Reading means borrowing.

Georg Christoph Lichtenberg, Aphorisms

 
 
 
 
 
Tác giả: Rohinton Mistry
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 20
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1946 / 89
Cập nhật: 2017-08-29 15:44:17 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
V: Những Ngọn Núi
hi Maneck Kohlah hoàn tất công cuộc chuyển đồ đạc của mình từ kí túc xá sang căn hộ của Dina, toàn thân cậu đã đầm đìa mồ hôi. Tay khỏe thật, cô nghĩ, khi nhìn cậu vác những vali cùng hộp êm ru, rồi cẩn thận đặt từng món xuống đất.
“Ướt hết cả rồi,” cậu nói, đoạn giơ tay lên chùi trán. “Cô Dalal, cháu phải đi tắm cái đã.”
“Vào giờ này? Cháu đùa đấy à? Làm gì có nước, cháu phải chờ đến sáng mai cơ. Mà lại cô Dalal nữa là thế nào?”
“Cháu xin lỗi, dì Dina.”
Thằng bé đẹp trai quá, cô nghĩ, có cả lúm đồng tiền khi cười nữa. Nhưng cô cảm thấy cậu nên tiêu diệt ngay mấy sợi râu lơ thơ phía trên môi đang gồng mình đòi sắm vai một bộ ria đi. “Dì gọi cháu là Mac được không?”
“Cháu ghét cái tên đấy.”
Cậu dỡ đồ, thay áo sơ mi, và họ ăn tối. Cậu chỉ ngẩng mặt lên khỏi đĩa duy nhất một lần, gặp ánh mắt của cô và nở nụ cười buồn. Cậu ăn rất ít; cô bèn hỏi thức ăn có được không.
“Ồ, ngon, ngon lắm ạ, cảm ơn dì.”
“Nếu bác Nusswan, anh trai dì ấy mà, nhìn thấy đĩa cơm của cháu, thế nào bác ấy cũng bảo ăn thế thì đến con chim cảnh nhà bác ấy cũng bị đói đấy.”
“Trời nóng quá, cháu không thiết ăn,” cậu nói nhỏ, giọng phân bua.
“Ừ, dì nghĩ nếu so với không khí miền núi trong lành trên nhà cháu, dưới này chắc nóng như nung ấy nhỉ.” Cô cho rằng cậu cần được quan tâm an ủi. “Tình hình ở trường thế nào?”
“Tốt ạ, cảm ơn dì.”
“Nhưng cháu không thích kí túc xá à?”
“Không ạ, ở đấy ồn ào lắm. Cháu không học nổi.”
Lại một không khí im lặng kéo dài mấy nhúm cơm liền, nỗ lực gợi chuyện tiếp theo xuất phát từ cậu. “Hai người thợ may cháu gặp tháng trước, họ còn làm cho dì không?”
“Còn,” cô nói. “Họ đến vào sáng sớm.”
“Ô, tuyệt, được gặp lại họ thì hay quá.”
“Thật à?”
Cậu không nghe ra giọng bực dọc trong đó, và cố gật đầu vui vẻ trong khi cô bắt tay vào dọn bàn. “Để cháu giúp dì,” cậu nói, đoạn đẩy ghế đứng lên.
“Không, cứ để mặc dì.”
Cô mang đĩa vào bếp ngâm để sáng mai rửa, và cậu nhìn quanh. Căn hộ khiến lòng cậu trĩu nặng, cảm giác không khác gì ngày đầu cậu tới để xem phòng ốc. Chỉ sau chưa đầy một năm nữa thôi, cậu sẽ rời đi, cậu thầm nghĩ, cảm ơn trời đất. Nhưng với dì Dina, đây là nhà. Khắp nơi đều mang dấu vết cuộc vật lộn của cô hòng bứt khỏi cảnh bần cùng, hòng mang sự ngăn nắp ra chữa chạy và gò sự nhếch nhác của nghèo đói vào khuôn khổ. Cậu nhìn thấy điều đó trong tấm lưới mắt cáo căng đè lên những ô kính cửa sổ đã vỡ, trong bức tường và trần bếp ám đen, trong lớp vữa lở lói, trong những mảnh vá víu trên cổ và tay chiếc áo cô mặc.
“Nếu mệt, cháu cứ đi ngủ trước đi, đừng đợi dì,” cô nói.
Cho đó là một câu đuổi khéo, cậu bèn lui về phòng mình – phòng của cô, cậu nghĩ với cảm giác có lỗi – và ngồi lắng nghe những tiếng động vẳng ra từ phía trong nhà, cố đoán xem cô đang làm gì.
Trước khi lên giường đi ngủ, Dina mở vòi nước trong bếp để nhờ dòng nước đầu tiên chảy xuống đánh thức vào sáng mai. Cô nằm thao thức một lúc, nghĩ về người khách trọ của mình. Ấn tượng đầu tiên rất tốt. Cậu không hề có vẻ gì là đỏng đảnh khó chiều, nhã nhặn, lễ phép, và hơi ít nói. Song biết đâu hôm nay cậu đang hơi mệt, mai cậu sẽ hoạt ngôn hơn chăng.
Maneck ngủ không yên. Một cánh cửa sổ bị gió đập liên hồi, nhưng cậu ngại không dám dậy xem, sợ mình sẽ vấp ngã trong bóng đêm, làm phiền bà dì. Cậu xoay phải lật trái, ám ảnh bởi cái kí túc xá. Cuối cùng cũng thoát, cậu nghĩ. Nhưng giá được về thẳng nhà có phải tốt hơn bao nhiêu không…
Cậu trở dậy từ sớm; cái vòi nước để mở hóa ra cũng biến thành chiếc đồng hồ báo thức cho cậu luôn. Đánh răng xong, cậu quay về phòng và tập chống đẩy, trên người chỉ mặc độc cái quần lót, không hề nhận ra là Dina, lúc ấy đã dọn dẹp xong trong bếp, đang nhìn mình qua cánh cửa mở hé.
Cô trầm trồ đường móng ngựa dồ lên rồi lặn xuống trên hai khối cơ đầu vai theo từng chuyển động lên xuống của cậu. Đúng như mình nghĩ tối qua, cô tự nhủ, cánh tay khỏe đẹp thật. Và thân hình cũng nở nang ghê. Chợt má cô đỏ bừng bối rối – mẹ nó học cùng lớp với mình… thằng bé chỉ đáng tuổi con mình. Cô bèn quay đi, không dám nhìn qua cánh cửa nữa.
“Cháu chào dì.”
Cô e dè quay đầu lại, thở phào khi thấy cậu đã mặc quần áo chỉnh tề. “Chào cháu, Maneck. Cháu ngủ có ngon không?”
“Có ạ, cảm ơn dì.”
Cô dẫn cậu vào nhà tắm và chỉ cho cậu cách sử dụng dây may-so đun nước, rồi đi ra. Cậu đóng cửa lại để cởi quần áo, cẩn thận di chuyển trong không gian nhỏ hẹp, xa lạ. Nước nóng bốc hơi, rồi sôi lăn tăn trong xô. Cậu đưa đầu ngón tay vào để thử độ nóng, đoạn nhúng ngập đến cổ tay, khoan khoái tận hưởng làn nước ấm. Cậu nhận ra chính không khí ẩm ướt của một ngày mùa mưa đã làm hơi nước bốc lên và tụ lại dày đặc, song sức nóng của nó cũng không hơn gì làn mây mù mơ hồ đang ôm ấp những ngọn núi nơi quê nhà cậu.
Nếu nhắm mắt lại, cậu có thể mường tượng ra: vào tầm giờ này, làn mây đang vần vũ biến ảo, lượn quanh những đỉnh núi tuyết phủ. Ngay sau khi mặt trời lên là thời điểm thích hợp nhất để quan sát điệu múa khoan thai này, trước khi ánh nắng đủ mạnh để xé toang lớp màn mây. Khi ấy cậu thường đứng bên cửa sổ, ngắm ráng bình minh màu hồng và cam, tưởng tượng làn sương mù đang cù khẽ vào tai núi hay vấn vít dưới cằm, hoặc dệt thành một chiếc mũ đội lên đầu núi.
Rồi chỉ lát sau, cậu sẽ nghe thấy những thanh âm quen thuộc từ dưới nhà vọng lên, tiếng bố cậu mở cửa hàng và bước ra ngoài để quét thềm nhà. Trước tiên, bố sẽ chào bọn chó vừa nghỉ đêm trên thềm nhà. Họ chẳng bao giờ gặp phiền phức gì với lũ chó hoang; bố đã giao kèo trước với chúng: chúng có thể ngủ ở đây và ăn các loại xương xẩu thừa thẹo; nhưng tới sáng phải rời đi. Và lũ chó luôn ngoan ngoãn bỏ đi khi tia sáng đầu tiên chiếu xuống, dù có phần miễn cưỡng, sau khi dụi dụi vào mắt cá chân ông. Ở trong bếp, mẹ sẽ nhóm lò bằng những cục than đen bóng, đặt một bình trà đầy, cắt bánh mì, và để mắt luôn luôn đến cái bếp.
Đến tầm giờ này, khi chảo sôi xèo xèo và phun phì phì, mùi trứng tráng thơm lừng bắt đầu chu du lên gác và tràn ra ngoài hiên. Vị đặc phái viên ngon lành ấy sẽ mang thông điệp không lời đến tận tai Maneck và bố. Sau đó, Maneck sẽ tạm biệt cảnh mây mù múa lượn, nhanh chân chạy xuống ăn sáng, cậu ôm bố mẹ, thì thầm lời chào buổi sáng vào tai từng người trước khi ngồi vào ghế của mình. Bố cậu có riêng một cái tách đặc biệt rất to, ông hớp từng ngụm trà lớn từ đó trong khi vẫn đứng. Khi uống tách trà đầu tiên, ông luôn đứng, rồi đi vòng quanh bếp, phóng tầm mắt ra cửa sổ ngắm cảnh thung lũng buổi tinh mơ. Những bận Maneck bị cảm lạnh hoặc đang vào đợt thi cử, cậu sẽ được phép uống bằng tách của bố, chiếc tách có lòng rộng đến độ Maneck nghĩ mình không bao giờ uống hết, không bao giờ húp cạn đến tận đáy tách, nhưng cậu vẫn cố uống, để xem liệu mình có thể chiến thắng và làm lộ ra hình ngôi sao vẽ dưới đáy cốc, khiến nó đổi màu dần dần qua những lớp chất lỏng cuối cùng, thoắt ẩn thoắt hiện khi cậu xoay nghiêng tách…
Vừa vẩy sạch nước trên cánh tay ướt đẫm, Maneck vừa mắm môi mắm lợi khóa chiếc vòi nước đang nhỏ tong tỏng – gioăng kém quá – và ngẩn ngơ nhìn những xoáy hơi cuộn tròn trên xô nước nóng. Trí tưởng tượng ngập trong nỗi nhớ thương quê nhà như vẽ ra trước mắt cậu những ngọn đồi bồng bềnh trôi trong sương mù, đi qua vùng mưa giông sang tới nơi quang đãng. Cậu thở dài, đứng trên bậc gờ cao khuôn lấy khu tắm rửa, và treo quần áo lên đầu đinh còn trống bên cạnh chiếc khăn bông. Mũi đinh thứ ba bị chiếm cứ bởi một chiếc áo lót, với thứ gì đó bên dưới – được đan bằng loại sợi thô, chắc, giống như một cái bao tay không có ngón cái. Tò mò, cậu bèn kéo nó ra xem. Ra là một cái găng để kì cọ, cậu kết luận, và bước xuống khỏi bậc, đoạn cậu lấy chiếc ca múc nước trong xô dội lên người.
Rồi cậu nhìn thấy lũ giun. Phylum Annelida, cậu nhớ đã học về chúng trong giờ sinh vật. Từ ống cống, chúng bò ra, cả một đội quân hùng hậu, con nào con nấy loe ngoe, thân đỏ sậm, sáng óng ánh trên nền đá xám, lừ lừ lướt tới như thôi miên. Maneck đờ dại trong một giây, rồi lập tức nhảy lùi lại lên chỗ an toàn trên gờ gạch.
Nhiều tuần trước, khi Dina hay tin người khách trọ Zenobia tìm thấy là con trai của một cô bạn học cùng trường, trí nhớ của cô không tài nào vượt qua ngần ấy năm ròng để lôi ra khuôn mặt được nhắc đến.
“Cô ấy có một nốt ruồi dưới cằm ấy,” Zenobia nhắc, “còn mũi hơi khoằm một chút. Mặc dù tớ thấy nhờ thế mà nom cô ấy đâm dễ thương.”
Dina lắc đầu, vẫn không nhớ ra.
“Cậu có tấm ảnh chụp cả lớp vào… xem nào,” Zenobia bấm đốt ngón tay. “1946, ’47, ’48, ’49… đúng rồi, 1949.” “Nusswan có cho tớ tiền mua ảnh đâu. Cậu quên ông anh tớ cư xử thế nào sau khi bố mất rồi à?”
“Có, nhớ chứ. Tên khốn. Toàn bắt cậu mặc mấy bộ đồng phục dài lượt thượt đến lố bịch, rồi đi đôi giày vừa xấu vừa nặng nữa chứ. Khổ thân cậu. Bây giờ nghĩ lại tớ vẫn còn sôi tiết đây.”
“Cũng tại anh ta mà tớ mất liên lạc với tất cả mọi người. Trừ cậu.”
“Ừ, tớ biết. Hắn chẳng cho cậu tham gia dàn đồng ca, lớp kịch hay ba lê hay bất cứ hoạt động gì.”
Cả buổi tối hôm đó, họ chìm ngập trong niềm vui hồi tưởng, cười ngặt nghẽo trước đủ mọi hành động rồ dại và bi kịch của quá khứ. Trong tiếng cười của họ hiếm khi vướng nỗi buồn, bởi đó là những ký ức tuổi thơ. Họ nhớ lại những thầy cô giáo mình yêu quý, và Cô Lamb, cô hiệu trưởng, người bị gọi là Lambretta vì lúc nào cô cũng phóng vèo vèo dọc khắp các hành lang. Họ nhẩm tính mình bao nhiêu tuổi khi học lớp sáu, lúc bắt đầu học tiếng Pháp, và cô giáo dạy tiếng Pháp, người được họ gán cho biệt hiệu Mademoiselle Bouledogue[30], bắt đầu khủng bố cuộc sống của họ đều đặn ba lần một tuần. Ai cũng cho cái tên ấy là một minh chứng cho bản tính tai quái của bọn nữ sinh; kì thực, nó được tặng riêng cho cô giáo phần do khuôn xương hàm nặng nề, phần vì phương pháp tiếp cận hung hăng của cô đối với các động từ bất quy tắc và phép chia động từ.
Sau khi Zenobia ra về, Dina đong nửa cốc gạo, nhặt sạch sạn, và đun nước. Những giọt ánh sáng ban ngày cuối cùng đã được tận dụng hết, đã đến lúc phải bật đèn trong bếp lên. Qua ô cửa sổ mở rộng, cô nghe thấy tiếng một bà mẹ gọi con đang chơi ngoài đường về nhà. Rồi mùi hành phi tràn vào. Khắp nơi nơi, giờ nấu nướng đã điểm.
Trong lúc cơm đang sôi, cô nghĩ, cảm giác nhớ lại những ngày đi học thật sung sướng biết bao – dễ chịu hơn nhiều so với điều cô thường làm gần đây: nghiền ngẫm và mơ màng về Nusswan và Ruby; về ngôi nhà của bố; về hai đứa cháu, Xerxes và Zarir, nay đã là những chàng trai trưởng thành, một hai mươi hai và một mười chín tuổi, mà cô hiếm khi gặp mặt quá một lần mỗi năm.
Ăn tối xong, cô ngồi bên cửa sổ, ngắm người bán bóng bên kia đường dụ khị lũ trẻ đi ngang qua. Ở đâu đó có tiếng đài oang oang phát nhạc hiệu của chương trình “Lựa chọn của mọi người.” Tám giờ rồi, Dina tự nhủ, khi nghe thấy giọng của Vijay Correa giới thiệu bài hát đầu tiên. Cô ngồi may tấm chăn ghép trong khoảng một tiếng. Trước khi đi ngủ, cô xát xà phòng vào quần áo và để trong xô chờ đến sáng mai giặt.
Tối hôm sau, trên đường từ Thẩm mĩ viện Venus về nhà, Zenobia lại ghé qua và lấy từ trong túi ra một chiếc phong bì lớn. “Cậu mở ra đi,” cô nói.
“Ô, là ảnh chụp cả lớp,” Dina reo lên hoan hỉ.
“Xem bọn mình này,” Zenobia chậc chậc vẻ thèm tiếc. “Hồi ấy bọn mình chắc mới tầm mười lăm.” Cô chỉ một cô bé đứng ở hàng thứ hai.
“Ừ, giờ tớ nhớ ra rồi. Aban Sodawalla. Mặc dù xem tấm ảnh này thì không nhìn ra được nốt ruồi của cô ấy.”
“Hồi đấy bọn con gái trêu chọc cô ấy đến khổ. Có đứa còn đặt cả một bài thơ rõ nghịch, cậu nhớ không? ‘Aban Sodawalla trông chả xinh, rửa mặt bằng sô đa mới đỡ kinh’.”
“Dưới cằm có nốt ruồi to bự, lấy kim mà chọc cho đã nư!” Dina đọc nốt. “Hồi đó bọn mình ngốc thật, nghĩ ra mấy bài vè dớ dẩn thế không biết.”
“Ừ. Rồi đến lúc mười sáu tuổi, cả lũ bù xù bọn mình đều cố làm sao cho có nốt ruồi giống cô ấy. Đứa nào cũng chấm lên mặt một cái, lố không chịu được!”
Dina lại ngắm bức ảnh một lúc. “Tớ nhớ cô ấy rõ nhất là vào hồi lớp bốn. Chừng tám, chín tuổi gì đó. Hồi ấy ba đứa bọn mình dính nhau như sam. Cô ấy là đứa nhảy dây rất giỏi, đúng không?”
“Đúng, chính xác.” Zenobia mừng rỡ vì rốt cuộc một mối liên hệ vững chắc đã được thiết lập. “Kinh khủng, mà chữ ‘kinh khủng’ viết hoa kia, các thầy cô toàn gọi bọn mình thế, nhớ không?”
Họ tiếp tục lần theo vệt kí ức ở điểm cả hai vừa bỏ lại hôm qua: những trò chơi họ đã chơi trong những giờ nghỉ dài và nghỉ ngắn, và thú vui tết tóc cho nhau, so dây buộc tóc, trao đổi kẹp tóc. Và khi ngực bắt đầu nhú, cô nào cũng cố rùn vai để làm cái khối cong vồng đáng thẹn thùng ấy bớt nhô cao, hoặc mặc áo len để giấu biến chúng đi, thậm chí giữa những hôm nóng như đổ lửa, rồi thì thụt về kì kinh đầu tiên của mình, bẽn lẽn bước đi trong những ngày đầu tập làm quen với băng vệ sinh. Và sau đó là trêu ghẹo nhau về những cậu bạn trai, những nụ hôn tưởng tượng, mơ mộng về những buổi dạo chơi giữa khu vườn lãng mạn.
Trên tất cả, Dina và Zenobia không khỏi kinh ngạc, bởi tại sao trong suốt những năm tháng ngây thơ khủng khiếp ấy, các cô bé có thể biết rõ từng chân tơ kẽ tóc trong cuộc đời nhau như thế. “Rồi bố cậu mất,” Zenobia nói. “Và lão anh trai không cho cậu đánh bạn với ai nữa. Nhưng cậu biết không, cậu cũng không bỏ lỡ nhiều chuyện lắm đâu – sau năm cuối cấp, hầu hết bọn mình đều mất liên lạc với các bạn.”
Học xong phổ thông, một số bạn bè của họ phải đi làm vì gia đình nghèo; số khác vào đại học, và có nhiều người không được phép học lên nữa, vì đại học có thể ảnh hưởng xấu đến cuộc đời của những cô gái sắp phải làm vợ, làm mẹ – họ bị giữ ở nhà để phụ việc bếp núc. Nếu trong nhà không có đứa em gái nào để thừa kế chỗ áo sơ mi và váy yếm đồng phục, chúng sẽ bị cắt thành giẻ lau bếp hoặc miếng lót tay để bắc xoong chảo nóng. Rồi những cô gái từng một thời là bạn học đâm trở nên nhạt nhẽo, thậm chí giữ kẽ với nhau, mỗi khi tình cờ chạm mặt. Dường như ai nấy đều hổ thẹn về những việc mình đang làm hàng ngày, như thể họ đã thông đồng nhau trong một cuộc phản bội tập thể với thời thơ ấu và tuổi trẻ của mình vậy.
“Cậu là đứa bạn duy nhất mình còn qua lại – cậu và Aban Sodawalla, dĩ nhiên,” Zenobia.
Đoạn cô kể nốt phần còn lại câu chuyện đời của cô bạn học: ít lâu sau kì thi đại học, Aban được các bạn bè của gia đình giới thiệu cho một anh Farokh Kohlah nào đấy nhân dịp anh ta xuống chơi thành phố, anh này có hẳn một sản nghiệp kinh doanh trên miền bắc, cách đây rất xa, ở một thị trấn miền núi. Gia đình Sodawalla ưng ý anh này ngay từ cái nhìn đầu tiên. Phong thái của chàng Parsi trẻ tuổi mới đứng đắn đĩnh đạc làm sao, ông Sodawalla nắc nỏm, vóc người thật rắn rỏi, hẳn là nhờ cuộc sống lành mạnh nơi miền núi. Bà Sodawalla lại bị ấn tượng nhất bởi làn da sáng của anh ta. Không trắng ởn như ma kiểu người Âu, bà bảo các bạn bè, mà vừa vặn và khỏe khoắn.
Cho đây là một mối tiềm năng, gia đình Sodawalla bèn khôn khéo tổ chức một kì nghỉ ở thị trấn nói trên ngay trong năm tiếp theo. Và, vừa hay, chiến lược đó đã mang lại kết quả mong muốn. Aban đem lòng yêu Farokh Kohlah và vẻ đẹp thiên nhiên của vùng đất. Rồi cô kết hôn và sống luôn ở đó.
“Cô ấy vẫn viết thư cho tớ mỗi năm một lần, không khi nào sai hẹn,” Zenobia nói. “Thế nên tớ mới biết cô ấy đang tìm phòng trọ cho con trai.”
“Thật may cho tớ quá,” Dina nói. “Cảm ơn cậu đã giúp tớ.”
“Có gì đâu. Nhưng có trời mới biết làm sao Aban sống nổi ngần ấy năm trời trên cái thị trấn miền núi bé tin hin ấy. Nhất là sau khi được sinh ra và lớn lên ở thành phố đáng yêu của chúng ta. Thành thực mà nói, phải tớ, chắc tớ phát điên mất.”
“Nếu có cả cửa hiệu riêng, thì chắc họ phải giàu lắm,” Dina nói.
Zenobia không tin lắm. “Giữa thời nay mà chỉ có một cửa hiệu bé tí giữa vùng đồi núi, phỏng giàu đến đâu?”
Ấy vậy mà gia đình Maneck quả đã có thời cực kì giàu có. Những cánh đồng lúa bạt ngàn, những khu vườn táo và đào, một hợp đồng cung ứng lương thực dự trữ béo bở cho các điểm đóng quân dọc đường biên giới – tất thảy đều nằm trong số những món thừa kế Farokh Kohlah được hưởng, và anh săn sóc nó rất khéo, khiến nó sinh sôi nảy nở thêm nhiều lần, để chờ sẵn cô vợ sắp cưới và đứa con trai sẽ chào đời sau đó.
Nhưng từ rất lâu trước cái ngày lâm bồn được mong mỏi ấy, đã xảy ra một cuộc sinh nở khác, đẫm máu hơn nhiều, khi hai quốc gia thoát thai từ một đất nước duy nhất. Một người ngoại quốc đã vạch một đường ma thuật trên bản đồ và gọi nó là biên giới mới; nó lập tức biến thành một dòng sông máu trên mặt đất. Và những vườn quả, đồng ruộng, nhà máy, công việc kinh doanh, tất thảy đều nằm ở phía bên kia đường kẻ, biến mất chỉ với một cái vẩy đũa của vị pháp sư có làn da nhợt nhạt.
Mười năm sau, khi Maneck ra đời, Farokh Kohlah, bị sập cái bẫy lịch sử, vẫn chăm chỉ lặn lội tìm đến các tòa án trên thủ đô, đau đầu rối mắt trước mớ bòng bong kế hoạch đền bù của chính phủ, trong khi giấy tờ liên tục được trao đi đổi lại và các nhà ngoại giao đi về như con thoi giữa hai quốc gia. Giữa những chuyến đi, anh vẫn giúp vợ trông nom cửa hàng bách hóa tổng hợp kiểu cũ trên thị trấn. Cửa hàng này là tất cả những gì còn lại từ sản nghiệp khổng lồ của anh, đã thoát khỏi những biến cố về bản đồ nhờ nằm lọt ở bên này đường kẻ ma thuật.
Trong suốt nhiều năm trời, cửa hàng chỉ hoạt động cầm chừng, nó được xem như một thú vui hoặc một loại câu lạc bộ xã hội hơn là một nơi buôn bán. Nguồn thu nhập thực tế đến từ những nguồn khác, những nguồn đã mất. Giờ nó cần được chăm chút tử tế, bởi tầm quan trọng của mình.
Hóa ra Aban Kohlah lại là một nhà quản lý trời sinh trong Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp nọ. “Mấy việc này em xử dễ không ấy mà,” chị bảo chồng. “Anh còn nhiều việc quan trọng hơn phải lo.”
Một chiếc cũi được kê ngay sau quầy bán hàng để chị không phải rời con phút nào. Chị đặt hàng, làm sổ sách, bày hàng lên giá, phục vụ khách khứa, và, trong những lúc rảnh rỗi, chị ra sau cửa hàng, say sưa thưởng ngoạn khung cảnh hùng vĩ của thung lũng. Cuộc sống ở vùng đồi núi hoàn toàn phù hợp với chị.
Ban đầu Farokh Kohlah chỉ lo vợ sẽ nhớ thành phố và họ hàng thân thích. Anh sợ rằng một khi cảm giác háo hức trước một vùng đất mới lạ đã phai nhạt, những lời than thở sẽ nổi dậy. Hóa ra anh chỉ lo lắng vô ích; tình yêu của chị dành cho miền đất này chỉ càng lớn thêm mãi theo thời gian.
