A house without books is like a room without windows.

Heinrich Mann

 
 
 
 
 
Tác giả: Bùi Việt Sỹ
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 24
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 20
Cập nhật: 2020-10-08 21:15:23 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6
ưng Đạo vương lưu lại ở khu vực thủy trại của Chiêu Văn vương ba ngày. Người đưa bọn Ngũ Lão, Dã Tượng, cùng vài chục quân kỵ đi thăm thú cả một vùng rộng lớn kể cả chiều dài lẫn chiều rộng. Chia tay Chiêu Văn vương, Hưng Đạo vương vỗ vào lưng “người anh em họ hàng” mà úy lạo rằng:
- Trông thanh nhã, tay cầm bầu rượu, vai đeo túi thơ thế này, mà rồi đây sẽ lập đệ nhất công trong cuộc chiến chống Nguyên Mông đó.
- Tiết chế mới xứng với công đó. “Một người lo toan bằng cả kho người làm”. - Chiêu Văn vương nhún nhường, chân thành đáp lại.
- Người lo toan mà không có người làm thì cái lo có hay ho đến đâu cũng chỉ là chuyện hão mà thôi! Hưng Đạo vương cũng khiêm tốn đáp lại.
Ba thầy trò Hưng Đạo vương, Phạm Ngũ Lão và Dã Tượng chỉ đem theo hai mươi quân kỵ nhằm thẳng hướng làng Phù Ủng châu Thượng Hồng phi ngựa xuống.
- Ta muốn vào ra mắt sư phụ con - Hưng Đạo vương nói với Ngũ Lão - Nhưng trước tiên ta phải vào thắp hương lễ Phật đã.
Tất cả quân lính Hưng Đạo vương để phía ngoài, dặn dò không được làm kinh động đến xung quanh.
Dã Tượng đã chuẩn bị hương hoa và một trăm lượng vàng lá dâng lên bàn thờ Phật tổ. Hưng Đạo vương kính cẩn quỳ ở giữa. Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng quỳ hai bên. Người lầm bầm khấn:
- Tín chủ là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn hiện là Tiết chế của Đại Việt. Hôm nay thân đến chùa xin với Phật tổ phù hộ độ trì cho quốc thái dân an, kế sách của quốc gia được hĩnh sĩ hết lòng thực hiện để phá được lũ giặc Nguyên Mông hung bạo, giữ cho dân chúng không bị rơi vào cảnh lầm than “nước mất, nhà tan”. Lòng thành lễ mọn, Phật tổ chứng giám, cung bái.
Khi Hưng Đạo vương đứng dậy thì sư cụ trụ trì ở chùa Bảo Sơn ở phía hậu cung đi ra. Ngũ Lão nhảy bổ ra ôm chầm lấy thầy, rồi gần như ngay lập tức quỳ dưới chân và nói:
- Con theo hầu Tiết chế vào lễ Phật, chưa vào trình diện với sư phụ. Mong sư phụ ngàn lần thứ lỗi.
Sư cụ vóc hạc, dáng cao, trán rộng, mắt sáng, chòm râu dài trắng như cước, dáng vẻ còn rất nhanh nhẹn.
- Mô Phật. Thí chủ là Tiết Chế, lại có lòng sùng Phật thế này. Quý hóa quá, quý hóa quá.
- Bạch sư cụ, bản chức cũng là người. Mà mọi chúng sinh đều là Phật tử. Huống nữa, sư cụ lại là thầy thuộc tướng của bản chức, kia mà. Nay nhân việc nước qua đây, trước vào lễ Phật, sau là vấn an sư cụ.
- Sao không cho lính vào báo trước để bần đạo ra tận cổng chùa đón rước. Thật là thất lễ! Thất lễ. Chùa nghèo vì dân quanh vùng đều rất nghèo. Nhưng tấm lòng hướng về Phật tổ thì lại thật là giàu có.
- Bản vương mới nhìn qua đã rõ…
- Xin rước Tiết chế vào phòng khách.
Ngũ Lão săng sái dẫn đường. Phòng khách của sư cụ là một chái ở sau chùa. Chỉ có một bộ bàn ghế gỗ gụ, không có tay ngai tựa lưng. Một chú tiểu bưng lên một khay trà ướp hoa ngâu. Chiếc ấm cùng bốn chiếc chén đều thô mộc, không có hoa văn, đậm màu da lươn. Dã Tượng đứng hầu phía sau Hưng Đạo vương. Còn Ngũ Lão đứng chắp tay, hầu phía sau sư phụ.
- Sắp tới chiến cuộc chống Nguyên Mông chắc chắn sẽ diễn ra khốc liệt trên đất Đại Việt ta. Nhất là khúc sông Cái dài khoảng một trăm dặm từ Đại Hoàng đến trước cửa thành Thăng Long. Châu Thượng Hồng ta gần như nằm ở đoạn giữa khúc sông này.
- Nam mô a di đà Phật! - Sư cụ chắp tay trước ngực nói. - Bần đạo đã ăn mày cửa Phật tám chín mươi năm rồi! Những chuyện thế sự không còn để ý tới nữa. Song nếu quả thực là giặc dữ có tràn xuống đất này thì cũng phải tay đao tay thước cùng với dân làng đuổi chúng đi để bảo vệ chùa thôi!
- Không! Bản vương nhất quyết không để cho chúng tràn xuống đây được! Nhưng trận chiến ở ngoài sông chắc chắn là rất dữ dội. Mong sư cụ động viên dân làng ra đánh trống, hò reo trợ chiến!…
- Nam mô a di đà Phật! Điều này thì bần đạo có thể làm được. Không cần Tiết chế phải nhắc nhở.
- Bản vương xin đa tạ sư cụ!
- Không dám ạ! Dù là người tu hành đi nữa thì cũng phải biết phù cái thiện, xua đuổi cái ác.
