Books are delightful society. If you go into a room and find it full of books - even without taking them from the shelves they seem to speak to you, to bid you welcome.

William Ewart Gladstone

 
 
 
 
 
Tác giả: Kim Nhật
Thể loại: Tùy Bút
Upload bìa: nguyễn quang
Số chương: 8
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: /
Cập nhật: 2025-11-08 19:42:05 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
6 Chiến Khu D! Chiến Khu D!
ai hôm sau, giữa lúc tôi đang ngồi học đánh bài «tu lơ khơ» với mấy anh em cảnh bảo ở bộ phận giữa nhà, Ba Dũng không biết đi đâu về cùng hai quản lý lạ. Ai cũng mang súng lục lấp đầy bên hông. Quần áo là loại quân phục may bằng vải xám ngắt như màu đất, thùng rộng thình.
Cổ áo lại cao, cài đặt nút cẩn thận. Hình ảnh đó làm tôi nhớ đến vài bức hình mà tôi đã được xem trước đây về những người lính Hồng quân của Cộng sản Trung Hòa.
Ba Dũng nhìn tôi cười:
- Ông học đánh « tu lơ khơ » à? Sao, sạch nước chưa ngăn cản?
Tôi cũng cười, ngượng ngập:
- Dạ, mới biết sơ sơ...
- Có khách đến thăm ông nè!
Tôi trượt xuống đất. Ba Dũng giới thiệu:
- Đây là anh Hùng. Còn lại đây là Năm Rùa. Bịt nước quá nên lâu ngày thành danh Năm Rùa, ổ ai còn nhớ tới tên cúng cơm của ổng nữa. Và đây, anh Năm Bàng y sĩ trên Rờ (R) xuống liên hệ công tác với tôi đó.
Tôi đã quen cái cách, cái công thức chung của «người ta» từ lâu rồi. Tôi nên hiểu «khách đến thăm» của Ba Dũng nói, nó không có ý nghĩa gì về tình cảm, xã giao mà là biểu hiện của công việc, của một thái độ chính trị không có một chút tình cảm, dù là tình người.
Tôi đã hiểu đúng. Sau một hồi thăm hỏi xã giao bình thường, bổ nhi vài sư trà khói khói, Năm Râu để lộ chân tướng mình là anh ta và Năm Bàng thuộc Ban chỉ huy của một đoàn Tiếp nhận tân binh cho đơn vị U.50 - U.50 là một trong những cơ quan trực Rờ (R). Anh ta đến thăm tôi và cũng để «nhận» tôi đưa ra U.50 sau khi được nghiên cứu lý lịch tôi và có đề nghị của Đảng Phòng Tuyển Mộ I4.
Năm Rùa giải thích cho tôi rõ, danh từ R là tim hiệu, mã tự của Bộ chỉ huy tối cao sức mạnh võ trang, ban võ trang của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam. Nói cách khác, R là Bộ Tư lệnh tối cao Giải Phóng Quân Miền Nam.
U.50 cũng là một cái tên nghi trang, tôi sẽ được biết rõ hơn nếu tôi đồng ý về công tác ở cơ quan này. Và y sĩ Năm Bàng sẽ khám sức khỏe chung cho tôi ngay bây giờ, như Quốc Gia quân lính dịch đúng theo thủ tục quân đội. Tôi suy nghĩ một lúc trả lời cho Năm Râu biết:
- Xin anh cho tôi trả lời sau. Nhưng tôi vẫn còn điều kiện này. Khi B39 rước tôi ra khỏi Sàigòn, anh Bảy Tân có nói với tôi, nếu tôi muốn, khi đến đây, tôi sẽ được giới thiệu về Ban Tiếp Tân của Mặt Trận. Mặt trận sẽ sử dụng khả năng của tôi. Khả năng của tôi không phải là khả năng quân sự, e rằng...
Không chờ tôi nói hết câu, Ba Dũng cười, ngắt ngang câu nói của tôi:
- Có, có anh! Phòng Tuyển Mộ của tôi có điện về Trên báo cáo trường hợp hợp anh. Ở Trên điện trả lời cho biết là công tác ở đâu cũng vậy. Công tác của Mặt trận hay công quân đội đều là công cách mạng. công việc của Đảng. Hiện nay quân đội cần người hơn. Trên cầu và phục vụ bên quân đội. Nếu sau đây anh thấy không hợp lý thì anh đề nghị. Mặt Trăn sẽ rút lui về. Anh trì hoãn?
Năm Rùa tiếp theo Ba Dũng:
- Tôi xin nói để làm rõ, đâu phải là quân đội thì ai cũng đi chiến đấu, đánh giặc hết đâu! Ngay như U.50 cữ không phải là đơn vị chiến đấu. Anh hiểu được vấn đề rồi. Quân đội cũng cần có thức thức. Quân đội có biết bao nhiêu công tác quan trọng như nghiên cứu, công tác chính trị vv.. thiếu những gì thuộc các ngành như quân y, quân nhu, điện ảnh, văn ngle, báo chí... Tôi thiết kế, thiếu những gì có khả năng hợp lý với khả năng anh, mặc sức mạnh anh tung hoành thi thố tài ba. Dù sao, chúng tôi cũng sẽ báo cáo về trường hợp R của anh. Anh đồng ý chứ?
Không thể chờ đợi Năm Rùa nói tôi mới biết những môn học lớn trong quân đội. Vấn đề phải ở đó. Cái chính là tôi không thích quân đội. Tôi nói chuyện giết nhau.
Và nhất là tôi không thích bị bó vào cái người ta gọi là kỷ luật sắt của quân đội. Tôi vốn con người tự do, nhiều nghệ sĩ tính, gần như thư giãn với chính mình. Quen rồi.
Lâu rồi. Nếp sống quen thuộc của tôi là như vậy. Tôi hiểu tôi, tôi biết tôi cần gì, muốn gì, có thể làm được những điều đó khi đặt tôi vào một hoàn cảnh nào đó. Tôi cũng hiểu rõ đời sống và sinh hoạt về nội quy, kỷ luật của quân đội ra sao. Chính vì vậy, tôi cố gắng tìm cách từ chối, hấp thụ...
Nhưng giờ thì rõ ràng rồi đấy. Người ta cho biết quân đội đang cần người, người ta chỉ bằng lòng cho tôi phục vụ bên quân đội mà thôi. Tôi đã kêu nài, xin xắn cũng bằng thừa, vô ích!
Bá Dũng nhắc tôi lần nữa:
- Thế nào, anh Hùng? Đồng ý?
Tôi viết dài và gõ đầu.
Năm Bàng hoàng giờ Yên tĩnh uống trà chờ phản ứng của tôi. Bây giờ anh ta cũng vui vẻ, thoải mái:
- Vậy thì tốt quá! Tôi khám sức khỏe ngay, anh nhé? Nhé?