Cái cũi chẳng mấy đã bị thất sủng, còn Maneck bò lổm ngổm khắp mặt quầy, rồi đi chập chững giữa các giá bày hàng. Tinh thần cảnh giác của chị Kohlah nay được đẩy tới cùng cực. Chị chỉ sợ thằng bé sẽ làm các thứ hàng hóa rơi xuống đầu nó. Nhưng những lúc chị phải quay lưng lại với con, đã có khách mua hàng nhận phần trông nom, họ nghĩ ra mấy trò an toàn cho nó làm, chơi với nó, mua vui cho nó bằng những đồng tiền xu hoặc móc đeo chìa khóa, hay những mảng màu sặc sỡ trên tấm khăn choàng và khăn quàng cổ đan tay. “Ê ê, chó con! Tinh tinh! Chó con, gư gư!”
Đến lúc lên năm, Maneck đã hãnh diện được phụ việc cho bố mẹ trong cửa hàng. Cậu đứng sau quầy bán hàng, chỏm tóc đen mấp mé mặt quầy, chờ nghe yêu cầu của khách. “Con biết ở đâu rồi! Để con đi lấy cho!” Cậu hét tướng, và lật đật chạy đi lấy món hàng trong ánh mắt âu yếm của chị Kohlah và khách khứa.
Sau khi bắt đầu đi học vào năm tiếp đó, cậu vẫn tiếp tục giúp bố mẹ vào buổi tối. Cậu tự nghĩ ra chế độ đãi ngộ riêng cho các khách hàng quen, cậu lấy sẵn các thức mua hàng ngày của họ – ba quả trứng, một ổ bánh mì, một gói bơ nhỏ, bánh quy – đặt trước trên quầy, sẵn sàng đợi họ đến lấy vào giờ đã định.
“Ôi con trai tôi,” anh Kohlah thốt lên, giọng đầy tự hào. “Mới sáu tuổi đầu mà đã lắm sáng kiến, có óc tổ chức thế cơ.” Anh nhấm nháp niềm sung sướng được nhìn Maneck chào hỏi khách và chuyện trò với họ, kể về đàn khỉ hung hãn nó đã trông thấy khi ngồi trên xe buýt đến trường sáng hôm đó, hay tham gia vào cuộc bàn luận về một thác nước bị cạn. Được sinh ra và lớn lên ở đây, bản tính dễ gần của dân tỉnh lẻ hình thành một cách tự nhiên ở Maneck, và bố cậu lấy làm hoan hỉ lắm khi thấy con hòa đồng với mọi người dễ dàng đến thế.
Nhiều lúc, khi chiều buông, giữa cảnh ồn ã náo nhiệt của cửa hàng, được vây quanh bởi vợ con và khách hàng, những người cũng là bạn bè và hàng xóm của mình, anh Kohlah hầu như quên hết những mất mát mình đã phải chịu. Ừ, lúc ấy anh thầm nghĩ, phải, cuộc sống vẫn tốt kia mà.
Nhà Kohlah bán báo, mấy loại trà, đường, bánh mì và bơ; cả nến và rau củ muối, đèn pin và bóng đèn, bánh quy và chăn mền, chổi và sô-cô-la, khăn quàng và ô; rồi lại có cả đồ chơi, gậy chống, xà phòng, dây, và nhiều thứ khác.
Chủng loại hàng hóa không thật phong phú – chỉ có những mặt hàng thực phẩm cơ bản, một số món nhu yếu phẩm gia đình, và một ít đồ xa xỉ phẩm.
Cách thức buôn bán gần gũi thoải mái của cửa hàng đã biến nó thành điểm đến ưa thích của cả dân cư trong thị trấn lẫn dân ở các khu vực lân cận. Giả thử có khách nào không đủ tiền mua cả một gói bánh quy chẳng hạn, chị Kohlah sẽ chẳng ngần ngại xé luôn vỏ mà bán cho khách nửa gói; chị tin rằng thế nào cũng có người đến mua nốt nửa còn lại. Nếu một món hàng nào đó đã hết; anh Kohlah sẽ vui vẻ đặt ngay, chỉ cần khách không quá quan trọng về ngày nhận hàng. Mà kể cả nếu yêu cầu về ngày giờ có gắt đi chăng nữa, thì cũng chả làm gì hơn được vì chuyện vận chuyển còn tùy thuộc vào đường sá, còn đường sá tùy thuộc vào thời tiết, mà ai chả biết thời tiết tùy thuộc vào ông Trời. Báo buổi sáng thường đến nơi vào đầu giờ tối, khi ấy các vị khách quen tụ họp trên thềm nhà để hút thuốc hoặc nhâm nhi tách trà và vừa xem vừa bàn bạc về các tin tức, rồi đọc to các tít báo cho anh Kohlah cùng được nghe nếu anh đang mải lúi húi làm gì đó bên trong cửa hàng.
Tuy bán lắm thứ hàng hóa là thế, nhưng kì thực, xương sống của cửa hàng là một công thức nước giải khát bí mật đã được lưu truyền trong gia đình Kohlah qua bốn thế hệ. Dưới tầng hầm có một gian xưởng nhỏ, tại đây, món nước giải khát nói trên được pha chế, sục ga, và đóng chai. Một người thợ phụ lo súc rửa và chuẩn bị chai không, rồi đóng chai vào các thùng để chuyển đi. Để giữ bí mật công thức, anh Kohlah đích thân đảm trách mọi công đoạn pha chế và gia công; miếng bịt mắt của anh có thể xác thực điều đó: nó giúp che kín vết thương sâu hoắm tạo thành do một cái chai lỗi phát nổ do áp lực khí các-bon-níc.
Khi ấy, anh áp một cái khăn mù soa che đám bầy nhầy trên mặt rồi chạy lên gác tìm vợ. Lúc ấy họ mới cưới nhau được chưa đầy một năm, và đây là sự cố đầu tiên của hai vợ chồng. Chị sẽ khóc lóc vật vã, hay ngất xỉu, hay vẫn bình tĩnh? Anh lo cho con mắt của mình, nhưng cũng tò mò về phản ứng của vợ không kém.
Đang chửa đến tháng thứ bảy, Aban Kohlah tỏ ra khá gan dạ. “Farokh, anh có muốn làm một tí brandy trước không?” Anh đáp có. Chị cũng tợp một ngụm nhỏ, rồi lái xe đưa anh xuống bệnh viện dưới thung lũng. Các bác sĩ bảo anh may lắm mới giữ được mạng – cặp kính anh đeo đã triệt tiêu bớt sức mạnh của viên đạn thủy tinh, ngăn nó không găm sâu vào não anh. Nhưng con mắt của anh thì không cách gì cứu nổi nữa.
Anh Kohlah bảo thế cũng chẳng sao. “Một mắt là đủ để nhìn thứ tôi đang mong được thấy rồi,” anh mỉm cười, đoạn đặt tay lên cái bụng lùm lùm của vợ. Vả lại, anh tiếp lời, từ nay trở đi, những thứ xấu xí của thế giới cũng chỉ làm anh khó chịu bằng một nửa trước kia mà thôi.
Khi hốc mắt đã lành, anh không chịu lắp nhãn cầu thủy tinh. Miếng bịt mắt trở thành một phần trong trang phục thường nhật của anh. Anh đeo nó khi làm việc trong cửa hàng, để đến các cuộc họp mặt, hội hè. Tuy nhiên, trong những cuộc bách bộ dài trong khu rừng bên sườn đồi buổi chiều tà, miếng bịt mắt lại được yên vị trong túi, còn anh vừa trầm trồ không biết đến lần thứ bao nhiêu vẻ đẹp của thiên nhiên, vừa nhai rau ráu một củ cà rốt.
Biến cố mất một con mắt đã cho phép anh dung túng sở thích chén cà rốt của mình. Ý thích này vốn bị chị Kohlah kiềm chế tới nơi tới chốn, chị bảo cà rốt thì tốt thật, nhưng nghiện món gì quá cũng là không nên. Nhưng giờ chị đành phải để mặc tình yêu của anh được thể phát huy tối đa: nước ép cà rốt, xa lát cà rốt, cà rốt hầm thịt, cà rốt bỏ sẵn trong túi làm bạn đi đường với anh.
“Anh cần cà rốt,” anh Kohlah quả quyết. “Con mắt còn lại của anh phải thật khỏe mạnh, nó phải làm việc nặng gấp đôi kia mà.”
Thằng con trai của anh chị, mỗi lúc một lớn như thổi, sớm nhận ra niềm đam mê của bố. Mỗi khi bị mắng vì nghịch ngợm, nó lại lẻn xuống bếp lấy trộm một củ cà rốt và mang đến biếu bố làm quà dàn hòa, dù có thể sẽ phải nhận một trận quở quang thứ nhì từ mẹ nó.
Sau tai nạn kia, anh Kohlah càng cẩn trọng hơn khi làm việc dưới hầm. Anh cấm tiệt mọi người không được lai vãng gần khu vực này khi những cỗ máy cũ kĩ mệt mỏi kêu lạch xạch và phun phì phì, rót đầy chai tiếng xèo xèo của món Cola nhà Kohlah và lấp đầy ngăn kéo tiếng leng keng của những đồng tiền mà cả nhà rất cần.
Lo cho sự an nguy của anh, các bạn bè của anh tỏ niềm quan tâm bằng những câu đùa bỡn. “Cẩn thận nhé, Farokh, chui xuống lòng đất là nguy hiểm lắm đấy. Khai thác Cola cũng rủi ro chẳng kém gì khai thác than đâu.” Nhưng anh chỉ cười xòa và lờ tịt những lời bóng gió nọ.
Vứt quách tế nhị, họ bèn gợi ý anh nên nghiêm túc xem xét việc thay thế các máy móc cổ lỗ đi, và tính chuyện hiện đại hóa và mở rộng quy mô sản xuất. “Này, Farokh, anh nên suy nghĩ tỉnh táo một tí,” họ hối thúc. “Chất lượng của Kohlah Cola thật miễn chê, lẽ ra nó phải được cả nước biết mặt, chứ không nên chỉ quanh quẩn ở cái xó nhỏ hẹp của bọn ta.”
Song hiện đại hóa và mở rộng sản xuất là những tư tưởng quá đỗi xa lạ, khó hiểu đối với một người thậm chí còn từ chối cả việc quảng cáo. Kohlah Cola (hay còn được gọi là Kaycee) vốn nức tiếng trên khắp các làng bản thị trấn nằm rải rác trên sườn đồi trong bán kính mấy dặm. Tiếng tăm truyền miệng đã đủ dùng với cha ông của anh, anh bảo, thì cũng đủ với anh như thường.
Thỉnh thoảng cũng có những đối thủ trống giong cờ mở kéo đến, chào mời những loại nước giải khát khác, nhưng chẳng bao lâu sau đã phải bán xới mà đi vì không cạnh tranh nổi với sản phẩm của gia đình Kohlah. Không gì có thể sánh được với Kaycee, các khách hàng trung thành khẳng định – hương vị thơm ngon của nó cũng độc đáo hệt như không khí vùng núi cao vậy. Món nước giải khát và cửa hàng bách hóa tổng hợp ngày một phồn thịnh hơn.
Và cứ như vậy, đến khi Maneck bắt đầu đi học, công việc kinh doanh đã đi vào ổn định. Anh Kohlah bảo vệ công thức giúp mang lại nguồn sống cho cả nhà hết sức cẩn thận, chờ đến ngày anh có thể đem truyền lại cho Maneck, như khi xưa bố anh đã truyền lại cho anh. Cảm giác viên mãn bao bọc cuộc đời anh, một niềm kiêu hãnh ngấm ngầm vì đã sống sót qua cuộc thử lửa. Nó chỉ phát lộ trong những cuộc tụ họp hàng xóm láng giềng tối tối, khi cuộc chuyện trò từ từ chuyển về những ngày đã xa, về chuyện đời mỗi người; và khi đến lượt mình, anh Kohlah lại kể về những ngày vinh hiển của gia đình, không phải do thương thân hay ra vẻ, cũng chẳng phải để ca tụng những thành tựu của riêng mình trong hiện tại, chỉ là một bài học về đời người sống nơi biên ải – những tấm bản đồ hiện đại có thể tàn hại bản thân anh, nhưng chúng không thể phá vỡ giấc mơ anh dành cho gia đình mình.
Dĩ nhiên, ai cũng đã nghe những câu chuyện đó, nhiều lần là đằng khác; dẫu vậy, vẫn luôn có dịp để kể thêm lần nữa. Và anh Kohlah cũng không phải người duy nhất mắc tội “nhai lại”.
Đa phần bạn bè của hai vợ chồng Kohlah là quân nhân và vợ của họ, những con người vốn đã quen với cả một đời sống theo nếp nhà binh kiểu Anh, đã chọn cách dưỡng già nơi đồi núi, vì không tài nào ưng nổi một cuộc quy hương hồi cố về nơi đồng bằng bụi bặm và chốn thành thị hôi hám. Họ cũng có những câu chuyện hằng kể để nói, về những ngày xa xưa, khi kỉ cương là kỉ cương, chứ không phải một thứ phiên bản pha loãng không xứng với danh xưng ấy. Khi các nhà lãnh đạo có thể lãnh đạo, khi tất cả mọi người đều biết rõ vị trí của mình trong trật tự tạo vật, và cuộc sống diễn ra một cách quy củ nề nếp, chứ đâu có bị đe dọa từng ngày từng giờ bởi cảnh loạn li.
Khi đến dùng trà ở nhà Kohlah, các vị thiếu tướng, thiếu tá, và đại tá về hưu đều đóng bộ quân phục cùng giày bốt, như cách gọi của họ, với đồng hồ quả quýt bỏ túi và cà vạt trên cổ. Những món y phục lằng nhằng rắc rối này có vẻ lố bịch trước con mắt thiên về khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, nhưng nó lại mang giá trị như một món bùa phép đối với người mặc. Đó là tất cả những gì còn chắn giữa họ và sự vô tổ chức đang gõ thình thịch lên cửa. Chính anh Kohlah cũng rất mê nơ bướm. Chị Kohlah mời trà trong tách sứ xương hiệu Aynsley; còn thìa nĩa là của Sheffield. Nếu là bữa tối đặc biệt nhân dịp lễ Navroze hoặc Khordad Sal, chị sẽ dùng bộ bát đĩa Wedgwood.
“Họa tiết thật đáng yêu,” bà Grewal xuýt xoa. “Bao giờ dân nước này mới học được cách làm những món đồ đẹp như thế?”
Ngài thiếu tướng và bà Grewal là những người hàng xóm thân thiết nhất của vợ chồng Kohlah, và thường ghé chơi nhà họ khá thường xuyên. Bà Grewal cũng là vị thủ lĩnh không đối thủ trong đám vợ tướng tá. Nghe ám lệnh bà phát ra, một người gõ nhẹ chiếc ly thủy tinh để thử độ tinh khiết của nốt nhạc mà nó tạo ra; một người khác lại lật ngược chiếc đĩa để âu yếm ngắm nhìn mấy chữ lồng tên nhà sản xuất. Những lời ca tụng được rót xuống với phân lượng ngang nhau, phần dành cho các loại đồ ăn thức uống, phần dành cho những bát cùng đĩa chứa chúng. Trật tự hỗn loạn lại bị chặn đứng thành công thêm một ngày nữa.
Sau đó, cuộc trò chuyện chuyển hướng sang, như vô số lần trước đó, cơn ác mộng sẽ còn ám ảnh họ đến những ngày cuối đời – họ mổ xẻ Chiến dịch li khai, dẫn lại niên đại của từng sự kiện, và xót xa trước cuộc chém giết vô nghĩa lý. Thiếu tướng Grewal tự hỏi không hiểu các miền phân ly còn mong ngày hợp lại làm một chăng. Anh Kohlah mân mê miếng bịt mắt và nói mọi sự đều có thể xảy ra. Niềm an ủi, như mọi khi, được tìm thấy trong những cuộc chỉ trích rối beng nhắm vào các nhà khai phá thuộc địa, trong lúc không còn bụng dạ nào để dàn xếp mọi sự cho thỏa đáng, đã vội vã bỏ đi, mặc dù những kẻ ở lại lại được xoa dịu bởi nỗi hoài nhớ dành cho những ngày quá vãng.
Sau những buổi tối như thế, anh Kohlah luôn băn khoăn tại sao cảm giác viên mãn của anh lại như xao động – không phải bị xói mòn đi, mà như có ai đó hoặc cái gì đó đang cố xới xáo nó lên. Anh rất thích các bữa tối cùng tiệc trà đó, và sẽ không bỏ lỡ chúng vì bất cứ lý do gì; thế nhưng, anh vẫn thấy phảng phất đâu đây chút bất an, giống như một thứ mùi không nên có mặt, của thứ gì đó thối rữa.
Mất khoảng một, hai ngày sau đó, trạng thái cân bằng mới trở lại với anh. Và anh lại bắt đầu cảm thấy rằng phải, quyết định không rời bỏ ngôi nhà trên miền đồi núi là đúng đắn, đây vẫn là chỗ tốt cho gia đình anh. “Không khí và nước thật trong lành, những ngọn núi thật đẹp, và công việc kinh doanh đang rất suôn sẻ,” anh và chị Kohlah viết cho những người họ hàng vẫn định kì hối thúc họ ra đi. “Không còn nơi nào hứa hẹn triển vọng tốt đẹp hơn cho tương lai Maneck.”
Nếu được hỏi ý kiến, chắc Maneck cũng hoàn toàn đồng tình; và đừng nói đến tương lai, hiện tại cũng đã là một lý do quá đủ đối với cậu, với vũ trụ tuổi thơ hạnh phúc của cậu. Mỗi ngày của cậu đều ngập tràn niềm vui, sáng và chiều đi học, rồi về phụ ở Cửa hàng, nối tiếp bằng một cuộc dạo chơi với bố vào lúc tối muộn, khi ấy, cậu sẽ sải những bước dài đầy nam tính để bắt kịp bố, kẻo bố sẽ trêu cậu là trâu chậm uống nước đục.
Song Chủ Nhật là ngày tuyệt vời nhất. Vào Chủ Nhật, một người làm vườn tên là Bhanu sẽ đến dọn dẹp khu vườn sau nhà. Maneck ngóng chờ suốt cả tuần để được ra ngoài với Bhanu, lang thang quanh vườn và làm đủ thứ việc lặt vặt mà anh ta sai. Khu đất trải dài hơn năm mươi bộ quanh nhà; ở chỗ ngọn đồi bắt đầu dốc xuống, một chốn hoang dại với đủ loại cây bụi, cây gỗ và lớp cây con rậm rịt, là nơi thú vị nhất. Ở đó, Bhanu dạy cậu tên của các loại kì hoa dị thảo, những loài cây không mọc gần mặt tiền ngôi nhà, vốn là lãnh địa của hoa hồng, hoa huệ cùng cúc vạn thọ. Anh ta còn chỉ cho cậu xem cây cà độc dược có thể gây chết người và loại cây giải độc cho nó, và những loại lá có thể giúp giảm nhẹ độc tính của một số loại rắn, rồi một số lá khác có thể chữa các chứng đau bụng, và những thứ thân cây có lõi giúp chữa lành các vết thương hở. Anh ta hướng dẫn Maneck cách bóp một bông mõm sói để hoa mở nụ. Đến cuối năm, khi trời trở rét, lúc ngày ngả về chiều, họ gom hết củi cành thừa vãi và đốt một đống lửa nhỏ.
Thỉnh thoảng Bhanu dắt theo cả con gái anh, Suraiya, cũng bằng tuổi Maneck. Những hôm ấy, Maneck sẽ chia thời gian ra để vừa làm vừa chơi. Đến trưa, chị Kohlah gọi hai đứa vào ăn trưa. Suraiya ngượng, không quen ăn trên bàn, trong nhà nó chẳng có cái ghế nào cả. Mất vài buổi nó mới chịu chạy vào với Maneck và hăm hở ngồi vào chỗ dành cho mình. Bhanu vẫn ăn cơm riêng ở bên ngoài nhà.
Một buổi chiều nọ, Suraiya ngồi xổm trên con dốc xa giữa những bụi cây. Maneck đứng chờ ở một chỗ khuất tầm mắt, rồi tò mò bám theo bạn. Thấy cậu lại gần, con bé cười toe. Cậu nghe thấy có tiếng xè xè khe khẽ, bèn cúi xuống nhòm. Dòng nước bé tí của con bé đã tạo thành một vũng nước sủi bọt.
Cậu cởi khuy quần ngay bên cạnh bạn và bắn ra một vòng cung nước. “Tớ biết tè đứng đây này,” cậu nói.
Miệng cười khanh khách, con bé đái nốt rồi kéo quần lên. “Anh tớ cũng làm được như thế, anh ý có cái chim bé tí giống hệt cậu.”
Từ đó, chuyện đi giải cùng nhau trở thành một nghi thức mỗi khi Suraiya đến làm cùng bố. Dần dần, bản tính hiếu kì lôi kéo hai đứa tới những cuộc khám phá cơ thể thân mật hơn.
“Có chuyện gì vậy?” Chị Kohlah hỏi khi hai đứa dắt nhau vào nhà để uống trà. “Sao hai đứa lúc nào cũng rúc rích thế?”
Mấy ngày Chủ Nhật sau đó, chị bắt đầu theo dõi hai đứa từ cửa sổ bếp, và thấy chúng liên tục kéo nhau xuống dưới con dốc, nơi mắt chị không thể bám theo. Chị ra rình chúng, nhưng cũng chẳng xong. Chúng nghe thấy tiếng bước chân chị trước cả khi chị kịp đến gần, và chạy biến đi, miệng cười như nắc nẻ.
Sau đó, chị đành giãi bày mối nghi ngờ của mình cho anh Kohlah. “Anh Farokh, em nghĩ anh nên trông chừng thằng Maneck. Những lúc con bé Suraiya ở đây.”
“Sao phải thế, nó đã làm gì?”
“Thì… bọn nó vào trong bụi cây và…” mặt chị đỏ bừng. “Em cũng chưa nhìn thấy gì cả, nhưng…”
“Thằng quỷ con,” anh Kohlah cười. Ngày Chủ Nhật tiếp theo đó, anh ra vườn, giám sát công việc của Bhanu và tuần tiễu khắp con dốc. Việc này trở thành một phần trong thời gian biểu của anh cho đến hết năm. Hai đứa trẻ phải giở đủ mọi trò ma mãnh hòng thoát khỏi ánh mắt tọc mạch của người lớn.
Khi Maneck học xong lớp bốn, anh Kohlah bắt đầu tìm hiểu khả năng gửi con đến một trường nội trú. Chất lượng giảng dạy ở ngôi trường ngoại trú trong vùng đã xuống dốc đáng kể, thiếu tướng Grewal và mọi người đều đồng tình. “Một nền giáo dục tốt là yếu tố quan trọng nhất,” họ nói.
Ngôi trường nội trú họ chọn cách nhà tám tiếng xe buýt. Maneck kinh sợ quyết định này. Ý nghĩ phải xa rời thị trấn miền núi – cũng là toàn bộ vũ trụ của cậu – đẩy cậu vào trạng thái hoảng loạn. “Con thích trường con ở đây,” cậu van vỉ. “Với lại, làm sao con phụ việc trong cửa hàng vào buổi tối được, nếu bố mẹ bắt con đi học xa?”
“Con mới mười một tuổi, lo chuyện công việc làm gì,” anh Kohlah cười ồ. “Con cứ tận hưởng thời niên thiếu trước đã. Được sống với các bạn bè cùng trang lứa sẽ vui lắm đấy. Thế nào con cũng thích trường mới. Mà cửa hàng vẫn còn đây những lúc con về nghỉ lễ kia mà.”
Maneck học cách chịu đựng trường nội trú, nhưng không yêu nó. Lòng cậu nhức nhối cảm giác bị phản bội. Chẳng có một ngày nào trôi qua mà cậu không nhớ ngôi nhà, nhớ bố mẹ, nhớ cửa hàng, nhớ những ngọn núi. Cậu cảm thấy các bạn học của mình khác hẳn những thằng bé cậu từng quen. Chúng cư xử như thể mình ở chiếu trên. Bọn con trai lớn toàn tán phét về lũ con gái, rồi sờ soạng mấy thằng con trai ít tuổi hơn. Có đứa còn cho cậu xem một bộ bài in hình những phụ nữ trần truồng. Mảng đen sì giữa háng họ khiến cậu thất kinh. Có lẽ nào lại thế, chắc chắn là ảnh giả, cậu nghĩ, nhớ lại cái cửa mình nhẵn nhụi, thơm tho của Suraiya.
“Đấy là lông, chỗ đấy nó phải thế,” một thằng lớn tuổi nói. “Đây là ảnh chụp thật đấy. Đây này, để tao cho mày xem.” Đoạn nó tụt quần ra và phô đám lông mu của nó, tiện thể giải phóng cái dương vật đã cương cứng khỏi vòng tù hãm.
“Nhưng anh là con trai mà, thế chả chứng minh được gì về bọn con gái cả,” Maneck nói. Cậu muốn xem kĩ hơn mấy lá bài. Thằng kia không cho, trừ phi cậu chịu làm một việc. Nó kéo sát Maneck lại, cọ miết vào người cậu bé và rên rỉ. Tiếng gì nghe lạ quá, Maneck nghĩ, cứ như nó đang rặn ỉa không bằng. Bộ bài được trao tay sau khi thằng kia đã phóng tinh xong.
Maneck về chơi nhà nhân dịp lễ Divali, chờ qua hai ngày, rồi cố nài bố mẹ đừng bắt mình trở lại trường. Cậu nằn nì mãi, đến mức anh Kohlah phát cáu. “Bố cấm con không được nhắc đến chuyện đấy nữa,” anh nói.
Maneck bỏ đi ngủ mà không thèm chúc bố mẹ ngủ ngon. Cử chỉ vô lễ ấy giày vò cậu một lúc lâu, khoét thành một lỗ hổng mà giấc ngủ từ chối khỏa lấp. Đến lúc quá nửa đêm, cậu định bụng lên phòng bố mẹ và sửa chữa cái tội hỗn hào ngu ngốc vừa qua. Nhưng lòng tự ái, cộng với nỗi e sợ mình sẽ lại chọc giận bố lần nữa, đã giữ cậu lại trên giường.
Thức dậy lúc bình minh, cậu ôm lấy mẹ đang ở bên bếp, và khẽ chào mẹ buổi sáng, rồi bước thẳng qua mặt bố lúc ấy đứng bên cửa sổ và ngồi vào chỗ của mình. “Ông hoàng con vẫn còn dỗi kia à,” anh Kohlah vừa cười vừa nói.
Maneck cắm mặt xuống cốc nước của mình, cau mày nhìn nó. Cậu không muốn để miệng méo xệch đi, bèn cười lại.