- Nhân đây xin hỏi sư cụ một số điều, không biết có tiện không?
- Xin Tiết chế cứ tự nhiên, điều gì bần đạo rõ, sẽ xin thưa lại hết.
- Hôm qua, bản vương có ghé vào thắp hương tại Đền thờ tướng quân Phạm Bạch Hổ. Người đã chém bay đầu tên Việt gian bán nước Kiều Công Tiễn, kẻ đã ám hại tướng công Dương Đình Nghệ để dọn đường rước quân Nam Hán vào xâm chiếm nước ta. Tướng quân Phạm Bạch Hổ cũng là tướng tiên phong cho Ngô Vương Quyền chặn đánh dữ dội quân Nam Hán ở cửa sông Bạch Đằng và giết chết thái tử Hoàng Thao, đập tan ý đồ xâm lược của quân Nam Hán. Vậy xin hỏi sư cụ tướng quân Phạm Bạch Hổ với đệ tử Phạm Ngũ Lão của sư cụ có họ hàng gần xa gì với nhau không ạ!
Sư cụ cười sảng khoái đáp:
- Lúc trước Tiết chế có nói “Đất linh sinh nhân kiệt”. Châu Thượng Hồng là đất như thế. Bởi thế hơn hai trăm năm trước đây đã sinh ra Phạm Bạch Hổ. Còn nay thì sinh ra đệ tử của bần đạo là Phạm Ngũ Lão. Đơn giản thế thôi. Bần đạo quả quyết rằng họ chẳng có họ hàng về bên nội hay bên ngoại gì với nhau cả.
Hưng Đạo vương cũng cười sảng khoái:
- Sư cụ giải thích thật chí lý! Chí lý!
- Tiết chế đã hỏi, vậy tiện thể đây bần đạo cũng muốn hỏi lại một câu mong Ngài đừng trách là bần đạo “thóc mách” nhé!
- Xin sư cụ cứ hỏi. Việc gì không ảnh hưởng đến sự an nguy của Đại Việt, bản vương xin trả lời hết.
- Chả là đệ tử của bần đạo vốn không thạo về thủy chiến. Mà chiến cuộc theo như Quốc công Tiết chế nói chủ yếu sẽ diễn ra trên dọc sông Cái. Vậy thì đệ tử của bần đạo trở thành kẻ vô dụng mất rồi sao?
- Sư cụ quả thật là quá lo xa.
- Dạ, không phải. Chả là khi xưa, bần đạo vốn mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc mới lên ba. Nhờ ăn mày cửa Phật mà sống được tới bây giờ. Sư phụ của bần đạo là người học rộng, văn võ song toàn. Từ lúc năm tuổi bần đạo đã được sư phụ dạy chữ và dạy võ. Qua mấy chục năm khổ luyện cũng thu được kết quả không đến nỗi nào. Trước lúc lâm chung, sư phụ của bần đạo cầm tay mà trăng trối rằng: “Tất cả học vấn về văn võ của ta đã truyền hết cho con. Di nguyện của sư phụ là sau này con sẽ truyền lại được tất cả các thứ đó cho người có thể giúp được nước, cứu đời”. Nay Ngũ Lão cũng có thể coi là thành tài. Ấy vậy mà cái tài ấy đành “xếp xó” thì sau này “hai năm mươi” gặp lại sư phụ, thử hỏi bần đạo sẽ nói năng với người thế nào đây?
- Có phải thanh đại đao và cây cung mà Ngũ Lão đang dụng là của sư phụ của ngài trao lại? - Hưng Đạo vương hỏi.
- Dạ! Quả đúng là như vậy.
- Như vậy là “y phục xứng kỳ đức” rồi! Với thanh đại đao và cây cung này, bản vương chắc chắn là Ngũ Lão sẽ lập được kỳ công lớn.
- Nhưng…
- Bản vương hiểu được nỗi băn khoăn của sư cụ rồi! Ở đây chỉ có bốn người, đều là chỗ người nhà cả, bản vương sẽ nói đại để về kế phá Nguyên Mông mà bản vương đã nung nấu suốt hơn một tháng qua. Sư cụ là người học rộng, tài cao. Biết đâu có thể chỉ giáo cho bản vương được điều gì thì thật là “nhất cử lưỡng tiện”.
- Dạ! Bần đạo không dám! Không dám!…
Hưng Đạo vương rút từ túi áo ngực ra một tấm bản đồ bằng lụa trắng hình chữ nhật, chiều dài gần gấp đôi, chiều rộng trải trên mặt bàn. Người bắt đầu nói:
- Hiện tại 15 vạn quân của Nguyên súy Toa Đô đang chinh phạt Chiêm Thành. Dù thắng hay bại cánh quân này sẽ men theo đường biển đánh phá vùng Hoan - Ái của ta trước. Sau đó sẽ vào cửa biển Đại Hoàng ngược theo sông Cái để đến kinh đô Thăng Long. Sở dĩ Thoát Hoan đã được phong làm Trấn Nam vương nhưng chưa khởi quân đánh Đại Việt vì còn chờ kết quả chinh phạt của Toa Đô. Song chẳng chóng thì chầy năm mươi vạn quân sĩ Thái tử Thoát Hoan sẽ tràn xuống nước ta.