Tôi lại gật đầu.
Thế là từ giờ phút đó, tôi đã trở thành một chiến sĩ giải phóng quân thuộc quân số đơn vị U.50 của Bộ chỉ huy hoàng tối cao R. Người ta cấp phát ngay cho tôi một số trang bị cần thiết như bình ton, ca, kiềm, mùng, sơn mài, hai bộ quân phục ta đen, kiềm, dép tông, tắm, nylon bóng, nylon nóc, v.v.. cả mười món.
Tôi liệng cái tủ đựng vải cao su, cho đồ sứ sang cái bồng bềnh mới, có quai mang như ba lô. Năm Rùa cho tôi biết về nguyên tắc như vậy đã xong. Tôi không còn nhung gì đến Phòng Tuyển Mộ Tân Bình I4 nữa. Tôi phải vác đồ theo Năm Rùa đến một nhà đồng bào ở gần đấy sống với đoàn đón tân binh của U.50, chuẩn bị về U.50 vào mấy ngày sau.
Trước khi rời xa nhà Ba Dũng, tôi hỏi Dũng về cái radio và cây đàn vĩ cầm của tôi như thế nào? Ba Dũng nhăn mặt:
- Chà! Chuyện đó tôi không biết hết! Như vậy chắc chắn không ổn rồi! Để tôi viết thư hỏi lại dùm anh xem sao... đừng trung hy vọng gì đâu! Thôi, nó không đến tay anh thì đến tay người khác. Ở đâu cũng đều được xử lý bằng cách mạng. Cũng tốt! Đồng ý chớ anh?
Đương nhiên, tôi không thể đồng ý nổi. Nhưng không đồng ý thì làm gì bây giờ? Suy cho cùng cũng tại tôi ngây thơ, quá tin người, có điều gì xấu hổ thêm.
° ° °
Từ ngày vào chiến khu, để thống nhất giờ giấc với mọi người xung quanh mình tôi phải nguyền đồng hồ lui lại một giờ. Giờ người ta không gọi là giờ Hà Nội mà gọi là giờ Đông Dương. Cho đến một vài danh từ, một vài cách nói, rồi những thói quen tôi cũng phải kiềm chế cẩn thận trước khi nói, trước khi làm. Thực sự khó khăn cho tôi nhưng biết làm sao hơn?
Có lẽ thông cảm được nỗi đau khổ đó, một buổi tôi, sau vài ngày về ở chung nhà với Năm Râu, ngồi ngâm nhi trà Blao, anh ta nói nhỏ với tôi:
- Tôi coi bộ ông giữ kỹ năng quá. Ông ấy có lỗi gì? Con người sống phải tự nhiên, thoải mái thoải mái mà mới mẻ? Anh em đồng chí với nhau không mà.
Tôi chỉ cười tỏ ra thoải mái. Nhưng Năm Rùa phải là tôi. Vị trí đứng của anh ta, cương vị của anh ta, thuận lợi của anh ta vv.. những gì lợi anh ta có, tôi không có một chút nào. Ở vị trí kim cương của một quan bộ chỉ huy, kim cương của Đảng, những người xung quanh anh ta nhìn anh ta với cặp mắt khác: kính cường, phục tùng. Ngay cả nếp sống thường ngày của anh ta là một nếp sống quen thuộc, từ cách nói, cách suy nghĩ, nhận xét phán đoán về một vấn đề gì đó, cách dùng danh từ để diễn đạt, nó đã được tinh luyện, cứng rắn trong một cái đồng nhất với những công thức riêng, khác với cái xã hội thông thường. Lâu ngày, nó đã tăng thành những nếp gấp, những thói quen, nhập vào cử chỉ, vào hơi thở của anh ta.
Còn tôi, tôi chỉ là một tân binh. Tôi còn thua cả một chiến sĩ quèn, nhóm thành viên quèn, thứ hai «đơ dèm cùi bắp». Hồ tôi là sản phẩm của chế độ xã hội trái ngược với chế độ xã hội của anh ta...
Đoàn Tiếp Nhận tân binh U.50 do Năm Tóc làm Đoàn trưởng, ngoài ra còn có một Đoàn trưởng thương mại và Năm Bàng, y sĩ, cũng thuộc quản chỉ huy. Phía dưới, là một tiểu võ trang trang.
Cái kẹt của tôi khi Năm Râu đưa tôi về đây là Năm Râu không xác định cho tôi một viên kim cương lộng lẫy đối với đoàn. Đã phải chấp nhận, tôi không thể thuộc về thành phần có thể bộ, hàng ngày sinh hoạt với tổ hợp ba người này, mà với tiểu đội võ trang tôi cũng không thuộc vào tiểu đội đó, ghép vào sinh hoạt với họ, chịu đựng sự phân công của họ đúng theo vị trí một tân binh, một tên chiến binh mới như tôi.
Tình trạng đó đặt tôi vào loại chiến binh không ra quân, quan tâm ra quan, trên với không, dưới đó đã bong tróc ai, tiến tới đám đông nào cũng không được.
Mỗi sáng, có thể tổ hợp các khoảng cách ra ngoài sân xì xầm để thu nhỏ, Xem cùng nhau. Tôi ngồi chong ngóc trong nhà, ngáp mỗi chiều, sau khi ăn cơm xong, tiểu đội lính chia thành từng tổ tam tam kiểm thảo ở góc nhà, ở ngoài sân, ở xó bếp thì tôi phải thảnh thơi rong ra mắt, ngước mắt nhìn trời, liệu nhẹ nhàng khi nào thiên hạ hạ xong tôi mới thất thểu đi vô. Dĩ nhiên trong những lần trưng bày như vậy, người ta có nhận xét, có phê bình tôi, có nói gì về tôi, không tài nào tôi biết được, cũng không thể thanh minh, thông cảm được với ai.
Tôi cũng sở hữu nỗi đau đó. Năm Đuôi có nói gì đi nữa, điều gì khuyên đi nữa tôi không sao không giữ bên, sống một cách tự nhiên như mọi người được. Đối đầu với tiểu vương võ trang, tôi trở thành một cái mục tiêu để suy bì, để công kích. Vì là người lính, tại sao tôi không sinh hoạt như họ, không chịu đựng sự phân công của tiểu đội như mọi chiến sĩ khác trong công việc trực nhật nấu cơm hàng ngày, phải tập thể giáo dục chung mỗi sáng, phải đi làm tác công động lao động, xách tay nước, phải cầm súng chờ mỗi đêm... Tôi đâu phải là cán bộ, đâu được quyền «ngồi chơi cứngi nước».