Hôm ấy là Chủ Nhật, và Bhanu lại đến như thường lệ để chăm sóc khu vườn. Suraiya không đi cùng bố. Maneck đi cùng anh ta một lúc rồi mới dám hỏi về cô bé.
“Con bé ở nhà với mẹ,” Bhanu nói. “Từ rày trở đi, nó sẽ theo mẹ.”
Maneck thấy như một mảng khác trong vũ trụ của mình vỡ tan. Ăn trưa xong, cậu không trở ra vườn nữa. Chị Kohlah kéo con sang một bên và bảo đối xử không tốt với bố là chẳng ngoan tí nào, bố yêu cậu thế cơ mà. “Việc bố làm, gửi con đến một trường tốt, là vì muốn tốt cho con thôi. Con đừng nghĩ đấy là hình phạt.”
Đến tối, anh Kohlah gọi con ra ngồi cạnh mình trên ghế sô pha. “Con có phải học trường nội trú cả đời đâu,” anh nói. “Con nên nhớ, bố mẹ còn nhớ con hơn cả con nhớ bố mẹ kia. Nhưng biết làm sao được? Con đâu muốn biến thành kẻ ngu si dốt nát, không biết đọc biết viết, giống mấy người làm vườn nghèo khổ kia, sống cả đời lạnh lẽo đói rách, chỉ có vài con cừu con dê, lần hồi qua ngày. Nhớ lấy, trâu chậm uống nước đục. Chỉ cần con nhận được tấm Bằng Tốt nghiệp Trung học sau sáu năm nữa, sẽ chẳng ai bắt con phải xa nhà nữa. Cơ nghiệp này lúc ấy sẽ để cho con cai quản.”
Maneck cho phép mình mỉm cười, còn bố cậu tiếp: “Thật ra, được thế sớm ngày nào, bố mừng ngày ấy. Bố có thể nghỉ ngơi và đi dạo cả ngày.”
Vào giờ ăn sáng hôm sau, anh Kohlah đưa con cái tách lớn đặc biệt để uống trà. Rồi anh để con ngồi bên cạnh mình cho đến khi phải ra trả tiền thừa cho khách. Maneck giữ mãi ngày hôm ấy trong lòng cho đến hết năm học. Mỗi khi nỗi đau bị đày ải trỗi dậy, cậu lại gọi về những kí ức hạnh phúc để đối trọng lại tâm trạng tuyệt vọng, cùng những suy nghĩ đen tối của cảm giác cô đơn và bị bỏ rơi.
Chẳng thèm đếm xỉa đến nỗi khiếp sợ ban đầu của Maneck đối với quãng thiên thu kéo dài sáu năm, thời gian đều đặn tước đi ba năm trong số đó. Maneck lên mười bốn tuổi, và lại về nhà chơi nhân kì nghỉ tháng năm.
Năm đó, lần đầu tiên, bố mẹ để cậu ở nhà một mình hai ngày để đi ăn cưới. Thay vì khóa cửa nhà và gửi cậu sang một nhà hàng xóm, anh Kohlah quyết định cho cậu trông nom cửa hàng một mình, coi như một phần thưởng đặc biệt.
“Cứ làm mọi việc y như cách bố con ta làm khi bố ở đây,” anh nói. “Rồi sẽ đâu vào đấy hết thôi. Đừng quên đếm số thùng nước giải khát chú tài xế lấy đi nhé. Và nhớ gọi điện nhắc người ta giao sữa cho ngày mai – cực kì quan trọng đấy. Nếu có chuyện gì, cứ gọi Bác Grewal. Bố đã nhờ bác tối tối sang kiểm tra tình hình con rồi.” Anh và chị Kohlah dẫn Maneck đi vòng quanh cửa hàng một lần nữa, nhắc thứ nọ, chỉ thứ kia, rồi mới rời nhà.
Ngày hôm đó trôi qua như mọi ngày. Những đợt bận rộn nối tiếp từng khoảng thời gian nhàn nhã, nhân đó cậu lau chùi các tủ kính, phủi bụi trên giá, quét quáy mặt quầy. Các khách hàng quen hỏi chuyện bố mẹ cậu đi vắng, và hết lời khen ngợi cậu. “Xem anh chàng tổ chức doanh trại quy củ chưa kìa. Đáng thưởng huân chương!”
“Nếu thích, Farokh với Aban có thể về hưu ngay ngày mai cũng được,” Thiếu tướng Grewal nói. “Đã có Đại nguyên soái Maneck nắm quyền ở Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp thì còn phải lo gì nữa.” Nghe câu đó, những người có mặt đều cười nhiệt tình.
Tối muộn, ánh sáng ban ngày nhạt dần, bầu không khí tĩnh lặng từ từ bao trùm cả khu nhà. Maneck bật đèn ngoài hiên lên, cảm thấy vô cùng tự hào về một ngày làm việc của mình. Đã gần đến lúc đóng cửa hàng. Phần việc còn lại chỉ là lấy hết tiền trong ngăn kéo ra, đếm, và ghi sổ. Cậu đứng ngoài bậc thềm nhìn vào trong cửa hàng, và hơi ngừng lại. Cái tủ kính lớn ở chính giữa, chứa xà phòng và bột tan – nếu kê ở mặt tiền sẽ đẹp hơn. Còn chiếc bàn cũ chuyên để bày báo ngay gần cửa ra vào, sứt sẹo và lung lay – đẩy nó sang hẳn một góc chẳng phải sẽ tốt hơn sao?
Ý tưởng đó bám riết lấy Maneck và xâm chiếm trí óc cậu cả khi cậu hâm thức ăn. Càng nghĩ, cậu càng thấy cách bố trí mới là hợp lý. Cậu có thể tự kê lại, ngay tối nay. Thế nào bố mẹ cũng ngạc nhiên lắm khi về đến nơi.
Ăn tối xong, cậu quay ra gian cửa hàng tối om, bật đèn lên, và kéo chiếc bàn cũ ra xa khỏi lối ra vào. Cái tủ kính thì khó hơn, nó nặng, lại cồng kềnh. Cậu lấy hết hàng hóa đựng bên trong ra và từ từ đẩy nó đến vị trí mới, nổi bật hơn. Rồi cậu xếp lại những lon và hộp vào tủ, nhưng không theo kiểu chất đống buồn tẻ như cũ – cậu xếp thành những hình kim tự tháp, hình xoắn ốc nom đến vui mắt. Tuyệt, cậu tự nhủ, đoạn đứng lùi lại để chiêm ngưỡng công trình kì khu của mình, và đi ngủ.
Buổi tối hôm sau, anh Kohlah bước vào nhà và nhận ra sự đổi khác. Không hề dừng lại để chào Maneck hay hỏi han tình hình ở nhà, anh bảo con ra khép cửa, treo biển “Đóng cửa” lên.
“Còn một tiếng nữa mới đến giờ đóng cửa mà bố,” Maneck nói, nóng lòng chờ nghe một lời khen ngợi từ bố.
“Bố biết rồi. Con cứ ra đóng cửa đi.” Rồi bố cậu sai con xếp đặt mọi thứ lại như cũ. Giọng anh lạnh tanh, không chút cảm xúc.
Thà rằng bố cứ mắng hoặc tát, hay trách phạt kiểu gì tùy thích, Maneck còn thấy dễ chịu hơn. Còn thái độ khinh miệt, thậm chí không thèm đả động một câu như thế kia thì thật quá sức chịu đựng. Mọi niềm háo hức tan biến trên khuôn mặt cậu, bỏ lại một nỗi đau đớn hoang mang, cậu cảm giác như mình sắp bật khóc đến nơi.
Xót con, mẹ cậu bèn xen vào. “Nhưng anh Farokh à, anh không thấy kiểu sắp xếp của Maneck trông đẹp hơn sao?”
“Xấu đẹp thế nào không quan trọng. Anh và em đã dặn nó những gì, khi ta phó thác cửa hàng cho nó trong hai ngày? Thế mà nó đáp lại sự tin tưởng của bố mẹ nó thế đấy. Đây là vấn đề kỉ luật và chấp hành mệnh lệnh, không phải chuyện xấu hay đẹp.”
Maneck kê đặt tủ bàn cùng hàng hóa trở lại vị trí cũ, nhưng trong suốt thời gian còn lại của kì nghỉ, cậu nhất quyết không chịu đặt chân vào cửa hàng. “Bố có cần con đâu – con không muốn ra đấy,” cậu nói với mẹ, giọng uất ức.
“Bố chỉ cần một thằng đầy tớ thôi.”
Trên giường tối hôm ấy, chị bảo với anh Kohlah rằng Maneck đau lòng lắm. “Anh biết chứ,” anh nói, đoạn quay mặt đi. “Nhưng nó phải học bò rồi mới lo học chạy được. Một thằng bé chưa đến tuổi đã cho là ta đây biết tuốt thì không tốt chút nào.”
Chị vẫn kiên trì, và đã thành công ngay trước khi kì nghỉ kết thúc. Hòa bình được tái lập giữa cha và con vào một buổi sáng khi anh Kohlah bắt tay vào bày biện lại một cái tủ kính và gọi Maneck xuống cửa hàng để hỏi ý kiến. Gần kề ngày mở trường, hai bố con bắt đầu làm việc với nhau trở lại trong xưởng pha chế nước giải khát dưới tầng hầm, Maneck mang chai đã súc sạch xuống, rồi bê những thùng Kaycee mới đóng chai lên.
Buổi tối cuối cùng, anh Kohlah nói, khi đang tắt máy: “Ngày mai con đi rồi, bố sẽ nhớ con lắm.” Giữa tiếng xình xịch của động cơ đang chết máy dần, những lời anh nói chỉ có thể tuyệt vọng bấu lấy bầu không khí ẩm thấp nơi hầm tối. Anh ôm lấy Maneck khi hai bố con cùng nhau đi lên.
Trường nội trú là nguyên nhân gây ra cuộc phân ly không mong muốn thứ hai của Maneck với những ngọn núi. Lần đầu tiên xảy ra khi cậu bé lên sáu, cậu cùng mẹ về thành phố thăm bà con họ hàng bên ngoại, đi tàu hỏa mất hai ngày. Cậu bị mê hoặc bởi những tòa nhà cao chất ngất và những rạp chiếu phim tráng lệ, cơn lũ xe hơi, xe buýt cùng xe tải, và ánh sáng lóa mắt của phố xá lên đèn khi đêm xuống. Nhưng chỉ được dăm ngày, cậu đã nhớ bố quay quắt. Cậu phấp phỏng mong tới lúc được về nhà khi kì nghỉ kết thúc.
“Con sẽ không đời nào rời xa những ngọn núi nữa,” cậu nói. “Không bao giờ.”
Chị Kohlah thì thầm cái gì đó vào tai chồng, khi ấy đang đứng đợi dưới sân ga, chờ đón hai mẹ con. Anh cười, đoạn ôm chầm lấy Maneck và bảo anh cũng thế.
Nhưng chẳng bao lâu sau, đã đến cái ngày những ngọn núi rời bỏ họ. Tất cả bắt đầu với những con đường. Các kĩ sư đội mũ cát tìm đến với đủ thứ dụng cụ hung gở và phác thiết kế của mình lên hàng tập giấy. Rồi sẽ có những con đường hiện đại, họ hứa, những con đường rộn tiếng lại qua của các loại xe cộ hiện đại. Những con đường, rộng rãi và bền chắc, để thay thế những lối mòn nên thơ nơi núi non vốn quá nhỏ hẹp đối với tầm nhìn rộng lớn của các nhà kiến quốc và các chuyên viên của Ngân hàng Thế giới.
Một buổi sáng nọ tại công trường, một vị bộ trưởng được trao vòng hoa giữa tiếng nhạc rộn rã. Đó là Ban hành khúc Bhagatbhai Naankhatai: gồm ba kèn đồng, một cặp trống con, và một trống cái. Họ mặc đồng phục màu trắng, với mấy chữ BNMB[31] thêu bằng chỉ vàng trên lưng; trên mặt trống cái, cụm chữ viết tắt được sơn màu đỏ. Chuyên môn của ban vốn là nhạc rước đám cưới, cùng các tiết mục phụ bao gồm bài tán ca của mẹ cô dâu, khúc than khóc của mẹ chú rể, cuộc tuần du khải hoàn của chú rể, bài thơ ca ngợi bà mối, và một bài ca chúc cô dâu chú rể con đàn cháu đống. Song nhóm đã khéo léo thay đổi chương mục cho phù hợp với buổi lễ. Dàn trống đập dồn những nhịp sặc mùi quân sự, như báo trước cuộc hành quân của tiến bộ, còn chiếc kèn trombone cố nhịn những nốt luyến láy não nề dành riêng cho đám cưới để thay bằng các đoạn ngắt nhịp rộn rã.
Đám đông khán giả gồm toàn dân làng vô công rồi nghề hoan hô vang dậy mỗi khi có hiệu lệnh, hăm hở chờ đến lúc được lấy tiền công tham dự. Diễn văn được đọc trên một chiếc bục dựng tạm. Ngài bộ trưởng vung cây cuốc chim bằng vàng lên nhưng bổ trật đích. Ngài nhe răng cười với đám đông và bổ lại một nhát nữa.
Các vị mũ cao áo dài đi rồi, công nhân kéo đến. Ban đầu tiến độ rất chậm, chậm đến nỗi anh Kohlah và toàn bộ dân cư miền đồi đều ấp ủ một mối hi vọng phi lý: công trình sẽ không bao giờ hoàn thành, chốn nương náu bé nhỏ của họ sẽ được bảo toàn nguyên vẹn. Đồng thời, anh cùng Thiếu tướng Grewal tổ chức các cuộc họp mặt cho người dân thị trấn, tại đây những người có mặt ra sức lên án chính sách phát triển đầy khiếm khuyết, óc thiển cận, lòng tham lam đang hi sinh vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước cho con quỷ dữ của tiến bộ. Họ kí đơn, đệ trình kháng nghị của mình lên chính quyền, và chờ đợi.
Song con đường tiếp tục dấn tới từng phân, nuốt trọn những gì nằm trên đường tiến công của nó. Hai bên sườn những ngọn đồi xinh đẹp của họ trở nên sứt sẹo lở loét. Đứng từ trên đỉnh dốc nhìn xuống, những con đường đất chạy ngược lên đồi trông chẳng khác nào những dòng sông bùn thách thức trọng lực, như thể thiên nhiên đã hóa dại. Tiếng nổ ầm ầm như sấm văng vẳng phía xa cùng tiếng gầm rú của các loại máy xúc máy ủi nổi dậy từ sáng tinh mơ, và vẻ mộng mơ của làn sương sớm biến thành một cơn ác mộng.
Anh Kohlah bất lực nhìn quá trình rải nhựa được khởi động, biến dòng sông màu nâu thành màu đen, hoàn tất công cuộc thay hình cải dạng chốn chôn nhau cắt rốn thân yêu của anh, nơi cha ông anh đã sống tựa như trên thiên đường. Anh đành trân mắt nhìn, lần thứ hai, những đường kẻ trên giấy hủy hoại cuộc sống của gia đình Kohlah. Có điều lần này là bản vẽ của một cán bộ đo đạc bản xứ, chứ không phải tấm bản đồ ngạo nghễ của một người ngoại quốc.
Khi công trình hoàn thành, vị bộ trưởng quay lại để cắt băng. Trong những năm dài kể từ buổi lễ động thổ hôm nào, ngài đã đẫy đà ra nhiều, song bản tính vụng về thì vẫn không đổi. Ngài phục phịch leo lên cắt băng và đánh rơi chiếc kéo bằng vàng. Bảy tên nịnh thần tận tụy đồng loạt xông tới cứu viện. Một cuộc hỗn chiến nổ ra; chiếc kéo bị gã khỏe nhất giằng lấy và dâng lại cho ngài bộ trưởng. Ngài sửa cả lũ bằng một cái quắc mắt nảy lửa vì tội gây quá nhiều sự chú ý chỉ vì một lần lỡ tay vớ vẩn, rồi tươi cười với đám đông và cắt dải băng một cách hết sức phô trương. Khán giả vỗ tay, và Ban hành khúc Bhagatbhai Naankhatai nổi nhạc, và giữa tiếng kèn đồng lạc điệu đinh tai nhức óc, không ai nhận thấy ngài bộ trưởng đang âm thầm vật lộn hòng rút ngón tay chuối mắn khỏi cặp kéo.
Rồi những phần thưởng đã hứa bắt đầu lăn bánh trên con đường dẫn lên núi. Những cỗ xe tải to như cả cái nhà chở hàng hóa từ thành phố và đầu độc bầu không khí bằng khói thải của chúng. Các loại quán xá cùng hàng ăn mọc lên như nấm dọc tuyến đường để phục vụ xe cộ và chủ của chúng. Và các nhà thầu bắt tay vào xây dựng những khách sạn xa hoa.
Năm đó, khi Maneck về nhà nghỉ lễ, cậu rất hoang mang (và về sau là kinh hoảng) khi phát hiện ra bố lúc nào cũng cáu kỉnh. Hai bố con không tài nào trải qua một ngày mà không cãi lộn với nhau, thậm chí những cuộc gây hấn nổ ra ngay trước mặt khách hàng.
“Bố bị làm sao thế?” Cậu hỏi mẹ. “Lúc con ở nhà, bố không lờ con đi thì lại cãi nhau với con. Lúc con ở trường, bố lại viết thư kêu nhớ con.”
“Con phải hiểu,” chị Kohlah nói, “con người cũng thay đổi khi thời thế thay đổi. Thế không có nghĩa là bố không yêu con.”
Với chị Kohlah, kì nghỉ chẳng lấy gì làm vui vẻ này còn là mốc thời gian Maneck chấm dứt thói quen ôm bố mẹ và thì thầm câu chào buổi sáng. Lần đầu tiên cậu bước xuống nhà và lặng lẽ ngồi vào chỗ của mình, mẹ cậu đứng chờ, lưng quay về phía bàn ăn, mãi cho đến khi nỗi đau bị bỏ rơi nguôi ngoai, chị mới dám vươn tay cầm chiếc chảo nóng vào. Bố cậu không nhận thấy gì hết.
Gan ruột sục sôi, anh Kohlah còn bận theo dõi tốc độ tăng trưởng của sự phát triển từng ngày của vùng đồi. Cả anh và các bạn bè đều đồng tình đó là một sự phát triển tai ác. Tiềm năng mở rộng kinh doanh của Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp cũng chẳng an ủi nổi anh. Toàn bộ các giác quan của anh đều bị cuộc xâm lăng giày vò. Hơi độc tuôn ra từ những chiếc xe tải làm lỗ mũi anh cơ hồ muốn nổ tung, anh bảo chị Kohlah, và tiếng động cơ nổ xình xịch kinh tởm như xé nát lỗ nhĩ anh thành ngàn mảnh.
Quay đi đâu, anh cũng nhìn thấy những túp lều và mái lán đua nhau sinh sôi nảy nở. Nó nhắc anh nhớ tới bệnh ghẻ từng lây lan khắp thân thể con chó yêu của anh với tốc độ chóng mặt. Những khu nhà tạm bợ nghèo khổ cào nát các sườn đồi, dân tứ xứ nghe theo lời đồn về các công trình xây dựng và tiền của và công ăn việc làm ùn ùn đổ về. Song đội ngũ thất nghiệp luôn vượt quá số việc làm gấp trăm lần, và quân đoàn đói khát định cư dài hạn ngay trên các sườn dốc.
Các khu rừng bị xơi tái để lấy củi đun; những mảng trơ trọc dần lộ ra trên mình đồi núi.
Đến lượt các mùa nổi loạn. Mưa, từng một thời cho hoa trái sinh sôi và chín ngọt, dội xuống các sườn đồi trần trụi như thác lũ, gây ra nhiều vụ sụt đất và lở đá. Tuyết, xưa vẫn bao trùm khắp núi đồi như một tấm chăn rộng lớn, nay ít đi trông thấy. Ngay cả vào giữa mùa đông, các mảng tuyết phủ cũng chỉ lác đác đây đó.
Anh Kohlah thấy trong lòng dâng lên một nỗi thỏa mãn xấu xa trước cuộc phản công của thiên nhiên. Đó cũng là một thứ bằng chứng cho thấy anh không phải nạn nhân duy nhất bị khủng hoảng bởi cuộc cưỡng đoạt ghê tởm này. Nhưng khi tình trạng rối loạn mùa màng vẫn tiếp diễn năm này qua năm khác, anh không còn lấy đó làm nguồn an ủi được nữa. Lớp tuyết bao phủ càng mỏng nhẹ, trái tim anh càng trĩu nặng.
Maneck không nói năng gì, dù cậu nghĩ bố đang hơi phóng đại khi tuyên bố: “Đi dạo mà cứ như bước vào chiến trường.”
Chị Kohlah chưa bao giờ cất chân đi dạo dù chỉ một lần. “Em thích đứng trong bếp ngắm cảnh,” chị nói mỗi lần chồng rủ đi. “Như thế đỡ nhọc hơn.”
Nhưng với anh Kohlah, những cuộc tản bộ dài đơn độc là thú vui lớn của đời anh, nhất là sau mùa đông, khi mỗi chuyến ngao du lại mang nét duyên dáng nhờ cảm giác không chắc chắn ngọt ngào – cái gì đang đợi ở khúc quanh tới? Một con suối nhỏ mới thành hình chăng? Những cây hoa dại anh chưa nhìn thấy từ hôm qua ư? Kí ức tuyệt vời của anh còn ghi nhớ tảng đá cuội khổng lồ bị nứt toác bởi một bụi cây đâm lên từ giữa lòng đá. Đôi khi anh bị biến thành nạn nhân của một cuộc phục kích đáng yêu: toàn cảnh thung lũng bỗng trải ra từ một góc độ chưa từng thấy bao giờ.
Ngày nay, mỗi cuộc đi dạo lại giống như một ca thức khuya trông người hấp hối, để xem những gì còn trụ lại, cái gì đã bị đốn hạ. Bước tới một cái cây mình thích, anh lại dừng lại dưới tán một lúc rồi mới đi tiếp. Anh đưa tay vuốt dọc thân cây sứt sẹo, mừng vì người bạn già đã sống sót thêm một ngày nữa. Rất nhiều gờ đá nơi anh từng ngồi ngắm hoàng hôn đã bị thuốc nổ thổi tung. Khi tìm thấy một rìa, anh ngồi xuống nghỉ vài phút và tự hỏi liệu nó có còn ở đây chờ anh vào lần sau chăng.
Chẳng bao lâu sau, dân thị trấn bắt đầu xì xào về anh. “Dạo này bệnh hâm của anh Kohlah trở nặng rồi,” họ nói. “Anh ta nói chuyện với cây cối và đất đá, rồi vỗ về chúng như đang chơi với chó ấy.”
Khi nghe được những chuyện ngồi lê đôi mách ấy, toàn thân Maneck nóng bừng vì ngượng, cậu chỉ ước sao bố mình chấm dứt những cử chỉ đáng xấu hổ ấy đi. Song le, ruột gan cậu lại sôi sục giận dữ, chỉ muốn tát những kẻ dốt nát, vô tâm kia cho chúng sáng ra đôi chút.
Nhân dịp kỉ niệm năm năm ngày con đường hoàn thành, hội đồng thị trấn, nay nằm dưới sự chi phối của một toán doanh nhân và chủ thầu mới, cho tổ chức một buổi lễ nhỏ, mời tất cả mọi người đến dự. Gớm ghét trò hội hè nọ, anh Kohlah rời cửa hàng khi trời mới ngả về chiều. Anh gỡ miếng che mắt xuống và lên đường đi bách bộ. Đám loa thuê đậu vắt vẻo trên các cành cây xung quanh quảng trường thị trấn còn đuổi theo anh một quãng xa bằng những khúc nhạc chói tai và tiếng lảm nhảm của những bài phát biểu vô nghĩa.
Khi ánh sáng ban ngày nhạt dần, hứa hẹn buổi hoàng hôn sắp xuống, anh đã đi bộ được chừng ba dặm. Những vệt màu hồng và cam dệt muôn sợi chỉ phù du lên nền trời. Anh dừng chân để phóng mắt về phía tây, háo hức được thưởng ngoạn khoảnh khắc này. Những lúc như thế anh lại ước mình còn đủ hai mắt để có thể bao quát được hết toàn cảnh.
Khi ánh nhìn của anh bị kéo xuống dưới, quét dọc dải sườn đồi trơ trụi. Từ hàng trăm túp lều bốc lên làn khói xám hăng hăng của những bếp nấu đạm bạc. Màn sương che mờ cả chân trời. Đứng nơi cuối gió, anh ngửi thấy hơi mù cay sè, và đằng sau đó, là mùi hôi thối của phân người mà nó cố sống cố chết giấu đi. Anh nhấp nhổm đổi chân. Một mẩu cành con gãy rắc dưới chân anh. Anh đứng đờ đẫn, tự hỏi mình còn chờ đợi cái gì nữa. Anh nghe thấy tiếng các bà mẹ gọi con the thé, tiếng hò hét của bọn trẻ, tiếng sủa của lũ chó hoang. Anh mường tượng ra những thức ăn nghèo nàn nấu trong những chiếc nồi đang dần ám đen, còn xung quanh là bao nhiêu cái mồm đói khát đang chực chờ.
Đột nhiên, anh nhận ra bóng tối đã xuống tự lúc nào: hoàng hôn đã mất dưới tấm áo choàng. Và trong ánh chạng vạng, toàn bộ khung cảnh nom thật tang thương khốn khổ, hoàn toàn vượt quá năng lực chấp nhận hay lĩnh hội của anh. Anh có cảm giác trống chếnh và sợ hãi. Từng đợt sóng giận dữ, thương cảm, ghê tởm, đau buồn, bất lực, bội phản, yêu thương trào lên và vỡ tan, cào xé và giày vò anh. Vì cái gì? Vì ai? Và vì đâu? Giá mà anh có thể…
Song anh không cách gì hiểu nổi cảm xúc của mình. Anh thấy ngực mình thắt lại, rồi họng anh tắc nghẹn như thể anh sắp ngạt thở. Anh lặng lẽ khóc trong tuyệt vọng.
Buổi tối đen đặc thêm. Anh rút khăn mù soa ra lau mắt. Mất một lúc anh mới nhận ra, khi tay vẫn cố chấm những giọt nước mắt tưởng tượng, rằng chỉ có con mắt lành ướt nước. Lạ thật, anh dám thề là cả con mắt đã mất cũng đã khóc theo.
Xuyên qua bóng đêm trở về nhà, anh quyết định từ hôm nay, chuyện đi dạo đã chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Nếu có, thứ nghĩa lý đó quá mới mẻ và quá khủng khiếp, anh không có gan khám phá.