Bước đầu ta phải lui về phòng ngự. Thậm chí cả kinh đô Thăng Long cũng phải để cho chúng vào “ở nhờ”. Đại quân của ta sẽ lui về bên này sông Cái. Thoát Hoan muốn sang ta phải đánh quyết liệt, buộc hắn phải bật trở lại. Đồng thời các mũi vận lương của chúng ở cả hai ngả thủy bộ ta cùng phải “khóa chặt”. Cái gì cướp được thì cướp. Cái gì không cướp được thì đốt và đánh chìm hết. Vùng Quế Sơn gần cửa Lục Đầu giang vừa tiện cho việc nhận lương cả thủy lẫn bộ. Đất ở đấy rộng. Chủ yếu là đất đồi sẽ rất thích hợp cho kỵ mã của chúng tung hoành. Như vậy đại để có thể ví Thoát Hoan ở kinh thành Thăng Long là phần mình của con cua. Quế Sơn nơi tập trung binh lực rất mạnh có thể ví như một chiếc càng cua. Cánh quân của Toa Đô ngược sông Cái lên là chiếc càng thứ hai. Bước một khi Toa Đô từ Chiêm Thành ra, Thái sư thượng tướng quân Chiêu Minh vương Trần Quang Khải đang cầm mười vạn quân Hoan - Ái phải bám đuổi theo, đánh quyết liệt khiến cho chúng bị tiêu hao và mỏi mệt. Từ cửa Đại Hoàng trở ra Thăng Long thì việc này đã được giao Đô tướng Nguyễn Khoái, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật cùng đội binh sĩ Tống và đội đặc nhiệm của gia tướng Yết Kiêu. Nguyễn Khoái phải làm thế này, thế này. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật phải dùng kế ly gián thế này, thế này… Gia tướng Yết Kiêu sẽ gây cho giặc sự kinh hoàng trong suốt ngày đêm như bị “quỷ ám” bằng cách này cách này… Đến bến Chương Dương trước cửa thành Thăng Long tất cả phải hợp lực quyết không cho chúng vào được thành. Thoát Hoan tất nhiên sẽ thả năm vạn kỵ binh Mông Cổ trong mười vạn tên thiện chiến nhất từ trong thành ra tiếp ứng cho Toa Đô. Đây là lúc dụng võ của Phạm Ngũ Lão. Ngũ Lão sẽ phục binh ở đây… dùng câu liêm thương chặt đứt vó ngựa Nguyên Mông và tiêu diệt chúng. Thoát Hoan muốn tung quân ra nữa thì cửa Nam năm vạn quân của Quốc Tảng phải chặn chúng lại. Còn cửa Đông được giao cho năm vạn quân mã Quốc Nghiễn. Ngũ Lão sau khi tiêu diệt đội kỵ binh thiện chiến đó thì toàn bộ quân tràn lên thuyền của Toa Đô cùng Nguyễn Khoái, Trần Nhật Duật phải “chặt đứt được chiếc càng cua này”. Với Toa Đô, không bắt sống được thì phải giết chết, quyết không để hắn trốn chạy về Quế Sơn. “Con cua Thoát Hoan” bị gẫy một càng, phải bỏ Thăng Long chạy về phương bắc. Lúc đó toàn bộ hai nhăm vạn quân Đại Việt do Ngũ Lão làm tiên phong, bên phải có Quốc Tảng, bên trái có Quốc Nghiễn sẽ đánh thẳng vào cổng chính của Quế Sơn. Thủy quân của Nguyễn Khoái từ cửa Lục Đầu giang sẽ xông lên trợ chiến. Với lực lượng hùng hậu như vậy chiếc “càng cua” thứ hai chắc chắn sẽ phải bị chặt đứt. “Con cua Thoát Hoan” chỉ còn “tám cẳng” thì chỉ còn cách “bò nhanh” về nước. Tất nhiên là quân ta sẽ truy kích đến tận ải Nam Quan. Ngũ Lão vẫn sẽ là tướng tiên phong trong cuộc truy đuổi này. Dĩ nhiên người Nguyên chắc chắn chưa chịu thất bại. Nhưng lần thứ ba bọn chúng sang thì chắc chắn là ta đánh dễ rồi. Song cũng phải bầy binh bố trận để đánh một trận tiêu diệt lớn… Trận này có thể diễn ra ở cửa sông Bạch Đằng. Đánh cho chúng phải dựng tóc gáy khi nghĩ đến chuyện phải sang Đại Việt xâm lăng một lần nữa… Đó là toàn bộ kế sách của bản vương chỉ có vậy. Mong sư cụ chỉ giáo thêm. Hưng Đạo vương theo thói quen vừa cười vừa vuốt râu nói câu sau cùng.
Nghe xong sư cụ vội vàng xòe bàn tay đặt trước ngực ngón cái hướng vào phía trong, đầu hơi cúi xuống theo nghi thức của nhà Phật, chân thành nói:
- Ngài không phải là người thường mà thực sự là Đức Thánh nhân. Được nghe Đức Thánh giảng giải về kế sách phá giặc dữ quả thực là không uổng sống một đời. Còn Ngũ Lão, đệ tử của bần đạo được cầm roi, dắt ngựa theo hầu Đức Thánh thì còn vinh hạnh gấp vạn lần… Từ nay xin cho phép bần đạo được gọi vương là Đức Thánh Trần…
- Chẳng qua là “kế mọn” có gì đáng kể đâu. Hưng Đạo vương khiêm tốn đáp - Còn việc có thực hiện được hay không còn nhờ vào sự xả thân của tướng sĩ và sự đóng góp hết lòng của toàn thể dân chúng Đại Việt.
- Phải nói thật là hai vua Trần quả thực là vua sáng. Nếu không hôm nay làm gì có người cầm quân chống giặc dữ.
