Reading - the best state yet to keep absolute loneliness at bay.

William Styron

 
 
 
 
 
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: The Cuckoo's Calling
Dịch giả: Hồ Thị Như Mai
Biên tập: new wind
Upload bìa: new wind
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3213 / 103
Cập nhật: 2015-11-04 19:05:47 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7: Phần Năm
elix qui potuit rerum cognoscere causas
Người đời ai dễ gặp may
Ngọn ngành nguyên cớ tỏ hay tận tường.
- Virgil, Georgics, Quyển 2
1
“Tôi cứ nghĩ”, Eric Wardle chậm rãi nói, nhìn xuống tờ di chúc đựng trong bao ni lông, “hẳn anh muốn đưa cái này cho thân chủ xem trước”.
“Thì vậy, nhưng ổng đang ở Rye”, Strike nói, “mà vụ này thì rất khẩn. Tôi đã nói rồi, tôi đang cố ngăn ngừa hai vụ án mạng nữa. Hiện giờ chúng ta đang đối mặt với một kẻ điên loạn, Wardle à”.
Mồ hôi hắn rịn ra vì đau đớn. Hắn ngồi bên cạnh cửa sổ nắng rọi của quán Feathers vừa khẩn thiết kêu gọi tay cảnh sát vào cuộc vừa lo lắng không biết đầu gối có bị trật khớp không và khúc xương chày ngắn ngủn còn lại liệu có bị nứt thêm không sau cú ngã cầu thang vừa rồi. Lúc còn ở trong xe hắn không muốn giở chân ra xem. Chiếc taxi chở hắn đến vẫn còn đang đứng đợi ngay bên mép đường. Đồng hồ tính tiền đang dần dần ngấu nghiến khoản ứng trước mà Bristow đã trả. Có thể hắn sẽ không được nhận thêm khoản nào nữa vì lệnh bắt hung thủ có thể được phát ra ngay hôm nay, nếu Wardle chịu đứng dậy ra tay.
“Đồng ý là cái này có thể cho thấy động cơ…”
“Có thể?” Strike lặp lại. “Có thể?” Mười triệu bảng mà chỉ có thể là động cơ hả? Nói nghe hay quá…”
“…nhưng tôi cần có chứng cứ rõ ràng tại toà, mà anh lại không mang tới”.
“Tôi vừa nói chứng cứ ở đâu rồi đó! Từ đầu đến giờ tôi đã sai chưa? Tôi đã nói là có tờ di chúc, rồi đây”, Strike giật mép cái túi nhựa, “Cái quỷ gì đây? Anh còn chờ gì nữa mà còn chưa xin lệnh soát?”
Wardle đưa tay lên vuốt ve gương mặt điển trai, như thể đang bị sâu răng, rồi cau mày nhìn tờ di chúc.
“Trời đất”, Strike nói, “bao nhiêu lần nữa đây? Tansy Bestigui lúc đó ở ngoài ban công, bà ta nghe tiếng Landry nói “Đã xong hết rồi…”
“Anh liều quá đó bồ tèo”, Wardle nói. “Luật sư bên bị sẽ chụp ngay vụ anh dám nói dối với nghi can. Một khi Bestigui biết anh bịa vụ tấm ảnh, lão ta sẽ phủ nhận tất cả”.
“Cứ để lão phủ nhận. Tansy sẽ nói thật. Bà ta muốn nói lắm rồi. Nhưng nếu anh gan sứa tới mức không chịu làm gì cả, Wardle à”, Strike nói, mồ hôi lạnh chảy dọc sống lưng còn khúc chân phải thì đau như thiêu như đốt, “và nếu thêm một người thân nữa của Landry bị giết chết, tôi sẽ đi thẳng tới chỗ bọn báo chí to mồm đó. Tôi sẽ nói rằng tôi đã cung cấp cho anh đủ mọi thông tin anh tìm được, rằng anh đã có mọi cơ hội để bắt tên giết người mà vẫn không chịu bắt. Lúc đó tôi sẽ bán độc quyền câu chuyện cho chúng, rồi bù vào tiền công điều tra, anh cứ nhắn lại với Carver như vậy.
“Đây”, hắn nói, đẩy một mẩu giấy vừa xé về phía Wardle, trên mẩu giấy có vài mật mã sáu số hắn vừa ghi ra. “Cứ thử mấy số này trước. Giờ thì lo đi xin lệnh soát nhà đi”.
Hắn đẩy tờ di chúc về phía Wardle, trượt xuống khỏi chiếc ghế cao. Mấy phút đi bộ từ quán rượu ra taxi dài dằng dặc. Hắn cứ tì người lên chân phải là vết thương nhức buốt.
~*~
Từ một giờ chiếu, cứ mười phút Robin lại gọi cho Strike, nhưng hắn vẫn không bốc máy. Cô gọi lại lần nữa khi hắn đang chật vật leo lên cầu thang, bám tay vào tay vịn, nặng nhọc nhấc người lên. Cô nghe tiếng chuông điện thoại vọng lên từ cầu thang, bỏ máy xuống và chạy ngay ra.
“Anh đây rồi! Tôi gọi cho anh mãi, có nhiều… Có chuyện gì vậy, anh không sao chứ?”
“Tôi ổn mà,” hắn nói dối.
“Không, anh đang… Chuyện gì vậy?”
Cô chạy xuống cầu thang đỡ hắn. Mặt hắn trắng bệch, mồ hôi rịn ra, Robin thấy như hắn sắp nôn.
“Anh uống nữa hả?”
“Không, uống iếc gì!” Hắn gắt. “Tôi vừa… xin lỗi cô, Robin. Tôi hơi đau. Cần phải ngồi xuống một lát”.
“Mà có chuyện gì? Để tôi…”
“Không sao. Không sao cả. Tôi tự đi được”.
Hắn chậm rãi nhấc người lên bậc thang rồi lê lết về phía chiếc ghế sofa cũ. Khi hắn ngồi phịch xuống, Robin nghe tiếng khung ghế kêu cái rắc. Cô nhủ thầm, Phải mua một cái mới, ngay sau đó lại nghĩ tiếp Nhưng mình sắp đi khỏi đây rồi.
“Có chuyện gì vậy?” cô hỏi.
“Tôi bị ngã cầu thang,” Strike đáp, thở hổn hển một lúc, vẫn còn chưa cởi áo khoác. “Như thằng đần.”
“Cầu thang nào? Có chuyện gì vậy?”
Mặc dù đang rất đau, nhìn vẻ mặt Robin nửa sợ hãi, nửa hồi hộp, hắn không nhịn được cười.
“Tôi không đánh đấm gì cả, Robin à. Tôi chỉ bị trượt chân ngã thôi”.
“Ồ, hiểu rồi. Anh trông hơi… hơi tái. Anh nghĩ có gì nghiêm trọng không? Để tôi gọi taxi… có khi anh phải đi bác sĩ?”
“Không cần đâu. Còn thuốc giảm đau hôm trước không?”
Cô mang ra cho hắn nước lọc và paracetamol. Strike uống thuốc, rồi duỗi chân ra, nhăn mặt. hắn hỏi Robin:
“Sáng giờ có chuyện gì không? Graham Hardacre có gởi tấm ảnh nào không?”
“Có”, Robin trả lời, vội chạy về phía màn hình máy tính. “Đây này”.
Cô kéo chuột ra, nhấp một cái. Bức ảnh Trung uý Jonah Agyeman phóng lớn trên màn hình.
Cả hai im lặng ngắm gương mặt của người thanh niên đẹp trai không thể chối cãi, mặc dù được di truyền hai cái tai to quá khổ từ người cha. Quân phục màu đỏ, đen và ánh vàng rất hợp với anh ta. Nụ cười hơi lệch một bên, xương gò má cao, cằm bạnh và nước da đen hơi ánh đỏ au như màu trà mới pha. Cũng như Lula, anh ta có một vẻ quyến rũ tự nhiên, một điều gì đó không gọi thành tên, nhưng khiến người ta không thể rời mắt.