Với tổ hợp cán bộ, dù người dùng có "trình chiếu chính sách", thư viện "có thể cũ" một cách hợp lý nhưng tình hình của họ không thể thuận lợi để tôi có thể đạt được tiêu chuẩn như họ. Vì trong tổ quản bộ này, họ đều là kẻ hạn chế được tập kết ra Bắc 1954 rồi trở về Nam, họ đã đóng góp nhiều công sức cho chế độ, được học tập trường Đảng này, trường chính quy, hơn thế nữa, họ là những thành viên mất năm, cấp bậc Đảng ít nhất cũng phải chi,ủ thành viên, họ lý giải, lập trường Cách mạng, cài đặt trường cấp sắt, trung thành vv.. Hàng thứ.
Hồ hồ, tôi là một anh chàng mang thai trong đầu thứ «trí thức phản động» do «đế quốc» đào sọ «dạy' cho. Thành phần lại là «tiểu tư sản trí thức, tư tưởng, lập trường leo núi, dốt nát về chính trị vv..».
Tôi hiểu như vậy, hiểu rõ làm sao tôi không giữ mục? Nhất cử cử, động lực nhất của tôi đều là người ta giám sát, theo dõi kia mà!.
Thấy không khí thuận tiện, ngồi uống trà chỉ có tôi với Năm Rùa, xung quanh không có ai, tôi thực sự nên trình bày hoàn cảnh đặc biệt của mình để anh hiểu tôi hơn. Năm Râu cười, phủ nhận:
- Cái đó không thành vấn đề đâu! Tại anh có mặc cảm nên nghĩ vậy, chứ tôi biết anh em không có những cái như anh vừa nói. Anh em ở đây có cảm xúc với anh lắm.
Tôi biết rõ đó chỉ là câu nói... xã giao, không thực hiện.
Tuy nhiên, tôi cũng làm ra vẻ thực thà hơn, biết đâu nhân đó tôi sẽ tìm được điều tôi muốn biết. Nghĩa vậy, tôi nói với Năm Râu:
- Có lẽ điều anh nói đúng đó anh Năm. Tôi sẽ cố gắng sửa chữa, nhưng anh phải giúp đỡ mới được.
- Giúp cái gì?
- Anh giúp nhận xét dùm tôi. Trong vài ngày đến đây sống chung với mấy anh, anh đã thấy tôi có những gì thưởng điểm, anh em phê phán tôi ra sao anh làm ơn cho tôi biết. Tôi không tự ái! Hương vị những điều đó, tôi còn ao ước, thành khẩn được nghe những lời phê bình. Có thế nào mới được bộ, chứa anh!
Năm Râu nhìn tôi một lần để đánh giá lời tôi nói.
Sau cùng, anh ta ngập ngừng:
- Tôi... tôi biết nói gì bây giờ? Anh có yên điểm gì đâu... Tôi thì tôi không tìm thấy gì, nhưng qua sự « phản ảnh » của các đồng chí trong đoàn, anh em họ « giới giới thiệu » với tôi mấy sự việc xin đề nghị và «nghiên cứu» thử xem. Đó là ý kiến ​​của anh em chứ không phải ý kiến ​​của tôi, anh hiểu cho.
- Xin anh cứ nói!
- Một là, họ bảo anh tác phong tiểu tư sản, thiếu quan điểm quần chúng, ít xá, ít chịu hòa mình với tập thể, khép mở tâm tình với anh em. Hai là, anh ít... lao động. Ba là, ngày hôm qua nhân lúc anh em hỏi chuyện về gia đình, anh nói lúc còn ở Sàigòn, ngoài việc đi học, anh làm thêm nghề gõ đầu trẻ. Anh đề nghị anh không nên dùng chữ «gõ đầu trẻ». Ba chữ đó biểu hiện bản chất phi giai cấp, phi cách mạng, khinh kẻ ít học, nặng đầu vũ trụ quốc phong kiến ​​trúc! Quan niệm đứng sừng sững và trò chơi hỗn hợp, kính tầm quan trọng lẫn nhau, bình đẳng về chính trị, vậy thì tại sao lại gọi là nghề «gõ đầu' dù là trẻ cũng vậy.
Đã chuẩn bị sẵn, đã bảo là không tự ái nhưng những lời Năm Rêu vừa nói làm tôi chớp đến ngây thơ người ra. Năm Câu vừa nói vừa nhìn xuống, xoay xoay trà đậm mà chưa phát giác được phản ứng trên mặt tôi. Giọng anh ta vẫn đều, thì thầm như tâm sự:
- Anh cũng nên thông cảm cho, anh em họ xuất thân thành phần bần cố nông, thành phần cơ bản nồng cốt của mạng nhưng thành phần đó cũng có cái nhược điểm là dễ thành kiến ​​hẹp hòi, tự ái giai cấp rất cao. Phản ứng nhạy cảm của lắm. Như chuyện anh nói «Radio» ở Sài Gòn rẻ lắm, họ cũng phản ảnh với tôi, thắc mắc sao anh không gọi đó là cái đài. Cán bộ mùa thu từ Hà Nội về Nam ai cũng gọi đó là cái đài, nó trở thành danh từ thông dụng. Như anh nói cái túi vải cao su là cái «xắc», cái dây kéo là «phẹc mơ tuya », cái ống nghệ của anh Năm Bàng là cái «S-tê-tò » và một vài ví dụ cùng loại khác nữa. Họ bảo anh sao hay nói tiếng Tây quá, như vậy là vong bản, nô lệ tính. Nhưng cái điều họ đề nghị anh nên sửa chữa cấp thời là không nên dùng chữ «Ba Tầu», chữ «Chệt Chợlớn» mà nên gọi là Trung Quốc, là «Hoa Kiều Chợlớn». Vì anh gọi như vậy tỏ vẻ xấc xược với nước bạn Trung quốc vĩ đại, mất tình cảm kết nối với các ước anh em trong xã hội chủ nghĩa...!
Năm Đuôi còn nói nhiều, nhưng lúc đó tai tôi như ù lên, không còn nghe thêm được gì nữa. Tôi không biết phản hồi của mình đúng hay sai, nhưng trong thời gian ngắn nhất tôi không thể chấp nhận những nhận xét phê bình kia nổi bật. Tôi cho đó là một sự kiện vô lý, quái gở đằng sau.
Bọn gian thương Chợ Lớn tôi kinh hoàng nó sao được? Đó là bạn vĩ đại của tôi sao? Theo cái đà đó, thịt heo kho Tàu, gà Tàu cũng phải kiến ​​cử, đổi lại là «thịt heo kho Trung Quốc» «gà Trung Quốc» sao? Quá quắt, quái vật không chịu được!