- Mọi người đều hiểu oan cho bản vương cả. - Giọng Hưng Đạo vương trầm xuống. Họ chỉ thấy bản vương cướp công chúa Thiên Thành trong ngày rước dâu về nhà chồng mà không biết được rằng từ thuở thiếu thời mười sáu, mười bẩy, bản vương và công chúa đã yêu nhau như thế nào. Một người mà ngay cả đến người yêu của mình cũng không bảo vệ được thì còn nói gì đến việc cứu nước, cứu dân sau này… Ngoài hai mâm vàng trả lại đồ sính lễ, hai vua Trần còn phạt bản vương “bồi thường danh dự” cho Trung Thành vương hai ngàn mẫu ruộng ở phủ Mỹ Đức - Hà Tây. Có nghĩa là toàn bộ điền sản của cả gia đình. Nhưng có hề chi… - Nói đến đây Hưng Đạo vương cười lớn - Cái chính là đã thực hiện được lời “thề non - hẹn biển” từ thuở thiếu thời với nhau. Chứ hai ngàn đến hai mươi ngàn mẫu ruộng cũng có xá gì. Và bây giờ thiên hạ cũng đều thấy “sự hy sinh” ấy đâu có uổng phí. Thiên Thành đã sinh cho bản vương bốn hổ tướng để bảo vệ Đại Việt… Đó mới thực sự là điều quan trọng.
Nói tới đây Hưng Đạo vương đẩy ghế ra sau đứng dậy. Rồi người bảo:
- Thôi đã đến lúc bản vương phải tạm biệt sư cụ rồi. Quà không có gì nhiều, chỉ có một xúc lụa tơ tằm Vạn Phúc Hà Đông biếu sư cụ và một trăm lượng vàng cung tiến cho nhà chùa để tu sửa lại những chỗ đã bắt đầu hư hỏng.
- Tạ ơn Đức Thánh Trần. - Sư cụ chắp hai bàn tay xương xẩu nhưng vẫn còn rất cứng cáp và nói: - Lụa thì bần đạo xin nhận còn vàng thì không dám vì quốc khố đang phải gánh vác công cuộc phòng chống giặc ngoại xâm.
Hai bên đùn đẩy nhau một lúc. Cuối cùng sư cụ đưa ra giải pháp:
- Thôi thì bần đạo thay mặt nhà chùa xin nhận một lượng tượng trưng cho Đức Thánh Trần vui lòng, số còn lại thì bần đạo không dám.
Hưng Đạo vương cả cười bảo:
- Ngài khí khái quá.
Rồi tất cả kéo ra bàn thờ chính. Cả bốn người vái lạy Phật Tổ, sau đó sư trụ trì gói lại chín mươi chín lượng vàng, đích thân nâng ngang mặt trao lại. Hưng Đạo vương đỡ lấy, rồi trao lại cho Dã Tượng.
- Dạ, bẩm thưa cha! Cha cho phép con tối nay được ở nhà thăm mẹ. Sáng sớm mai sẽ trở về Vạn Kiếp ngay ạ!
- Được! Cha cũng có ý đó. Chưa kịp bảo thì con đã xin… Ta có quà cho mẹ con. Cũng là một tấm lụa tơ tằm Vạn Phúc, một trăm hai mươi quan này là cấp cho sáu tháng lương chức Đô úy của con.
- Sao lương nhiều vậy cha? - Ngũ Lão hỏi lại.
- Không nhiều đâu con. Nhiều quan lại trong triều còn lĩnh hơn con cả trăm lần - Hưng Đạo vương giải thích rồi bảo Dã Tượng lấy từ trong hòm “công vụ” mang theo.
Ngũ Lão dắt ngựa vào sân. Vừa lúc đó mẹ Ngũ Lão cũng từ trong bếp bước ra. Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau cùng nghẹn ngào trong nước mắt.
- Mẹ! Mẹ ở nhà có khỏe không?
- Mẹ khỏe. Chỉ lo cho con thôi.
- Mẹ thấy con cứng cáp thế này… Và còn cứng cáp hơn nữa nên mẹ đừng lo nghĩ gì… mà ảnh hưởng đến sức khỏe.
Ngũ Lão buộc ngựa vào một cây cau rồi cùng mẹ bước lên nhà. Chàng đưa tấm lụa Hưng Đạo vương biếu cho mẹ và đặt một trăm hai mươi quan tiền lên bàn thờ, thắp hương cúng gia tiên và cha.
Mùi hương vừa ngào ngạt bay trong ngôi nhà tranh thì ngoài sân đã ồn ào, lố nhố cả trăm người đủ các thành phần nam, phụ, lão, ấu…
Tiếng mọi người nhao nhao, không còn phân biệt được tiếng ai vào với ai. Nhưng đại để là:
- Xem tân Đô úy Ngũ Lão bây giờ mặt mũi ra sao nào?
- Làng ta sau bao nhiêu đời nay mới có được một người làm quan to đến như vậy.
Xen vào đó cũng có những câu châm chọc, ghen tị:
- Kỳ này về, tân Đô úy Ngũ Lão sẽ đưa mẹ lên kinh sống cho sung sướng chứ?
- Đúng là đẻ con khôn…
Mọi người chỉ im lặng khi thấy hai vị chức sắc là hương lý và phó lý bước vào. Hai ông này cung kính chắp tay:
- Xin chào quan Tân Đô úy.
- Xin hai vị và bà con đừng làm vậy! Lúc nào Ngũ Lão này cũng là con dân trong làng, trong hương - Đứng trên bậc thềm Ngũ Lão cung kính đáp lại.
- Tôi nói thế này, các vị bô lão và bà con nghe có phải không?… Chẳng mấy khi tân Đô úy ghé về làng. Bởi thế làng phải mổ trâu, mổ lợn để khao tân Đô úy chứ!
Viên hương lý vừa nói xong thì tiếng mọi người nhao lên như ong vỡ tổ hưởng ứng.
Ngũ Lão lại chắp tay thưa:
- Kính thưa các vị chức sắc, các bậc phụ huynh. Tôi chưa có công tích gì với dân với nước, sao dám để dân làng lại phải giết trâu, mổ bò, mổ lợn để khao. Bởi thế tôi xin được khao làng một bữa cơm nhạt.