“Anh ta giống Lula thật,” Robin thì thầm.
“Ừ, giống thật. Còn gì nữa không?”
Robin tập trung trở lại.
“Trời đất, còn nữa… John Bristow gọi cách đây nửa tiếng, nói là không cách gì liên lạc được với anh, còn Tony Landry gọi tổng cộng ba lần.”
“Tôi cũng đoán vậy. Ông ta nói gì?”
“Ổng rất là… lần thứ nhất ổng đòi nói chuyện với anh, rồi khi tôi nói là anh không có ở đây thì dập máy ngay, tôi còn không kịp đưa số di động. Lần thứ hai thì nói là anh phải gọi ngay cho ổng, nhưng dập máy trước khi tôi kịp nói anh vẫn chưa về. Nhưng lần thứ ba thì… ổng rất giận dữ. Chửi bới om sòm.”
“Ở đó mà chửi với bới,” Strike nói, nhăn nhó.
“Thực ra thì ổng không có chửi bới gì tôi, toàn là chửi anh thôi.”
“Ổng nói gì?”
“Tôi cũng chẳng hiểu ổng nói gì, ổng gọi John Bristow là ‘cái thằng đần’ rồi tự nhiên oang oang gì đó về chuyện Alison bỏ việc, hình như nghĩ là có anh nhúng vô, vì sau đó ổng dọa sẽ kiện anh tội phỉ báng, rồi lại tiếp tục chửi bới loạn cả lên.”
“Alison bỏ việc?”
“Đúng vậy.”
“Ổng có nói Alison đi đâu… mà không, đương nhiên là ổng không biết, làm sao mà biết được?” Dường như Strike đang tự nói với mình, thay vì đáp lời Robin.
Hắn nhìn xuống cổ tay. Chiếc đồng hồ rẻ tiền hình như đã va vào một chỗ nào đó khi hắn ngã cầu thang, kim dừng lại ở một giờ kém mười lăm.
“Mấy giờ rồi?”
“Năm giờ kém mười.”
“Trễ vậy sao?”
“Ừ. Anh cần gì nữa không? Tôi có thể ở lại thêm một lúc nữa.”
“Không, tôi muốn cô đi về.”
Giọng hắn nghe kỳ khôi đến nỗi thay vì đi lấy áo khoác và túi xách, Robin vẫn đứng lì tại chỗ.
“Anh nghĩ sẽ có chuyện gì hả?”
Strike vẫn loay hoay với chỗ gắn chân giả, ngay dưới đầu gối.
“Không có gì cả. Gần đây cô làm quá giờ nhiều rồi. Hẳn Matthew sẽ rất vui nếu hôm nay cô về sớm.”
Hắn không thể chỉnh lại chân giả mà không kéo ống quần lên.
“Thôi mà Robin, đi về đi,” hắn nói, ngước nhìn cô thư ký.
Robin chần chừ một lúc nữa rồi đi lấy áo khoác và túi xách.
“Cảm ơn cô,” hắn nói. “Hẹn mai gặp lại.”
Robin đã đi khỏi. Strike đợi nghe tiếng giày Robin gõ lên cầu thang sắt rồi mới kéo ống quần lên, nhưng hắn chẳng nghe gì cả. Cửa kính mở ra, Robin quay trở lại.
“Anh đang chờ một người nào đó,” Robin lên tiếng, nắm chặt mép cửa. “Phải vậy không?”
“Cũng có thể,” Strike trả lời, “nhưng không có gì đâu.”
Nhìn vẻ căng thẳng lo lắng trên gương mặt cô thư ký, hắn cố mỉm cười.
“Đừng lo gì cho tôi cả.” Sắc mặt Robin vẫn chưa giãn ra. Hắn nói tiếp. “Hồi còn tại ngũ tôi có chơi đấm bốc đó, cô biết không.”
Robin thoáng cười.
“Đúng rồi, anh có kể chuyện đó.”
“Thật sao?”
“Kể đi kể lại nữa là khác. Đêm đó… anh nhớ mà.”
“À, ra vậy. Nhưng mà tôi có chơi đấm bốc thật.”
“Thực ra anh chờ ai vậy?”
“Matthew sẽ không cảm ơn tôi đâu nếu tôi nói cho cô biết. Về nhà đi Robin. Tạm biệt cô, mai gặp lại nhé.”
Lần này, mặc dù vẫn còn miễn cưỡng, Robin ra về thật. Hắn đợi nghe tiếng cánh cửa mở ra phố Denmark đóng sầm lại rồi mới kéo ống quần lên, tháo chân giả ra và kiểm tra phần đầu gối bị sưng phồng, rồi cả mỏm chân cụt trầy trụa tấy đỏ. Không biết cái chân bị hành tội tới cỡ nào, nhưng tối nay hắn không còn thời gian để đi bác sĩ.
Hắn hơi tiếc. Giá mà lúc nãy hắn nghĩ ra chuyện nhờ Robin đi mua ít thức ăn trước khi cô về. Strike chật vật nhảy lò cò, bám vào bàn, nóc kệ đựng hồ sơ rồi tay vịn ghế sofa. Loay hoay một lúc hắn cũng pha được trà. Hắn ngồi xuống ghế của Robin, ăn hết nửa gói bánh qui và ngắm gương mặt của Jonah Agyeman. Mấy viên paracetamol dường như vẫn chưa ngấm gì cả.
Sau khi ăn sạch sẽ gói bánh, Strike mở điện thoại ra kiểm tra. Có rất nhiều cuộc gọi nhỡ từ Robin và hai cuộc từ John Bristow.
Trong số ba người mà Strike dự đoán sẽ mò tới văn phòng tối nay, hắn muốn Bristow là người đầu tiên xuất hiện. Nếu cảnh sát muốn bằng chứng rõ ràng thì một mình thân chủ của hắn cũng có thể cung cấp được (mặc dù có lẽ ông ta vẫn chưa nhận ra điều đó). Nếu Tony Landry hoặc Alison Creswell xuất hiện. Mình sẽ phải… Strike thoáng phì cười một mình, vì hắn vừa nghĩ trong đầu câu “vững chân mà tùy cơ ứng biến”. Chân với chả cẳng!
Nhưng đã sáu giờ, rồi sáu giờ rưỡi. Vẫn không có ai bấm chuông. Strike xoa kem vào mỏm chân cụt, rồi nghiến răng gắn chân giả vào, vẫn vô cùng nhức nhối. Hắn lê lết vào văn phòng bên trong, miệng rên hừ hừ vì đau, ngồi phịch xuống ghế. Strike bỏ cuộc, không chờ đợi gì nữa. Hắn tháo chân giả ra, úp mặt xuống bàn, không thiết làm gì hơn là chợp mắt một lúc.
2
Có tiếng bước chân trên cầu thang. Strike ngồi bật dậy, không biết vừa ngủ năm phút hay năm mươi phút. Rồi có tiếng đập rầm rầm vào cửa kính.
“Vào đi, cửa mở!” hắn ngồi tại chỗ hét lên, tranh thủ cúi xem ống quần đã thả xuống chưa. Chiếc chân giả vẫn chưa được gắn lại.
Strike thấy nhẹ cả người khi John Bristow bước vào, mắt liên tục hấp háy đằng sau cặp kính dày, trông rất kích động.
“Chào anh. Anh ngồi xuống đi.”
Nhưng Bristow bước về phía hắn, mặt đỏ rần rần, giận dữ hệt như lúc hắn từ chối không nhận điều tra vụ án. Thay vì ngồi xuống, ông ta đứng đó, với tay chụp lấy lưng ghế.