Chẳng còn chỗ nào để trốn tránh. Cho anh, ở bất cứ phương diện nào. Ước mơ của anh đã vụn vỡ, như nó ắt phải thế, qua bao va chạm với những năm tháng đã qua. Anh đã đấu tranh, anh đã thắng, anh đã thua. Anh sẽ tiếp tục đấu tranh – phía trước còn gì dành cho anh nữa đây?
Nhưng vì con, lần đầu tiên, anh bắt đầu xem xét những phương án khác.
Mối quan hệ giữa hai bố con không cải thiện chút nào khi Maneck về chơi nhà nhân đợt nghỉ hai tuần trước kì học cuối cùng. Những trận cãi cọ thường gặp nhất của hai người dính đến việc quản lý cửa hàng. Maneck nghĩ ra rất nhiều ý tưởng về buôn bán và quảng cáo, tất cả đều bị bố cậu gạt đi không thương tiếc.
“Ít ra bố cũng phải để con nói hết đã chứ,” Maneck nói.
“Sao bố lại cố chấp thế? Sao không làm thử một lần xem sao?”
“Đây không phải là một thú vui vớ vẩn mà con thích thử thích nghịch thế nào cũng được,” anh Kohlah nạt lại, mặt nhuốm vẻ thê lương. “Đấy là cơm ăn nước uống của nhà ta.”
“Hai bố con lại cãi nhau đấy ư?” Chị Kohlah kêu lên. “Chỉ nghe hai người lời qua tiếng lại cũng làm em phát điên rồi.”
“Mình không dạy được con gì hết,” anh Kohlah nói, khuôn mặt càng buồn thảm hơn nữa. “Chẳng lẽ mình không làm gì nổi những trò ba hoa xích tốc không ngừng nghỉ của nó ư? Tôi nói gì nó cũng cãi. Nó tưởng nó mới nghĩ ra công thức mới cho thành công – nó cho đây là một thử nghiệm khoa học kia đấy.”
Anh không chịu để Maneck đặt mua những chủng loại xà phòng hay bánh quy mới được các nơi khác ưa chuộng. Các đề nghị cải thiện hệ thống chiếu sáng bên trong cửa hàng tối tăm, sơn lại tường, thay đổi kệ giá và tủ kính để phần trưng bày nom bắt mắt hơn đều được xem như những hành động báng bổ.
Maneck không tài nào hợp nhất người đàn ông thận trọng đến nực cười ấy với hình ảnh đã được bồi đắp trong đầu cậu từ những câu chuyện của mẹ, và các bạn bè của bố: về con người can đảm đã đu dây xuống hẻm núi ngập nước mưa để cứu một chú chó; người đã coi nỗi đau mất một con mắt vì mảnh kính vỡ chẳng khác nào một vết muỗi đốt; và người đã từng hạ đo ván ba tên cướp mò vào cửa hàng hòng kiếm chác, bị cám dỗ bởi cảnh người phụ nữ đơn độc đứng sau quầy hàng, mà không hề hay biết rằng chồng cô đang đóng chai nước giải khát dưới hầm – anh Kohlah đã quẳng chúng đi như ném mấy bao gạo, các bạn anh kể.
Và nay bố cậu đang suy sụp, tất cả chỉ vì một con đường ngớ ngẩn vừa được xây. Cả Maneck cũng nhận thấy thế giới đang bị nhào trộn lại xung quanh cậu. Nhưng với niềm lạc quan cuộn chảy trong huyết quản trẻ trung, cậu tin chắc rằng mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy. Cậu mới mười lăm tuổi: trong mắt cậu đời trải dài vô tận và những ngọn đồi như trường cửu. Còn Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp? Nó đã ở đây qua bao nhiêu thế hệ và sẽ vẫn ở đây trong nhiều thế hệ nữa, tâm trí cậu không hề gợn chút ngờ vực.
Anh Kohlah cũng thầm mong được như thế – rằng một kì tích có thể phục nguyên quá khứ. Nhưng xét những dấu hiệu anh thấy thì tình hình sắp tới không tốt lành chút nào. Chen vai thích cánh giữa đủ thứ hàng hóa mà những chiếc xe tải kềnh càng chở lên núi là một kẻ thù nguy hiểm: nước giải khát, để cung cấp cho các cửa hàng và khách sạn.
Thoạt kì thủy, chúng chảy nhỏ giọt vào thị trấn với số lượng chỉ một vài thùng, và dễ dàng bị loại nước Kaycee lừng tiếng đè bẹp. Vì tò mò, thi thoảng mọi người cũng nếm thử những loại nước mới, rồi nhún vai và quay lưng bỏ đi; Kohlah Cola vẫn là số một.
Song các tập đoàn lớn đã đưa vùng đồi vào tầm ngắm; chúng đã để mắt đến Kaycee. Chúng thâm nhập vào lãnh địa của anh Kohlah với cung cách quan liêu hợm hĩnh và các chiến dịch quảng cáo cùng những mánh khóe triệt hạ đối thủ. Bọn nhân viên đại diện tìm đến anh với lời đề nghị: “Hãy đóng gói hết máy móc, từ bỏ toàn bộ quyền đối với Kohlah Cola, và trở thành đại lý cho chúng tôi. Hãy cùng phát triển với chúng tôi, rồi anh sẽ giàu to.”
Dĩ nhiên anh Kohlah từ chối. Với anh, đó không đơn thuần là một quyết định kinh doanh mà còn là vấn đề tên tuổi và danh dự của gia đình. Vả lại, anh tin chắc các hàng xóm láng giềng tốt bụng của mình cùng dân cư ở những vùng quanh đây không phải hạng dễ thay lòng đổi dạ, họ sẽ mãi trung thành với Kohlah Cola. Anh đã sẵn sàng bước vào một cuộc chiến ngay thẳng chống lại sự cạnh tranh.
Song, cũng như nơ bướm và đồng hồ quả quýt, cạnh tranh ngay thẳng đã trở thành lỗi thời nhân lúc anh Kohlah không đề phòng. Các tập đoàn cho mọi người uống thử nước miễn phí, phát động các cuộc chiến giá cả, và trưng lên những tấm pa-nô khổng lồ có hình những đứa trẻ hạnh phúc cùng các ông bố bà mẹ đang cười rạng rỡ, hoặc một chàng trai và một cô gái âu yếm tựa trán vào nhau trên một chai nước, từ miệng chai tỏa ra hai chiếc ống hút biến mất dưới làn môi của đôi tình nhân. Những giọt tí tách của thứ nước giải khát mới đã biến thành một trận đại hồng thủy. Các nhãn hiệu đã có mặt dưới thành phố từ bao lâu nay giờ kéo đến làm mưa làm gió ở thị trấn.
“Chúng ta phải phản công,” Maneck nói. “Chúng ta cũng nên quảng cáo – phát nước uống thử miễn phí y như họ. Nếu họ muốn chơi rắn, ta cũng sẽ làm thế.”
“Chơi rắn?” Anh Kohlah nói giọng khinh khỉnh. “Ăn nói kiểu gì vậy? Nghe chẳng đứng đắn tí nào. Như ăn xin vậy. Mấy công ty lớn ở thành phố lên có thể cư xử như lũ man di nếu chúng muốn. Chúng ta ở đây toàn những người văn minh.” Anh nhìn Maneck đăm đăm bằng đôi mắt não nề, thất vọng vì con dám đề xuất những việc như thế.
“Mẹ nhìn bố kìa,” Maneck quay sang cầu cứu mẹ. “Bố lại làm cái mặt dài như bơm nữa rồi. Con nói gì, bố cũng giở bộ mặt ấy ra. Bố chẳng thèm đếm xỉa gì đến ý tưởng của con.”
Vì vậy Kohlah Cola chẳng bao giờ có lấy một cơ hội.
Xương sống của Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp đã gãy, và hành trình truyền qua các thế hệ của công thức bí mật đã cận kề điểm kết.
Anh Kohlah bèn xúc tiến kế hoạch thay thế dành cho con trai, ngày cậu lấy bằng tốt nghiệp trung học cũng chỉ trong nay mai thôi. Anh bắt đầu viết thư cho các trường đại học để hỏi thông tin và xin bộ cẩm nang.
“Anh có chắc việc này là cần thiết không, Farokh?” Chị Kohlah hỏi.
“Trâu chậm uống nước đục,” anh đáp. “Anh không muốn chuyện đó xảy ra với Maneck.”
“Ôi Farokh, sao anh lại nói thế? Cứ nhìn những gì anh đã làm được thì biết, anh đã mất hết cơ nghiệp hồi Chiến dịch Ly khai, vậy mà anh vẫn lo được cho cả nhà ta một cuộc sống sung túc. Sao anh có thể tự gọi mình là trâu chậm được?”
“Có lẽ anh không phải trâu chậm, mà là đời thay đổi quá nhanh. Nhưng kết quả cuối cùng cũng như nhau cả thôi.”
Không gì có thể khiến anh xao lãng mục tiêu của mình, và triển vọng sự nghiệp được đem ra bàn thảo với các bạn bè thân tín nhất của gia đình. Họ đều nhất trí rằng để ngỏ thêm những hướng đi khác là cực kì khôn ngoan.
“Cửa hàng cũng chẳng phá sản đâu mà lo,” Thiếu tướng Grewal nói. “Nhưng nên chuẩn bị sẵn sàng trên mọi mặt trận. Có sẵn vũ khí phòng bị bao giờ chả yên tâm hơn.” “Chính thế đấy,” anh Kohlah nói.
“Nếu thằng bé có thể trở thành một bác sĩ hay luật sư thì hay biết mấy,” chị Kohlah nghĩ ngay đến những nghề danh giá.
“Hoặc kĩ sư.”
“Kế toán viên có chứng chỉ chính quy cũng được trọng vọng lắm,” bà Grewal nói.
Nhờ có đám đàn ông vốn dân nhà binh, cuộc bàn luận mới được hướng trở về những địa hạt thiết thực. “Ta phải xét tình hình thực tế. Chuyện chọn ngành nào còn tùy thuộc vào điểm số của Maneck.”
“Nói thế không có nghĩa là nó không giỏi giang.”
“Không hề. Sắc như lưỡi lê, giống hệt bố.”
“Mà tay chân nó khéo léo lắm,” anh Kohlah gật gù, vui vẻ nhận lấy lời khen ngợi.
Mọi người đều nhất trí, nên cho Maneck theo nghề gì đó dính dáng đến kĩ thuật, đấy là điều chắc chắn. Tốt nhất là một ngành sẽ phát triển cùng sự phồn vinh của đất nước. Câu trả lời, trong bối cảnh một đất nước nơi đa số dân cư sống trong miền khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới, thật hiển nhiên và đồng nhất: “Điều hòa nhiệt độ và điện lạnh.” Và trường đại học uy tín nhất về ngành này, họ khám phá ra, lại nằm ở thành phố quê hương bên bờ biển của chị Kohlah, nơi xưa kia chị đã rời bỏ để đi lấy anh Kohlah.
Học kì cuối cùng kết thúc, Maneck trở về nhà, phát hiện ra những gì đã được an bài cho mình và phản đối dữ dội. Sự phản bội lần thứ hai không chỉ khơi lên nỗi đau âm ỉ như lần đầu. Nó bùng nổ trong tim cậu.
“Bố đã hứa là khi nào có bằng, con có thể về làm với bố!
Bố nói bố muốn con cai quản cơ nghiệp của gia đình cơ mà!” “Bình tĩnh nào – sẽ như thế, sẽ như thế,” anh Kohlah nói, không ngờ mình lại bị phản ứng gay gắt đến thế. “Chỉ là để phòng khi thôi. Con biết đấy, hồi xưa lên kế hoạch cho tương lai thật dễ dàng biết bao. Ngày nay tình hình phức tạp hơn nhiều, lắm bất trắc lắm.”
“Chỉ phí thời gian thôi,” Maneck nói. Cậu tin chắc bố làm như vậy để tống khứ mình đi – để loại bỏ mọi sự can thiệp của cậu trong Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp, như thể cậu là một địch thủ. “Nếu bố muốn con học lấy một nghề, con có thể đi làm thợ cơ khí ở Gara Madanlal. Dưới thung lũng ấy. Sao lại bắt con lặn lội xa xôi đến thế?”
Anh Kohlah lại trưng ra bộ mặt sầu thảm. Thiếu tướng Grewal bèn cười tếu táo. “Này chàng trai, nếu cháu định lập thêm hàng phòng thủ khác, thì phải lập cho vững. Nếu không thì đừng nhọc công làm gì.”
Các bạn bè của gia đình nói Maneck là một cậu bé rất may mắn, và cậu nên thấy mừng vì cơ hội này. “Hồi ở tuổi cháu, nếu được sống một năm dưới thành phố hiện đại, đậm chất quốc tế nhất nước ấy, chắc bọn bác phải sướng phát điên ấy chứ.”
Thế là Maneck bị ghi danh vào đại học, và công cuộc chuẩn bị cho ngày ra đi của cậu được xúc tiến ngay. Một cái va li mới được tậu về. Quần áo của cậu được phân loại, và các loại vé được đặt mua để phục vụ những hành trình khác nhau trên suốt chuyến đi.
“Đừng lo,” mẹ cậu nói. “Sau một năm nữa, khi con quay về, mọi sự sẽ đâu vào đấy. Bố chỉ lo lắng cho tương lai của con thôi. Tất cả những thay đổi này – chúng xảy ra quá nhanh với bố. Đợi một năm nữa, thế nào bố cũng bình tâm trở lại.”
Chị bắt tay vào xếp các món đồ cậu sẽ mang theo vào các hòm. Sợ mình sẽ quên món gì đó, chị thường xuyên tham khảo danh sách gợi ý trong cẩm nang của trường. Chị hết đóng lại mở va li, lấy đồ ra rồi bỏ vào, nhẩm đếm và sắp lại. Người phụ nữ đã từng quản lý hàng hóa của cả Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp nhẹ như không nay bấn cả lên chỉ vì hành lý của con trai.
Chị quay sang hỏi ý kiến chồng hết lần này đến lần khác. “Farokh, anh bảo em nên để bao nhiêu khăn bông? Anh có nghĩ Maneck sẽ cần một ít quần đẹp không, mấy cái màu xám bằng vải ga-ba-đin ấy? Anh Farokh, bao nhiêu kem đánh răng với xà phòng thì đủ? Em nên đóng gói những loại thuốc nào đây?”
Đáp lại chị luôn là câu: “Đừng làm phiền anh vì những chuyện vớ vẩn đấy nữa. Em tự quyết đi.” Thậm chí anh kiên quyết không chịu lai vãng lại gần đống quần áo và vật dụng cá nhân đang cao dần, như muốn chối bỏ sự tồn tại của nó. Nếu bất đắc dĩ phải đi qua chiếc va li đang mở toang đặt trên bàn kê ngay ở hành lang tầng hai, anh thường nhìn lảng đi chỗ khác.
Chị Kohlah hoàn toàn thấu hiểu ý nghĩa trong cung cách cư xử của chồng chị. Chị đã tưởng có thể giúp anh bằng cách lôi kéo anh vào việc cùng lên kế hoạch và sắp xếp hành lý, rằng nhờ đó anh có thêm sức mạnh để vượt qua những ngày tháng đang gây ra biết bao nỗi đau cho cả ba người.
Sau những câu trả lời cộc lốc của anh, chị đành thôi không động đến anh nữa. Nói gì thì nói, trong hai vợ chồng, chị vẫn là người mạnh mẽ hơn khi phải đương đầu với những chuyện như thế này, mặc dù cả hai đều chưa bao giờ phải trải qua một cuộc chia ly dài đến mức này với Maneck. Khoảng cách là một thứ nguy hiểm, chị biết chứ. Cứ nhìn chính chị mà xem – giờ chị không tài nào trở về chung sống với gia đình mình ở dưới thành phố được nữa. Và chỉ vì đi học trường nội trú thôi mà Maneck đã bỏ hẳn thói quen ôm bố mẹ buổi sáng, thứ mà nó chưa từng quên, chưa bao giờ; kể cả những hôm bị ốm, nó vẫn sẽ âu yếm bước xuống, vòng tay quanh người mẹ, rồi trở lại giường. Nó sẽ còn bỏ cái gì nữa sau đợt xa cách này? Ngay như bây giờ, nó đã thành một đứa tách biệt hơn, khó nói chuyện và chia sẻ hơn, lúc nào cũng mặt ủ mày chau. Rồi nó sẽ thay đổi đến thế nào nữa? Cái thành phố kia sẽ làm gì con chị? Từ nay chị sẽ mất nó mãi mãi ư?
Dằn vặt và lo lắng, nên ngay khi đang dở tay phục vụ khách, chị cũng vô tình bỏ cửa hàng chạy lên xem những túi cùng hộp của Maneck. Linh cảm trên cửa hàng có chuyện không bình thường, anh Kohlah tắt máy chế nước giải khát giữa chừng và cắm đầu chạy lên cầu thang để xin lỗi các khách khứa đang đứng chờ.
Sáng hôm ấy, anh cố nén giận. Thế nhưng, khi sự việc tái diễn lần thứ hai, anh sửng cồ: “Aban! Xin hỏi mình trong phòng ngủ có việc gì khẩn cấp mà mình phải chạy lên thế?”
Anh vốn không giỏi nói mỉa mai, cũng rất hiếm dùng giọng điệu đó, nên nó vừa khiến anh sửng sốt, vừa làm chị đau đớn. Song chị không muốn bị cuốn vào một cuộc cãi vã, bèn nhẹ nhàng đáp: “Em nhớ ra một chuyện rất quan trọng.
Nên phải đi kiểm tra ngay.”
“Cơn cuồng của em sẽ làm cả nhà phát điên lên mất. Xin em hãy hiểu cho – nếu em lỡ quên gì đó, ta có thể gửi bưu phẩm sau cũng được.”
Song những thứ khiến chị trăn trở đâu thể được gói ghém hay gửi đi bằng bưu phẩm, và mọi nỗ lực giải thích đều thất bại thảm hại, lời lẽ nói ra đâm thành sai chệch. “Anh chẳng đếm xỉa gì đến chuyện chuẩn bị đồ đạc cho Maneck, anh không muốn nhọc đến thân. Rồi anh bảo em cuồng với điên ư? Anh không lo cho con sao? Có chuyện gì xảy ra với cảm xúc của anh vậy?”
Dù trong lòng đang giận dữ hoang mang là thế, anh Kohlah vẫn rất hiểu duyên do cách cư xử của chị Kohlah. Một tuần sau lần lời qua tiếng lại kia, anh chợt tỉnh giấc giữa đêm, bị đánh thức khi chị trở dậy để rời khỏi phòng. Đồng hồ đã điểm mười hai giờ từ vài phút trước. Anh vờ như mình vẫn ngủ say. Anh nghe thấy tiếng sột soạt và lạo xạo của bàn chân chị khi chị dò dẫm tìm đôi dép. Khi chị đã đóng cửa lại sau lưng, anh nhẹ nhàng ngồi dậy và bám theo.
Lớp ván lát sàn lạnh toát dưới bàn chân trần của anh. Anh đi men theo hành lang tối om và, đằng sau góc ngoặt, anh thấy chị đứng trước va li. Anh lùi lại một bước. Chị đứng ngơ ngẩn, đầu hơi cúi xuống, bàn tay luồn trong đống áo quần của Maneck. Khi vầng trăng nấp sau đám mây trồi ra, ánh sáng bàng bạc soi tỏ khuôn mặt chị. Có tiếng cú rúc lên, anh mừng vì mình đã im lặng, đã âm thầm đi theo chị như thế, để thấy chị thật xinh đẹp, thật mê mải, khi chị đứng đó, hiện thân của bao năm tháng ba người ở bên nhau, ba cuộc đời tan chảy trong con người chị, lung linh trên gương mặt, trên đôi mắt chị.
Con cú lại rúc lên. Ánh trăng lay động, ngập ngừng, rồi để một cụm mây trôi qua. Tay chị khua nhẹ trong va li của Maneck. Lũ chó nằm trên thềm nhà sủa rộn lên – có ma ư?
Farokhn Kohlah nghe tiếng đồng hồ tích tắc, rồi đến tiếng boong lẻ loi điểm mười hai giờ mười lăm. Anh xiết bao biết ơn đêm tối đã cho anh cơ hội này, ảo cảnh dưới trăng này. Anh trở về giường, và không dám kinh động đến chị khi chị chui vào chăn ít phút sau đó.
Thời điểm cho những lời dặn dò cuối đã tới. Những lời khuyên dành cho Maneck khi cậu xa nhà lần đầu tiên ít nhiều được nhắc lại; bố mẹ cậu cảnh báo con lên đại học không nên giao du với những đứa bạn chơi bạc, uống rượu, hay hút thuốc. Họ dặn cậu giữ tiền của cẩn thận, và nên nuôi một mối hoài nghi lành mạnh, vì con người trên thành phố rất khác. “Bao nhiêu năm con sống ở đây, bố mẹ chưa bao giờ kiềm chế bản tính thân thiện của con. Dù bạn con giàu hay nghèo, thuộc đẳng cấp hay tôn giáo nào – những khác biệt ấy không quan trọng. Nhưng nay con sắp phải đối mặt với sự khác biệt căn cốt nhất, khi con rời nơi này lên thành phố. Con phải rất, rất cẩn thận.”
Anh Kohlah đã tính cùng con bắt chuyến xe buýt xuống thung lũng, sau đó đi xe lam ra ga. Song cậu giúp việc bán thời gian không đến, dù đã hứa sẽ tới sớm để nhận phần việc buổi sáng. Thế là Maneck đành lên đường một mình trên hành trình xuống thành phố kéo dài một ngày rưỡi.
“Đến ga nhớ thuê một cửu vạn con nhé,” bố cậu nhắc. “Đừng cố tự vác tất cả đồ đạc. Và phải mặc cả trước rồi mới cho người ta động vào hành lý. Ba rupi là đủ rồi.”
“Anh không định ôm con à?” Chị Kohlah nói, giọng cáu kỉnh, khi thấy hai bố con chỉ bắt tay nhau.
“À, cũng được,” Maneck nói, đoạn vòng tay quanh người bố.
Đoàn tàu Frontier Mail đã nằm sẵn ở ga khi chiếc xe lam lắc lư dừng lại trước cổng. Maneck trả tiền, rồi theo người cửu vạn đi qua chiếc cầu cạn dẫn sang sân ga phía nam. Cậu dừng lại giây lát trên đỉnh cầu, con tàu vươn ra, dài và thon, bên dưới chân cậu, người người hối hả bu quanh nó. Như một đàn kiến đang tìm cách khiêng con sâu chết đi, cậu thầm nghĩ.
Người cửu vạn đã đi xa, cậu bèn cất chân chạy theo. Gần phòng đợi, một người bán hàng rong đang nướng ngô, luôn tay quạt những hòn than nổ lép bép. Maneck tính sẽ quay lại mua một ít sau khi đã tìm được ghế của mình.
“Năm chục rupi từ rày trở đi,” cậu bỗng nghe thấy tiếng tay trưởng ga, gã đang đi thu khoản tiền và ngô hàng tuần. “Mày có chỗ đẹp nhất rồi còn gì. Với giá đấy có khối đứa muốn nhảy vào ấy chứ.”
“Suốt cả ngày cháu bị khói hun mù cả mắt, nghẹt cả phổi,” người bán hàng rong nói. “Bác nhìn bàn tay cháu mà xem – đen thủi đen thui. Xin bác thương cho.” Anh ta khéo léo xoay tròn mấy bắp ngô cho khỏi cháy. “Cháu đào đâu ra năm chục rupi cho bác? Cháu còn phải đút các thầy cảnh sát nữa.”
“Đừng có vờ vịt,” gã trưởng ga nói, đoạn nhét nắm tiền vào chiếc túi trên bộ đồng phục trắng hồ bột. “Mày kiếm được bao nhiêu mà tao còn không biết đấy phỏng?”
Thỉnh thoảng lại có hạt ngô nổ bung với một tiếng tách đanh gọn. Âm thanh và mùi hương thủy chung thôi thúc kí ức của Maneck nhớ về chuyến đi tàu đầu tiên của mình, khi cậu cùng mẹ đi thăm họ hàng.
Lần ấy bố đã ra tiễn hai mẹ con. “Dạo này con nặng quá đi mất,” bố trêu, đoạn công kênh Maneck lên để cậu nhìn rõ hơn cái đầu máy hơi nước. Nó to quá đi mất, cả đoàn tàu nữa, như một chuỗi nhà một tầng, trải ra thật xa, thành một con đường dài ơi là dài. Bố cõng cậu xuống tận cuối sân ga, đến sát con quái vật đang kêu lọc xọc, thở phì phì, còn Maneck đang bận xoay xỏa với bắp ngô của mình. Cậu cắn một miếng, nhựa ngô trắng như sữa bắn tóe lên mắt kính của bố cậu.
Bố bèn giơ tay giật giật mấy cái làm hiệu, người lái tàu hiểu ngay; ông ta tinh nghịch gõ lên vành mũ lưỡi trai của mình và giật một hồi còi cho Maneck. Tiếng rít xé tai, gần đến độ cậu có cảm tưởng nó bật ra từ chính tim mình, làm cậu giật thót, đánh rơi cả bắp ngô. “Không sao,” bố cậu nói. “Mẹ sẽ mua cho con bắp khác.”
Khi thông báo cuối cùng vang lên, bố ấn Maneck qua cửa sổ vào đúng chỗ của mình bên cạnh mẹ. Đoàn tàu chuyển mình, và nhà ga bắt đầu trôi qua trước mắt hai mẹ con. Bố vẫy tay, tươi cười, hôn gió. Bố đi theo toa tàu, rồi chạy một chút, nhưng chỉ ít phút sau đã bị bỏ lại phía sau rồi biến mất như bắp ngô rơi lăn lóc trên sân ga. Mọi thứ thân thuộc mất hút khỏi tầm nhìn…
Maneck tìm thấy toa tàu của mình và trả tiền cho người cửu vạn sau khi hành lý đã được cất xếp gọn ghẽ. Ngôi nhà một tầng trên bánh xe trong tuổi thơ của cậu đã bé lại. Thời gian biến cái thần tiên thành tầm thường. Còi hú vang.
Chẳng còn thời gian để mua ngô nữa. Cậu ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh người khách đồng hành với mình.