Tiếng mọi người lại nhao nhao lên, người ủng hộ, kẻ phản đối không ai chịu ai. Hai vị hương lý và phó lý phải bàn bạc với nhau một lúc lâu rồi mới đưa ra quyết định:
- Đô úy đã có lòng… bà con ta cũng có bụng.
Thế là sau một canh giờ rượu thịt đã được ê hề bầy ra ở giữa sân. Riêng hai vị chức sắc và các cụ bô lão cùng mẹ con Ngũ Lão được ngồi “chiếu trên” ở trong nhà. Phải tới gần nửa đêm tiệc mới tàn. Mọi người đã ra về vãn cả thì bỗng xuất hiện một thiếu phụ bồng trên tay một đứa con trai trên dưới một tuổi tiến vào nhà hỏi Ngũ Lão:
- Tân Đô úy có nhận ra tôi là ai không?
Sau một phút định thần Ngũ Lão vội reo lên:
- Chị Lưu! Chị Cả Lưu đấy ư? Sao bây giờ mới lên tiếng?
- Tôi tưởng Ngũ Lão giờ đã là quan to của triều đình thì quên người con gái đáng thương này?
- Chị nghi oan cho Ngũ Lão rồi! Vụ cày một ngày xong năm mẫu ruộng cho thân phụ chị, cả đời này Ngũ Lão đâu dám quên.
- Không, tôi muốn nhắc đến chuyện khác cơ!… Nhưng mà thôi bây giờ Đô úy thấy đó tôi đã có con bồng, con bế có kém ai?
- Anh ấy tối nay có sang đây không?
- Con hoang làm gì có bố… Nhưng mà mừng một cái là cháu rất khỏe mạnh và mới một tuổi đã nghịch như quỷ sứ. - Chị vừa nói vừa cười và trao đứa bé cho Ngũ Lão và nói nựng với con:
- Con ra với chú đi… Để lấy cái khước… Sau này cũng có thể làm được đến chức đô úy…
Phải nói là đứa trẻ rất bạo. Vừa sang tay Ngũ Lão nó đã đưa đôi bàn tay nhỏ xíu vuốt má, sờ mũi và béo tai chàng. Còn đôi chân khá dài so với tuổi tôi của nó thì nhảy như choi choi.
- Chị xin giống ở đâu? Và có bị làng phạt vạ không? - Khi mọi chuyện đã trở nên thân mật Ngũ Lão cất tiếng hỏi.
Chị Cả Lưu (dân làng vẫn gọi chị như vậy - vừa là tên và cũng là họ) cười xởi lởi:
- Bố bảo hai vị hương lý và phó lý vừa về dám động vào… lông chân của cái con Cả Lưu này. “Không chồng mà chửa mới ngoan - Có chồng mà chửa thế gian thường tình”. Dân gian đã có câu ca như vậy, chú thấy có đúng không?
- Chắc chị đanh đá quá nên họ ngại chứ gì? - Ngũ Lão hỏi lại.
- Này! Đanh đá với to mồm thì họ có mà xé xác ra! Cái chính là thân phụ của chị bây giờ đường đường là một vị quan huyện… Thử hỏi trong cái làng này, cái hương này… ai to hơn quan huyện nào. Không những chẳng bị phạt vạ mà ngày cháu “đầy tháng” hai vị còn có quà mừng.
- Thế bác thi cử vào hồi nào mà lại đỗ đạt để được bổ làm quan huyện? - Ngũ Lão ngạc nhiên hỏi lại.
- Cần gì phải thi cử với chả đỗ đạt! Bây giờ cứ bỏ ra một trăm lượng vàng ròng và một ngàn thúng thóc là có cái chức ấy ngay. Còn quan phủ thì phải gấp ba lần thế!
- Chị nói thế nào ấy chứ? Làm gì có chuyện ấy?
- Này thẻ bài là do chính Tiết chế nhà chú ký nhé. Chỉ có điều quan huyện như cha chị thì không được cấp triện thôi… Xuân thu nhị kỳ có lính lệ về làng rước kiệu đưa cha chị lên huyện. Tại huyện viên quan huyện chính hiệu tiếp đón các quan huyện không có triện. Ai nhiều tuổi như cha chị thì được gọi là “quan bác”. Những người đồng tuế thì được gọi là “quan anh”. Ăn chơi mấy hôm thì lính lệ lại khênh kiệu trả về chú đừng tưởng “có tiếng mà không có miếng” đâu nhé! Mấy tay hương lý và phó lý xử lý oan sai với dân, cha chị cho người lên “tố” với “quan huyện thật”. Lập tức lính lệ về lôi ra sân đình vật cổ nọc ra đánh mấy chục roi. Bởi thế bọn lý cũng “gờm” cái chức quan của cha chị lắm!
- À, ra thế! Bây giờ thì em đã hiểu. Thì ra Tiết chế muốn huy động vật lực của các hào phú nên mới nghĩ ra cách “bán tước” đó. Chỉ có lợi chứ chẳng có hại gì.
- Thế chú có thích nghe nghị kể chuyện chị đi “mua giống” để sinh ra cái thằng “cún con” này không?
- Nếu chị thấy không có gì ngại thì em sẵn sàng nghe.
- Vốn là vào tiết thu năm ngoái, chị với đám gia nhân lên bến Bình Than mua than và củi cho cha chị đốt lò gốm. Hôm ấy trời mưa dầm dề đến não lòng. Từ trong quán nhìn ra chị thấy một chàng trung niên, áo tơi, nón lá ngồi bên con thuyền ngáp dài vẻ não nề lắm. Con chim ưng cực lớn bằng con ngỗng ấy! Lông đỏ, mỏ quặp lúc nhảy lên nóc thuyền, lúc chuyền trên vai người đàn ông đó. Bên cạnh anh ta còn có thanh kiếm dài vỏ bạc. Chị ngắm kỹ thấy người này cũng có vẻ “tráng sĩ” lắm! Chắc thất cơ lỡ vật thế nào mới phải làm cái nghề đốt than thế này. Chị cho một viên đầy tớ ra mời anh ta vào quán. Anh ta đứng dậy, vươn vai một cái, dáng vẻ đờ đẫn lúc trước vụt biến đi đâu mất. Một người cao lớn, xách kiếm hiên ngang bước vào.