“Tôi đã nói với anh rồi,” ông ta nói, mặt thoắt đỏ thoắt tái, chỉ ngón tay xương xẩu vào mặt hắn. “Tôi đã nói rõ ràng là tôi không muốn anh gặp mẹ tôi mà không có mặt tôi.”
“Tôi biết là anh đã nói vậy nhưng…”
“Mẹ tôi giờ bấn loạn không thể tưởng. Tôi không biết anh đã nói gì với mẹ tôi, nhưng cả buổi chiều hôm nay tôi cứ phải nghe mẹ tôi khóc lóc rền rĩ trên điện thoại!”
“Tôi rất tiếc; vậy mà tôi thấy phu nhân không phiền gì khi tôi…”
“Mẹ tôi yếu lắm rồi!” Bristow hét lên, hàm răng thỏ lấp ló. “Ai cho anh đi đi gặp mẹ tôi mà không có tôi? Ai cho anh làm chuyện đó?”
“John à, như tôi đã nói hôm đám tang Rochelle, tôi nghĩ chúng ta đang phải đối mặt với một tên giết người hàng loạt,” Strike đáp. “Tình hình vô cùng nguy hiểm, tôi muốn chuyện này phải chấm dứt.”
“Anh muốn nó chấm dứt à? Thế anh nghĩ tôi muốn gì?” Bristow la hét, giọng ông ta khàn khàn, the thé. “Anh có biết là anh vừa làm gì không? Mẹ tôi thì bấn loạn, còn bạn gái tôi thì biến mất, Tony đang đổ hết cho anh đó! Anh đã làm gì với Alison? Cô ấy ở đâu rồi?”
“Tôi không biết. Anh thử gọi điện cho cổ chưa?”
“Alison không bốc máy. Chuyện quái gì thế này? Ngày hôm nay tôi chạy đến bở cả hơi tai mà công cốc cả, rồi tôi về lại văn phòng…”
“Chạy bở hơi tai mà công cốc?” Strike lặp lại, kín đáo nhấc đầu gối, đặt ngay lên chân giả.
Bristow ngồi vào ghế đối diện, thở hồng hộc, nheo mắt nhìn Strike đang ngồi trong ánh nắng chiều gay gắt rọi qua cửa sổ sau lưng tay thám tử.
“Có ai đó” ông ta giận dữ nói, “gọi cho thư ký của tôi ngay sáng nay, giả vờ là một khách hàng rất quan trọng của công ty ở Rye, đòi họp khẩn cấp. Tôi cất công đi đến đó, chỉ để nghe người ta nói rằng ông ấy đang ở nước ngoài, mà cũng chẳng có ai ở đó gọi tôi cả. Anh làm ơn,” ông ta nói thêm, đưa tay che mắt, “kéo cái rèm cửa xuống? Chói quá tôi chẳng thấy gì cả.”
Strike giật sợi dây, tấm rèm lạt xạt rơi xuống. Căn phòng mát hẳn, mờ tối, chỉ còn mấy vạt nắng qua khe rèm.
“Nghe lạ thật,” Strike nói. “Cứ như thể có người muốn dụ anh đi khỏi thành phố vậy.”
Bristow không đáp lại. Ông ta nhìn hắn chằm chằm, thở phập phồng.
“Đủ rồi,” Bristow đột ngột lên tiếng. “Tôi muốn chấm dứt cuộc điều tra ở đây. Anh cứ giữ hết phần tôi đã trả. Tôi phải lo cho mẹ tôi trước.”
Strike rút điện thoại ra khỏi túi quần, bấm vài nút rồi đặt lên đùi.
“Anh không muốn biết hôm nay tôi tìm thấy gì trong tủ quần áo của mẹ anh hả?”
“Anh tìm… anh dám lục lọi tủ của mẹ tôi?”
“Đúng vậy. Tôi muốn xem mấy cái túi xách tay được gởi cho Lula, ngay hôm cô ấy chết.”
Bristow bắt đầu lắp bắp:
“Anh… anh…”
“Mấy cái túi đó có lớp vải lót ở trong, có thể tháo rời được. Kỳ khôi thật, đúng không? Trong cái túi màu trắng, ngay dưới lớp vải lót là một tờ di chúc viết tay của Lula, viết trên giấy màu xanh lấy từ thư phòng nhà mẹ anh. Rochelle Onifade ký tên làm chứng. Tôi đã nộp cho cảnh sát rồi.”
Bristow há hốc miệng. Trong vòng vài giây dường như ông ta cứng họng, không nói được. Cuối cùng, ông ta thì thào:
“Nhưng… di chúc viết gì vậy?”
“Rằng cô ấy để lại mọi thứ, tất cả tài sản, cho anh trai, Trung úy Jonah Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia.”
“Jonah… ai kia?”
“Anh ra xem máy tính ở bên ngoài. Có hình trên đó.”
Bristow đứng dậy, đi như mộng du ra phòng ngoài. Strike thấy màn hình máy tính sáng lên khi Bristow kéo chuột. Gương mặt điển trai của Agyeman hiện lên, nhếch mép cười trong bộ quân phục tinh tươm.
“Ôi trời đất ơi,” Bristow thốt lên.
Ông ta quay lại chỗ Strike, ngồi xuống ghế, miệng vẫn còn há hốc.
“Tôi… tôi không thể tin nổi.”
“Đó cũng chính là người bị camera an ninh quay lại,” Strike nói, “khi đang bỏ chạy từ hiện trường trong đêm Lula chết. Khi đó anh ta đang nghỉ phép. Anh ta ở cùng bà mẹ góa bụa dưới Clerkenwell. Vì vậy mà hai mươi phút sau anh ta phải ba chân bốn cẳng chạy về phía phố Theobalds để về nhà.”
Bristow há hốc, nấc một tiếng.
“Vậy mà họ nói là tôi bị hoang tưởng,” ông ta gần như hét lên. “Nhưng tôi chẳng hề hoang tưởng chút nào!”
“Không, anh không hề hoang tưởng,” Strike nói. “Không hoang tưởng. Mà là điên loạn vô đối.”
m thanh của London vọng vào qua khung cửa sổ phủ rèm. Thành phố dường không lúc nào ngơi nghỉ, luôn có những tiếng ầm ầm, la lối, cả tiếng máy lẫn tiếng người. Trong phòng lúc này không có tiếng động nào trừ hơi thở gấp gáp của Bristow.
“Xin lỗi?” ông ta lên tiếng, lịch sự đến lố bịch. “Anh vừa nói gì đó?”
Strike mỉm cười.
“Tôi nói là anh điên loạn vô đối. Anh giết em gái mà không hề bị phát hiện, rồi lại đi nhờ tôi điều tra cái chết của cô ấy.”
“Anh đừng… đừng có đùa chuyện này.”
“Tôi nói rất nghiêm túc. Ngay từ ban đầu tôi đã thấy anh chính là người hưởng lợi nhiều nhất từ cái chết của Lula. Mười triệu bảng, sau khi mẹ anh cũng lên đường. Không hề nhỏ, đúng không? Nhất là khi anh chẳng có gì hơn là tiền lương hiện tại, mặc dù anh cứ ra rả về mớ thừa kế của ông già. Cổ phiếu của Albris dạo này rẻ hơn vé số, phải vậy không?”
Bristow tiếp tục há hốc thêm mấy giây nữa, rồi ngồi thẳng dậy, liếc về chiếc giường xếp trong góc phòng.
“Một người nghèo mạt rệp, phải ăn nhờ ở đậu ở ngay chỗ làm mà dám nói vậy, tôi thấy thật nực cười.” Giọng của Bristow bình thản, nhạo báng nhưng hơi thở lại gấp gáp lạ thường.
