lúc nó sải bước trên đường, lòng lâng lâng, cho tới khi đến một thị trấn nhỏ, tại đó tấm biển “Sư tử đỏ” đu đưa ngang đường ở quãng giữa phố chính nhắc nhở nó rằng ngày hôm đó nó chưa ăn điểm tâm và nó đã đói quá chừng sau cuộc bộ
hành dài. Nó bước vào quán trọ đó và gọi một bữa ăn trưa ngon nhất mà người ta có thể chuẩn bị thật gấp theo yêu cầu của nó rồi ngồi ăn trong phòng uống cà-phê.
Nó còn đang dở bữa chưa xong thì một âm thanh quá ư quen thuộc mỗi lúc một đến gần và xuôi về cuối phố khiến nó giật mình và toàn thân run rẩy. Cái âm thanh píp-píp ấy cứ đến gần mãi và có thể nghe thấy tiếng chiếc xe hơi đó rẽ vào sân quán trọ rồi dừng lại, còn thằng Cóc phải bám chặt lấy chân bàn để giấu đi nỗi xúc động không thể nào kiềm chế được của mình. Lát sau, một tốp người bước vào phòng cà phê, vừa đói bụng vừa hớn hở và ba hoa liến thoáng về những điều họ nếm trải trong buổi sáng hôm đó và về công lao của chiếc xe đã chở họ đi thật là nhanh. Thằng Cóc háo hức lắng nghe thật chăm chú một lúc; cuối cùng nó không thể nào chịu ngồi yên được nữa. Nó lặng lẽ lẻn ra khỏi phòng, thanh toán hóa đơn tại quầy rượu, và vừa ra đến bên ngoài nó đã lặng lẽ tản bộ quanh sân quán trọ. “Cũng chẳng có gì tai hại,” nó tự nhủ, “nếu mình chỉ nhìn ngắm nó một chút!”
Chiếc xe đậu ở giữa sân, toàn bộ bọn trông nom chuồng ngựa và những kẻ theo đóm ăn tàn khác đều đang dùng bữa. Thằng Cóc chậm rãi bước vòng quanh chiếc xe, vừa xem xét vừa bình phẩm vừa suy nghĩ rất lung.
“Không biết,” lát sau nó tự nhủ, “không biết loại xe này có dễ khởi động không?”
Sau đó, chẳng biết loay hoay thế nào, nó đã thấy mình nắm lấy cái cần gạt mà xoay xoay. Khi cái âm thanh quen thuộc kia bật ra, nỗi đau xưa lại ập đến và hoàn toàn chế ngự thằng Cóc. Không biết làm sao, cứ như thể trong một giấc mơ, nó thấy mình ngồi vào ghế tài xế; cứ như thể trong một giấc mơ, nó kéo cái cần điều khiển và lái xe vòng trong sân rồi lao vút ra ngoài qua cổng tò vò; và, cứ như thể trong một giấc mơ, tất cả mọi ý thức về phải trái, tất cả nỗi sợ về những hậu quả hiển nhiên dường như tạm thời lắng xuống. Nó tăng tốc, và trong lúc chiếc xe hơi nuốt chửng đường phố và ào ào lao trên xa lộ qua vùng đồng không mông quạnh, nó chỉ biết rằng một lần nữa nó lại là anh chàng Cóc, Cóc – nỗi kinh hoàng xa lộ, bá chủ đường mòn mà tất cả các xe khác đều phải nhường đường nếu không muốn bị đập tan tành để văng vào cõi hư vô và đêm trường vĩnh cửu. Nó hát vang trong lúc lái xe như bay, và chiếc xe đáp lại bằng tiếng ù ù vang vang; những dặm dài bị nuốt chửng dưới gầm xe khi nó tăng tốc chạy bừa chẳng biết về đâu, chỉ để thỏa mãn bản năng của mình, sống những phút giây của mình, chẳng cần biết điều gì có thể xảy đến với nó.
* * *
“Theo tôi nghĩ,” Chủ tịch Hội đồng Thẩm phán vui vẻ nhận xét, “khó khăn duy nhất này sinh trong cái vụ lẽ ra đã rất rõ ràng này là ở chỗ chúng ta có thể bằng cách nào tỏ ra đủ nghiêm khắc đối với gã bất lương không thể sửa chữa này, tên vô lại lì lợm này – kẻ mà chúng ta thấy đang co rúm lại trong vành móng ngựa trước mặt chúng ta đây. Để tôi xem nào: gã đã bị tuyên là phạm tội với bằng chứng rành rành, thứ nhất, về việc ăn trộm một chiếc xe hơi có giá trị; thứ hai, về việc lái xe gây nguy hiểm cho công chúng; và thứ ba, về thái độ láo xược với cảnh sát nông thôn. Ông Lục sự, xin ông cho chúng tôi biết mức hình phạt nghiêm khắc nhất mà chúng ta có thể áp dụng đối với từng tội một trong số đó là thế nào? Cố nhiên là không thể chấp nhận tù nhân đó vô tội vì thiếu bằng chứng rõ ràng, bởi chúng ta có đủ bằng chứng.”