- Xin chào tráng sĩ. - Chị lên tiếng trước. - Tôi có đôi điều muốn làm phiền tráng sĩ có được chăng?
- Cần gì chị cứ nói - Giọng anh ta đanh gọn và rất sang, khác với vẻ mặt lem luốc cùng chiếc áo tơi, nón lá trên mình.
- Xin mời tráng sĩ cởi áo tơi rồi ngồi xuống, dần dà tôi xin thưa chuyện.
Anh ta cởi áo tơi, nón lá để gọn vào một góc và ngồi xuống ghế đối diện với chị, thanh trường kiếm vỏ bạc đặt trên bàn.
Chị bảo gia nhân rót một bát rượu lớn mời nhưng anh ta gạt sang một bên và bảo:
- Tôi không uống rượu bố thí khi chưa biết lý do.
- À, tôi muốn mua một thứ… không biết tráng sĩ có bán không? - Chị rắn rỏi đặt vấn đề.
- Ngoài thuyền than và củi… Tôi còn có gì bán cho chị đây? - Anh vẫn giọng sang sảng hỏi lại.
- Tất nhiên chúng tôi đến bến Bình Than này là để mua than và củi rồi. Thuyền than củi đó chắc chắn chúng tôi sẽ mua. Ngoài ra muốn hỏi mua thêm một vài thứ nữa của tráng sĩ.
- Vài thứ là thứ gì?
- Thí dụ như thanh trường kiếm này chẳng hạn. - Chị hỏi không có ý đùa cợt một chút nào.
- Chắc chắn là chị không có đủ ngân lượng. Mà một ngàn lượng tôi cũng không thể bán được.
- Vậy tôi muốn hỏi mua con chim ưng lông đỏ, mỏ quặp… thì giá bao nhiêu?
- Giá bình thường là ba mươi lượng. Nhưng chị chồng ra một trăm lượng tôi cũng không bán.
Nói xong anh ta vội đứng lên. Chị bèn cuống quýt chèo kéo anh ta.
- Anh hãy ngồi xuống một lát! Tôi hỏi mua thứ này, chắc chắn là anh… bán được. - Nói tới đó mặt chị đỏ lựng lên. - Chuyện hơi tế nhị một chút… Nhưng cũng phải nói thật ra thì anh mới hiểu… Tôi muốn mua… một đứa con của anh.
- Mua con… của tôi? - Anh ta bỗng cười lên sằng sặc và ngồi xuống. Quơ tay lấy bát rượu uống một hơi cạn sạch.
- Tôi tuy hơi cứng tuổi một chút… Nhưng vẫn còn “con gái”… Tôi không muốn lấy chồng mà chỉ muốn có một đứa con trai… Nếu anh thuận tình bán cho tôi… Sau ba đêm tôi xin trả anh đủ một trăm đồng… Anh thấy đấy! Trông tôi đâu đến nỗi nào mà phải nói là đẹp gái nữa là đằng khác… Chỉ có điều hơi đanh đá một chút.
- Nếu cô còn trinh nguyên thật… thì như trước đây sau khi ngủ một đêm, tôi phải trả cho cô một trăm đồng… Nhưng hoàn cảnh của tôi bây giờ cô biết đấy! Bởi thế tôi đồng ý.
- Nhưng với một điều kiện thế này!
- Còn điều kiện lằng nhằng gì nữa?
- Đơn giản thôi! Sau khi “tiền chao cháo múc” xong việc “đường ai người nấy đi”. Nếu có tình cờ gặp lại thì cũng coi như “người chưa từng quen biết”.
- Ôi! Tưởng điều gì? Chính tôi cũng muốn đề nghị với cô như vậy!
- Bây giờ tôi xin đặt trước anh ba mươi đồng. Bẩy mươi đồng còn lại “xong việc” sẽ xin đưa nốt. À… Còn một chuyện nhỏ thế này…
- Lại còn cái gì nữa đây? - Anh ta tỏ vẻ sốt ruột.
- Chả là lúc đầu tôi đã có nói… Tôi còn “con gái”. Nên sau đêm đầu tiên… Xin anh nghỉ cho hai ngày. Còn hai đêm sau…
- Tôi hiểu rồi! Nói thẳng ra là cô sợ đau chứ gì? Không biết chuyện đùa hay là thật đấy. Nhưng mà đùa hay thật với tôi chưa bao giờ là quan trọng. Nhất là việc như thế này.
Chị móc hầu bao đặt lên bàn trước mặt anh ta. Anh ta không vồ vập mà rất bình thản vơ lấy và hắng giọng khá sang trọng quát:
- Chủ quán đâu! Bắt cho ta một chú vịt béo nhất. Rồi thả ra sân… làm mồi cho chú chim ưng của ta.
Viên chủ quán dạ một tiếng và chỉ loáng một cái một chú vịt bầu đã được thả ra sân. Từ trên mui thuyền chú chim ưng lông đỏ, mỏ quắp dang rộng đôi cánh xà xuống, nhanh như chớp hai chân đầy những vuốt sắc quặp lấy chú vịt, nhẹ nhàng bay trở lại nóc thuyền. Đầu tiên nó vật ngửa chú vịt ra. Mổ vào bụng lôi ra bộ lòng gan nuốt lấy nuốt để. Sau đó nó chậm rãi vặt lông ở mình và ở cánh. Vặt tới đâu nó xé ra từng miếng thịt lớn, ngửa cổ nuốt một cách ngon lành. Lần đầu tiên chị thấy một cảnh vừa man rợ, vừa lạ lẫm và thích thú như thế.