“Tôi biết anh có nhiều tiền hơn tôi,” Strike đáp. “Nhưng, như anh đã nhận xét hoàn toàn đúng, thực ra ai mà chẳng có nhiều tiền hơn tôi. Thế mà, tôi có thể tự nói rằng tôi chưa bao giờ thụt két thân chủ nào cả. Anh chôm của Conway Oates được bao nhiêu thì Tony mới phát hiện ra?”
“Ồ, bây giờ tôi còn thêm tội tham ô nữa à?” Bristow đáp trả, bật ra một tiếng cười giả tạo.
“Đúng thế,” Strike nói. “Nhưng chuyện đó chẳng liên quan gì tới tôi. Tôi không quan tâm chuyện anh giết Lula vì anh muốn có tiền bù vào chỗ đã ăn cắp của Conway Oates, hay vì anh muốn có mấy triệu bảng của cô ấy, hay vì anh căm ghét Lula. Nhưng chắc bồi thẩm đoàn sẽ muốn biết. Mấy người đó lúc nào cũng quan tâm tới động cơ phạm tôi.”
Hai đầu gối Bristow lại giật lia lịa.
“Anh mất trí rồi,” ông ta nói, cố cười thành tiếng. “Anh tìm ra được một tờ di chúc, theo đó Lula không để lại gì cho tôi, mà cho cái người kia.” Ông ta chỉ tay về phía phòng ngoài, nơi có hình ở Jonah. “Anh vừa nói đó là người đi về phía căn hộ của Lula đúng cái đêm con bé ngã khỏi ban công, rồi mười phút sau bỏ chạy, hình ảnh bị ghi lại hết trên đoặn băng. Vậy mà anh dám buộc tội tôi. Thật lố bịch.”
“John, ngay từ trước khi tìm đến thuê tôi điều tra, anh đã biết người trong đoạn băng là Jonah. Rochelle đã nói với anh. Cô ta có mặt ở Vashti lúc Lula gọi cho Jonah, hẹn gặp ngay đêm đó. Rồi sau đó chính cô ta làm chứng tờ di chúc. Rochelle đã tìm gặp anh, kể lại mọi thứ để tống tiền. Cô ta muốn có tiền để mua nhà và mấy thứ quần áo đắt đỏ. Đổi lại cô ta sẽ ngậm miệng về chuyện thực ra anh không phải là người thừa kế của Lula.
“Rochelle không hề biết anh giết Lula. Cô ta tưởng chính Jonah đẩy Lula qua cửa sổ. Cô ta rất hận vì phải làm chứng một tờ di chúc không hề có phần mình, rồi sau đó bị Lula bỏ rơi ngay trong cửa hàng. Vậy nên miễn có tiền thì cô ta cũng chẳng thèm quan tâm chuyện thủ phạm vẫn còn nhơn nhơn đâu đó.
“Toàn là bịa đặt. Anh điên rồi.”
“Anh đã tìm mọi cách gây khó để tôi không tìm ra Rochelle,” Strike tiếp tục nói, như thể không nghe thấy Bristow vừa nói gì. “Anh giả vờ là không biết tên cô ta, không biết cô ta sống ở đâu. Anh làm ra vẻ hoài nghi khi tôi nói rằng Rochelle có thể giúp được quá trình điều tra. Chưa hết, anh còn xóa sạch hình trên máy tính của Lula, để tôi không biết Rochelle trông như thế nào. Đành rằng, Rochelle có thể chỉ ngay đến người mà anh muốn gán tội, nhưng mặt khác, cô ta cũng biết có một tờ di chúc không hề có tên anh. Mục tiêu hàng đầu của anh là giữ im lặng về tờ di chúc đó, cho đến khi anh tìm ra và thủ tiêu nó hoàn toàn. Thật là trớ trêu, vì trong suốt thời gian đó, tờ di chúc vẫn nằm trong tủ áo ở nhà mẹ anh.
“Nhưng ngay cả khi anh đốt tờ di chúc thì sao? Anh vẫn không biết liệu Jonah có hay chính anh ta mới là người thừa kế của Lula. Rồi có thêm một nhân chứng từng thấy tờ di chúc mà anh vẫn chưa biết: Bryony Radford, chuyên viên trang điểm của Lula.”
Bristow liếm môi. Strike thấy tay luật sư bắt đầu sợ hãi.
“Bryony không muốn thừa nhận chuyện cô ta lục lọi đồ đạc của Lula. Nhưng cô ta đã nhìn thấy tờ di chúc ở nhà Lula, trước khi Lula kịp giấu đi. Phải tội Bryony bị chứng loạn chữ, nên đọc “Jonah” thành “John”. Cô ta khớp ngay chuyện đó với chuyện Ciara nói Lula sẽ để lại hết cho anh trai, rồi tự thấy khỏi cần khai đã đọc trộm được gì vì đằng nào anh cũng được thừa kế. Anh đúng là được quỷ thần phù hộ, John à.
“Nhưng tôi vẫn hiểu được, với một người bệnh hoạn như anh, giải pháp tốt nhất vẫn là gán tội cho Jonah. Nếu anh ấy bị án chung thân thì chuyện di chúc có xuất hiện hay không cũng không thành vấn đề, lúc đó thì nếu Jonah hay bất kỳ ai khác biết đến tờ di chúc cũng không thay đổi được gì. Đằng nào tiền cũng nằm trong túi anh rồi.”
“Thật nực cười,” Bristow nói, hổn hển. “Anh nên từ bỏ nghề thám tử, chuyển qua viết tiểu thuyết đi Strike. Anh chẳng có lấy một chút bằng chứng nào cả…”
“Tôi có đấy.” Strike ngắt lời ông ta. Bristow im lặng ngay lập tức, gương mặt xanh xao của ông ta hiện ra trong bóng tối. “Đoạn băng hình.”
“Đoạn băng đó cho thấy Jonah Agyeman bỏ chạy từ hiện trường vụ án, như anh vừa công nhận đó thôi!”
“Trên đoạn băng có một người nữa.”
“Vậy anh ta có đồng phạm… một tên cảnh giới.”
“Tôi tự hỏi luật sư bào chữa sẽ viện cớ gì cho anh hả John?” Strike nhẹ nhàng hỏi. “Chứng ái kỷ? Một thứ rối loạn phức cảm, nghĩ mình là Thượng đế? Anh nghĩ không ai làm gì được anh, phải không, vì anh là thiên tài còn tất cả chỉ là khỉ đột? Người bỏ chạy thứ hai không phải là đồng phạm hay cảnh giới của Jonah, cũng không phải là tên trộm xe. Anh ta thậm chí còn không phải là người da đen nữa kia. Anh ta là người da trắng mang găng tay màu đen. Là anh.”
“Không,” Bristow đáp. Tiếng kêu cộc lốc bật ra, đầy hoảng loạn, nhưng sau đó, ông ta gắng nhếch mép cười mai mỉa. “Làm sao là tôi được? Lúc đó tôi ở Chelsea với mẹ tôi. Bà ấy nói với anh thế còn gì. Tony cũng gặp tôi ở đó. Lúc đó tôi ở Chelsea.”
“Mẹ anh là một bệnh nhân nghiện Valium, gần như suốt ngày hôm đó bà ấy ngủ li bì. Sau khi giết Lula anh mới đến Chelsea. Tôi nghĩ hẳn anh đã vào phòng mẹ anh lúc sáng sớm, vặn ngược đồng hồ, đánh thức mẹ anh dậy và giả vờ chỉ mới đến giờ ăn tối. Anh tưởng anh là một tay tội phạm thiên tài nhưng mánh đó đã được làm hàng triệu lần rồi, chỉ là không được dễ dàng như vậy. Với chừng ấy thuốc men trong người, mẹ anh còn không biết hôm đó là ngày nào, nói gì đến giờ giấc.