Ông khách kia không tỏ vẻ gì là khuyến khích nỗ lực bắt chuyện của Maneck, chỉ đáp lại bằng những cái gật đầu và ậm ừ, hoặc mấy cái phẩy tay hờ hững. Ông ta ăn mặc rất gọn gàng, tóc rẽ ngôi lệch về bên trái. Túi áo sơ mi phồng cứng vì những bút mực và bút đánh dấu được đựng trong một cái hộp nhựa có nắp kẹp đặc biệt. Ngồi ở hai ghế đối diện họ là một cô gái đi cùng bố. Cô ta đang mải đan móc. Nhìn mảnh len treo toòng teng trên mũi kim, Maneck cố đoán nó sẽ thành cái gì – khăn, tay áo, tất?
Ông bố đứng dậy để ra nhà vệ sinh. “Bố đợi đã, để con đỡ bố,” cô con gái nói, khi ông chống nạng tập tễnh bước ra lối đi. Hay lắm, Maneck nghĩ thầm, cô gái sẽ phải nằm ở giường tầng trên. Cậu cũng nằm tầng trên, sẽ nhìn cô được rõ hơn.
Tối đến, Maneck mời người hàng xóm ăn vận chỉnh tề một chiếc bánh quy Gluco. Ông ta thì thào cảm ơn. “Không có gì,” Maneck thì thào đáp lại, cho rằng ông kia vốn bẩm tính thích nói năng nhỏ nhẹ. Đổi lại chiếc bánh bích quy, cậu được cho một quả chuối. Vỏ chuối đã thâm lại vì nóng, nhưng cậu vẫn ăn.
Người phục vụ vào phát chăn mền cho từng khách, ngả giường ra để chuẩn bị cho họ ngủ. Sau khi anh ta đi rồi, ông khách ăn vận chỉnh tề lấy ra một đoạn dây xích và khóa từ chính cái túi đã đựng mấy quả chuối và xích hành lý của mình vào một thanh dầm bên dưới ghế ngồi. Ghé sát vào tai Maneck, ông ta thậm thụt giải thích: “Để phòng bọn trộm cắp đấy – chờ khi khách ngủ say, chúng nó mới mò vào từng khoang.”
“Ô,” Maneck nói, hơi lo sợ. Không ai nói trước với cậu về chuyện đó. Nhưng biết đâu ông khách kia thuộc dạng hay lo xa. “Chú không biết, chứ cách đây ít năm cháu và mẹ cũng đi trên chính con tàu này này, mà có bị mất mát thứ gì đâu.”
“Buồn thay, thời thế bây giờ đổi khác lắm rồi.” Ông ta cởi áo sơ mi và treo gọn ghẽ lên một cái móc cạnh cửa sổ. Đoạn ông lấy chiếc hộp nhựa khỏi túi áo và cặp nó vào áo lót, khéo lựa để không cặp phải đám lông ngực xoăn tít thò lò. Thấy Maneck đang nhìn, ông ta thì thào cùng một nụ cười: “Tôi quý mấy cái bút này lắm. Tôi không muốn phải xa chúng, kể cả lúc ngủ.”
Maneck cười đáp lại, và cũng thì thào: “Vâng, cháu cũng có một cái bút cháu rất thích. Cháu chả dám cho ai mượn – chỉ sợ hỏng mất ngòi.”
Ông bố và cô con gái tỏ vẻ không hài lòng vì mấy trò thì thì thọt thọt chừa họ ra kiểu đó. “Biết làm sao được hả bố, nhiều người trời sinh ra đã thô lỗ rồi,” cô nói, và đưa cho bố cái nạng. Họ lại đi ra nhà vệ sinh, ném một cái nhìn lạnh lẽo về phía hai ghế đối diện.
Cái nhìn ấy rơi tõm vào hư không, vì Maneck đã bắt đầu lo lắng cho chính va li của mình. Những lời thì thào của ông khách yêu bút về lũ trộm cắp đã phá hỏng buổi tối của cậu, cậu quên khuấy cô gái nằm ở giường tầng trên. Đến lúc cậu sực nhớ ra, cô đã được che chắn khỏi những con mắt soi mói, ông bố kéo chăn dém lên tận cổ con gái.
Trước khi trèo lên giường của mình, Maneck đặt lại chiếc va li sao cho nằm từ trên kia, cậu vẫn nhìn thấy một góc của nó. Cậu nằm thao thức, chốc chốc lại nhòm va li. Ông bố của cô gái trông thấy cậu ngó xuống mấy lần, và săm soi cậu vẻ ngờ vực. Đến gần sáng, cơn buồn ngủ đã chiến thắng nỗi cảnh giác của Maneck. Thứ cuối cùng cậu nhìn thấy khi đang dần hàng phục giấc ngủ là ông bố chống nạng đứng chấp chới, tay giăng tấm ga trải giường che cho cô con gái leo xuống, cố không để lộ quá một cái cổ chân hoặc mắt cá.
Cậu không tỉnh dậy đến tận khi người phục vụ đến thu dọn chăn màn. Cô gái trẻ đã lại đang bận bịu đan len, mảnh len hình thù kì bí nhảy múa dưới ngón tay cô. Trà được mang lên. Giờ ông khách quý bút ăn mặc gọn gàng đã chịu nói hơn. Mấy chiếc bút đã quay về túi áo ông. Maneck được biết cung cách kiệm lời hôm qua là do bệnh đau họng.
“May phước, sáng nay thì đỡ hơn rồi,” ông ta nói giữa lúc đang ho húng hắng và chực khạc ra.
Nhớ lại mình đã đáp lại những lời thì thào khàn khàn của ông ta bằng cách thì thầm lại với một điệu bộ hết sức nghiêm trọng, Maneck thấy hơi ngượng. Cậu phân vân không biết có nên xin lỗi hay phân bua chăng, nhưng xem chừng ông khách quý bút chẳng lấy làm bận tâm.
“Bệnh nặng lắm,” ông ta giải thích. “Tôi đi tìm thầy kiếm thuốc đấy chứ.” Ông ta lại đặng hắng. “Từ xửa từ xưa, lúc mới lập nghiệp, tôi có bao giờ ngờ được là nó lại hành tôi đến thế này. Nhưng làm sao đương lại số trời cho được?”
Maneck lắc đầu thông cảm. “Chú làm việc trong nhà máy ạ? Do hít khí độc ư?”
Nghe lời ướm hỏi, người đàn ông bật cười vẻ khinh bỉ.
“Tôi là LL.B.[32], luật sư có bằng cấp hẳn hoi đấy.”
“À, ra thế. Vậy là những buổi tranh tụng dài dằng dặc trong phòng xử án bụi bặm đã chèn ép và phá hoại dây thanh quản của chú phải không?”
“Không hề – trái lại là đằng khác.” Ông ta ngập ngừng.
“Chuyện dài lắm.”
“Nhưng chú cháu ta có khối thời gian kia mà,” Maneck động viên. “Chuyến đi này dài lắm.”
Ông bố và cô con gái đã chịu hết nổi những cuộc trao đi đổi lại theo kiểu rầm rì nhỏ to của hai người bọn họ. Ông bố đoan chắc những tiếng cười hinh hích ngầm chứa một lời bình phẩm báng bổ nhắm thẳng vào đứa con gái ngây thơ của mình. Ông ta quắc mắt, vớ lấy cái nạng, và cầm tay con gái rồi cà nhắc cà nhót lao đùng đùng ra ngoài. “Biết làm sao được hả bố,” cô gái nói. “Nhiều người chẳng biết thế nào là lễ độ đâu.”
“Tôi chả hiểu hai bố con nhà kia bị làm sao,” ông khách quý bút nói, mắt nhìn theo chuyển động máy móc, chính xác của chiếc nạng. Ông ta mở nắp một cái chai nhỏ màu xanh, hớp một ngụm, rồi cất sang một bên. Tay mân mê mấy chiếc bút vẻ đầy yêu thương, ông ta chạy thử dây thanh quản mới nhúng thuốc bằng một câu mở đầu cho thiên truyện về cổ họng mình.
“Nghiệp luật sư của tôi, vốn là nghề đầu tiên, nghề tôi yêu quý nhất, bắt đầu từ cách đây rất lâu. Đúng vào năm nước ta giành độc lập.”
Maneck nhẩm nhanh. “Từ năm 1947 đến 1975 – hai tám năm. Bề dày kinh nghiệm luật pháp đáng nể thật.”
“Không hẳn. Chỉ sau hai năm, tôi đổi nghề khác. Tôi không chịu nổi cứ phải tranh biện liên hồi giữa phòng xử án ngày này qua ngày khác. Áp lực quá lớn với một người nhút nhát như tôi. Hàng đêm tôi nằm trên giường, người run cầm cập, mồ hôi vã ra như tắm, nghĩ đến sáng hôm sau mà sợ. Tôi cần một công việc mà tôi có thể làm một mình.
Kiểu việc in-camera[33].”
“Nghề nhiếp ảnh ạ?”
“Không, đấy là tiếng Latinh, có nghĩa là xử kín.” Ông ta khẽ cào cào mấy cái bút như để gãi ngứa cho chúng, mặt lộ vẻ rầu rĩ. “Tại học luật lâu, nên tôi có cái thói tệ thế đấy – cứ thích dùng mấy cụm từ ngớ ngẩn thay vì những câu chữ giản dị dễ hiểu. Nói tóm lại, là để tìm chút riêng tư, tôi đã nhận chân biên tập sửa bản in cho tờ Thời báo Ấn Độ.”
Làm sao nghề sửa bản in có thể tàn phá cổ họng cho được? Maneck tự nhủ. Nhưng cậu đã lỡ ngắt lời ông ta đến hai lần và tự biến mình thành thằng ngố. Tốt hơn hết là cứ im lặng mà nghe.
“Tôi là người giỏi nhất họ có, đỉnh nhất luôn. Những bài vở khó và quan trọng nhất đều được để dành cho tôi đọc duyệt. Xã luận, tường thuật phiên xét xử, văn bản luật, số liệu thị trường chứng khoán. Cả diễn văn của các chính trị gia nữa – chán không tả nổi, có thể làm cậu gật gù, rồi ngủ gục hẳn luôn ấy chứ. Mà buồn ngủ là kẻ thù số một của người làm nghề này. Tôi đã chứng kiến nó phá hoại vài thanh danh rất hứa hẹn rồi.”
“Song đối với tôi, chả có cái gì là quá khó nhằn hết. Từng chữ lướt qua mắt tôi, dòng nọ nối dòng kia, một hạm đội tàu quy củ giữa đại dương giấy in. Lắm lúc tôi có cảm giác mình giống như một vị Đô đốc Hải quân, nắm quyền kiểm soát tối cao với toàn bộ lực lượng hải quân của nhà in. Và chỉ sau vài tháng, tôi đã được đề bạt lên chức Trưởng ban.”
“Những giọt mồ hôi đêm biến mất, tôi ngủ ngon lành. Suốt hai mươi tư năm tôi giữ vị trí ấy. Tôi rất sung sướng trong góc làm việc xinh xắn của mình – đó là vương quốc của tôi với cái bàn, cái ghế, cái đèn đọc sách của tôi. Còn mong ước gì hơn nữa?”
“Không thể mong gì hơn,” Maneck nói.
“Chính xác. Nhưng chả vương quốc nào tồn tại đến thiên niên vạn đại – kể cả những vương quốc chia ô nhỏ bé khiêm nhường. Một ngày nó xảy ra, không hề báo trước.”
“Cái gì kia ạ?”
“Thảm họa. Tôi đang đọc duyệt bài xã luận viết về một thành viên Hạ viện đã tư túi một khoản kếch sù từ Dự án Cứu trợ Hạn hán. Mắt tôi bắt đầu ngứa ngáy và chảy nước. Tôi chả nghĩ ngợi gì, dụi dụi vài cái rồi lau mắt cho khô, và tiếp tục đọc. Chỉ vài giây sau, chúng lại ướt nhoẹt. Tôi lại lau. Nhưng chuyện ấy cứ tái diễn liên tục, liên tục. Không phải một, hai giọt vớ vẩn nữa, mà nước chảy hẳn thành dòng giàn giụa.”
“Chả mấy chốc, các đồng nghiệp tốt bụng đã vây quanh tôi. Họ chen chúc trong ô làm việc nhỏ bé của tôi, hết lời vỗ về an ủi, cứ ngỡ tôi ôm mối đau thương nào đó. Họ đồ rằng việc đọc những bài viết về thực trạng đáng buồn của đất nước hết ngày này qua ngày khác – về nạn tham nhũng, thiên tai địch họa, rồi khủng hoảng kinh tế – rốt cuộc đã làm tôi suy sụp. Rằng tôi đang vỡ òa vì đau buồn và tuyệt vọng.” “Họ nhầm, dĩ nhiên. Tôi chẳng đời nào để cảm xúc xen vào công việc chuyên môn. Cậu nghe rõ nhé, tôi không nói muốn làm nghề sửa bản in thì phải vô cảm. Tôi không phủ nhận rằng bản thân tôi thường xuyên cảm thấy buồn muốn khóc vì những gì tôi đọc được –chuyện về những cảnh đời bất hạnh, bạo lực đẳng cấp, chính phủ nhẫn tâm, công chức cửa quyền hách dịch, cảnh sát tàn bạo hung ác. Tôi dám chắc rất nhiều người trong chúng ta cũng có chung cảm giác này, và một cuộc bộc phát cảm xúc là điều khá dễ hiểu. Song một trường hy sinh dai dẳng sẽ hóa trái tim thành sỏi đá, như nhà thơ tôi yêu thích đã viết.”
“Ai thế ạ?”
“W. B. Yeats. Và tôi nghĩ đôi khi ta cần kìm nén trong những hành vi thông thường, để có thể tiếp tục cuộc sống.”
“Cháu cũng không dám chắc,” Maneck nói. “Chẳng phải cứ thẳng thắn bày tỏ sẽ tốt hơn là giấu giếm hay sao? Có lẽ nếu tất cả dân chúng trong nước đều giận dữ hoặc đau khổ, lúc đó tình hình sẽ thay đổi, các chính trị gia sẽ buộc phải cư xử cho tử tế.”
Đôi mắt ông khách sáng lên trước lời thử thách, sung sướng vì lại có cơ hội tranh luận. “Xét về mặt lý thuyết thì đúng, tôi đồng ý với cậu. Nhưng trên thực tế, nó có thể khơi mào cho những thảm họa khủng khiếp hơn nữa. Cậu cứ thử tưởng tượng sáu trăm triệu con người giận dữ, la hét, khóc lóc thì thế nào. Hết thảy mọi người trong đất nước này – cả phi công lái máy bay, thợ lái tàu, nhân viên bán vé xe buýt và xe điện – ai cũng mất kiểm soát hết. Đại họa. Máy bay từ trên trời rơi đụp xuống, tàu hỏa đi trật đường ray, thuyền đắm, xe buýt xe tải xe hơi đâm nhau lung tung cả. Loạn. Loạn hết.”
Ông ta ngừng lời để trí tưởng tượng của Maneck có thời gian hình dung ra hết những chi tiết của tình trạng hỗn mang mà cậu vừa ra tay tháo cũi sổ lồng. “Và xin cậu nhớ cho: các nhà khoa học chưa từng tiến hành bất cứ nghiên cứu nào về tác động của hiện tượng kích động hàng loạt và tự tử hàng loạt lên môi trường. Chưa từng, trên quy mô tiểu lục địa như thế này. Nếu cánh bướm có thể tạo ra biến động khí quyển ở cách đó nửa vòng trái đất, ai biết những gì sẽ xảy ra trong trường hợp của chúng ta. Bão? Lốc xoáy? Sóng cồn? Thế còn mặt đất, liệu nó có rung chuyển vì đồng cảm không? Núi có nổ tung không? Còn các dòng sông, liệu châu chan lệ ứa từ một tỷ hai trăm triệu con mắt có làm mực nước dâng lên và gây ra lũ lụt không?”
Ông ta lại tợp thêm một ngụm nữa từ cái chai xanh. “Không, quá nguy hiểm. Cứ nên cư xử theo cách thông thường là hơn.” Ông đóng nắp chai và quệt môi. “Quay về với câu chuyện nhé. Tôi ngồi đó, bản thảo của ngày hôm ấy đặt trước mặt, còn mắt chảy nước giàn giụa. Một chữ cũng không đọc nổi. Cả văn bản, những dòng cùng cột nghiêm ngắn quy củ, đột nhiên nổi loạn, các chữ cái múa may quay cuồng, tan tác giữa một biển giấy đầy bão giông.”
Ông ta đưa tay vuốt ngang mắt, nhớ lại cái ngày định mệnh hôm nào, rồi dịu dàng ve vuốt mấy cái bút, như thể cả chúng cũng biết xót xa khi nghe kể về những sự kiện đau lòng ấy. Maneck bèn nhân lúc này để chen vào vài lời tán dương, với hi vọng câu chuyện được tiếp tục. “Chú có biết không, chú là biên tập viên sửa bản in đầu tiên cháu được gặp đấy. Cháu cứ nghĩ họ là những người tẻ nhạt lắm, nhưng cách chú nói năng thật… kiểu cách… thật khác hẳn. Gần giống như một nhà thơ ấy.”
“Sao lại không chứ? Suốt hai mươi tư năm, những chiến thắng và bi kịch của đất nước ta khiến tôi thở dồn, làm mạch máu tôi hân hoan reo mừng hay run rẩy đau buồn. Suốt hai mươi tư năm đọc bản thảo, hàng đàn từ ngữ đã lao qua cửa sổ tâm hồn bay thẳng vào đầu tôi. Một số ở lại và xây tổ trong đó. Làm sao tôi không nói năng như một thi nhân cho được, với cả khối ngôn ngữ luôn sẵn sàng để tôi tùy nghi sử dụng, lại liên tục được bồi đắp bằng những nguồn mới.” Ông ta buông một tiếng thở dài não nuột. “Cho đến cái ngày ướt át đấy, đương nhiên rồi, khi tất cả chấm dứt. Khi đôi cửa sổ bị đóng sập. Và bác sĩ nhãn khoa mang cái án bất lực tròng vào cổ tôi, nói những ngày đọc bản thảo giờ đã là dĩ vãng.”
“Chẳng lẽ ông ấy không kiếm được cho chú một cặp kính hay gì đó ư?”
“Chẳng ích gì đâu. Vấn đề là, đôi mắt của tôi đã bị dị ứng nặng với mực in.” Ông ta xòe hai bàn tay ra làm điệu bộ trắng tay. “Thứ mật ngọt từng nuôi dưỡng tôi đã biến thành thuốc độc.”
“Rồi chú làm thế nào?”
“Người ta còn biết làm thế nào trong hoàn cảnh như thế nữa? Chấp nhận nó, và tiếp tục sống. Cậu hãy luôn nhớ cho, bí mật của sinh tồn là nắm lấy đổi thay, và thích nghi. Xin dẫn lại câu: ‘Vạn vật sụp đổ, rồi sẽ được tái dựng, ai người gây dựng, thật sung sướng lắm thay.’” “Cũng của Yeats ạ?” Maneck hỏi.
Người sửa bản in gật đầu: “Cậu thấy đấy, cậu không thể tự nhiên vẽ ra những ranh giới cùng vách ngăn và từ chối di chuyển vượt quá phạm vi của chúng. Đôi khi cậu phải lấy thất bại làm những viên đá lát con đường dẫn mình đến thành công. Cậu phải duy trì một trạng thái cân bằng mong manh giữa hi vọng và tuyệt vọng.” Ông ta ngừng lời, nghiền ngẫm những gì mình vừa nói. “Phải,” ông ta nhắc lại. “Nói cho cùng, tất cả đều là vấn đề cân bằng.”
Maneck gật đầu. “Nhưng mà, chắc chú phải nhớ công việc cũ lắm nhỉ.”
“À, cũng không hẳn,” ông ta gạt đi nỗi thông cảm. “Không phải bản thân công việc. Đa phần các tin bài trên báo chí rặt một đống rác rưởi. Một lượng lớn những thứ đi vào qua cửa sổ tâm hồn của tôi đều nhanh chóng bị thải ra.”
Maneck ngờ ngợ thấy câu này hoàn toàn trái ngược với những gì ông khách vừa nói trước đó. Có lẽ vị luật sư ẩn sau con người biên tập viên vẫn chưa lụt nghề, thừa sức cãi cho cả hai thái cực của một vấn đề.
“Có vài thứ hay tôi đã giữ lại, và nay vẫn còn.” Người sửa bản in gõ cộc cộc mấy cái, trước là lên trán, sau là lên hộp bút nhựa. “Não chẳng gợn ý điên – hộp không dung bút hỏng.”
Tiếng dận thình thịch của chiếc nạng lẻ loi báo hiệu cuộc trở về dọc hành lang của ông bố và cô con gái. Maneck và người sửa bản in chào họ bằng những nụ cười hòa nhã. Song hai bố con chẳng vì thế mà dễ dàng nguôi giận. Khi bước qua để về chỗ mình ngồi, ông bố thọc mạnh mũi nạng vào chân người sửa bản in. Nếu người sửa bản in không lường trước được cuộc đột kích, hẳn ông ta đã thành công. “Xin lỗi,” ông bố nói cộc lốc, thất vọng ra mặt. “Biết làm thế nào được, sao có thể tránh những lúc vụng về khi ta chỉ còn một cái chân lành giữa thế giới của bọn hai chân.”
“Bác đừng bận lòng,” người sửa bản in nói. “Tôi chưa việc gì cả.”
Cô con gái tiếp tục đan len, còn ông bố hướng đôi mắt hằn học ra ngoài cửa sổ, khiến một người nông dân xa lạ đang làm việc trên đồng giật thót vì vô tình bắt gặp ánh nhìn nảy lửa của ông ta. Maneck muốn người sửa bản in kể nốt câu chuyện. “Thế giờ chú nghỉ hưu rồi à?”
Ông ta lắc đầu. “Muốn cũng chẳng được. Không, may cho tôi, tổng biên tập của tôi là người rất tử tế, đã kiếm cho tôi công việc mới.”
“Nhưng còn bệnh đau họng của chú thì sao?” Maneck cho rằng mục đích của toàn bộ câu chuyện, vì lẽ gì đó, đã bị bỏ quên.
“Bệnh phát khi tôi nhận công việc mới. Nhờ vị trí của mình, ngài tổng biên tập quen biết rất nhiều chính trị gia, nên đã sắp xếp cho tôi làm việc tự do, trong ngành tổ chức mít tinh.” Nhận thấy vẻ phân vân trên mặt Maneck, ông ta giải thích: “Tức là, nghĩ ra khẩu hiệu, thuê khán giả, và tổ chức các cuộc tuần hành và biểu dương lực lượng cho các đảng phái chính trị khác nhau. Lúc ông ta giới thiệu việc cho tôi, mọi thứ có vẻ cũng đơn giản.”
“Rồi có thật thế không?”
“Trên phương diện sáng tạo thì không có vấn đề gì. Viết diễn văn, thiết kế băng rôn – mấy việc đấy đều dễ. Với kinh nghiệm hàng chục năm đọc bản thảo, tôi thông tỏ như lòng bàn tay mấy bài ba hoa bốc phép mà bọn chính trị gia chuyên nghiệp ưa dùng. Modus operandi[34] của tôi đơn giản lắm. Tôi lập ra ba danh sách: Thành tựu của ứng viên (thực tế và tưởng tượng), Luận điệu chống lại đối thủ (bao gồm tin đồn, lý lẽ, lời ám chỉ bóng gió, và tin bịa đặt), và Hứa hão (càng bất khả thi càng tốt). Công việc sau đó chỉ đơn thuần là lựa chọn các thành phần từ ba danh sách rồi đem kết hợp lại với nhau, mắm muối thêm tí mùi khoa trương phóng đại, gia giảm một vài chi tiết mang tính địa phương, thế là xong – một bài diễn văn mới toanh. Tôi là một thiên tài thực thụ trong mắt các khách hàng của mình.” Một nụ cười vờn vỡ trên gương mặt ông khi ông nhớ lại thành công của mình.
“Thử thách đối với tôi nằm ở pha cuối cùng, khi ra ngoài đường phố. Cậu thấy đấy, gần trọn đời đi làm, tôi chỉ ru rú trong văn phòng, trong im lặng, cổ họng tôi không hề được tập luyện. Nay đột nhiên tôi phải hò hét chỉ dẫn, hô hào khẩu hiệu, kêu gọi đám đông nhắc lại lời mình vừa nói. Đó quả là một terra incognita[35]đối với một người vốn quen kiểu việc riêng tư yên tĩnh như tôi. Nó trở thành quá sức. Quá quá sức đối với cái dây thanh quản ít dùng của tôi. Các dây thanh âm của tôi bị tổn thương nặng đến độ, bác sĩ bảo rằng chúng sẽ không bao giờ phục hồi hoàn toàn như cũ nữa.”
“Thật kinh khủng,” Maneck nói. “Lẽ ra chú nên để những người khác hò hét thay mình thì hơn. Nói cho cùng, khán giả được thuê để làm việc đó cơ mà, phải không?” “Chính xác. Nhưng thói quen từ công việc cũ của tôi – phải đích thân làm mọi thứ, từ những tiểu tiết nhỏ nhất – là một thói quen rất khó bỏ. Tôi không thể để đám khán giả được thuê thích hò reo thế nào mặc tình. Nói cho cùng, thành công của một cuộc mít tinh được đo bằng đơn vị đềxi-ben[36]. Khẩu hiệu thông minh và băng rôn hùng hồn đâu có tự nói được. Thế nên tôi cảm thấy mình phải làm mẫu, hăng hái vận dụng chính giọng nói của mình, tuôn chảy và vang rền, khẩn cầu các vì tinh tú, nguyền rủa những thế lực ma quỷ, tán tụng các vị Mạnh Thường Quân – rống và thét và gào và hú, cho đến khi chiến thắng thuộc về tôi mới thôi!”
Hồi tưởng đến kì phấn khích, người sửa bản in quên béng mất giới hạn của mình và bắt đầu lên giọng. Ông ta rút trong túi ra một cây bút và múa may nó như chiếc đũa của một vị nhạc trưởng. Đột nhiên, cuộc tường thuật đậm chất giao hưởng của ông bị gián đoạn bởi một tràng ho và nghẹn và hổn hển dữ dội.
Ông bố và cô con gái co rúm người lại, nép sát vào thành ghế, sợ dính bệnh truyền nhiễm từ cơn ho nghe rợn gáy. “Biết làm sao được hả bố,” cô gái khụt khịt, tay đưa vạt sari lên che mũi và miệng. “Nhiều người chẳng biết để ý để tứ gì đến những người xung quanh. Cứ vô tư phát tán vi trùng của mình.”