- Tuổi thọ của loài chim ưng này là bằng với loài người. Khoảng trên dưới bẩy mươi năm. - Anh ta thấy tôi chăm chú nhìn thì giải thích. - Khoảng bốn mươi tuổi, nó sẽ bay về rừng. Đập mỏ vào vách đá cho bung lớp sừng bên ngoài ra. Chờ năm bảy ngày sau chiếc mỏ mới được mọc lại. Nó bắt đầu lấy chiếc mỏ ấy rút từng chiếc móng vuốt ở chân ra. Khi móng vuốt mọc lại, nó bắt đầu rút hết lớp lông cánh lúc đó rất rậm rạp. Và chừng mười ngày sau, nó thực sự lột xác, bay trở về với một vẻ tráng kiện mới… Và tiếp tục sống khoảng trên dưới ba mươi năm nữa. Tôi nuôi nó lúc nó mới bằng nắm tay cách đây hai mươi năm. Bởi thế nó sẽ là người bạn thân cận suốt cả cuộc đời tôi. Ngoài ra nó còn là cứu tinh của tôi. Nhân một chuyến đi săn, con ngựa bạch của tôi vừa bước vào vùng cỏ tranh thì bỗng xuất hiện một con rắn chúa cực lớn. Nó dựng nửa thân lên, cao tới đầu ngực, thè lưỡi như chiếc búp chè, miệng thở phì phì, phun ra nọc độc. Cả người lẫn ngựa đều hốt hoảng chưa biết xử trí thế nào thì vù một cái, chú chim ưng bay vượt lên, chiếc mỏ quặp của nó mổ xuống một nhát trúng gáy, khiến con rắn chúa gãy cổ, chết đứ đừ tuy khúc thân phía dưới của nó còn quằn quại một lúc lâu. Lính bắt lên xem thì là con rắn chúa đực. Chắc nó đang canh chừng cho con cái lột xác. Dù tôi có đói khát mà cô trả tôi, cả trăm lượng vàng tôi cũng không thể bán nó. Món nó khoái nhất là vịt…
Đêm đầu tiên tôi hé mắt nhìn. Không biết của những người đàn ông khác thế nào, chứ của anh ta gần bằng chiếc chày giã cua. Nó liên tục giã. Tôi quằn quại đau đớn nhiều lúc tưởng chừng như tắc thở. Sau trận đòn thứ nhất tôi lồm cồm bò dậy, vớ lấy bình rượu tu một hơi hết sạch. Mượn ma men làm cho tôi lịm đi, để anh ta muốn làm gì tiếp thì làm.
Sau hai ngày nghỉ ngơi đến đêm thứ ba, cảm giác đã trái ngược lại hoàn toàn. Tôi có cảm tưởng chiếc chày giã cua của anh ta đã được bọc nhung. Êm ái vô cùng. Đã có lúc tôi nhổm hẳn người lên khiến anh ta cũng phải bật cười sằng sặc. Đến đêm cuối cùng cảm giác sung sung đã lên tới đỉnh điểm. Đã có lúc tâm trí tôi đã lung lay và tự hỏi của nả có là cái gì, chỉ có mình ngu dại mới không chịu lấy chồng? Nhưng sáng ra, nhìn bộ mặt có nhiều cá tính mạnh của anh ta với chiếc mũi mỏ diều, hai cánh mũi mỏng khoét sâu đầy vẻ dâm đãng và chiếc miệng rộng với hai khóe môi thu lại rất gọn gàng đầy vẻ cương quyết và trịnh thượng đã khiến cho sự kiên nghị lúc đầu của tôi trở lại.
Cuộc chia tay thật chóng vánh. Tôi trả con thuyền và đống than, củi của anh ta với giá ba mươi đồng.
- Con thuyền này rất chắc chắn được phết sơn ta rất kỹ lưỡng nên khí đắt. Chứ chỗ than, củi có đáng là bao trị giá chỉ hai ba đồng.
Anh ta giải thích xong xuống thuyền thu dọn đồ dùng cá nhân, buộc vào chiếc tay nải khoác lên vai. Tay kia cầm chiếc kiếm dài, đầu cất cao (lúc này trời đã hửng nắng) sải những bước rộng rãi bằng đôi chân dài chắc nịch. Nghe tiếng huýt sáo con chim ưng lông đỏ mỏ quặp từ nóc thuyền liệng xuống đậu trên một bên vai anh. Còn cách mấy ngày thì đầy chín tháng tôi sinh ra thằng cún con này. Mới đẻ ra đã biết ngay là “giỏ nhà ai quai nhà ấy”. Đầu tiên là đôi chân dài, rồi đến cái mũi, cái miệng, đôi mắt hơi lồi, giống anh ta như đúc. Cha tôi ngắm nghía nó hồi lâu rồi bảo: “cái ngữ này không kèm cặp thì lớn lên dễ thành tướng cướp lắm đây!”. Bế nó mệt lắm! Hai chân nhảy như con choi choi suốt ngày.
Chị Cả Lưu là vị khách cuối cùng rời khỏi nhà Phạm Ngũ Lão. Ở đầu cổng đã có ba bốn gia nhân soi đèn lồng đưa chị về.
Trăng cuối tuần đã lên tới đỉnh đầu trước khi giục Ngũ Lão đi nghỉ, mẹ hỏi một câu thăm dò:
- Trong lúc còn đang yên hàn thế này, anh có ý trung nhân nào chưa thì đưa về đây cho mẹ mừng?
- Cũng sắp có rồi mẹ ạ!
- Con cái nhà ai? Con ông cả, bà lớn là mẹ mất cháu đấy! Vì cái thân xác quê mùa này sao dám bước vào cửa nhà người ta.