“Tôi ở Chelsea cả ngày hôm đó,” Bristow lặp lại, đầu gối giật lia lịa. “Cả ngày, chỉ trừ lúc đến văn phòng lấy hồ sơ.”
“Anh lấy cái áo thun dây liền mũ và đôi găng tay từ căn hộ ngay bên dưới nhà Lula. Trong đoạn băng anh mặc hai thứ đó.” Strike nói tiếp, bất chấp câu chen ngang của Bristow, “Sai lầm là ở chỗ đó. Vì cái áo anh mặc là thứ độc nhất vô nhị. Trên thế giới chỉ có một cái, của Guy Somé làm riêng để tặng Deeby Macc. Anh chỉ có thể lấy nó được từ căn hộ của Deeby Macc, nhờ đó mà tôi suy ra được anh nấp ở đâu.”
“Anh không hề có bằng chứng gì cả,” Bristow nói, “Tôi vẫn đợi bằng chứng đây.”
“Đương nhiên là anh đợi rồi,” Strike nói, thản nhiên. “Một người vô tội sẽ không ngồi im nghe tôi nói, mà đã bỏ đi ra từ lâu. Nhưng đừng lo. Tôi có bằng chứng.”
“Anh không thể có gì cả,” Bristow khàn giọng.”
“Động cơ phạm tội, phương tiện và cơ hội, John à. Anh có đủ hết.
“Thôi thì, trở lại ban đầu vậy. Anh không chối chuyện anh đến gặp Lula sáng hôm đó…”
“Đương nhiên tôi không chối.”
“…bởi vì có người thấy anh ở đó. Nhưng tôi nghĩ Lula không hề đưa cho anh hợp đồng với Somé, để anh phải cầm lên lầu cho cô ấy. Tôi đoán anh xoáy cái hợp đồng từ trước. Wilson để cho anh lên nhà. Chỉ vài phút sau anh và Lula cãi nhau dữ dội ngay trước cửa nhà cô ấy. Anh không thể chối vụ đó, vì người lao công có nghe thấy. Thật may cho anh, tiếng Anh của Lechsinka rất tệ nên cô ấy xác nhận đúng như anh kể: rằng anh giận dữ vì Lula vừa quay lại với tay bạn trai nghiện ngập đào mỏ.
“Nhưng tôi nghĩ cuộc cãi vã đó thực ra là về chuyện Lula từ chối không cho anh đồng nào. Bạn bè của Lula, những người tinh ý một chút đều kể rằng từ lâu anh đã nhăm nhe tiền bạc của cô em. Nhưng hôm đó ắt hẳn anh phải bấn lắm, mới xông vào la lối như vậy. Phải chăng hôm đó Tony vừa nhận ra con số thất thoát trong tài khoản của Conway Oates? Lúc đó anh cần tiền gấp lắm sao?”
“Phỏng đoán vô căn cứ,” Bristow nói, đầu gối vẫn giật lên xuống lia lịa.
“Cứ đợi ra tòa rồi biết có căn cứ hay không,” Strike đáp.
“Tôi chưa bao giờ phủ nhận chuyện Lula và tôi có cãi nhau.”
“Sau khi Lula từ chối ký séc cho anh và đóng sầm cửa lại, mặc anh đứng ngoài, anh quay trở xuống. Ngay lúc đó căn hộ tầng hai đang mở cửa. Wilson và nhân viên bảo trì vẫn mải đứng xem bảng điều khiển. Lechsinka hẳn vẫn còn ở trong đó, có lẽ đang hút bụt. Nhờ tiếng động đó mà anh có thể lẻn vào ngay sau lưng hai người kia.
“Nhưng thực ra vụ này cũng chẳng liều lĩnh gì lắm. Nếu họ quay lại và trông thấy anh, anh có thể giả vờ vào tìm Wilson để cảm ơn vì ông ta đã cho anh vào nhà khi sáng. Trong khi hai người còn mải loay hoay với hộp cầu chì, anh lẻn vào rồi nấp đâu đó trong căn hộ. Có nhiều chỗ nấp mà. Tủ áo trống trơn. Hay dưới gầm giường.
Bristow lại lắc đầu, lặng lẽ phủ nhận tất cả. Strike nói tiếp, giọng vẫn thản nhiên như không:
“Hẳn anh có nghe thấy Wilson chỉ cho Lechsinka cách đặt lại báo động và cả mã số 1966. Cuối cùng Lechsinka, Wilson và nhân viên Securibell đi ra, chỉ còn có mỗi một mình anh trong căn hộ. Không may là Lula cũng vừa đi khỏi, nên anh không thể trở lên lầu để tiếp tục bức ép cô ấy nhả tiền ra.”
“Toàn là bịa đặt” ông luật sư nói. “Trong đời tôi chưa bao giờ đi vào căn hộ số Hai. Tôi rời chỗ Lula rồi đến thẳng văn phòng để lấy hồ sơ...”
“Lấy từ Alison, như anh đã kể lúc gặp tôi lần đầu tiên?” Strike hỏi.
Những đốm đỏ bắt đầu hiện ra trên chiếc cổ nổi gân của Bristow. Sau một thoáng ngập ngừng, ông ta hắng giọng nói:
“Tôi không nhớ là có lấy từ... Tôi chỉ nhớ là tôi lấy rất nhanh; tôi muốn trở về chỗ mẹ tôi ngay.”
“John à, anh nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra khi Alison ra trước tòa và kể lại với bồi thẩm đoàn rằng anh bắt cô ta nói dối? Trước mặt cô ta, anh đóng vai người anh đau buồn vì vừa mới mất cô em gái, rồi mời cô ta đi ăn tối. Có dịp chứng tỏ với Tony là mình cũng có giá nên Alison nhận lời ngay. Sau vài cuộc hẹn anh thuyết phục Alison nói rằng đã gặp anh tại văn phòng buổi sáng ngày Bảy tháng Giêng. Cô ta cứ tưởng anh chỉ bị rối trí, hoảng loạn, đúng vậy không? Cô ta còn tin là anh đã có sẵn chứng cứ ngoại phạm ngay trong ngày hôm đó từ Tony, người cô ta thầm yêu trộm nhớ. Cô ta nghĩ có đáng gì khi nói dối một chút, chỉ để anh bình tĩnh lại.
“Nhưng hôm đó Alison không có ở văn phòng, John à, không hề đưa hồ sơ giấy tờ gì cho anh cả. Vừa tới công ty, Cyprian đã sai cô ta đi Oxford để tìm Tony. Sau đám tang của Rochelle anh bắt đầu thấy căng thẳng khi nhận ra tôi đã biết hết mấy chuyện đó, đúng vậy không?
“Alison không được lanh lợi lắm,” Bristow chậm rãi nói, hai tay liên tục xoa vào nhau, đầu gối vẫn giật lia lịa. “Cô ta hẳn đã nhầm lẫn ngày tháng. Cô ta rõ là đã hiểu lầm tôi. Tôi chưa bao giờ nhờ cô ta nói có gặp tôi ở văn phòng hôm đó cả. Ở đây là chuyện ông nói gà bà nói vịt. Có thể cô ta đang tìm cách trả thù tôi, vì tụi tôi vừa chia tay.”
Strike bật cười.
“Đúng ra phải nói là anh bị Alison đá. Sau khi trợ lý của tôi gọi điện cho anh sáng nay để dụ anh đi tới Rye...”
“Trợ lý của anh?”