Rồi cái radio phải gọi cái đài, không được gọi radio, vô lý hết sức! Nếu bảo tôi phải gọi là máy thu thanh để không phải nói tiếng Tây, điều đó có khả năng nghe được. Nhưng radio nó trở thành thông dụng, thiết bị Việt hóa đi rồi, cái khác cái tách (tasse), cái bu-gi (bougie), cái bù-lon (boulon), xì-gà (thuốc lá), ô-tô (auto) vv..Cho đến cái xắc (sac), cái phẹc-mơ-tuya (fermeture) bảo tôi là hay nói tiếng Tây, vong bản, nô lệ tính.
Ức không chịu được! Không có thước đo mắt là đằng sau. Tôi muốn la lên, nhưng đáp ứng nhu cầu đến thân phận và hoàn cảnh mình lúc đó không khác con cá đã nằm giữa ruộng khô thì có trườn, có dãy dụa, có làm gi đi nữa chỉ tẩy chà mình. Mau chết hơn thôi. Vô ích! Chế độ này, thằng nào ngu nhất, rách nhất sẽ được làm cha thiên hạ.
Tôi chỉ còn biết thở dài, ngả mặt xuống cho nước mắt không còn đọng lại ở vành mi.
Nói xong, Năm Rùa đầu lên hỏi tôi:
- Anh đã tìm thấy những lời phản biện, đề nghị của anh em đó thế nao? Anh không buồn và thắc mắc điều gì?
Chợt thấy thái độ «hơi lạ» của tôi, Năm Câu hỏi ngay:
- Anh sao vậy?
Tôi đang lấy khăn tay ra nước mắt, nhược dụi thêm mấy cái, cố lấy giọng hết sức tự nhiên nói kho đi:
- Có con bù hóng hay con gì chui vô mắt tôi. Anh Năm! Anh thổi đùm tôi đi, anh Năm.
Tôi đưa ra mặt hàng chờ đợi của tôi. Anh ta tưởng thật, vạch lấy mi mắt tôi ra, thổi phù phù mấy cái:
- Sao? Còn xót hết?
- Ừ, hình như ra rồi.
- Nếu chưa, để tôi múc cho anh tô nước đầy, thọc mắt vô chớp chớp mấy cái hết ngày.
Chăm sóc tối mắt, vấn đề được chuyển hướng sang hướng khác và tôi phải trả lời câu hỏi của anh ta.
Đường như quên chuyện vừa nói, anh ta nói chuyện lên
- Ơ, anh! Tôi quên chưa đưa tiền anh!
Tôi hỏi lại:
- Tiền gì vậy?
- Tiền phụ cấp tiêu dùng tháng của anh!
Năm Rùa cho tay vào túi quần móc ra tặng tôi hai mươi chín đồng. Anh ta giải thích:
- Tiền này là tiền tiêu vặt, sinh hoạt phí hàng tháng. Mỗi người, hàng tháng ngoài tiền Bình, tiền ăn, tiền thuốc nam, tiền quần áo vv.. Đảng còn hỗ trợ cung cấp cho mỗi người mười lăm cánh đồng để tiêu vặt. Các khoản tiền kia được quản lý đơn vị. Tiền này chống lại sự sáng tạo nhưng hiện tại, trong khi Đảng còn nghèo, đấu tranh gian khổ với kẻ thù thì việc cung cấp hết cho mọi người như vậy là một cố gắng, một chi phí lớn lao.
Tôi đề nghị lấy tiền cho vào túi. Năm Râu cười hỏi tôi:
- Anh có biết tôi năm nay bao nhiêu rồi không?
- Bao nhiêu gì?
- Tuổi già còn gì nữa! Anh mong đợi bao nhiêu?
- Khó quá! Size thứ tư. Đúng không anh Năm?
Anh ta cười to lên:
- Anh đoán là tôi sẽ chết rồi! Vậy làm sao kiếm vợ được? Người ta mới có ba nội dung đó! Sanh 1934. Tại anh thấy nước suối, bó hàm anh tưởng tôi già. Tôi mà già là già thôi. Tôi đọc lý lịch anh, anh cùng một tuổi với tôi đó. Mà anh thì còn «măng' quá! Coi như mới chém!
Tôi cũng ngạc nhiên:
- Vậy mà mấy hôm nay tôi tưởng anh ít ra cũng là bốn mươi.
- Ừ, ai cũng nói vậy. Anh coi, vừa phong trần gian khổ trong suốt từ nhỏ tới lớn, giờ thêm bộ nước bùn như chà, làm ruộng cày người ta không nói tôi già sao được. Cô cô vỗ tay còn chào tôi bằng bác thì anh biết! Còn trông mong cơm cháo gì nữa! Ác thiệt l
- Anh chưa có sao gốc?
- Chưa! Anh coi, bôn Nam tẩu Bắc, chân đi không ngừng làm sao còn có thì giờ để tìm hiểu với ai. Lúc còn ở Bắc thì chờ nhất về Nam mới lấy vợ. Về Nam năm rồng, năm nay nhận nhiệm vụ ở U.50, tuốt trên rừng Đông Bắc chiến khu D. Kiếm đỏ con mắt cũng không ra vị nữ nào. Nữ hiếm như vàng. Còn đi công tác xuống đồng bằng như nhỏ, cứ đi về như thăm quan, làm sao? Đó, tôi mới trên rừng xuống đây bữa trước thì bữa sau gặp anh. Rồi mai này, tôi lại phải đưa anh về theo lệnh của U.50.
- Ủa? Sáng mai tôi về U.5O với anh?
- Ừ! Tôi với anh và hai cậu cảnh vệ nữa!
- Sao anh không cho tôi hay sớm để tôi chuẩn bị?
- Cần phải chuẩn bị gì? Bộ đội mà! Hồ đi là đi ngay, chuẩn bị nhiều lắm là mười phút.
- Đường đi có xa không, lâu không?
Năm Rùa lùn một lúc:
- Mình ở khu A mà! Đi lâu thì... bảy giờ sáng. Sớm thì bốn năm sau. Qua ba con lộ tới sông Bé thì coi như về gần về nhà rồi.
Tôi tò mò muốn biết, Năm Râu cho biết thêm vắn tắt U.50 là một bộ phận của Cục Hậu Cần R, quản lý khu A. Cục Hậu Cần là một trong ba Cục của Bộ chỉ huy R Cục Tham Mưu, Cục Chính Trị, Cục Hậu Cầu. Về khu A, anh ta cho biết đó là khu D cũ. Ngày nay ngôn từ chiến khu D không còn được sử dụng nữa. Chiến khu, rừng núi miền Đông ngày nay được R phân tích thành những khu A, khu B, khu C, khu E, khu H vv.. Tôi muốn biết rõ hơn thì khi về khu A, công tác ở U.5O ít lâu, tự khắc tôi sẽ biết rõ.