Người sửa bản in nín thở và nói: “Cậu thấy chưa? Cậu thấy tôi khổ sở tới mức nào chưa? Đấy là hậu quả của nghề tổ chức mít tinh đây. Chứng bất lực thứ hai.” Ông ta đưa hai bàn tay lên vào bấu chặt lấy cổ. “Có thể nói tôi đã tự cắt cổ họng của chính mình.”
Maneck cười tán thưởng, nhưng người sửa bản in không hề có ý định pha trò. “Tôi đã học được từ kinh nghiệm của bản thân,” ông làm giọng nghiêm trọng. “Giờ tôi luôn giữ một anh trợ lý họng khỏe bên mình, tôi thì thầm các chỉ dẫn vào tai anh ta. Tôi dạy anh ta cách ngắt nghỉ, lên xuống, chữ nào thì nhấn, chữ nào thì lướt. Sau đó anh ta sẽ thay mặt tôi chỉ huy lữ đoàn hò hét.”
“Thế họng anh ta ổn, không gặp vấn đề gì chứ ạ?”
“Ừ, nhìn chung khá ổn. Trước khi xuất ngũ, anh ta từng là một hạ sĩ quan. Tuy vậy, tôi vẫn bắt anh ta phải trữ sẵn thật nhiều viên ngậm bạc hà. Thực ra lát nữa chính anh ta sẽ đón tôi ở nhà ga chứ ai. Trên thành phố nhu cầu về tổ chức mít tinh lúc nào cũng cao. Đang có rất nhiều nhóm người thường xuyên rơi vào trạng thái kích động – nào đòi thêm lương thực thực phẩm, rồi bớt thuế, tăng lương, giảm giá cả. Vì thế nhân dịp tôi đi điều trị, chúng tôi sẽ lo công chuyện luôn.”
Đến cuối câu chuyện, giọng nói của ông đuối dần thành tiếng thều thào yếu ớt mà tối qua ông phải vất vả lắm mới nặn ra được. Maneck bèn khuyên ông ta không nên ép uổng bản thân thêm nữa.
“Cậu nói phải lắm,” người sửa bản in nói. “Lẽ ra tôi phải thôi nói từ lâu rồi mới phải. Nhân thể, tên tôi là Vasantrao Valmik.” Đoạn, ông ta chìa tay ra.
“Maneck Kohlah,” cậu đáp, và bắt tay ông, còn ông bố và cô con gái quay mặt đi chỗ khác, không thiết tham gia cuộc chào hỏi của hai gã bất lịch sự nọ.
Sau ba mươi sáu tiếng kể từ lúc rời nhà, Maneck lên đến thành phố, quần áo bám đầy bụi bặm, mắt nhức nhối. Mũi cậu ngâm ngẩm đau, họng khô đắng. Cậu tự hỏi không biết hành trình vừa qua còn tàn phá bộ dây thanh âm xơ xác của ông khách nọ tới mức nào.
“Tạm biệt chú, chú Valmik – xin chúc chú mọi điều tốt lành,” cậu nói, đoạn khó nhọc len ra ngoài cùng đủ thứ hòm xiểng.
Đứng thiểu não trên sân ga, mắt đưa quanh quất tìm vị hạ sĩ quan về hưu của mình, Vasantrao Valmik hầu như không đủ sức thốt ra lấy một câu hồi đáp. Ông ta giơ một tay lên chào tạm biệt, trên đường hạ xuống, nó tiện thể vuốt ve luôn mấy chiếc bút.
Chiếc xe tắc xi chở Maneck từ nhà ga về kí túc xá phải đi vòng qua một vụ tai nạn. Một ông cụ bị xe buýt tông phải. Trong khi chờ cảnh sát và xe cứu thương tới, người soát vé ra vẫy những xe buýt đi ngang qua và lùa khách của mình lên đó.
“Phải trẻ tuổi, nhanh chân mới mong qua đường lành lặn,” người tài xế tắc xi đăm chiêu.
“Đúng vậy,” Maneck nói.
“Lũ tài xế xe buýt khốn nạn, chúng nó toàn đút lót để mua bằng, chứ có thi thố quái gì đâu,” ông ta lên giọng phẫn nộ, đoạn đánh xe sang làn đường ngược chiều để vượt lên. “Phải tống hết bọn này vào tù.”
“Chú nói phải,” Maneck nói, chỉ nghe lơ mơ. Lọc qua nỗi kiệt quệ của cậu, thành phố lướt qua ô cửa sổ xe tắc xi như một cuộn phim. Trên vỉa hè, lũ trẻ đang ném đá loạn xạ vào một cặp chó tơ dính lấy nhau. Có người tạt cả xô nước vào hai con vật để tách chúng ra. Chiếc tắc xi suýt đâm vào một con khi nó chạy vụt vào dòng xe cộ.
Ở chốt đèn giao thông tiếp theo, cảnh sát đang bắt giữ một người đàn ông vừa bị sáu thanh niên tẩn cho một trận lên bờ xuống ruộng. Dân cư khu phố đã đổ tràn ra đường để chứng kiến cao trào của tấn kịch. “Sao thế?” Người tài xế thò cổ ra khỏi cửa sổ để hỏi một người xem.
“Thằng đấy vừa tạt a-xít vào mặt vợ.”
Đèn chuyển màu trước khi họ kịp tìm ra nguyên nhân. Người tài xế đoán có lẽ vì bà vợ đã lăng nhăng với gã nào đấy; hoặc làm cháy bữa tối của lão chồng. “Nhiều thằng điên lắm, việc gì cũng dám làm.”
“Biết đâu lại cãi nhau về chuyện hồi môn cũng nên,” Maneck nói.
“Cũng có thể. Nhưng thường những ca đấy họ hay dùng dầu hỏa, lấy luôn trong bếp.”
Khi Maneck về đến kí túc xá thì đã tối mịt. Vào phòng bảo vệ, cậu được nhận số phòng, chìa khóa, và một tờ danh sách các quy định: Vui lòng luôn khóa cửa phòng. Vui lòng đừng viết hoặc cào lên tường bằng vật sắc nhọn. Vui lòng đừng đưa người khác giới về phòng. Vui lòng đừng vứt rác qua cửa sổ. Vui lòng giữ yên lặng vào buổi đêm…
Cậu vo tròn tờ danh sách in rô-nê-ô và vứt lên chiếc bàn nhỏ. Mệt đến không ăn uống hay tắm rửa nổi, cậu moi từ hành lý ra một tấm ga trắng và lăn ra ngủ.
Con vật gì đó bò dọc bắp chân đã đánh thức cậu. Cậu chống khuỷu lên phủi thật mạnh khắp khoảng dưới đầu gối. Ngoài trời tối om. Cậu rùng mình, và tim cậu đập thình thịch như điên trong cơn hoảng loạn vì không nhớ nổi mình đang ở đâu. Tại sao ô cửa sổ phòng ngủ của cậu lại co hẹp đi thế này? Và đâu mất rồi, dải thung lũng trải rộng phía xa, với vô vàn đốm sáng nhảy múa trong đêm, và những ngọn núi in hằn cái bóng lờ mờ nơi chân trời? Sao lại biến đi hết rồi?
Cảm giác bình tâm bao trùm toàn thân cậu như một tấm chăn khi đôi mắt cậu bắt đầu nhìn ra hình hài của đống hành lý nằm dưới sàn. Cậu đã đi. Bằng tàu. Đi đường dài khiến mọi cảm giác thân thuộc đều tan biến. Cậu đã ngủ bao lâu rồi – mấy tiếng hay mấy phút? Cậu nhòm xuống chiếc đồng hồ để tìm lời giải đáp, căng mắt đọc mấy con số phát quang.
Cậu giật thót, chợt nhớ ra cái gì đã đánh thức mình dậy. Con gì đó bò trên chân cậu. Cậu nhảy khỏi giường, đá vào đống hành lý, đập lên ghế, và cuống cuồng sờ soạng khắp mặt tường. Công tắc. Tách. Ngón tay cậu đem sự sống tới cho quả bóng đèn trần trơ trụi, và tấm ga giường sáng lóa lên như một cánh đồng tuyết lấp lánh, tươi mát, trừ một khoảng nơi cậu vừa nằm, lấm lem bụi đất từ mặt và quần áo của cậu.
Rồi cậu nhìn thấy nó trên mép tấm trải trắng. Bắt gặp ánh đèn chói gắt, con vật lủi nhanh về phía kẽ hở giữa giường và tường. Cậu vớ lấy một chiếc giày và đập túi bụi theo hướng nó bò.
Cú đánh trật hướng; con gián biến mất. Thất vọng, cậu cố đè nỗi mỏi mệt xuống và quyết xử lý vấn đề cho tới nơi tới chốn. Cậu lôi giường ra xa tường, thật chậm rãi, để không đánh động kẻ đào tẩu, đến khi tạo được một khoảng trống đủ cho mình lách vào.
Chút sàn nhà vừa lộ ra phơi bày cả một hội nghị gián. Cậu chui vào thật khẽ, giơ cánh tay, và đập liên hồi kì trận. Ba con bỏ mạng dưới đế giày của cậu, lũ còn lại trốn sạch dưới gầm giường. Cậu bò hẳn xuống trên hai tay và đầu gối, quyết trí không để chúng ám quẻ mình thêm nữa. Cùng lúc đó, mắt cá chân cậu bắt đầu nổi ngứa, và mấy ngón tay đưa xuống gãi sờ thấy một cục sưng đỏ. Cậu phát hiện ra mấy nốt ngứa tương tự trên cánh tay mình.
Có tiếng gõ cửa. Cậu do dự, không muốn rời bỏ con mồi – nếu chúng tìm được chỗ trốn, thì đến hết đêm nay, cậu đành phó mặc bản thân cho chúng tùy nghi sinh sát.
Có tiếng gọi: “Xin chào! Mọi việc ổn cả chứ?”
Maneck bò ra khỏi gầm giường và mở cửa. “Chào cậu,” người khách nói. “Tôi là Avinash. Ở phòng bên.” Anh ta chìa tay phải ra; tay trái cầm một cái bình xịt.
“Tôi là Maneck.” Cậu buông rơi chiếc giày và bắt tay anh ta, rồi quay đầu lại liếc nhanh một cái, phòng khi kẻ thù tính kế tẩu thoát.
“Tôi nghe có tiếng đập,” Avinash nói. “Gián hả?” Maneck gật đầu, đoạn cầm chiếc giày lên.
“Bình tĩnh nào, tôi mang tới cho cậu ít công nghệ tiên tiến đây.” Miệng cười nhăn nhở, tay anh ta giơ cái bình xịt lên.
“Cảm ơn anh, nhưng không cần đâu,” Maneck vừa nói vừa gãi cành cạch mấy cục mề đay đỏ tấy trên cánh tay. “Tôi vừa giết được ba con rồi và…”
“Cậu chưa biết xứ này đấy thôi. Giết được ba con, thì ba chục con sẽ xếp hàng một kéo đến, để trả thù. Y như phim Hitchcock.” Anh ta cười lớn và tiến lại gần, đoạn chạm nhẹ lên mấy nốt sưng đỏ trên cánh tay Maneck. “Rệp.”
Lời khuyên của anh ta là xịt thuốc toàn bộ căn phòng và ra ngoài đứng chờ khoảng bốn mươi lăm phút. “Đó là cách duy nhất giúp cậu có thể chợp mắt tối nay, tin tôi đi. Tôi đã sống đến năm thứ ba trong cái kí túc xá này rồi.”
Họ lột vỏ ga, dựng đệm lên, và xịt thuốc lên khung và giát giường. Cả căn phòng cũng được xịt – dọc bậu cửa sổ, các ngóc ngách, bên trong tủ búp phê. Va li cùng rương hòm được chuyển sang phòng Avinash, phòng khi bọn rệp và gián lấy đó làm chỗ tị nạn.
“Tôi ngại quá, dùng mất bao nhiêu thuốc xịt của anh,” Maneck nói.
“Đừng lo, rồi cậu sẽ phải tự mua riêng một bình Flit cho mình thôi. Cậu mua đền cho tôi sau cũng được. Các phòng phải được xịt thuốc ít nhất một lần mỗi tuần.”
Họ ngồi xuống để chờ lũ sâu bọ chết hết, Maneck ngồi vào chiếc ghế duy nhất, Avinash trên giường. “Xong,” anh ta nói, đoạn ngả người ra tì lên hai khuỷu tay.
“Cảm ơn anh đã giúp.”
“Không sao, ôi dào, có gì đâu.” Tiếp đến là một khoảng im lặng, để xem cuộc đối thoại sẽ tiếp diễn theo hướng nào. Không thấy gì. “Cậu có muốn chơi cờ vua, hay cờ đam, hay gì đó để giết thời gian không?”
“Có, cờ đam đi.” Maneck thích đôi mắt anh ta, cách chúng nhìn thẳng vào mắt cậu.
Trò chuyện trở nên dễ dàng hơn khi họ bắt đầu cuộc chơi, hai cái đầu chụm lại trên bàn cờ. “Nhà cậu ở đâu?” Avinash hỏi, và ăn quân vua đầu tiên.
Câu chuyện về thị trấn miền núi, các cụm dân cư, những ngọn núi, lũ khỉ và tuyết mê hoặc Avinash. Anh ta thú thực, khi vừa thắng một ván và đang bày bàn cờ cho ván tiếp theo, rằng mình chưa từng được đi đâu.
“Ngôi nhà được cụ cố của tôi xây trên một ngọn đồi,” Maneck kể tiếp. “Và vì mặt đất rất dốc, nên chúng tôi phải dùng cáp thép để buộc cố định nó lại.”
“Hượm đã – cậu nghĩ tôi vừa đẻ hôm qua chắc?”
“Không, thật mà. Trước đó có một trận động đất, nên nền đất trượt dốc. Vì vậy mới cần chăng cáp.” Cậu giải thích quá trình tu tạo đã được tiến hành ra sao, và mô tả cả các chi tiết kĩ thuật.
Vẻ thành thực của cậu đã thuyết phục được Avinash. Hình ảnh một ngôi nhà bị tròng một sợi xích, đầu kia buộc vào đá núi, khiến anh ta thích thú. “Nghe như một ngôi nhà đang tính đường tự tử ấy nhỉ.”
Họ cười ồ. Avinash đi một quân cờ và nói: “Lên vua này.”
Sau vài nước đi, anh ta lại thắng. “Vậy bố cậu làm nghề gì?”
“Gia đình tôi có một cửa hiệu.”
“A, chủ doanh nghiệp. Chắc ông cụ kiếm khá lắm, thế mới có tiền cho cậu xuống tận đây học chứ.”
Giọng giễu cợt phảng phất trong câu nói của anh ta làm Maneck tự ái. “Chỉ là một cửa hiệu nhỏ thôi, bố mẹ tôi làm lụng cũng vất vả lắm. Họ bắt tôi xuống đây học vì tình hình buôn bán đang trượt dốc và…”
Hai người nhất loạt nhìn lên, và cười phá ra vì từ cậu dùng. Maneck tự thấy mình trả lời ngần ấy câu hỏi đã là quá đủ. “Thế còn anh? Anh cũng học ở đây, chắc bố anh cũng phải đủ lực chứ.”
“Xin lỗi vì phải làm cậu thất vọng. Tôi có học bổng.”
“Chúc mừng anh.” Maneck ngẫm nghĩ bước tiếp theo.
“Thế bố anh làm nghề gì?”
“Làm trong xưởng dệt.”
“Ông ấy là quản đốc à?” Avinash lắc đầu.
“Kế toán?”
“Bố tôi chuyên vận hành máy móc. Ông đã điều khiển cái máy dệt khỉ gió ấy suốt ba chục năm, thế đã được chưa?” Giọng anh ta run lên, chấp chới trên bờ vực cuồng nộ, rồi anh ta bình tĩnh trở lại.
“Tôi xin lỗi,” Maneck nói. “Tôi không có ý…”
“Sao phải xin lỗi? Tôi không hổ thẹn vì sự thật. Tôi mới là người phải xin lỗi, vì không có câu chuyện nào thú vị hơn cái này. Không núi, không tuyết, không ngôi nhà nào chực lăn xuống dốc cả – chỉ có một ông bố vắt hết tuổi trẻ cho nhà máy, và được lại quả bệnh lao phổi.”
Họ lại cắm mắt xuống bàn cờ, còn Avinash tiếp tục kể. Sau khi giành được học bổng, anh đã rất háo hức chờ ngày được dọn đến phòng kí túc xá. Từ thuở lọt lòng, anh đã sống cùng bố mẹ và ba cô em gái trong căn nhà một-phòngkiêm-bếp mà xưởng dệt cho gia đình anh thuê. Bố anh đã mắc bệnh lao từ mấy năm trước, nhưng nay vẫn buộc phải làm việc giữa bầu không khí đầy bụi bặm và sợi bông để nuôi cả nhà. Vả lại, nếu ông nghỉ, gia đình họ sẽ phải dọn ra khỏi khu tập thể của nhà máy, lúc ấy thì chẳng còn chỗ nào mà trú chân.
Kí túc xá là một nỗi thất vọng tràn trề khi Avinash mới tới, bẩn thỉu, gián chuột hoành hành khắp nơi. “Nhà tôi chỉ có độc một phòng kiêm bếp thật đấy, nhưng chí ít chúng tôi còn giữ nó sạch sẽ.” Rồi đến nỗi chán nản khi phải giữ chức Chủ tịch Hội sinh viên và Trưởng ban Kí túc xá. “Tôi hối hận lắm vì đã được bầu. Trong cẩm nang của trường chả có dòng nào chuẩn bị cho cậu đối phó với cuộc sống trong kí túc xá cả.”
“Ý anh là sao?”
“Kể ra lại làm hỏng luôn ngày đầu tiên của cậu mất. Những thứ cậu được chứng kiến cho tới nay chả nhằm nhò gì đâu. Nhưng nếu sinh viên chịu để tâm, lên tiếng đòi cải thiện, nhà tắm và nhà vệ sinh sẽ dễ dàng được sửa sang lại ngay. Tiền bảo trì bảo dưỡng đều trôi vào túi ai đó hết rồi. Y như căng-tin. Lão cấp dưỡng được ôm một hợp đồng béo bở, và cho sinh viên ăn toàn thứ rác rưởi. Nhưng cậu vẫn phải chọn lấy một loại rác cho mình – chay hoặc mặn.”
“Tôi không phải đứa kén ăn đâu,” Maneck nói giọng cứng cỏi.
Avinash cười phá lên. “Để xem. Thực ra, gọi là chọn cũng chẳng phải. Tôi nghĩ đồ chay cũng giống hệt đồ mặn, chỉ có điều không kèm xương xẩu thôi.”
Maneck tập trung chơi; cậu nghĩ một quân lính của mình rốt cuộc cũng sắp xuyên thủng được hàng rào phòng thủ.
“Cái khó là,” Avinash nói, đoạn xơi tái luôn con cờ đầy hứa hẹn, “đa phần các sinh viên sống trong kí túc xá đều xuất thân từ các gia đình nghèo khó. Họ sợ, không dám phàn nàn, ai cũng chỉ mong chóng học xong rồi tìm lấy một công việc để có thể chăm lo cho bố mẹ cùng các anh chị em.”
Bị bắt bài lần nữa, Maneck lại để một quân khác của Avinash lên vua và thua cuộc sau hai nước. Cậu không cáu dù bị thua liên tục, vì đối thủ của cậu không hề tỏ vẻ hả hê.
“Trông cậu có vẻ buồn ngủ,” Avinash nói. “Hèn gì cậu không tập trung nổi.”
“Không sao đâu, ta chơi một ván nữa đi. Nhưng anh biết không, anh rất khác các sinh viên khác.”
Avinash cười. “Làm sao cậu biết? Cậu chỉ mới đến.”
Maneck ngẫm nghĩ, ngón tay lướt trên những vòng tròn đồng tâm khắc trên mặt quân cờ. “Vì… vì tất cả những thứ anh vừa nói. Vì anh trở thành chủ tịch, để cải thiện tình hình.”
Avinash nhún vai. “Tôi không nghĩ thế. Tôi đang tính nghỉ. Tôi nên dành thời gian và công sức cho việc học. Tôi là đứa con đầu tiên trong nhà học hết phổ thông. Cả nhà đều trông vào tôi. Cả ba con em gái của tôi nữa. Tôi phải kiếm đủ tiền để làm hồi môn cho chúng nó, nếu không chẳng ai thèm lấy chúng nó đâu.” Anh ta ngừng lời, mỉm cười. “Hồi ba đứa còn bé, chúng từng cắn ngón tay tôi, lúc tôi giúp mẹ cho chúng ăn.” Nghĩ đến đấy, anh ta cười vang. “Bố tôi nói tất cả chỗ máu ông phải nhổ ra sẽ không còn là vô ích nếu tôi lấy được bằng cùng một công việc tử tế.”
Họ ngẩng mặt lên khỏi bàn cờ, và Avinash im lặng. Nói chuyện khi mắt đang dán vào những quân cờ thật dễ dàng. Lôgic của tấm bảng kẻ ô đã nắm quyền chi phối, dẫn dắt cả cuộc chơi lẫn cuộc đối thoại. Nay mối dây đã đứt. Cảm giác ngại ngùng và lúng túng tràn vào thế chỗ.
“Tôi phải dỡ đồ ra đây.”
“Chắc phòng của cậu cũng ổn rồi. Ta sang xem đi.”
Họ khuân va li cùng hòm xiểng trở vào, quét hết gián chết ra và trải chăn đệm. “Đừng đẩy vào sát tường như cũ,” Avinash nói. “Nên để cách ra chừng dăm chục phân thì an toàn hơn.” Anh ta cũng gợi ý nên kê bốn chân giường ngập trong bốn lon nước, để lũ sâu bọ khỏi bò lên. “Để mai làm cũng được. Đêm nay cậu sẽ bình yên vô sự thôi.”
Maneck phàn nàn với phòng bảo vệ là cậu không thấy động tĩnh gì khi giật dây xả trong nhà vệ sinh.
“Đấy là vì không có nước cho két xả,” viên thư ký nhìn lên, tay đang dán dở băng dính lên mấy thứ giấy tờ rách. “Tay nhà thầu xây tòa nhà này đã không đặt ống nước, để ăn bớt tiền. Trường đã kiện hắn ra tòa. Nhưng em khỏi lo, người lao công chịu trách nhiệm dọn nhà vệ sinh đã có cách xử lý.”
“Bằng cách nào?”
“Dội nước thôi.”
“Bao giờ bác lao công mới đến ạ?”
“Trước khi cả kí túc xá ngủ dậy – bốn giờ sáng, có khi năm giờ.”
Maneck lập tức nghĩ ra một giải pháp quyết liệt: trở thành người đầu tiên đặt chân vào nhà vệ sinh mỗi sáng, dù cậu phải dậy sớm tới mức nào để giành được đặc quyền này.
Hôm sau, nghe tiếng cậu mò dậy trước cả mặt trời, Avinash bèn chạy sang xem. “Có chuyện gì thế? Cậu bị ốm à?”
“Không, tôi vẫn khỏe – sao thế?”
“Cậu biết bây giờ là mấy giờ không? Năm giờ mười lăm.”
“Tôi biết. Nhưng tôi ghét phải thấy cứt của người khác nhìn chòng chọc vào mặt mình khi đi vệ sinh.”
Avinash phát cáu vì đã tự lôi mình ra khỏi giường vì chuyện không đâu, nhưng lại cười khùng khục. “Cậu ấm ơi là cậu ấm. Bao giờ cậu mới quen với đời thực?”
“Tôi đã bảo anh tôi không phải cậu ấm cậu chén gì sất. Phòng vệ sinh của nhà tôi cũng đơn giản, y như ở đây thôi. Nhưng ở đấy trong két xả có nước. Và không hôi thối như thế này.”
“Vấn đề của cậu là cậu nhìn thấy quá nhiều, ngửi thấy quá nhiều. Đây là cuộc sống ở thành phố lớn – không phải những ngọn núi tuyết phủ xinh đẹp nữa. Cậu phải học cách tiết chế đôi mắt và cái mũi ẻo lả của cậu. Còn một thứ nữa, cậu nên chuẩn bị tinh thần đi là vừa, bọn ma quấy.”
“Ôi thôi,” Maneck kêu lên, nhớ lại hồi học trường nội trú. “Bọn này chưa lớn sao? Thế họ làm gì? Đổ nước lên giường?
Hay bỏ muối vào trà?”
“Cũng kiểu kiểu như vậy.”
Trong lá thư gửi về nhà vào cuối tuần, Maneck phải vất vả lắm mới tìm ra chuyện để viết mà không phải lo bị hiểu nhầm là kêu ca. Cậu không muốn Thiếu tướng và bà Grewal, cùng tất cả những người sẽ được đọc chung lá thư, nghĩ cậu là một thằng bé mít ướt lo thân chẳng nổi.
Tuy nhiên, sau nửa tháng đầu, khi cậu và Avinash trở nên thân thiết, cậu hầu như đã tin vào điều cậu từng được nghe trước khi rời nhà: rằng cậu sẽ có quãng thời gian rất vui vẻ ở trường đại học.
Một tối, nhân lúc chơi cờ đam, Maneck thú thật rằng cậu mù tịt cờ vua. Avinash nói anh có thể dạy cậu chơi chỉ trong ba ngày. “Thật đấy, nếu cậu thực sự muốn học.”
Vì cả hai đều không ăn chay và ngồi ở cùng một khu trong phòng ăn, nên buổi học cờ vua diễn ra ngay trong các bữa tối, với giấy và bút chì. Maneck nói nhờ mối phân tán này mà món nước vo gạo của căng-tin trở nên dễ nuốt hơn.
“Vậy là cậu học được rồi đấy,” Avinash nói. “Bí quyết là ở đấy – phân tán cả ngũ quan. Tôi đã nói cho cậu nghe học thuyết của tôi về chúng chưa? Tôi nghĩ thị giác, khứu giác, vị giác, xúc giác, thính giác của chúng ta đều được hiệu chỉnh sẵn để tận hưởng lạc thú của một thế giới hoàn mĩ. Nhưng vì thế giới là bất toàn, nên ta phải che bớt chúng đi.”
“Thế giới kí túc xá còn hơn cả bất toàn ấy chứ. Nó là một khối méo mó khổng lồ.”