“Đương nhiên rồi. Chẳng lẽ tôi lại muốn có anh đứng bên cạnh khi tôi lục lọi trong nhà mẹ anh? Chính Alison đưa cho tụi tôi tên của vị khách hàng ở Rye đó. Tôi đã gọi điện cho Alison, kể hết mọi chuyện, luôn cả chuyện tôi có bằng chứng Tony ăn nằm với Ursula May, và chuyện anh sắp bị bắt vì tội giết người. Nghe xong cô ta quyết định bỏ cả việc lẫn bồ. Tôi hi vọng cô ta đã đến nhà mẹ ở Sussex... như tôi khuyên. Anh cặp kè với Alison vì anh nghĩ cô ta là chứng cứ ngoại phạm của anh, và cũng muốn lợi dụng Alison để biết Tony đang nghĩ gì. Vì anh rất sợ ông cậu. Nhưng gần đây tôi lo là Alison chẳng có lợi ích gì với anh nữa, nên biết đâu cô ta sẽ lại phải ngã xuống từ một chỗ khá cao.”
Bristow cố bật cười thành tiếng, nhưng tiếng cười nghe giả tạo và trống rỗng.
“Vậy là không có ai thấy anh vào văn phòng sáng hôm sau đó để lấy giấy tờ cả,” Strike nói tiếp. “Anh vẫn còn nấp trong căn hộ tầng giữa ở tòa nhà số mười tám, Kentigern Gardens.”
“Tôi không có ở đó. Tôi ở Chelsea với mẹ.” Bristow nói.
“Lúc mới nấp trong căn hộ tầng hai tôi nghĩ anh vẫn chưa tính đến chuyện giết Lula,” Strike tiếp tục nói. “Có lẽ anh chỉ định chặn đường gây gổ tiếp khi cô ấy về nhà. Hôm đó mọi người ở công ty đều biết rằng anh làm việc ở nhà, để trông bà mẹ đang ốm. Tủ lạnh trong căn hộ thì đầy nhóc thức ăn. Anh còn biết cả cách đi ra đi vào mà không kích hoạt báo động. Từ bên trong anh có thể nhìn thấy rõ dưới phố, nếu Deeby Macc và bầu đoàn có xuất hiện anh vẫn có đủ thời gian để chạy ra rồi đi xuống cầu thang, ai hỏi thì chỉ cần bịa chuyện vớ vẩn là phải ngồi đợi Lula rất lâu trên lầu. Rủi ro duy nhất, mà cũng không đáng kể, là nhỡ có người chuyển bưu kiện hay đồ đạc lên đúng phòng đó, nhưng khi bình hoa hồng được mang vào vẫn không ai thấy anh cả, đúng vậy không?
“Tôi đoán tới lúc đó anh mới nhen nhóm ý định giết người, sau hàng tiếng đồng hồ nấp trong chỗ sang trọng đó. Phải chăng anh bắt đầu tưởng tượng ra nếu Lula chết thì sao? Anh không nghĩ Lula đã lập sẵn di chúc. Hẳn mẹ anh cũng sẽ dễ chịu hơn với anh nếu bà chỉ còn một mình anh. Như thế chẳng phải tuyệt vời hay sao, đúng không John? Rằng cuối cùng anh cũng được làm cục cưng duy nhất? Không bao giờ phải bị ra rìa khi có thêm đứa em xinh xắn, đáng yêu hơn một lần nữa?”
Trong bóng tối đang đặc dần lại, hắn thấy Bristow bắt đầu nghiến răng, cặp mắt bạc nhược nhìn chằm chằm.
“Anh có chu đáo đến đâu, đóng trọn vai người con hiếu thảo dường nào thì vẫn không bao giờ là số một trong lòng mẹ anh, đúng vậy không? Bà ấy lúc nào cũng yêu Charlie nhất, phải không? Mà ai cũng thế cả, kể cả cậu Tony. Sau khi Charlie mất, anh cứ tưởng mình sẽ có được mọi sự chú ý, nhưng không, chuyện gì xảy ra nữa? Lula xuất hiện, rồi mọi người bắt đầu lo lắng cho Lula, chăm sóc Lula, ngưỡng mộ Lula. Mẹ anh còn không muốn để hình của anh bên giường bệnh. Chỉ có Charlie và Lula thôi. Chỉ có hai đứa con được bà ta yêu mến.”
“Khốn khiếp,” Bristow gào lên. “Đồ chó đẻ. Mày thì biết cái gì, với con mẹ đĩ thõa đó? Mẹ mày chết vì cái quỷ gì vậy, lậu liếc gì hả?”
“Hay thật!” Strike nói, cảm thán. “Tôi vừa định hỏi là không biết ban đầu anh có tìm hiểu đời tư của tôi không, khi anh muốn tìm một thằng khờ để giật dây. Tôi cá là anh nghĩ tôi sẽ rất cảm thông với John Bristow tội nghiệp vừa mất em gái, đúng không, vì mẹ tôi cũng chết rất trẻ, cũng trong hoàn cảnh mờ ám? Anh cứ tưởng sẽ tha hồ giật dây tôi như một con rối...
“Nhưng không sao, John à. Nếu luật sư của anh không tìm ra được một chứng rối loạn nào để gán cho anh, tôi đoán hẳn họ sẽ lý luận rằng chính môi trường nuôi dạy của anh mới có lỗi. Không được yêu mến. Bị bỏ rơi. Luôn ở trong bóng tối. Lúc nào cũng thấy bị thiệt thòi, đúng không John? Tôi nhận ra ngay hôm đầu tiên gặp anh, khi anh bật khóc nức nở kể lại chuyện Lula được bế vào nhà. Bố mẹ anh còn không chở anh theo khi đi đón Lula, đúng không? Họ để anh một mình ở nhà, như một con chó cảnh. Anh không thể nào bù đắp khoảng trống sau khi Charlie chết, rồi một lần nữa anh phải đứng vị trí thứ hai.”
“Tôi không phải nghe những chuyện này,” Bristow thì thào.
“Anh cứ ra về,” Strike nói, nhìn vào cặp mắt đang tối sầm lại sau hai tròng kính. “Tại sao anh chưa đi?”
Nhưng ông luật sư vẫn ngồi đó, một bên đầu gối vẫn giật lên xuống, hai bàn tay xoa vào nhau, chờ đợi Strike đưa ra bằng chứng.
“Lần thứ hai chắc dễ ra tay hơn phải không?" tay thám tử khẽ hỏi. “Giết Lula dễ hơn giết Charlie?”
Hắn thấy hàm răng Bristow lộ ra khi ông ta hé miệng, nhưng rồi ông ta không nói tiếng nào cả.
“Tony biết chính anh xô Charlie, phải không? Anh bịa ra chuyện Tony nói xấu mẹ anh sau khi Charlie chết. Sự thật là Tony có ở đó. Ông ấy thấy anh đạp xe bỏ chạy sau khi đã xô Charlie xuống. Anh thách Charlie tới gần mỏm đá, đúng không? Tôi biết Charlie: cậu ta không bao giờ từ chối một lời thách đố. Tony thấy Charlie nằm chết ngay dưới mỏ đá. Ông ấy nói với bố mẹ anh rằng ông ấy đoán chính anh đã ra tay, đúng vậy không? Vì vậy mà bố anh xông vào đánh Tony. Vì vậy mà mẹ anh ngất xỉu. Bố anh cấm cửa Tony sau khi Charlie chết không phải vì Tony nói rằng mẹ anh dạy hư con, mà vì ông ta dám nói rằng mẹ anh đang nuôi một kẻ điên loạn bệnh hoạn.”
“Thật là... Không,” Bristow thốt lên, giọng khàn. “Không!”
“Nhưng Tony không muốn làm lớn chuyện. Ông ấy giữ im lặng. Mặc dù vậy ông ấy hoảng sợ khi nghe bố mẹ anh sắp nhận nuôi một bé gái, đúng không? Ông ấy gọi điện, cố cản họ. Tony lo là đúng. Tôi nghĩ xưa nay anh luôn sợ ông ta. Thật là trớ trêu làm sao khi cuối cùng Tony phải ngậm miệng, cắn răng tạo chứng cớ ngoại phạm cho anh.”