° ° °
Mới 5g30 sáng, giờ Đông Dương, tôi đã dậy, thanh răng, ra sân cử động vài động tác thể thao. Phía đông, chân trời nhựa hồng đẹp mắt với những đám mây biên giới ngang như những ngày tôi thức sớm, bất kỳ ở nơi nào trên đất nước này.
Không khí buổi sáng sớm, đồng quê thực trong lành mát mẻ, yên tĩnh khác. Những thứ pháo hoa cuối cùng ở đồng Trung Hòa bắn vào rừng cao su bên kia tha từ Phú Hòa chạy dài đến Hố Bò, lơ lửng trên không, le lói màu đuôi mới, chóa mắt. Nếu không có những cái đó thì tôi vội vã sống trong cảnh thanh bình, quên mất cuộc chiến tranh chết tàn bạo này.
Chủ đồng chí của tôi trong đoàn cũng đều là thức giấc. Tôi quay vào nhà, thu dọn đồ đạc cho vào cột bồng bềnh. Đồng chí cảnh bảo vệ nhật nhận son cơm bình đỏ, dưa leo xắt nhỏ và chén nước mắm mỡ bày trước hàng hiên. Bữa ăn sáng thường ngày của chúng tôi như thế đó.
Năm Rùa đã chuẩn bị đồ sơn xong xuôi, vừa bước ra sân, vừa đốt sợi hoa sau lưng những súng đạn và vật dụng quen thuộc. Anh hỏi tôi:
- Ông chuẩn bị đồ xong rồi chớ?
- Xong rồi! - Tôi trả lời.
- hôm nay lên đường về khu A, chỉ có ông, tôi và hai đồng chí bảo vệ thôi! Mình đi tự động. không theo đường dây. Đường dẫn xa lắm lắm.
Than nhiên Năm Rêu dịu mắt, hấp hối hạ giọng xuống thì thầm vào tai tôi:
- Ngân của ông còn khá chớ?
Tôi nhìn anh ta một cách thoáng đãng để đoán được ý định thực sự của anh ta qua câu nói đó. Đường như biết cái nhìn của tôi, anh ta nhe răng cười:
- Nếu anh còn khá thì mình ra lộ số 7, Ali quán hủ tiếu đớp một bụng la-ve, cà phê cà pháo rồi đi luôn cho nó sướng cái bụng. Tội cha gì cứ nước mắm mỡ với dưa leo.
Biết anh ta nói thật, tôi cũng hiểu cái vui thường ngày của anh ta vốn đồng nhịp với dạ dày tôi. Tôi gật đầu đáp. Mắt anh ta sáng lên, chào mừng:
- Bát thì đừng ăn cơm nhà! Ông còn bao nhiêu tiền cố gắng xài hết trên đường đi từ đây đến lộ 16 đi. Ông có để nản lòng, mang tiền vô rừng cũng vô ích, tổ cho nó đóng đèn, đóng kín meo chớ có gì đâu mà mua.
Tôi lại cười, gật đầu lần nữa. Anh ta nói đúng. Và dọc đường anh ta cũng được hưởng chung, cái đó còn đúng hơn nữa. Tôi tính nhẩm sơ qua... trong túi cũng còn hơn năm ngàn bạc. Ít ra cũng đủ vón cục dọc.
Chúng tôi là bốn người, mang lại cảm giác bồng bềnh. Ruột tượng mười ngày ăn choàng qua cổ. Chúng tôi trả lời hướng dẫn số 7 xuất quân, vừa đi nói chuyện bàn về những thực đơn giải khát.
Theo chương trình dự định, sau khi ăn xong thì chúng tôi sẽ lướt lộ số 7 băng qua rừng cao su xuống Hố Bò, rồi ra bến Bò Cạp sang sông Sàigòn, đổ bộ lên Bưng còng đi về Đường Long. Chiều tối sẽ đến Long Nguyên. Nghỉ một đêm, ngày sau sẽ hiển thị 13 đến Phú Giáo. Ngày sau nữa sẽ qua 16 đến Nước Trong. Rồi từ Nước Trong vượt qua sông Bé về đồi Tam Điệp. Kế đó sẽ qua sông Rạc, sống Bé, bàu Chân Ra, Bàu Đồng Triêng. Ngày cuối cùng, Bàu Đồng Triêng đi thẳng một mạch qua Ủi, vượt qua Mã Đà cầu dây, chiều lại tới Phòng Thường trực U.50.
Vị trí mất sáu ngày đường thì đến đơn vị. Quãng đường căng thẳng nhất là hiển thị 13 và hiển thị 16. Qua đó được hiển thị, xem như «thắng lợi hoàn toàn». Tuy hôm nay, ngày đầu sang sông Sàigòn,sửa bộ lên ấp chiến lược Bưng Còng và qua con lộ 23 tiết lộ từ Bình Dương đi Bến Súc Dầu Tiếng Anh, phòng qua lộ chỉ cách đồng Bến Súc nhẹ năm cây số nhưng nguy hiểm không đáng kể lắm vì ở đây có du kích canh gác và đường xe góc cũng ít chạy. Hai bên đường rừng cao su.
Năm Đuôi cho tôi biết sơ đồ dự kiến ​​như vậy. Mười một giờ chờ đợi, chúng tôi nhờ đưa ngang qua sông Sàigòn.
Không biết nghĩ sao, Năm đuôi đột nhiên thay đổi lộ trình dự định là không đi ngõ ấp chiến lược Bưng còng mà xuyên đường tắt ở sông Sàigòn ra lộ lộ 23. Cthống hơn mười phút bờ sông Sàigòn, đến một khoảng tranh thưa, Năm Rùa ra hiệu dừng lại và nói với tôi:
- Tới địa điểm Bến Súc - Bình Dương rồi đó anh! Phí trước ở đây là tỷ lệ cân bằng. Phía tay trái mình là đồng Bến Súc nhẹ năm cây số. Phía tay mặt là quân Rạch Bắp nhẹ hai cây số cân.
Và Năm Rùa chu miệng cười, cái cười ngại dí dỏm bảo hai cảnh bảo:
- Này! Dân, Ngà! Hai đứa trẻ chuyến bay này ra ẩn náu cho Trung đoàn hành quân quân ngang qua nghệ! Thằng Dân bên này, thằng Ngà bên kia. Năm phút nữa, không có gì thì Trung đoàn bộ sẽ qua trước. Sáu tháng nữa, chiến binh tráng lệ của Trung đoàn sẽ qua sau!
Dân và Ngà, hai cậu cảnh vệ chúm cười, không nói. Năm đuôi phượng vai ngàn:
- Nè, bây giờ thấy có thằng nào cỡi xe đạp, xe gắn máy, hoặc đi bộ, cả đàn bà con nít mủ cao su bên kia đường cũng xách súng chận lại hết.
Ngà hỏi:
- Chi vậy anh Năm?