Ăn xong, họ chuyển sang sảnh chung, lúc ấy vẫn vắng vẻ. Có mấy sinh viên đang tụ tập quanh bàn bi-a. Mỗi lần một tay cơ thọc bóng vào trúng thành bàn làm nó nảy bật lại, những người xem lại lầm rầm khen ngợi hoặc xuýt xoa tiếc nuối. Một tốp khác kéo vào, cười nói ầm ĩ, và rủ nhau chơi trò tung-nắp-bút-trúng-quạt: ném một cái nắp bút về phía quạt trần đang quay chầm chậm, sao cho nó đáp trúng một trong ba cánh quạt. Sau vài lần ném, cậu sinh viên đầu têu trò này trèo lên một cái ghế, giữ chặt quạt, và đặt chiếc nắp bút lên đó. Họ tăng số lên cho quạt quay vù vù khiến chiếc nắp bút bay vèo xuống. Tiếp đến, họ túm lấy một cậu và nâng lên sát quạt, dọa sẽ cho cánh quạt phạt đứt người cậu ta. Cậu kia kêu tru tréo đủ kiểu – vì sợ, và cũng vì cả bọn chỉ mong cậu ta làm thế.
Maneck và Avinash theo dõi trò hề của bọn kia một lúc, rồi lên phòng để tiếp tục tiết học cờ. Đám quân cờ của Avinash đang đợi sẵn trên bàn của anh ta, trong một cái hộp gỗ dán phủ lớp áo véc ni màu nâu bóng loáng. Anh ta mở nắp trượt, và dốc hết cả hộp xuống bàn cờ.
Các quân cờ nhựa rơi ra được đúc khá thô; đế viền một đường nỉ xanh lục. Maneck để ý thấy một tờ giấy úp sấp mặt dưới đáy hộp, bèn lật lên.
“Ê, đồ cá nhân đấy,” Avinash kêu lên.
“Ghê thật,” Maneck xuýt xoa, đoạn đọc tờ giấy với vẻ ngưỡng mộ: bộ cờ là phần thưởng cho quán quân Giải đấu cờ liên lớp năm 1972. “Không ngờ thầy dạy tôi lại là nhà vô địch cơ đấy.”
“Tôi không muốn làm cậu bị áp lực,” Avinash nói. “Thôi, tập trung vào đi.”
Sang ngày thứ ba, Maneck đã học xong những kiến thức cơ bản của trò chơi. Hôm ấy họ đang ngồi trong phòng ăn, phân tích một thế cờ Avinash bày ra, thử thách đặt ra là quân trắng phải chiếu tướng trong vòng ba nước. Đột nhiên, có tiếng huyên náo bên khu ăn chay. Nhiều sinh viên nhảy dựng khỏi ghế, bàn bị lật, bát đĩa loảng xoảng vỡ nát, còn ghế ngồi thi nhau bay vèo vèo về phía cửa bếp. Chẳng bao lâu sau cả phòng ăn đã khám phá ra nguyên nhân của cơn cuồng nộ: một sinh viên ăn chay phát hiện ra một miếng thịt lạc giữa hỗn hợp được gọi là nước sốt đậu chay.
Tin tức lan ra, về tay cấp dưỡng khốn nạn đã dám đùa bỡn tình cảm tín ngưỡng, chà đạp niềm tin, làm ô uế thân xác của sinh viên, tất cả chỉ hòng mục đích nhồi đầy túi tham của hắn. Chỉ sau ít phút, toàn bộ sinh viên ăn chay sống trong kí túc xá đã đổ hết xuống căng-tin, ai nấy sục sôi trước hành động dối trá nọ. Một số người dường như đã cận kề bờ vực điên loạn, họ gào thét đến lạc cả giọng, toàn thân co giật, ngón tay móc vào họng mong có thể trục xuất thứ chất cấm. Một số người cuối cùng cũng nôn sạch được bữa tối.
Song chẳng có ngón tay nào đủ dài để với tới chỗ thức ăn đã được tiêu hóa từ đầu bữa ăn. Thứ xấu xa đó đã được hấp thụ để trở thành một phần máu thịt họ, và là cội nguồn nỗi thống khổ của họ. Họ khạc và nhổ và rên rỉ, và quay mòng mòng, tay ôm đầu, gào khóc vì mối tai họa, nhất định không thừa nhận rằng bụng mình đã trống trơn, rằng trong đó chả còn cái gì để nôn ra nữa.
Cơn cuồng loạn tìm được một mục tiêu thích đáng hơn khi mấy người công nhân bếp ăn bị lôi ra ngoài. Toàn thân sực mùi dầu ôi và mồ hôi và bếp nóng, sáu người đứng run rẩy trước các nguyên cáo. Bộ đồng phục trắng lấm đầy vết bẩn từ cuộc vật lộn với thực đơn buổi tối – những đốm màu nâu của đậu lăng, vệt màu xanh lục của rau chân vịt.
Viễn cảnh báo thù có tác dụng như một thứ chất kháng a-xít đối với những bộ lòng chay tịnh vừa bị quấy rối. Cảm giác buồn nôn nguôi ngoai dần; dòng thác của nước mật và nước nôn và đủ thứ chất thải xanh xanh vàng vàng nay bị thế chỗ bởi cơn lũ bạo lực ngôn từ.
“Đánh chết mấy thằng khốn mất dạy đi!”
“Đấm vỡ mặt chúng nó ra!”
“Bắt chúng nó ăn thịt!”
Những lời hăm dọa không biến ngay thành hành động vì sáu người kia đã khôn ngoan quỳ xuống và kêu rên rầm rĩ. Tiếng khóc lóc sụt sùi và van vỉ xin tha của họ cũng hỗn loạn điên đảo không kém gì nỗ lực nôn ọe trước đó của đám sinh viên ăn chay.
Avinash quan sát diễn tiến tấn tuồng trong một phút, rồi đẩy ghế của mình ra. “Tôi vừa nghĩ ra một cách. Cậu trông bàn cờ hộ tôi nhé?”
“Rồi anh sẽ bị vạ lây đấy,” Maneck nói. “Anh xen vào làm gì?”
“Đừng lo, tôi sẽ không sao đâu.”
Maneck cất quân cờ vào trong hộp, ngồi nhìn từ góc của mình. Các công nhân nhà bếp và sinh viên vẫn bị khóa cứng trong những tư thế riêng: Tội Ác bị vạch trần quỳ mọp dưới chân Hình Phạt không gì lay chuyển nổi, hòng mong tìm sự khoan thứ. Cái cảnh ấy trông có phần hài hước, nếu nó không đi kèm một mối nguy hiện hữu, đó là mấy người công nhân có thể bị dần thành một đống bùi nhùi. Song đến nay, ranh giới vô hình vẫn được giữ vững, tách biệt triển vọng khỏi hiện thực. Lạ thật, không ngờ những ranh giới vô hình lại có sức mạnh đến thế, Maneck thầm nghĩ – chắc như tường gạch vậy.
“Dừng lại! Hượm đã!” Avinash hét lên, đoạn len vào giữa những người công nhân đang sợ rúm ró và đám sinh viên. “Sao?” Họ sốt ruột hỏi, nhận ra đó là Trưởng ban Kí túc xá và Chủ tịch Hội sinh viên.
“Xin các bạn ngừng lại một phút. Đánh đập mấy người này phỏng ích gì? Tội lỗi đều do lão cấp dưỡng khốn nạn hết.”
“Hắn sẽ nhận được thông điệp nếu bọn ta dần cho lính của lão một trận nhừ tử. Hắn sẽ không bao giờ dám thò mặt đến đây nữa.”
“Các bạn nhầm rồi. Hắn sẽ kéo cảnh sát tới bảo vệ mình.”
Một nước mở màn hoàn hảo, Maneck thầm nghĩ – ranh giới vô hình lại được gia cố thêm.
Avinash thuyết phục các sinh viên ăn chay, và tất cả những người nào khác bất bình về chất lượng thức ăn, cùng đệ đơn khiếu nại lên ban giám hiệu trường. “Ta hãy giải quyết vấn đề một cách dân chủ, đừng hành xử như những tên đầu trâu mặt ngựa ngoài đường. Riêng bọn chính trị gia khốn kiếp xử sự như thế đã đủ tệ rồi.”
Chặn, Maneck tự nhủ. Đường đi nước bước thật khôn khéo.
Một số ủng hộ đề xuất, số khác lại phản đối. Một tràng hăm dọa mới lại bắn ra từ mồm các sinh viên ăn chay, còn đám công nhân nhà bếp đáp trả bằng một loạt lạy lục cùng khóc lóc. Song tình trạng căng thẳng giữa hai bên chiến tuyến đã giảm bớt. Càng lúc càng xuất hiện nhiều tiếng nói đồng tình với giải pháp của Avinash. Những lời chửi rủa của nhóm sinh viên ăn chay ngớt dần, mấy công nhân nhà bếp cũng ngơi tiếng sụt sùi, mặc dù đầu gối họ vẫn trong tư thế sẵn sàng quỳ lạy tức thì bất cứ khi nào tình hình đòi hỏi.
Kế hoạch đề ra là các sinh viên sẽ tổ chức một cuộc biểu tình bên ngoài văn phòng của Hiệu trưởng vào sáng hôm sau. Đến thời điểm này, tâm trạng náo nức trước phương án được thiết lập đã lan ra toàn bộ khối sinh viên. Cả những người ăn chay nghiêm khắc nhất cũng đã thôi nôn ọe, chỉnh đốn lại bản thân, và rời đi để thực hiện các nghi thức tẩy uế cho mình, kèm theo lời hứa sẽ có mặt vào buổi sáng mai để nhập hội với những người khác.
Chiếu tướng, Maneck nghĩ. Ranh giới vô hình đã trở nên bất khả xâm phạm.
“Tôi nghĩ người ta nói nhà lãnh đạo trời sinh là để chỉ những người như anh đấy,” tối hôm đó, cậu nói với Avinash, giọng nửa trêu chọc, nửa ngưỡng mộ.
“Không hẳn. Ngu bẩm sinh thì đúng hơn. Tôi nên kiên định với lựa chọn của mình – bỏ hết chuyện này để tập trung vào việc học hành. Nào, ta lên phòng thôi.”
Thành công của cơn thịnh nộ căng-tin gây sửng sốt cho cả Avinash lẫn những người ủng hộ cậu. Hiệu trưởng ban xuống một lá thư đuổi việc gửi đến tay cấp dưỡng. Ban kí túc xá được trao quyền chọn người thay thế.
Đám sinh viên tưng bừng hớn hở mở một cuộc ăn mừng chiến thắng và trở nên tham vọng hơn. Chủ tịch của họ hứa rằng, dần dần từng bước, họ sẽ quét sạch mọi tệ nạn khỏi khuôn viên trường: ưu tiên con ông cháu cha trong tuyển dụng nhân sự, hối lộ để chạy trường, bán luận văn, đặc quyền dành riêng cho gia đình các chính trị gia, chuyện chính phủ can thiệp vào kế hoạch giảng dạy, đe dọa các thành viên của khoa. Danh sách rất dài, vì sự thối nát đã ăn vào tận xương tủy.
Phấn chấn là tâm trạng chung. Các sinh viên đều tha thiết một niềm tin rằng hình mẫu của họ sẽ là nguồn cảm hứng thôi thúc tất cả các trường đại học trên khắp đất nước bắt tay vào thực thi những cải cách triệt để, hưởng ứng phong trào cải cách từ gốc của Jay Prakash Narayan đang được phát động khắp toàn quốc cùng lời kêu gọi trở về với các triết lý Gandhi. Đổi thay sẽ tiếp thêm sinh lực cho toàn xã hội, cải hóa nó từ một sinh thể đồi bại, mục nát thành một tổ chức lành mạnh, mà, với di sản là một nền văn minh cổ xưa và giàu có, cùng trí tuệ của triết học Vệ Đà và Upanishad, sẽ thức tỉnh thế giới và mở rộng con đường dẫn đến kỉ nguyên khai sáng cho toàn nhân loại.
Người ta dễ ôm những mộng tưởng cao vời trong những ngày đầu sau cuộc biểu tình căng-tin. Với xiết bao quyết tâm cùng dự định tốt đẹp lan truyền trong cộng đồng sinh viên, vô số tiểu ban đã được thiết lập, bao nhiêu lộ trình được chuẩn y, bao nhiêu biên bản được ghi chép, và các giải pháp được thông qua. Bữa ăn căng-tin được cải thiện. Không khí lạc quan bao trùm.
Maneck, trái lại, đã quá chán ngán tất thảy. Cậu muốn cuộc sống của mình, và Avinash, trở lại với nề nếp xưa kia. Công cuộc kích động liên miên kia thật quá mệt mỏi. Cậu cố dứt Avinash khỏi niềm đam mê mới của anh ta, sử dụng một mánh khóe mà cậu cho là xảo quyệt lắm: cậu viện đến gia đình của bạn. “Tôi nghĩ anh nói đúng đấy. Những gì anh nói trước đó ấy, nhớ không, về việc toàn tâm toàn ý vào chuyện học hành, vì bố mẹ, và để kiếm đủ tiền hồi môn cho ba cô em gái. Anh nên làm thế lắm.”
Câu nhắc nhỏm khiến Avinash khó chịu, làm trán anh nhíu lại. “Tôi thường có cảm giác tội lỗi vì chuyện đó thật. Tôi sẽ từ chức chủ tịch. Ngay khi nào mấy vấn đề kia được giải quyết xong.”
“Vấn đề nào?” Maneck sốt ruột. “Trong tất cả các cuộc họp, anh chưa một lần đả động đến khu nhà tắm và toa lét bẩn thỉu. Gián và rệp cũng nên được đưa vào lộ trình. Mahatma Gandhi chắc cũng chẳng thích phương pháp tiếp cận của anh đâu, ông là người tin tưởng tuyệt đối vào sự sạch sẽ – cái thanh khiết thể chất đi trước cái thanh khiết trí não rồi mới đến được cái thanh khiết tinh thần.”
Đoạn phản biện đó làm Avinash khoái lắm, anh ta cười phá lên, đoạn quàng tay khoác lên vai Maneck khi hai người đi qua sân trong. “Tôi không biết cậu lại là chuyên gia về triết học Gandhi cơ đấy. Nói đi, cậu có muốn ngồi vào ghế chủ tịch tiểu ban diệt gián không? Tôi xin tán thành nhiệt liệt.”
Maneck tham gia thêm vài cuộc tuần hành và biểu tình, chỉ để ủng hộ bạn. Sau một thời gian, ngay cả động lực đó cũng không còn đủ mạnh. Các cuộc xuống đường lặp đi lặp lại đến phát chán, cậu bèn thôi không đi nữa.
Avinash không có thời gian chơi cờ hàng tối nữa. Họ vẫn ăn cùng nhau, nhưng hiếm khi được ngồi riêng, và Maneck tức lắm. Một đám bâu nhâu bu quanh bạn cậu, bàn thảo và tranh luận về những thứ cậu không hiểu và cũng không thiết hiểu. Cuộc nói chuyện có họ tràn ngập những từ kiểu như dân chủ hóa, hiến pháp, tha hóa, suy đồi, phi tập trung hóa, tập thể hóa, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa phong kiến, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa công xã, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa phát xít, thuyết tương đối, thuyết định luận, chủ nghĩa vô sản, chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ, thuyết này thuyết nọ, hàng đống từ bay vo vo quanh cậu như một bầy côn trùng.
Sao bọn này không nói năng bình thường được nhỉ? Maneck tự hỏi. Để tiêu khiển, cậu bắt đầu nhẩm đếm số từ có dính chữ chủ nghĩa hoặc chữ thuyết mà họ nói ra, và dừng lại khi đến con số hai mươi. Thỉnh thoảng, chó cũng có mặt trong cuộc tranh luận của họ – bọn chó đế quốc, lũ chó tay sai của bọn tư bản. Có lúc, chó biến thành lợn, bọn lợn tư bản. Bọn linh cẩu cho vay và lũ chó hoang địa chủ đôi khi cũng góp mặt. Và gần đây, bên cạnh các thể loại chủ nghĩa, còn có cái gọi là Tình trạng Khẩn cấp được họ bàn ra tán vào rất ghê, làm như trời sắp sập đến nơi.
Cảm thấy như bị bỏ rơi, Maneck thường bỏ lên phòng ngay sau khi kết thúc bữa ăn. Cậu vẫn giữ bộ cờ nhựa, và cậu bày bàn ra để tự đấu một mình. Cậu đi một nước, rồi xoay ngược bàn cờ lại. Được một lúc, cuộc chơi đâm nhạt. Cậu thử đọc cuốn sách Avinash cho mượn, trong đó liệt kê một loạt thế cờ tàn cuộc với cấp độ khó tăng dần.
Dẫu ở một mình khó khăn làm vậy, song Maneck vẫn tiếp tục xa lánh bạn. Rồi, đúng vào lúc cậu đang yếu lòng sau vài ngày cô đơn, quyết định cho bạn một cơ hội thứ hai, Avinash lại gõ cửa phòng cậu.
“Chào cậu, có gì mới không?” Anh ta vỗ vai Maneck đầy vẻ thân thiết.
“Trò này.”
“Chơi một mình à?”
“Không, với tôi.” Maneck gảy đổ con vua của mình.
“Dạo này không gặp cậu mấy. Cậu không tò mò về những chuyện đang diễn ra à?”
“Ý anh là ở trường ấy hả?”
“Phải, và ở khắp nơi, từ khi Tình trạng Khẩn cấp được ban bố.”
“À, cái đấy hả.” Maneck làm mặt hờ hững. “Mấy chuyện kiểu đấy thì tôi không rõ lắm.”
“Cậu không đọc báo sao?”
“Chỉ phần truyện tranh thôi. Mấy thứ chính trị chính em tẻ nhạt lắm.”
“Thôi được, để tôi thuật lại thật ngắn gọn giản dị cho cậu nghe, để cậu khỏi ngủ gục mất.”
“Tốt. Tôi sẽ bấm giờ.” Maneck giơ chiếc đồng hồ đeo tay lên nhìn. “Chuẩn bị, bắt đầu.”
Avinash hít vào một hơi thật sâu. “Ba tuần trước, Tòa án Tối cao phát hiện ra thủ tướng phạm tội gian lận trong đợt bầu cử vừa qua. Tức là bà ta phải từ nhiệm. Song bà ta lại giở trò hoãn binh. Vì vậy các đảng phái đối lập, các tổ chức sinh viên, các nghiệp đoàn đã phát động nhiều cuộc biểu tình quy mô lớn trên khắp đất nước. Mục tiêu là để đòi bà ta phải từ chức. Rồi, để bám lấy quyền lực, bà ta tuyên bố đất nước đang bị đe dọa bởi tình trạng hỗn loạn nội địa, và tuyên bố Tình trạng Khẩn cấp.”
“Hai mươi chín giây,” Maneck nói.
“Hượm đã, còn một chút nữa. Lấy cớ Tình trạng Khẩn cấp, các quyền cơ bản đã bị đình chỉ, hầu hết những người phản đối đã bị bắt giữ, các lãnh tụ công đoàn bị tống vào tù, thậm chí cả một số lãnh đạo sinh viên nữa.”
“Anh nên cẩn thận thì hơn.”
“Ôi dào, đừng lo, trường ta đâu phải trường điểm. Nhưng tệ nhất là báo chí đang bị kiểm duyệt…”
“Thế thì bây giờ đọc báo phỏng có ích gì, đúng không?”
“Và bà ta còn sửa đổi cả luật bầu cử, áp dụng hiệu lực hồi tố, biến tội trạng của mình từ có thành không.”
“Và anh không có thời gian chơi cờ cũng vì chuyện này.”
“Tôi chơi suốt đấy chứ. Tất cả những gì tôi làm đều là cờ hết. Nào, để xem cậu học hành tới đâu rồi nhé.” Anh ta bày bàn cờ, rồi giấu một con tốt đen và một con tốt trắng sau lưng. Maneck đoán ra ngay và mở đầu cuộc chơi bằng nước đi con tốt vua. Cậu chiến thắng sau nửa tiếng, trong nỗi sửng sốt của chính bản thân cậu.
“Đáng đời tôi lắm, vì tội dạy cậu kĩ quá,” Avinash nói. “Nhưng ta phải sớm tổ chức trận đấu lượt về mới được.”
Từ nay mọi việc sẽ trở lại như trước, Maneck thầm nghĩ. Một lần nữa cậu lại có Avinash cho riêng mình. Mong ước thầm kín của cậu là vì Tình trạng Khẩn cấp, Ban giám hiệu sẽ cấm tiệt cái Hội sinh viên đáng nguyền rủa, như nhiều trường đại học khác đã làm. Khi ấy, sẽ chẳng còn gì phân tán bạn cậu nữa.
Song thất vọng hoàn thất vọng; thú chơi cờ của họ vẫn không được nối lại. Mấy tối liền cậu gõ cửa phòng Avinash, nhưng không ai trả lời. Cậu đã hai lần nhét giấy nhắn dưới khe cửa: “Chào. Dạo này anh trốn đâu vậy? Sợ không dám đấu cờ với tôi nữa à? Hẹn sớm gặp lại anh – Maneck.”
Sau mẩu giấy nhắn thứ hai, khi cậu nhìn thấy anh ta ở phòng ăn, Avinash chỉ đủ thời gian cho một cái vẫy tay ngắn ngủi. “Nhận được giấy của cậu rồi,” anh ta nói. “Mai rảnh không?”
“Có chứ.”
Và tối hôm sau Maneck ngồi chờ trong phòng, nhưng bạn cậu không tới. Vừa giận vừa tự ái, cậu bỏ đi ngủ, tự hứa rằng thế là quá lắm. Nếu Avinash muốn gặp cậu, anh ta có thể đổi gió một tí bằng việc đuổi theo cậu.
Cậu nhớ Avinash. Lạ thật, cậu tự nhủ, một tình bạn có thể đột ngột đâm chồi nảy lộc chỉ trong một tối, dưới sự đưa đường mở lối của gián và rệp. Và rồi tịt ngóm cũng đột ngột chẳng kém, vì những duyên do lố bịch ngang ngửa. Có lẽ cậu đã quá ngu ngốc khi coi đó là tình bạn ngay từ đầu.
Tất cả những điều kinh tởm về cái kí túc xá mà Maneck đã học cách chung sống nay còn khiến cậu lợm mửa ghê gớm hơn xưa kia. Để tự đề kháng, cậu thiết lập một thói quen thức giấc thế này: khi mắt cậu mở ra, cậu nhắm luôn lại và, đầu vẫn đặt nguyên trên gối, cậu mường tượng ra những ngọn núi, làn sương mù vần vũ, tiếng chim ca, tiếng chân chó đập đập trên thềm nhà, hơi gió sớm mát rượi mơn man trên da mình, tiếng lũ khỉ chí chóe huyên thuyên, bữa sáng đang nấu trên bếp, vị bánh nướng và trứng tráng trên đầu lưỡi cậu. Khi toàn bộ các giác quan đã được xức đẫm những hình ảnh tưởng tượng về chốn quê nhà, cậu lại mở mắt và ra khỏi giường.
Trong trường, một nhóm mới, Sinh viên vì dân chủ, nổi lên ít lâu sau khi Tình trạng Khẩn cấp được ban bố, đang chiếm thế thượng phong. Tổ chức chị em của nó, Sinh viên chống phát xít, giúp duy trì tính toàn vẹn của cả hai nhóm bằng cách bịt miệng tất cả những ai dám lên tiếng chống lại chúng hoặc chỉ trích Tình trạng Khẩn cấp. Hăm dọa và hành hung trở thành chuyện cơm bữa, đến nỗi người ta phải tưởng đó là một phần chương trình giảng dạy của trường. Cảnh sát nay trở thành lực lượng hiện diện thường trực, để góp phần duy trì nhãn hiệu luật pháp và trật tự mới mẻ và độc địa này.
Hai giáo sư chọn cách lên án đội khủng bố trường học nói trên đã bị một nhóm người mặc thường phục bắt đi với tội danh tổ chức các hoạt động chống chính phủ, chiếu theo Luật đảm bảo an ninh nội địa MISA[37]. Các đồng nghiệp đều không dám ra mặt bảo vệ họ vì MISA cho phép bỏ tù mà không cần qua xét xử, và có một thực tế ai cũng hiểu rõ, rằng bất cứ kẻ nào dám đặt điều thắc mắc về MISA, sớm hay muộn, cũng sẽ phải đối mặt với MISA. Một thứ hiểm ác như thế, chẳng thà đừng dây vào thì an toàn hơn.
Maneck lo cho Avinash; nguyên là Chủ tịch của Hội sinh viên, chắc chắn anh ta đang nằm trong tầm ngắm nguy hiểm chết người từ những hội nhóm mới trong trường. Đêm đêm, cậu lắng nghe những âm thanh của căn phòng sát vách. Cánh cửa đóng lại khe khẽ, tiếng lạch cạch của chiếc tủ búp phê sắt, tiếng xì xì của bình xịt, tiếng ngả mình đánh thịch lên giường tiết lộ rằng bạn cậu vẫn bình an vô sự, rằng anh ta vẫn chưa bị tấn công hoặc bị bắt đi giam cầm ở một chốn bí mật nào đó.
Maneck luôn hối hả khi qua lại giữa trường và kí túc xá mà không dừng lại để theo dõi tấn tuồng thường nhật của áp chế, xu nịnh và phục tùng. Văn phòng của báo trường bị tấn công, các cây viết và biên tập viên bị đánh đấm tơi tả và bị buộc phải cuốn gói. Tờ báo từng mang giọng lưỡi trào phúng nhẹ nhàng và thi thoảng lại chọc ngoáy chính phủ hoặc ban giám hiệu trường, dẫu rằng đến dạo gần đây, trào phúng đang càng lúc càng trở thành chuyện thiên nan vạn nan, bởi chính phủ đang thi thố thứ nghệ thuật này trong chính những báo cáo của mình gửi cho giới thông tin đại chúng bị kiểm duyệt, ăn đứt tay nghề báo trường xưa nay.
Đánh chiếm xong, hội Sinh viên vì Dân chủ cho đăng một thông cáo ở số báo tiếp theo, tuyên bố rằng tiếng nói mới của ấn phẩm sẽ tiêu biểu hơn cho đông đảo sinh viên. Phần còn lại của số báo được lấp đầy bằng một bộ quy tắc ứng xử mẫu mực dành cho cả sinh viên lẫn giáo viên.
Một sáng, các lớp học bị hủy và một buổi lễ chào cờ được tổ chức ở sân trong. Việc tham dự là bắt buộc, dưới vòng câu thúc của nhóm Sinh viên chống phát xít. Chủ tịch hội Sinh viên vì dân chủ cầm lấy míc. Anh ta kêu gọi các nhân vật có thẩm quyền bước lên phía trước, tự chứng tỏ tình yêu đối với đất nước, nêu gương về hành vi ái quốc.