Bristow không nói gì cả. Hơi thở càng gấp gáp hơn.
“Tony phải giả vờ là hôm đó ông ta không hề đi khách sạn với vợ của Cyprian May, nên mới nói đã lái xe về London để thăm chị bị ốm. Rồi ông ta nhận ra lúc đó cả anh và Lula dường như đều có đến Chelsea.
“Lula đã chết, không thể đối chất gì được; vậy là Tony không còn sự lựa chọn nào khác, đánh giả vờ là có trông thấy anh trong thư phòng, nhưng không nói năng gì với anh lúc đó. Anh cũng xác nhận như vậy. Cả hai vừa nói dối không ghê răng, vừa tự hỏi không biết người kia đang giở trò gì, nhưng không dám nói thẳng. Tôi nghĩ Tony định khi sau mẹ anh mất sẽ làm ra lẽ với anh. Có lẽ ý định đó làm ông ta đỡ áy náy. Nhưng ông ta vẫn rất lo lắng, đến nỗi phải nhờ Alison theo dõi anh. Trong khi đó anh bịa chuyện Lula ôm anh chào tạm biệt, rồi hai người làm hòa trước khi cô ấy đi khỏi nhà mẹ anh, thật là lâm ly.”
“Tôi có ở đó,” Bristow nói, thì thào nghiến răng ken két. “Tôi có ở nhà mẹ tôi. Nếu Tony không tới đó thì là việc của ông ấy. Anh không thể vin vào đó mà chứng minh là tôi cũng không có ở Chelsea.”
“Tôi không chứng minh gì ở đây cả John ạ. Tôi chỉ muốn nói là hiện giờ chứng cớ ngoại phạm duy nhất còn lại của anh chính là bà mẹ nghiện Valium.
“Nhưng thôi, quay trở lại câu chuyện lúc nãy. Trong khi Lula đến thăm bà mẹ đau ốm và Tony đang vui vẻ với Ursula ở một khách sạn nào đó, anh vẫn nấp trong căn hộ số Hai. Anh chợt nghĩ ra một phương án táo bạo hơn để giải quyết vụ kẹt tiền. Anh chờ đợi. Rồi anh mang đôi găng tay da màu đen làm tặng cho Deeby để sẵn trong tủ, để tránh lưu lại vân tay. Thật là đáng ngờ. Cứ như thể anh chuẩn bị làm chuyện gì ác ôn.
“Cuối cùng, chiều hôm đó Lula trở về nhà, nhưng không may là cô ấy có bạn đi cùng. Hẳn anh đã nhìn thấy qua lỗ nhìn trộm trên cửa.
“Và bây giờ đây,” Strike nói, giọng hắn đanh lại. “Tôi nghĩ tội của anh bắt đầu nặng. Lý lẽ bào chữa theo hướng ngộ sát, cho rằng tất cả chỉ là tai nạn, hai người giằng co rồi Lula ngã xuống từ ban công, vẫn có thể chập nhận được, nếu cả ngày hôm đó anh không nấp ngay ở tầng dưới, trong khi anh biết Lula đang có khách. Nếu anh chỉ chăm chăm bắt nạt Lula để cố ấy nhả cho một tờ séc, thì có lẽ anh chỉ cần đợi đến lúc cô ấy ở nhà một mình. Nhưng anh đã thử rồi, không thành công. Vậy tại sao ngay lúc đó anh không đi lên lầu, nhân lúc Lula vui vẻ hơn khi sáng, để cố xin một lần nữa? Biết đâu vì có bạn trong nhà cô ấy sẽ đưa phứt cho anh một ít, chỉ để anh biến cho rồi?”
Strike gần như cảm thấy đừng đợt sóng sợ hãi và căm ghét ngùn ngụt bốc lên từ bóng đen ngồi bên kia bàn đang dần hòa vào màn đêm.
“Nhưng không,” hắn nói tiếp, “anh tiếp tục chờ đợi. Anh đợt suốt buổi tối hôm đó. Lula lại rời khỏi nhà một lần nữa. Hẳn khi đó anh rất cay cú. Nhưng anh cũng có đủ thời gian để tính kế. Anh đã quan sát đường phố; anh biết chắc chắn ai đang có mặt trong tòa nhà, ai đang ở ngoài. Anh nghĩ ra cách chuồn đi êm thấm nhất, mà không để ai biết. Và cũng đừng quên là anh từng ra tay giết người rồi. Ở đây chuyện đó rất quan trọng.”
Bristow giật người lên; Strike gồng căng người chờ đợi, nhưng Bristow vẫn ngồi yên. Strike lo lắng nhớ ra chiếc chân giả chỉ đang khớp hờ vào đầu gối.
“Anh nhìn ra cửa sổ, thấy lần này Lula về nhà một mình, nhưng đám săn ảnh vẫn còn ở đó. Hẳn khi đó anh thấy nản lắm, đúng không?
“Và rồi, như một phép màu, cứ như trời muốn giúp John Bristow có được những gì anh ta muốn, đám săn ảnh tản đi hết. Tôi cá là tay lái xe của Lula đã nháy với đám này rằng Deeby còn lâu mới về. Tay này rất chịu khó o bế bọn phóng viên.
“Vậy là đường phố vắng tanh. Thời cơ đã đến. Anh mặc áo của Deeby vào. Sai lầm nghiêm trọng. Nhưng không lẽ cứ gặp may mãi sao?
“Và rồi... lần này tôi cho anh mười điểm, vì anh làm tôi đau đầu khá lâu... anh rút vài cành hoa từ trong lọ ra, đúng không? Anh lau cuống hoa cho đỡ ướt... không kỹ càng lắm nhưng cũng tạm ổm... rồi anh cầm hoa, ra khỏi căn hộ số Hai, để cửa hé và lên nhà em gái.
“Anh không biết rằng mình đã đánh rơi mấy giọt nước trên đường đi, làm Wilson trượt chân ngã sau đó.
“Anh lên đến căn hộ của Lula, gõ cửa. Khi nhìn qua lỗ nhìn trộm trên cửa, cô ấy thấy gì? Hoa hồng trắng. Cô ấy vừa đứng trên ban công, cửa sổ mở toang, hồi hộp ngóng chờ người anh thất lạc đã lâu. Không hiểu sao anh ấy lên tận đây rồi mà cô không thấy! Lula rất phấn khích, mở cửa ngay. Anh bước vào.”
Bristow ngồi im như tượng. Ngay cả đầu gối cũng không còn giật nữa.
“Rồi anh giết Lula, giống như cách anh từng giết Charlie, và sau đó là Rochelle: anh đẩy cô ấy, thật mạnh và thật nhanh... có thể anh đã nhấc cô ấy lên, nhưng cũng như hai người còn lại, cô ấy bị bất ngờ, đúng không?
“Anh hét vào mặt Lula vì cô ấy không đưa tiền cho anh, cô ấy giành hết phần yêu thương của bố mẹ, làm anh lúc nào cũng phải thiệt thòi, đúng không John?
“Rồi Lula hét lại rằng anh sẽ không được một xu nào, ngay cả khi anh giết cô ấy. Rồi anh ra tay, dồn Lula về phía ban công và đẩy cô ấy xuống. Nhưng Lula đã kịp nói rằng cô ấy có một người anh trai khác, anh ruột. Rằng anh ta đang trên đường đến, và rằng cô ấy đã lập di chúc để lại hết cho anh ta.
“Muộn rồi. Đã xong cả rồi!” cô ấy hét lên. Và anh gọi Lula là con láo toét khốn nạn, rồi anh ném cô ấy xuống đường, chết ngay tại chỗ.”
Bristow ngồi im, dường như nín thở.