Viên Lục sự gãi gãi cái mũi bằng cây bút của mình. “Vài người có thể sẽ coi,” ông nhận xét, “việc trộm chiếc xe hơi là tội nghiêm trọng nhất, và quả đúng là thế. Nhưng láo xược với cảnh sát hiển nhiên là phải chịu hình phạt nghiêm khắc nhất; mà phải như thế. Giả sử các ông sắp sửa tuyên mười hai tháng về tội ăn trộm, như thế là nhẹ, ba năm về tội lái xe bạt mạng, như thế là khoan dung, và mười lăm năm tù về hành vi hỗn xược, theo những gì chúng ta đã nghe được từ hàng ghế nhân chứng thì sự hỗn xược này khá là tồi tệ, nếu như các ông thậm chí chỉ tin một phần mười những điều đã nghe, còn tôi chẳng bao giờ tin nhiều hơn – những con số đó nếu cộng lại thật chính xác sẽ là mười chín năm…”
“Rất giỏi!” ông Chủ tịch nói.
“Vậy tốt hơn là các ông cứ tuyên tròn hai mươi năm cho chắc ăn,” ông Lục sự kết luận.
“Gợi ý thật tuyệt vời!” ông Chủ tịch nói, vẻ tán thưởng.
“Thằng tù kia! Hãy bình tĩnh và cố đứng thẳng người lên. Lần này mày sẽ lĩnh án hai mươi năm tù. Mà hãy nhớ, nếu mày còn xuất hiện trước mặt chúng tao vì bị buộc bất kỳ tội gì, thì chúng tao sẽ xử trí mày rất nghiêm đấy!”
Sau đó bọn thuộc hạ của pháp luật xông vào thằng Cóc bất hạnh, xiềng xích chân tay nó và lôi nó ra khỏi Tòa án, cu cậu vừa la hét vừa van nài vừa phản kháng; giải nó qua khu chợ, tại đó đám dân thường – bao giờ cũng nghiêm khắc với tội phạm đã bị bắt đồng thời cũng cảm thông và đỡ
đần khi một người nào đó chỉ bị truy nã – đã tấn công nó bằng những tiếng cười nhạo báng, những củ cà rốt và những câu vè dân giã; rồi qua đám học sinh đang la ó, mặt chúng rạng rỡ lên mỗi khi được khoái chí nhìn một người cao sang lâm cảnh khốn cùng; lại qua cây cầu kéo phát ra một âm thanh trầm trầm vô cảm phía dưới tấm khung lưới sắt lởm chởm sắc nhọn, qua cái cổng tò vò đang cau mày của tòa lâu đài cổ ảm đạm với những cái tháp cổ kính vút lên trời; qua những phòng danh cho lính gác đầy những lính tráng hết phiên đang toe toét cười, qua những người lính gác – bọn này ho hắng châm chọc dễ sợ, bởi trong lúc đứng gác, một người lính chỉ dám thể hiện sự khinh bỉ và ghê tởm tội ác đến mức ấy; lên những cầu thang ngoằn ngoèo đã cũ mòn vì thời gian, ngang qua những kị binh vận giáp trụ bằng thép đang quắc mắt nhìn giận dữ qua tấm che mặt của họ; qua những cái sân, tại đó những con chó giữ nhà to lớn ráng sức kéo căng dây buộc để nhảy chồm vào nó; qua những người giám ngục đã dựng giáo mác vào tường và đang vừa lơ mơ ngủ vừa ăn bánh nướng nhân thịt bên một bình rượu bia nâu; cứ tiếp tục đi mãi, qua phòng cực hình trói đánh và phòng cực hình kẹp ngón tay, qua chỗ ngoặt dẫn tới đoạn đầu đài bí mật, cho tới khi chúng đến cửa ngục tối nghiêm ngặt nhất nằm chính giữa tòa tháp trong cùng. Rốt cuộc, chúng dừng lại ở đó, nơi một lão cai ngục đang mân mê một chìm chìa khóa to tướng.
“Này lão cai ngục!” viên trung sĩ cảnh sát vừa nói vừa bỏ cái mũ sắt ra và lau trán. “Hãy tỉnh táo lên, lão khùng, để còn tiếp quản giúp chúng tôi cái thằng Cóc đốn mạt này, một kẻ phạm tội cực kỳ nghiêm trọng, ranh ma xảo quyệt vô cùng. Lão phải canh gác và cảnh giác với hắn bằng tất cả kỹ năng của mình đấy. Mà xin lưu ý, lão râu bạc, nếu xảy ra bất kỳ chuyện gì thì lão phải chịu trách nhiệm bằng cái mạng già của mình – nếu không cả hai sẽ toi đời đấy!”
Lão cai ngục vừa nghiêm nghị gật đầu vừa đặt bàn tay khô héo của mình lên vai thằng Cóc bất hạnh. Chiếc chìa khóa han gỉ kêu cót két trong ổ khóa, cánh cửa lớn lại loảng xoảng sau lưng bọn họ; và thằng Cóc trở thành một tù nhân bất lực trong ngục tối biệt lập nhất của tòa tháp được can gác cẩn mật nhất trong cái lâu đài vững chãi nhất trên toàn cõi Anh quốc vui vẻ trẻ trung.
1. Trường Chủ nhật: trường dạy về tôn giáo cho trẻ em vào các ngày Chủ nhật ở nước Anh. Câu này hàm ý thằng Cóc tỏ ra rất ngoan – ND
2. Tudor: kiểu kiến trúc cổ ở Anh, giữa 1485 và 1603 – ND
3. Trong nguyên tác: còn phải bao nhiêu nước và nước đục cỡ nào chảy qua cầu. (How much water, and of how turbib a character, was to run under the bridges).