- Mẹ yên trí mà! Cô ấy cũng là con nhà nông dân như nhà mình. Mặc dù bây giờ là con gái nuôi của Quốc công Tiết chế.
- Ối trời ơi! Cái đám cành cao, lá vàng ấy làm sao mà con với tới được?
- Mẹ đừng cả nghĩ làm gì cho mệt. Tiết chế nhận con làm con nuôi. Luôn được ở bên Người… được Người dạy dỗ hàng ngày. Ngay như chuyến về đây. Phải như thế nào thì Tiết chế mới cho theo hầu. Chứ có phải ai muốn cũng được đi đâu.
- Đấy là mẹ nói thế thôi! Mọi việc mẹ nghĩ đều do ông Giời sắp đặt cả rồi. Có muốn cũng không được mà có từ cũng không xong.
Chợp mắt được một canh giờ, Ngũ Lão trở dậy đã thấy mẹ đang lọ mọ dưới bếp.
- Mẹ làm gì mà dậy sớm thế?
- Mẹ dậy luộc cho anh nồi khoai lang và nấu cho anh nồi nước chè tươi. Những thứ mà lúc ở nhà anh vẫn thích…
- Cám ơn mẹ! Đúng là những món ăn mà con đương thèm.
Rồi Phạm Ngũ Lão ra giếng múc nước rửa mặt và lấy nước cho ngựa uống. Con Tía bỗng dựng hai chân trước lên thành giếng, cúi cái mõm xuống rồi hý lên mấy tiếng rất khác thường. Phạm Ngũ Lão lôi nó ra buộc vào gốc cây thị rồi bê chậu sành nước lớn đặt trước mõm. Nhưng nó chỉ thọc mõm xuống rồi lắc lắc sang hai bên mà kiên quyết không uống. Thấy con Tía dở chứng Phạm Ngũ Lão vừa tát nhẹ vào mặt nó, vừa nựng: “Tía ngoan nào! Có chuyện gì làm mày không vừa lòng ư?” Nó lại quay đầu về phía thành giếng, dựng hai chân trước lên bồn chồn hí hai ba tiếng nữa. Phạm Ngũ Lão quay lại, nhìn xuống thấy lòng giếng tối om, toát lên một vẻ gì đó rờn rợn. Khi đào và xây thành giếng, Ngũ Lão đã cẩn thận xây thành lên khá cao tới trên ngực mẹ, khiến mẹ kéo gầu nước lên khá vất vả. Không phát hiện có gì lạ, Ngũ Lão quay lại mắng con Tía. Trong lúc Phạm Ngũ Lão ngồi ăn khoai và uống nước chè tươi thì bà mẹ dùng quạt nan quạt cho con. Ngũ Lão bảo:
- Bây giờ con đã có lương bổng của triều đình rồi. Mẹ nên đón mấy đứa con nhà chú hai lên ở cho vui cửa vui nhà. Chứ lủi thủi một thân một bóng thế này con thấy ái ngại quá!
- Từ ngày anh lên kinh, làm đến chức đô úy, hàng xóm láng giềng… kể cả các vị chức sắc trong làng, trên hương thỉnh thoảng cũng có ghé qua… nên cũng không cảm thấy quạnh quẽ.
- Nhà chú hai đông con, mẹ cứ đón hai ba đứa lên nuôi đỡ cho chú thím ấy. Đứa nào muốn học chữ thì cho nó đi. Vừa san sẻ miệng ăn được cho gia đình chú thím ấy. Lại có người í ới lúc mẹ trái gió trở trời.
- Được rồi! Anh cứ đi đi! Ngay hôm nay mẹ sẽ xuống đón mấy đứa về.
Trời rạng sáng, Phạm Ngũ Lão đã lên yên, mẹ dặn với theo:
- Con phải sang chào sư phụ một câu chứ!
- Vâng, nhất định phải thế rồi… Hôm qua cùng tiếp Quốc công Tiết chế nên con chưa nói gì được với sư phụ cả.
Từ biệt sư phụ xong lúc đầu Phạm Ngũ Lão định phóng thẳng một mạch về Vạn Kiếp. Nghĩ thế nào, Ngũ Lão lại rẽ qua nhà.
- Con quên cái gì à? - Thấy Phạm Ngũ Lão dắt ngựa vào sân, mẹ hỏi.
- Không, con muốn vào chào mẹ lần nữa. - Ngũ lão tần ngần nhìn cái dáng gầy gò, tất tả một lúc lâu mới dắt con Tía ra đường. Mẹ níu vào vai Ngũ Lão nói:
- Mong sao ông trời phù hộ độ trì cho đất nước được yên hàn mãi như thế này!
- Dân ta tất thảy đều muốn như vậy. Nhưng cây muốn lặng, mà gió chẳng muốn đừng, chẳng chóng thì chày là giặc Nguyên Mông hung hãn sẽ tràn xuống nước ta. Nhưng mẹ yên tâm đi! Đã có Tiết chế, Ngài đã có kế sách đánh đuổi chúng rồi.
- Phận nam nhi phải đi báo đền nợ nước là đúng rồi! Nhưng con cũng phải bảo trọng con nhé!
- Ở nhà mẹ cũng phải bảo trọng mẹ ạ!
Phạm Ngũ Lão không thể ngờ được rằng đấy là lần cuối cùng hai mẹ con được nói chuyện với nhau. Biết Hưng Đạo vương có ý định gả quận chúa An Nguyên, có kẻ trong giới quý tộc đã nghĩ ra một độc kế hãm hại mẹ Ngũ Lão để phá bằng được…
Chim Ưng Và Chàng Đan Sọt Chim Ưng Và Chàng Đan Sọt - Bùi Việt Sỹ Chim Ưng Và Chàng Đan Sọt