“Tôi nghĩ hẳn anh đã vứt lại mấy cái hoa ở trước cửa. Anh chạy trở ra, nhặt chúng lên, chạy xuống tầng dưới và vào căn hộ số Hai, nhét lại vào bình. Thật không tưởng tượng được là anh lại tiếp tục gặp may. Cái bình hoa sau đó bị một tay cảnh sát hậu đậu đánh vỡ tan tành. Mà chỉ có mấy cái hoa đó mới cho thấy có người vừa nấp trong căn hộ; vì chắc chắn rằng anh không thể cắm lại chúng y như ban đầu, nhất là khi chỉ có vài phút để tẩu thoát.
“Đoạn tiếp theo vô cùng gay cấn. Anh không ngờ là có người phát hiện ra ngay. Tansy Bestigui khi đó bị nhốt ngoài ban công tầng một. Anh nghe tiếng bà ta la hét và nhận ra anh có rất ít thời gian để trốn thoát, trái với dự tính ban đầu. Lúc này Wilson chạy ra đường để xem có đúng Lula vừa rơi xuống không. Sau đó anh thấy ông ta chạy lên cầu thang, qua lỗ nhìn trộm trên cửa.
“Anh đặt lại báo động, ra khỏi căn hộ rồi chạy xuống cầu thang. Hai vợ chồng nhà Bestigui đang gào vào mặt nhau. Anh chạy xuống... Freddie Bestigui có nghe tiếng chân anh, nhưng lúc đó ông ta còn bận nghĩ việc khác... Sảnh lễ tân trống trơn... Anh chạy ra ngoài, tuyết vẫn rơi dày.
“Rồi anh chạy tiếp, đúng không, mũ áo kéo lên, mặt che lại, hai tay đeo găng nắm chặt. Khi chạy đến cuối đường anh thấy một người khác cũng đang trối chết chạy khỏi góc đường, nơi anh ta vừa thấy cô em gái rơi xuống. Khi đó anh không biết anh ta là ai. Tôi nghĩ khi đó anh còn chẳng thèm để ý đến anh ta. Anh chạy thật nhanh, mặc áo của Deeby Macc, qua mặt camera và chạy xuống phố Halliwell, tới đây anh lại tiếp tục gặp may vì không còn camera nào nữa.
“Tôi đoán anh đã vứt cái áo và đôi găng tay vào thùng rác và nhảy lên taxi, đúng không? Cảnh sát không bao giờ nghi ngờ hay bỏ công tìm kiếm một người đàn ông da trắng mặc complet trong đêm đó. Anh về nhà mẹ, soạn thức ăn tối, vặn ngược đồng hồ và đánh thức bà ấy dậy. Đến giờ bà ấy vẫn tin rằng hai người đang nói chuyện về Charlie ngay lúc Lula ngã xuống. Anh khá thật đấy, John à.
“Anh đã thoát một cách ngoạn mục. Anh đã có thể bịt miệng Rochelle bằng tiền cả đời. Rồi biết đâu, Jonah Agyeman sẽ bỏ mạng ở Afghanistan. Cứ mỗi khi nhìn thấy hình một người lính da đen tử trận trên báo anh lại khấp khởi hi vọng, đúng không? Nhưng anh không thể phó mặc hết cho vận may. Anh là một tên khốn tráo trở, ngạo mạn nên muốn tự tay sắp đặt mọi thứ.”
Im lặng một hồi lâu, không ai nói gì nữa.
“Không có bằng chứng,” cuối cùng Bristow lên tiếng. Bóng tối ngập khắp phòng, Strike chỉ còn thấy mờ mờ bóng ông ta trước mặt. “Không có bằng chứng gì cả.”
“Tôi e là anh sai rồi,” Strike nói. “Bên cảnh sát hẳn đã có lệnh soát nhà.”
“Soát gì?” Bristow hỏi, cuối cùng cũng đủ tự tin để bật cười. “Soát thùng rác ở London để tìm ra cái áo bị vứt cách đây ba tháng à?”
“Không, soát két sắt ở nhà mẹ anh chứ,”
Strike tự hỏi không biết hắn có đủ thời gian để kéo rèm lên không. Hắn đang ở khá xa công tắc đèn, văn phòng hiện giờ tối om. Nhưng hắn không muốn rời mắt khỏi Bristow đang ngồi lù lù trước mặt. Hắn chắc rằng tên giết người ba lần này không thể đến tay không.
“Tôi có ghi sẵn cho họ vài mã số mở két,” Strike nói tiếp, “Nếu mở không được chắc họ phải gọi chuyên gia đến. Nhưng nếu phải cá cược, tôi sẽ đặt tiền cho số 030483.”
Có tiếng sột soạt, một cánh tay tai tái đưa lên cao, Bristow lao tới. Mũi dao sượt qua ngực Strike khi hắn đẩy Bristow qua một bên. Ông luật sư trượt khỏi mặt bàn, ngã lăn quay rồi lại lao vào hắn. Lần này cả Strike và chiếc ghế bật ra sàn, kẹt giữa bức tường và chiếc bàn, Bristow ngồi lên người hắn.
Strike nắm lấy cổ tay Bristow, nhưng hắn không thấy con dao ở đâu: chung quanh là bóng tối. Hắn đấm một cú thật lực vào ngay dưới cằm Bristow, đầu ông ta bật ngửa ra sau, cặp kính văng xa. Strike bồi thêm cú nữa, Bristow dội vào tường, Strike cố ngồi dậy trong Bristow dùng chân kìm chiếc chân cụt của hắn xuống đất. Mũi dao đâm vào cánh tay Strike. Hắn cảm thấy lưỡi dao sắc nhọn xuyên qua da thịt, máu ấm chảy ra, nhức nhối.
Trên cửa sổ mờ mờ bóng cánh tay Bristow lại đưa lên. Strike cố gượng ngồi dậy vật ông luật sư xuống, né mũi dao thứ hai và lấy hết sức bình sinh đẩy Bristow qua một bên. Chiếc chân giả trượt ra khỏi ống quần khi hắn cố đè kẻ giết người xuống. Máu bắn khắp nơi, vẫn còn ấm. Hắn vẫn không thấy con dao đâu.
Chiếc bàn đã bị lật qua một bên khi Strike vật Bristow xuống. Hắn tì đầu gối của cái chân còn nguyên vẹn lên người Bristow, dùng cánh tay không bị đâm loay hoay tìm con dao. Đèn trong phòng sáng lên. Hắn lóa cả mắt. Một người đàn bà đang đứng đó, há miệng hét.
Mắt hắn hoa lên, chỉ thoáng thấy con dao đang dí thẳng xuống bụng; hắn chụp ngay lấy chiếc chân giả ở bên cạnh, phăng tới tấp vào mặt Bristow, một cú, rồi hai cú...
“Dừng lại! Cormoran, DỪNG LẠI! ANH GIẾT ÔNG TA MẤT!”
Strike tụt khỏi người Bristow, giờ đây đã bất động. Hắn vứt cái chân giả qua một bên và vật ra sàn nhà, ôm lấy cánh tay đầm đìa máu, bên cạnh là chiếc bàn chỏng chơ.
“Tôi tưởng...” hắn hổn hển, mắt hoa lên không nhìn rõ mặt Robin. “... Tôi bảo cô đi về nhà rồi kia mà?”
Nhưng Robin đã nhấc điện thoại lên.
“Cảnh sát! Cấp cứu!”
“Gọi thêm taxi nữa!” Strike làu bàu từ dưới sàn nhà, cổ họng hắn khô rang sau khi nói quá nhiều. “Tôi không đi chung xe với thằng chó này đâu.”
Hắn với tay, nhặt chiếc điện thoại nằm cách đó vài mét. Màn hình đã bị vỡ, nhưng điện thoại vẫn còn tiếp tục ghi âm.
Con Chim Khát Tổ Con Chim Khát Tổ - Robert Galbraith (J.k.rowling) Con Chim Khát Tổ