- Đéo quả! Cái thằng chấm quá! Trung đoàn quân qua chiến lược phải tiếp tục hành quân lại trong thời gian ngắn. Nó đi báo giặc thì làm sao?
- Trời đất! Mình chỉ có 4 ngoe. Vũ khí thì chỉ có một cây Mi Tuilles, một trường Mass và súng lục. Trung tập sức mạnh có bao nhiêu trong năm? Chơi rắn mắc loại này câu xe chiến binh nó rượt mình chạy giò lên cổ đó.
Nău Râu hơi bực:
- Cái thằng khéo lo! Lâu lâu mình thanh binh Bến Súc chơi mà! Nó mà nghe đồng bào về nói lại, có một trung đoàn quân giải phóng về đây nó khởi đầu. Chiến tranh cân bằng không mà gậy! Đầy thiệt hại nhé. Hủy bỏ, đẩy nhanh quá trình đi lên. Năm phút nữa, Ban Chỉ Huy Trung đoàn ra lộ dó! Nhớ người ta lại, bắt quay mặt vô rừng nghệ!
Dân và Ngà lên súng, súng xuống tay, miễn cưỡng bước đi. Năm sương mờ mắt với tôi:
- Mời tôi mời qua lộ cũng chơi cái mững này hoài. Hai thằng này trước giờ chưa tham dự lần nào, coi bộ quá! Mình đi anh!
Năm Râu đi trước, tôi theo sau đàn ông lần lộ diện. Đường nhựa kia rồi. Phía bên kia đường là rừng cao su từng hàng thẳng tắp. Năm Rùa kéo tôi vào một bụi cây rau mui kín mít, nước phun đường mười thước, vạch lá nhìn ra.
Tôi nghe tiếng xe gắn máy nổ xa xa về hướng Bến Súc. Và tôi cũng ngẫu nhiên nghe được tiếng con gái nói chuyện, đạp xe đạp cót két từ phía Bạch Bắp lên. Tôi nhìn dác không thấy hai cậu cảnh bảo vệ đâu cả.
Bốn cô con gái đạp xe hàng tư trờ tới. Trên ghi đông mỗi xe đều có những thùng sắt nhỏ. mấy cán dao lòi lên trên. Nhìn phong cách, kiểu cách của họ, tôi hiểu ngay đó là bốn cô gái phun mủ cao su của đồng điền.
Cấu hình, từ sau đám cỏ ở vệ đường, Dân nhảy ra tay ngăn cản. Bến cảng Khẩu Mi Tuilles. Dân nói lớn:
- Dừng lại! Chủ nhà liên tục!
Bốn cô gái chạy trốn, mặt tái xanh, suống thắng xe lại một cách Hước, nhảy xuống đất. Bốn cô sợ hãi, giương mắt thao láo nhìn Dân. Dân khuỳnh chân ra dền dạ, chỉ tay về phía bên kia rừng cao su:
- Chủ chị dẫn xe qua kia, đi sâu vô rừng cao su; quay lại đường mòn, ngồi xuống không được nói chuyện. Cũng không thể quay lại được. Trung đoàn giải phóng quân qua đây. Khi nào chúng tôi bảo trì thì mới được quay lại, ra đường. Ai nhúc nhích, có ý kiến ​​chúng tôi không bảo đảm an ninh đó!
Bốn cô gái ríu ríu dẫn xe đạp đi. Chiếc xe Mobylette từ hướng Bến Súc cũng vừa đến và dừng lại. Tái lập câu nói trên. Người cỡi xe là một đàn ông ngoài bốn mươi, ăn mặc chững chac, mang giày, đi kèm theo lệnh của Dân.
Hơn ba phút sau, đường im phương phắc. Dân quay đầu vào, nói lớn lên:
- Báo cáo thủ công, đường đã dọn dẹp xong!
Ngng lại một chút, Dân nhìn xuôi ngược, đoạn đưa tay che miệng làm loa, nói nho nhỏ vừa đủ nghe:
- Ra nhanh đi, anh Năm! Thằng Ngà bên kia nó dẫn họ ngồi xuống hết rồi. Lẹ đi!
Năm Ngố Nụ cười, kéo tay tôi chạy lúp xúp ra đường rồi băng ngang qua đường mòn phía bên kia. Vườn cao su trống hoang, không có một bụi cỏ, thẳng tắp, sâu mãi vào trong kia. Tôi thoáng chốc, suy nghĩ yên tĩnh, kiểu này có xe chạy tới không làm sao thoát ra và tìm ra chỗ trống.
Tôi vừa chạy vừa suy nghĩ thì Dân từ bên kia đường la toáng lên:
- Chết cha! Xe lính! Chạy mau lên đi, anh Năm ơi!
Năm Rùa bức tôi thực nhauh, bứt lên trước. Tôi điếng cả hồn vía, chân như muốn ríu lại, hấp hối chạy ngựa mạng theo sau. Tiếng động cơ xe nhà bình rõ tăng dần và... tạch tạch...
Nhiều loạt súng nổ liên hồi, nhiều tiếng hét ngoài trời, phía sau lưng tôi. Tiếng lửa đốt gió rít lên chung quanh với tiếng cành cây cao su gẫy bẫy trước mặt. Chân tôi như rũ ra. Tôi tét. Nẩy đo tầm mắt. Lại giúpm tỉnh dậy, cắm đầu chạy giò lên cổ theo Năm Rùa.
Thú thực, lúc đó tôi không hiểu tôi ra sao nữa, ngoài việc cắm cổ chạy như một cái máy, hết còn biết ngoại cảnh chung quanh ra sao? Cho đến lúc gặp Năm Rùa ngồi bệt xuống đường mòn, mở phanh khuấy lấy quạt gió phạch nhe răng cười, chờ tôi, thì tôi thấy hai chân tôi như rời ra rồi khuỵu xuống ngồi phịch kế bên.
Một cơn mệt mỏi như không, đáp ứng với tôi. Thấy vậy, Năm Râu quay nón, quạt cho tôi. Thở hổn hển nói:
- Dở... quá vậy ông!
Tôi mở miệng nhưng nói không ra tiếng, chỉ biết lắc đầu, CLIP dốc. Tôi thấy anh dũng cảm, giận anh ta vô kể. Cái đòn «chiến tranh cân não» của anh ta đã hại tôi mất mạng và mệt mỏi đến thế này, vậy mà anh ta còn chê tôi một, có ức cho chưa?
Năm Miêu tả phì phèo, nói tiếp:
- Chút tí nữa... «qua phần» rồi! Bạn đi chéo bên trong tai... kết quả! Mất cái mặt hết sức!
Cơn mệt mỏi của tôi đã dịu dàng đi nhiều. Đầu óc cũng đã được bổ sung, hoàn thiện. Tôi viết chung quanh. Súng vẫn còn nổ từng loạt xa xa.