Nghe lệnh, các giảng viên, phó giáo sư, giáo sư và chủ nhiệm khoa nhất tề dắt díu nhau lên bục trong một cuộc trình diễn gượng gạo của tình trạng tự phát. Các thành viên ban tổ chức ngấm ngầm cố ghìm họ lại, sao cho quang cảnh trông giống một đợt sóng ủng hộ bộc phát đích thực. Song đã quá muộn, toàn thể đội ngũ giảng viên đã nối đuôi nhau xếp hàng trước bàn, chả khác gì khách mua đứng ngoài một cửa hàng tem phiếu. Họ ngoan ngoãn kí vào tờ bố cáo nói rằng mình đồng lòng với thủ tướng, với tuyên bố về Tình trạng Khẩn cấp của bà, và với sự nghiệp của bà hòng đánh đuổi các thế lực phản dân chủ đang đe dọa đất nước từ bên trong.
Vừa sợ hãi, Maneck vừa cảm thấy một nỗi ghê tởm đối với toàn bộ nơi này. Nhưng với các thầy cô của mình, cậu chỉ thấy thương hại. Họ lủi khỏi buổi lễ chào cờ, mặt tràn ngập vẻ tội lỗi và hổ thẹn.
Đêm hôm đó, căn phòng kí túc xá sát vách phòng cậu lặng tờ. Những âm thanh quen thuộc nhất quyết không chịu nổi lên chứng tỏ trạng thái bình yên vô sự của Avinash. Maneck nằm thao thức, lo lắng đến tận tờ mờ sáng. Cậu có nên báo lên văn phòng bảo vệ là bạn mình đã mất tích không? Những nhỡ anh ta về thăm gia đình, hoặc có việc gì cũng vô hại tương tự như thế thì sao? Cứ chờ một, hai ngày nữa thì hơn.
Đến giờ cơm tối cậu nhìn quanh quất khắp phòng ăn, cố tìm bóng Avinash, chỉ hoài công. Cậu bèn hỏi một người ngồi ở bàn anh ta, vẻ bâng quơ: “Dạo này Ban quản trị Hội sinh viên đang tính chuyện gì vậy?”
“Giời, cả bọn đấy trốn hết rồi. Đi tàu ngầm rồi. Láng cháng ở đây nguy hiểm lắm.”
Câu trả lời khiến Maneck an tâm. Cậu tin rằng Avinash chỉ đang ẩn náu ở đâu đó, có thể là trú trong căn hộ của bố mẹ ở khu tập thể nhà máy dệt cũng nên. Và anh ta sẽ sớm quay về – nói cho cùng, cái Tình trạng Khẩn cấp và những trò khủng bố này có thể kéo dài bao lâu kia chứ? Vả lại, anh ta cũng chẳng dễ bị tóm đâu. Cứ xem cung cách anh ta chơi cờ thì biết.
Gã cấp dưỡng cũ ở căng-tin đã trở lại làm việc, trút xuống một cuộc báo thù đối với dịch vị người ăn. Maneck thoáng thấy mình có lý khi nhớ lại vụ đồ chay đã châm ngòi cho tất cả – dạo ấy cậu đã can Avinash đừng nên dính vào, rồi kết cục sẽ chẳng hay ho gì đâu.
Giờ đây, khi bữa ăn đã trở nên đặc biệt ghê tởm, cậu tự mua cho mình bánh xăng uých hoặc bánh gối ở một quán trong con hẻm bên ngoài trường. Cậu may mắn hơn đa phần các sinh viên vì vẫn còn tí tiền tiêu vặt nhà gửi. Cảm giác thật dễ chịu khi nhìn cà chua được xắt lát và bánh mì được phết bơ hẳn hoi, khi nghe tiếng gầm của bếp nấu, tiếng xèo xèo nóng bỏng của đồ rán trong dầu.
Một tối, khi cậu trở về kí túc xá sau bữa ăn nhẹ bên đường, tiếng gào “Thịt nó đi! Thịt nó đi! Thịt nó đi!” vang vọng khắp hành lang, như tiếng rú gọi nhau trong một cuộc đi săn. Cậu nhòm vào phòng giải trí thì thấy hai cậu sinh viên năm nhất khoa tự động hóa đang bị vây lại, xung quanh là mười hai sinh viên khác. Họ lột quần của một cậu, bắt cậu ta cúi xuống trước bàn bóng bàn, và giúi một cái chai nước giải khát rỗng vào tay cậu kia. Cậu này được lệnh trình diễn lại những kiến thức đã học về pít tông và xi lanh trong giờ dạy về động cơ đốt trong. Bọn kia xóa bỏ nỗi e ngại của cậu ta với lời đe dọa sẽ bắt cậu sắm vai cái xi lanh nếu cậu ta không chịu nghe lời.
Maneck lủi đi trong kinh hoàng. Kể từ hôm đó, ăn tối xong, cậu về thẳng phòng và nhốt mình trong đó. Cậu đảm bảo mình có tất cả những thứ mình cần – báo, sách thư viện, cốc nước – để không phải rời gót khỏi nơi trú ẩn của mình khi lũ ma quấy đang kéo quân đi.
Một tối, sau khi thay pyjama xong xuôi, bụng cậu bỗng sôi lên dữ dội. Chắc là do nước tương chấm bánh gối của quán bên lề đường, cậu tự nhủ. Lẽ ra cậu không nên ăn mới phải, vị của nó có gì đó là lạ.
Cậu cần cái nhà vệ sinh đến quay quắt, dù vào giờ này thì nó bẩn không thể tưởng nổi. Cậu thận trọng mở cửa ra. Cậu đi thật nhanh, ngoái nhìn phía sau lưng. Đi được nửa đường thì cả bọn đổ ra từ một căn nhà kho và vồ lấy cậu. Cậu cưỡng lại. “Xin các anh! Tôi phải đi toa lét! Gấp lắm!”
“Để sau,” bọn chúng nói, đoạn bẻ quặt tay cậu ra sau lưng để cậu hết đường giãy giụa.
“Á á á!” Cậu thét lên.
“Nghe này, đây chỉ là trò chơi thôi mà,” chúng ngọt nhạt với cậu. “Hà tất phải biến thành chuyện xô xát? Làm thế, chú mày chỉ tổ thiệt thân.”
Cậu thôi không chống cự nữa, bọn kia bèn nới lỏng vòng kìm siết lên cánh tay cậu. “Ngoan lắm. Nào, nói bọn anh nghe, chú mày học ngành gì?”
“Điện lạnh và điều hòa nhiệt độ.”
“Rồi, các anh đây sẽ chỉ ra cho chú mày một bài kiểm tra nho nhỏ thôi. Để xem chú mày có học hành chăm ngoan không ấy mà.”
“Được. Nhưng để tôi đi toa lét trước được không?”
“Để sau.” Chúng lôi cậu xuống xưởng, ở đó có một cái tủ lạnh mô hình rất to hoạt động được như thật, và bảo cậu cởi quần áo ra. Cậu không nhúc nhích. Chúng bèn sấn lại hòng lột truồng cậu.
“Xin các anh!” Cậu van vỉ, tay giằng chân đá. “Đừng làm thế! Đừng, cho tôi xin!” Cậu cầu trời khấn phật sao cho Avinash hiện ra như một phép màu và cứu cậu, như anh ta đã từng cứu nhóm công nhân bếp ăn khỏi các sinh viên ăn chay.
Bọn ma quấy làm ăn rất thiện nghệ, chỉ mất chưa đầy một phút chúng đã ghì chặt được Maneck và lột sạch quần áo trên người cậu. “Chú mày nghe cho kĩ đây,” chúng nói. “Phần thứ nhất của bài kiểm tra rất đơn giản. Bọn anh sẽ làm lạnh chú mày trong mười phút. Đừng hốt nhé.” Chúng đẩy cậu vào tủ lạnh, gập người cậu lại để nhồi vừa khoảng không chật chội, và mắm môi mắm lợi đóng cửa vào. Bóng tối như trong cỗ quan tài trùm lấy cậu.
Bọn kia chờ đến lúc được tiêu khiển bằng phản ứng của cậu. Mất một lúc không có động tĩnh gì. Rồi một tiếng đập thình thình nổi lên, và kéo dài trong hai phút sau đó, nối tiếp bằng một khoảng im lặng ngắn ngủi. Tiếng gõ lại trỗi dậy – lần này yếu hơn, và rời rạc, đứt quãng, lúc trồi, lúc sụt. Những cú đấm trở nên yếu ớt đến mức báo động rồi tắt ngấm. Bọn kia nhìn đồng hồ; mới bảy phút trôi qua trong số mười phút đã giao hẹn trước. Chúng quyết định mở cửa.
“Á á! Tởm!” Cả bọn nhảy bắn ra khi hơi thối phả vào mặt. “Thằng chó ỉa vãi ra trong tủ rồi!”
Maneck tê cứng người và không tài nào chui ra được. Bọn kia lôi cậu ra trong trạng thái co quắp một cục và đóng cửa lại để dập mùi thối. Cậu nhìn quanh, hoảng hốt, không đứng thẳng lên nổi.
Bọn kia bèn tặng cậu một tràng pháo tay chế nhạo. “Giỏi lắm. Điểm tối đa cho bài kiểm tra thứ nhất. Điểm cộng cho bãi cứt. Làm tốt lắm. Giờ đến phần thứ hai.”
Đôi môi xanh tái của cậu run run khi cậu cố cất lời. Hai bàn tay cậu khó nhọc vươn ra mong lấy lại bộ pyjama. Một thằng bèn giật phắt đi. “Chưa được. Trong phần thi thứ hai, chú mày phải chứng minh bộ điều nhiệt của chú mày vẫn hoạt động tốt.”
Đờ dại, cậu há hốc miệng ra vẻ không hiểu.
“Chú mày bảo chú mày học ngành điện lạnh và điều hòa nhiệt độ kia mà. Sao thế, không biết bộ điều nhiệt là cái gì à?”
Maneck lắc đầu và lặp lại một cử chỉ chậm chạp đến thê thảm hòng giằng lại bộ pyjama.
“Bộ điều nhiệt của mày đây này, ông ngáo ạ,” một thằng quát, vỗ vào cái dương vật cứng đờ của cậu. “Giờ cho các anh thấy nó vẫn hoạt động được đi.”
Maneck cúi xuống nhìn chính mình như thể cậu mới thấy nó lần đầu tiên, cả bọn kia lại vỗ tay. “Tốt lắm! Bộ điều nhiệt đã được định vị chính xác! Nhưng nó có hoạt động được không?”
Cậu gật đầu.
“Chứng minh đi.” Cậu không hiểu chúng muốn gì. “Nào, bật nó lên đi. Dựng nó dậy.” Chúng đồng thanh hô. “Dựng nó dậy! Dựng nó dậy! Dựng nó dậy!”
Maneck hiểu, và phát hiện ra môi cậu đã tan giá đủ để nói được. “Xin các anh, tôi không làm được đâu. Xin các anh, tha cho tôi đi?”
“Phải làm xong phần thi thứ hai đã. Nếu không bọn anh sẽ phải làm lại phần thứ nhất, lần này là làm lạnh cả chú mày cùng bãi cứt luôn. Kiểm tra bộ điều nhiệt là phần bắt buộc.”
Maneck yếu ớt nắm lấy dương vật của mình, thụt lên thụt xuống vài cái rồi buông ra.
“Chưa lên! Mạnh tay vào! Dựng nó dậy! Dựng nó dậy!”
Cậu bắt đầu sụt sịt, tay xóc bao quy đầu tới lui trong khi bọn kia hô. Tuyệt vọng muốn chấm dứt cảnh nhục nhã, cậu ra sức thụt, cổ tay tê rần, tịnh không có chút cảm giác gì dưới dương vật, cậu chỉ lo đã có chuyện gì đó, có thể cái tủ lạnh đã làm hỏng nó. Sau rất nhiều nỗ lực, cậu cũng phóng tinh được dù không cương nổi một lần cho ra hồn.
Bọn kia òa lên khoái trá, huýt sáo và hú hét. Một thằng đưa trả cậu bộ pyjama, rồi cả lũ biến sạch. Để không phải đi cùng chúng, cậu nán lại trong xưởng cho đến khi bên ngoài tòa nhà đã im ắng hẳn.
Cậu rửa sạch những chỗ đùi và chân đã bị chính mình vấy bẩn, rồi quay về phòng. Cậu lên giường và nằm ngửa trong bóng tối, run lẩy bẩy, mắt dõi chong chong lên trần nhà. Cậu tự hỏi không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra vào lần tới thầy hướng dẫn mở cửa cái tủ lạnh.
Một tiếng sau cơn run rẩy vẫn còn nguyên trong tay chân cậu, cậu bèn lấy cái chăn cất trong tủ ra. Cậu biết mình sẽ làm gì – ngay khi người đã ấm lên, cậu sẽ trở dậy và gói ghém đồ đạc. Sáng sớm cậu sẽ bắt một chiếc tắc xi ra ga và lên tàu Frontier Mail về nhà.
Nhưng bố mẹ cậu sẽ nói gì đây? Cậu có thể đoán được phản ứng của bố – rằng cậu đã trốn chạy như một thằng hèn. Còn mẹ ban đầu sẽ bênh cậu, nhưng về sau thế nào mẹ cũng nghe lời bố và thay đổi, như mọi khi. Thay đổi, luôn luôn là thế. Đó là điều người sửa bản in đã nói lúc còn ở trên tàu – không thể né tránh thay đổi, phải thích nghi với nó. Nhưng chắc chắn nó không đồng nghĩa với việc chấp nhận thay đổi theo hướng xấu đi.
Mất nửa buổi đêm Maneck thao thức với những suy nghĩ của mình, chậm chạp sắp xếp những hòm xiểng cùng va li. Nửa còn lại của đêm được cậu dành để dỡ đồ, và viết thư gửi cho bố mẹ. Cậu viết rằng trước nay mình đã không thành thật với bố mẹ, và rất xin lỗi, song cậu chỉ muốn tránh cho họ những mối phiền lo: “Kí túc xá là một nơi thật kinh khủng, con không thể ở lại đây thêm phút nào nữa. Đành rằng nó rất bẩn thỉu và hôi thối, chuyện đấy con còn chịu được, nhưng những người ở đây thì thật đáng ghê tởm. Nhiều người còn chả phải sinh viên, và con không hiểu sao những tên côn đồ đó lại được phép sống trong kí túc xá sinh viên. Chúng hút hít, nốc rượu say, rồi đánh lộn. Chuyện cờ bạc diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, rồi chúng còn bán cả ma túy cho sinh viên nữa chứ.” Cậu ngẫm nghĩ một tí, rồi thêm, “Có thằng còn gạ bán cho con.” Câu đó có thể khiến họ đổi ý. “Tất thảy đều cực kì khủng khiếp, và con muốn quay về nhà càng sớm càng tốt. Con sẽ làm việc trong cửa hàng mà không can thiệp một tí gì, bố mẹ bảo gì con nghe nấy, con hứa đấy.”
Chắc chắn như thế là đủ ghê gớm để bố mẹ cậu phải ra tay rồi, cậu tự thấy vậy. Không cần phải tiết lộ sự cố nhục nhã trên thực tế.
Cả anh và chị Kohlah đều ngấm ngầm sung sướng khi biết Maneck muốn về nhà. Họ nhớ cậu da diết nhưng chưa bao giờ dám đả động đến chuyện đó, thậm chí là giữa hai vợ chồng với nhau. Họ thích vờ tỏ ra, nhất là khi có mặt người khác, rằng mình hãnh diện và vui mừng vô ngần vì con trai mình đang xa nhà để theo đòi một nền giáo dục xứng đáng.
Và lá thư khẩn thiết của Maneck cũng không thay đổi được điều đó. Họ thận trọng kìm nén phản ứng của mình để giữ gìn thể diện. “Mới thế đã cho thằng bé về nhà thì phí quá,” anh Kohlah nói.
“Phải,” chị Kohlah đáp. “Nó sẽ đánh mất cơ hội duy nhất để có được một nghề nghiệp tốt. Anh nghĩ sao, hả Farokh? Ta nên làm thế nào đây?”
Từ tận đáy lòng, anh Kohlah biết rằng nếu con trai mình không vui, nó nên về nhà ngay lập tức. Nhưng có lẽ phải có chút nỗ lực nào đó được bỏ ra, dẫu là miễn cưỡng, hòng tìm kiếm một giải pháp khác – chắc chắn đó là điều tất cả mọi người đều kì vọng, bao gồm cả các bạn bè của hai vợ chồng. Nếu không, anh sẽ bị chê là một ông bố quá ủy mị.
“Cứ như anh thấy thì xem ra cái kí túc xá trường có vấn đề thật,” anh cẩn thận lựa lời.
“Dĩ nhiên là có vấn đề rồi! Con em có nói dối bao giờ đâu! Và nó không được phép lưu lại một nơi xấu xa, đầy những thói hư tật xấu và bọn côn đồ vô lại như thế, chỉ để cố kiết lấy một cái bằng đại học! Làm thế thì ta còn là loại cha mẹ gì nữa đây?”
“Phải, phải, em cứ bình tĩnh đã nào, anh đang nghĩ đây.” Anh xoa xoa trán. “Nếu kí túc xá không thích hợp, có lẽ ta nên tìm cho nó một chỗ trọ khác. Ở riêng, trong nhà ai đó. Thế là giải quyết được vấn đề.”
“Ý hay đấy,” chị Kohlah nói, hùa theo anh. Chị không muốn suốt đời mang tiếng là bà mẹ bị bệnh sở hữu, kẻ đã phá hoại tương lai của con trai mình. “Để em hỏi bà con họ hàng xem nhé?”
“Không được, nhà họ cách xa trường quá, em không nhớ à?” Vả lại, ai biết được họ có thể nhồi nhét những tư tưởng ngớ ngẩn gì vào đầu Maneck. Sau cả hai chục năm mà họ còn chưa quen được với chuyện Aban sống cách xa họ nữa là.
“Giá ta có thể tìm được có nó một căn phòng sạch đẹp an toàn ở đâu đó,” chị nói. “Ở đâu đó vừa tầm tiền của vợ chồng mình.” Điều đó gần như là bất khả thi, chị hân hoan nghĩ, trong một thành phố mà hàng triệu người phải chui rúc trong các khu ổ chuột hoặc vất vưởng trên vỉa hè. Mà đâu phải riêng bọn ăn mày – ngay những người có công ăn việc làm hẳn hoi, có tiền thuê nhà cũng thế. Không, chẳng còn cơ hội nào cho Maneck nữa đâu, nó sẽ sớm về nhà thôi. Và chị bỗng bật cười trước ý nghĩ sung sướng ấy.
“Ta đang có một vấn đề to tướng phải xử lý, thế mà em còn cười gì thế?” Anh Kohlah nói.
“Em đang cười à? Không, có gì đâu, em chỉ nghĩ đến Maneck thôi.”
“Hừm,” anh hừ khẽ, cảm thấy khó lòng kìm nén niềm vui của chính mình. “Em thử viết thư cho cô bạn kia xem. Có khi cô ấy lại biết chỗ nào đó thì sao.”
“Đúng, ý hay đấy. Tối nay ăn cơm xong em sẽ viết cho Zenobia,” chị Kohlah đồng tình, vui vẻ vì biết rằng mình sẽ chỉ phí phạm một con tem.
Họ quay về với công việc thường ngày. Nỗi khổ phải che đậy niềm vui bằng bộ mặt thất vọng đã chấm dứt. Giờ vấn đề chỉ là chờ cho tới khi những nỗ lực hời hợt của họ thất bại và cậu con trai quay về nhà.
Dẫu vậy, chỉ sau vài ngày, họ lại phải giả vờ tiếp, lần ngày là theo hướng ngược lại, khi, trong nỗi ngạc nhiên cay đắng của họ, nơi ăn chốn ở đã nhanh chóng được cắt đặt xong cho Maneck. Giờ họ buộc phải nặn ra một bộ mặt thỏa mãn vì sự nghiệp học tập của con mình lại được tiếp tục, và gạt bỏ mọi tàn dư của những mối hi vọng yểu mệnh kia.
Chị Kohlah quạu quọ viết một lá thư cảm ơn cô Dalal theo địa chỉ Zenobia đã gửi. “Không biết Dina có còn xinh đẹp như hồi ở trường trung học không,” chị nói, thích thú trước âm thanh phát ra khi chị xé một tờ từ cuốn sổ. Tiếng xé thật đồng điệu với tâm trạng của chị lúc này.
“Em có thể hỏi Maneck ấy. Chả mấy nữa là nó có thể gửi em cả một bản báo cáo hoàn chỉnh gửi từ nhà cô ta rồi,” anh Kohlah nói. “Thậm chí là gửi hẳn một tấm ảnh ‘hiện trường’ nóng hổi, nếu em thích.” Nhìn chị ngồi trước bàn, anh không thể xua đi cảm giác những bạn bè đa sự khi xưa của chị đang chen vào giữa cuộc sống gia đình anh, thông đồng với nhau hòng chia cắt cậu con trai khỏi anh.
Ngay sau đó, anh nhận ra mình thật ngớ ngẩn. Anh lấy cuốn séc ra và viết một tờ séc để trả tiền thuê nhà tháng đầu. Chị Kohlah bèn kẹp nó vào lá thư gửi cho cô Dalal.
Dina lắng tai tìm kiếm những âm thanh của sự sống từ căn phòng vệ sinh im ắng. Thằng bé đang làm gì vậy, sao không có tiếng nước xối nào? “Maneck! Mọi sự có ổn không cháu? Nước có đủ nóng không?”
“Có ạ, cảm ơn dì.”
“Cháu nhìn thấy cái ca chưa? Chắc ở ngay cạnh xô thôi. Nếu thích, cháu cứ ngồi lên cái ghế gỗ cũng được.”
“Vâng, thưa dì.” Maneck ngại không dám đả động gì đến lũ giun, nay đang kéo hàng đàn từ dưới cống lên. Cậu mong sao chúng sẽ sớm rút lui về ngôi nhà dưới lòng đất, theo sở nguyện của riêng chúng. Song có lẽ mình đã có thể lên tàu trở về nhà, theo sở nguyện của riêng mình, cậu cay đắng nghĩ. Sao mình ngu thế, lại còn đi viết thư nữa. Cứ hi vọng bố sẽ cho mình về.
Dina vẫn chờ nghe tiếng lách cách của chiếc ca và tiếng xối nước. Sự im lặng vượt quá lòng kiên nhẫn của cô. “Có chuyện gì thế, Maneck? Cháu nhanh lên một chút được không? Dì cũng phải tắm trước khi mấy người thợ may đến đây.”
Cô hi vọng hôm nay sẽ dành được chút thời gian để đi đổi tờ séc ra tiền mặt. Tuy nhiên, trước hết cô phải tiễn Maneck đi học và khởi động một cuộc sống nề nếp quy củ. Cậu sẽ không gây phiền hà gì một khi đã quen với nếp sinh hoạt của cô và học được cách sử dụng những dụng cụ hiện đại, như cái dây may-so đun nước chẳng hạn. Rõ khổ thân thằng bé, còn chẳng biết đấy là cái gì. Lúc trước, khi cô hỏi cậu là ở nhà họ làm gì để có nước nóng, cậu bèn tả lại chiếc ấm đun nước bằng than mỗi sáng sớm. Thô lậu quá. Nhưng cậu đã tự dọn giường, gấp hết chăn gối gọn ghẽ – rất ấn tượng.
Cô đến bên cửa phòng vệ sinh và hỏi lại: “Cháu có ổn không?”
“Có, Dì ạ. Nhưng có mấy con sâu đang bò từ lỗ cống lên.”
“A, bọn đấy hả! Cứ tạt ít nước là bọn nó sẽ chạy hết ngay.” Có tiếng dội nước, rồi lại im ắng.
“Thế nào?”
“Bọn nó vẫn bò lên.”
“Thôi vậy, để dì xem xem.”
Cậu bèn lật đật mặc quần áo vào, và cô gõ cửa. “Dào ôi, cứ quấn cái khăn vào rồi mở cửa ra đi. Dì không có thì giờ để đứng đây cả buổi sáng đâu.”
Cậu mặc đủ hết đồ rồi mới cho cô vào.
“Cháu có sợ đâu. Có điều trông bọn nó ghê quá. Mà cứ nhung nhúc bao nhiêu là con.”
“Cũng phải thôi. Đang mùa sâu bọ mà. Cứ đến mùa mưa là bọn này lại về. Dì cứ nghĩ cháu phải quen với những thứ này rồi thứ, ở nhà cháu ấy. Trên núi rừng, thiếu gì các loài vật hoang dã.”
“Nhưng chắc chắn không phải ở trong nhà tắm, dì ạ.”
“Cháu sẽ phải làm quen với chuyện này trong nhà tắm của dì. Cháu chỉ có thể đuổi bọn giun đi bằng cách tạt nước thôi. Nước lạnh ấy – đừng dùng nước nóng.” Cô làm mẫu, gạt cậu ra để với tới chỗ cái xô, dội mấy ca nước liền, khiến bọn sâu trôi xuống lỗ cống. “Thấy chưa? Bọn nó đi rồi đấy, xuống cống.”
Những đường cong mềm mại trên bắp tay vươn ra của cô có tác dụng trấn an cậu còn hữu hiệu hơn phương pháp dội nước. Khi nghiêng mình xuống trên gờ gạch, lưng cô kéo căng tấm áo ngủ ôm sát sạt lấy hông, làm đường viền quần lót nổi hẳn lên. Mắt cậu nán lại, rồi chuyển hướng ngay khi cô đứng thẳng lên.
“Thế nào? Bây giờ cháu có định tắm không thì bảo? Hay cháu muốn dì ở lại đây với cháu để canh bọn giun?” Cậu đỏ mặt, còn cô, lo rằng mấy người thợ may sắp đến, nói: “Nghe đây, vì hôm nay là buổi sáng đầu tiên, nên dì sẽ ưu tiên cho cháu một lần.”
Cô lấy chai phenol trên chiếc giá bên ngoài phòng vệ sinh, mở nắp, và nhỏ thứ chất lỏng màu trắng lên lũ giun. Nó đem lại hiệu quả tức thì, biến chúng thành một khối màu đỏ quằn quại, và rồi thành những cuộn dây không còn chút sinh khí nào.
“Đấy. Nhưng cháu phải nhớ, phenol rất đắt, không phải ngày nào dì cũng phung phí được. Cháu sẽ phải học cách tắm chung với chúng.”
Cậu đóng cửa và lại cởi quần áo ra. Hình ảnh cô đứng bên cậu, nghiêng người, vươn tay, chạy rần rật khắp chân tay cậu. Nhưng mùi phenol diệt khuẩn lẩn vẩn trong không khí kéo giật cậu về thực tại.
Cân Bằng Mong Manh Cân Bằng Mong Manh - Rohinton Mistry Cân Bằng Mong Manh