À, thì tôi đã chạy ra khỏi rừng cao su hồi phục nào mà tôi không biết. Chỗ trống của tôi và Năm Rùa đang ngồi đây là đường mòn giữa rừng cây thùng nước suối, mấy con sóc bông đang ui nhau trên ngọn cây trước mặt kêu chí chóe.
Cũng có thể, tôi không bị tổn thương hay xây xát gì... nhẹ nhàng tôi phát giác ra rằng cổ tôi sao nghe nhẹ nhõm. Thôi, cái cọng tượng bảo mười ngày Bình rơi mất tự bao giờ rồi.
Tôi nói với Năm Râu:
- Cái đau của tôi bị mất rồi anh Năm!
Năm Râu cười:
- Kệ nó! Đến Long Nguyên kiếm cái khác!
Chợ có chân chạy thì ngày càng rõ từ phía đường vọng vào. Tôi và Năm Rùa giật mình, cùng giậtm người dậy. Nhưng nhờ có tiếng gọi «anh Năm ơi! Anh Năm» nên chúng tôi yên tâm, biết đó là cậu bảo vệ của mình cũng vừa thoát chết.
Thực là một phen hú vía! Cả bốn chúng tôi đều chạy thoát chỉ có đồ bị rớt mất, phải để cậu bảo vệ lộn ngược nhiều lần tìm kiếm. Chính vì vậy, mãi đến 10 giờ đêm chúng tôi mới đến Long Nguyên thay vì 4 giờ chiều như đã định.
Xem ngay Năm Đen tối cũng chán ngán cơn chết đó và thoải mái sợ hãi chúng tôi về căn cứ báo cáo lại, tất cả anh ta sẽ được kiểm duyệt, cứ theo bão tôi và hai cậu bảo vệ, yêu cầu đừng nói lại nguyên liệu chuyện đã xảy ra.
Nghỉ tại Long Nguyên một đêm. Giảm lại, chúng tôi tiếp tục lên đường đi về điền cao su Bầu Bàng qua lộ 13 đến Phú Giáo. Chúng tôi ở lại ở Phú Giáo hai hôm nay rồi vượt qua Dinh Điền I, Dinh Điền II qua lộ 16 đi về sông Bé.
Ngày thứ sáu, chúng tôi đến sông Rạc, con sông mà công binh khu A phải bắc cầu bằng đám mây, treo lơ lửng giữa hai bảo cây phun rap ở hai bên sông. Phía dưới, nước chảy qua mấy đá hào ào ào như thác đổ. Đi trên cầu, yêu cầu đưa ra tiền, không cẩn thận rơi xuống những cơn nguy hiểm mạng như chơi.
Quân anh lính bảo vệ cho biết con sông này bay từ tỉnh ly Phước Thành về. Nghĩa là từ đây là rừng sâu khu A, bóng cả cây già, chiến sĩ Quốc Gia chưa bao giờ đi tới. Giang san này là của thú dữ, của ông bà rừng đối với đồng bào Thượng.
Tôi ngước mắt nhìn xung quanh. Những cây dầu, cây bằng lăng, cây gõ, vên vên và những cây tương tự khác mà tôi không biết tên, to hàng ba bốn người ôm, đứng thẳng, bài hát tựa những chiếc nhẫn để kiếm lên cao vút, ba bốn thước. Tàng cây nước, cành lá đan vào nhau che mất ánh sáng mặt trời. Tôi nghĩ đến những lò rèn máy, những nhà khai thác thác lâm sản, tính giá ba đồng một khối thước thì cây rừng ở đây thực sự là vô giá. Những thứ gỗ được kéo về Sàigòn chỉ là những cây con, không có ý nghĩa gì đối với những cây chung quanh nơi tôi đang đứng. Chỉ cần khai thác một mẫu rừng ở đây, người ta kiếm hàng triệu như chơi.
Đến đây, chúng tôi dừng nghỉ, nấu bữa cơm chiều. Tôi và Năm Râu, kẻ thì đi vo gạo nhóm bếp, kẻ đi hái rau rừng. Hai cậu bảo vệ thì theo lệnh Năm Rùa, khi đến gần bãi cỏ Bé đã phân chia vào rừng săn giộc «ưu điểm» một bữa, bồi bổ sức lực sau những ngày mệt đường xa.
Tôi kê đá, nấu chín nội cơm. Có đến hơn hai tiếng đồng hồ sau hai cậu bảo vệ mang về một con giộc tới, nặng nhẹ mười ký ký. Giộc là một loại khỉ to con, lông dài màu xám tro. Lần đầu tiên nhìn thấy, tôi tưởng tượng nhẹ nhàng là một đứa trẻ con, có đôi tay rất dài, cái mặt xanh dờn trông đến dễ sợ, Chiếc đuôi dài lê thêm, lông lại trắng nắng như bông.
Hai cậu bảo vệ cấp tốc xong, đốt cháy thui lại. Thế là chúng tôi được một bữa cháo giộc và thịt thịt nướng chấm muối. Cái mùi giộc hơi bão, thịt vẫn ngọt vô cùng..
Trời đã được chứng minh. Năm Rùa lấy chiếc đèn điện mang bên hông ra đốt để phụ minh họa cho bếp đốt nặng. Cuồng Năm Rùa nói to lên:
- Ê, máy bay nghe ngứa ngay bây giờ!
- Còn xa mà! - Một cậu bảo vệ nói.
Tôi nghe có tiếng động cơ rì rì của phi cơ từ xa vọng lại.
Tôi thắc mắc không hiểu, ban đêm ban hôm nay phi cơ có ảnh hưởng gì quan trọng đến chúng tôi ở đâu? Phi cơ sở càng ngày càng rõ. Qua kinh nghiệm, tôi phân biệt được đó là loại cơ sở tải thông thường.
Tức khắc Năm tóc phụt, tắt đèn điện. Hai cậu cảnh bảo vệ hấp hối kéo củi ở bếp lửa ra, thạch nước xèo xèo, bếp lửa tắt ngóm. Chung quanh tôi đen tối như mực.
Năm Rù lông một câu:
- Đéo quả! Chiếc máy bay chó chết này hoạt động tích cực ta! Ban ngày chưa có, còn bay đêm, bộ mồi thịt lắm lắm sao chớ! Phá van không cho ông ăn hả?
Tôi tò mò muốn biết:
- Nó bay thì kệ nó. Dakota mà! Đâu phải khu trục hay bay chuồn (tức LI9) mà mình sợ nó phát hiện anh năm?
- Vậy là anh thiếu ý thức cảnh giác rồi! Bay máy chủ nào không phải là bay của vương quốc. Dakota tuy nó không oanh kích nhưng nó cũng thấy ánh sáng. Nhất là ở giữa rừng, đồng bào, nhân dân làm gì có, chỉ có giải phóng quân thôi. Thế nào thằng phi công Dakota cũng báo cho thằng phi cơ khu trục trục. Nó mà báo thì mình «lãnh đủ» rồi.
Tôi tĩnh lặng. Điều anh ta nói cũng có lý thật. Anh ta nói thêm:
- Cái này đã trở thành thành luật, thành nguyên tắc của Đảng đề ra cho bộ đội. Ờ rừng cấm ngày thì cấm khói. Ban đêm thì sẽ gây nguy hiểm. Nấu cơm anh phải kiếm củi khô, nhóm củi vào bếp phải có kỹ thuật, làm sao cho lửa cháy nhiều,cháy tốt không có khói bay lên ngọn cây. Cui ướt anh phải xông hơi cho khô, không bảo đảm được khói thì không được phép nấu, đói thì ráng chịu. Chớ nấu cơm mà không được ăn cơm lại bị ăn bom ăn đạn, chết còn được đào mả lên kiểm duyệt cảnh báo nữa đó!
- Vậy ở căn cứ vào mùa mưa làm sao nấu ăn?
- Lò Hoàng Cầm! Đơn vị nào cũng vậy, đi đến đâu phải đào lò Hoàng Cầm đến đó.
Để cho hiểu về cái gọi là lò Hoàng Cầm, Năm Rùa giải thích cho tôi nghe bọt bọt mép, quên đốt đèn dù tiếng phi cơ đã tắt mất từ ​​lâu.
Theo Năm Đuôi nói, lò Hoàng Cầm là một lò đào dưới đất, do sáng kiến ​​trúc của một chiến sĩ anh nuôi (lính lễ đầu quân!) tên Hoàng Cầm, phát minh trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Vì ở chiến dịch Điện Biên Phủ, bộ đội, dân công tham dự hơn trăm ngàn người. Ngày ba bữa vẫn phải nấu cơm ăn, tập trung ở khu vực chung quanh nên phi cơ Pháp phát hiện rất dễ cảm khói. Có rất nhiều bộ phận bị tổn hại nặng nề. Anh nuôi Hoàng Cầm, phải lo nấu cơm trong ngày để cung cấp cho đơn vị ở ngoài chiến tuyến, nguy cơ thiết bị phi cơ tiêu diệt nặng nề hơn ai hết nên đã tự chế tạo cho mình một kiểu lò không bom.
Kiểu lò này giống như những lò bồi nổi trên mặt đất, nhưng khác ở chỗ đào sâu xuống đất, khoét đất tạo thành cơ hầm trước miệng miệng, cũng như miệng lò vv.. làm cho yên, kết thúc thấp hơn mặt đất. Phía trong cùng lò, lỗi thông hơi để bằng cổ chân theo chiều dốc, giáp những đường hầm dẫn khói. Mỗi đường dẫn bước đi theo thước đo, chế độ hướng lên mặt đất. Đường dẫn cuối cùng là một lỗ rỗng chứa khói, vừa rộng. Hầm khói đó là hầm một, được đào nối tiếp với hầm chứa thứ hai cách đó một vài kích thước. Từ hầm chứa khói thứ hai, lại có một đường hầm khác rộng hơn một chút chạy sâu vào rừng nhẹ đến mười thước. Cuối cùng đường hầm là một lỗi xông khói, dùng bắp tay.
Giúp đỡ khói chu du trong lòng đất, qua hầm hố, qua những đường hầm, vốn đã ẩm ướt nên khói đến lỗ thông hơi đã được hóa giải gần hết. Nếu còn khói trở thành một thứ hơi nước nặng nề, trắng đục bay là sát mặt đất, chỉ cần một làn gió nhẹ đưa qua, khói đó tan biến ngay, không để lại một vết tích nào. Như vậy, nấu cơm bằng kiểu lò đó, củi khô sơ sài gì chụm cũng cháy trưai và «còn khuya» phi cơ trinh khảo mới tìm thấy vết tích của vương vương trên ngọn cây rừng.
Kiểu lò này do Hoàng Cầm sáng chế, nên tên Hoàng Cầm được đặt cho lò tên. Và giúp ích cho nó, tác giả được Đảng phong cho chức năng anh hùng quân đội.
Và cũng từ đó, lò Hoàng Cầm trở thành duy nhất, bắt các đơn vị quân đội sống ở núi rừng, nhất là ở chiến trường Lào và Nam Việt Nam.
° ° °
Sau một đêm ngủ ở tiền Bé, sáng dậy chúng tôi cuốn nylon, cuốn cuốn, đi một mạch đến chiều thì vượt qua lộ Đồng Xoài - Mã Đà và chiều tối thì về đến B2 tức Ban Chính Trị của U.50.
Khi vượt qua hàng rào chiến đấu thứ hai bằng dây xanh, gặp một cánh cổng bằng cây, mở hé, chận ngày mòn, vừa đủ một người rau qua. Chung quanh cổng và dọc theo đường đi, rải rác những hố đào trần chưa lấp.
Năm Râu nói với tôi:
- Đến nơi đó rồi anh Hùng!
Tôi hỏi lại:
- Đến U.50 đơn vị mình đó hả anh Năm?
- Không phải đâu! U.50 là một bộ phận lớn, là Đảng ủy khu A, quản lý cả vùng Đông Bắc chiến khu D cũ, từ đường quốc lộ 13 đến sông Đồng Nai Thượng. Đây chỉ là một bộ phận trực thuộc của U.50. Tên thông thường gọi là B2, tức Ban Chính Trị của Khu A đó.
- MỘT! - Tôi lặng lẽ lên.
Tôi chợt nghe tiếng cười cười vang. Qua khúc quanh đầu mòn hiện lên bốn căn nhà lá và những cái sân rộng sạch sẽ, dưới những bảo tàng dầu kín mít. Hầu như gian nhà nào cũng không phên vách, giống như những cái chòi ruộng ở làng tôi.
Năm Hướng dẫn tôi vượt qua hai gian nhà đầu đến gian nhà thứ ba:
- Nhà này, chỗ anh Ba Biếu với anh Bảy Cảnh ở đây!
Tôi ngơ ngác chưa hiểu thì Năm Ngòi thì thầm nói tiếp:
- Anh Ba Biếu, thủ trưởng B2, anh Bảy Cảnh là phó thủ trưởng.
Lần đầu tiên nghe danh từ thủ trưởng, rất lạ tai, nhưng tôi cũng chấp nhận hiểu rằng thủ trưởng là người chỉ huy, người đứng đầu của một cơ quan, một đơn vị. Tôi nhìn vào nhà. Giữa nhà là một cái bàn dài, phía trên để một cái đun chứa nước sôi, kế bên là hộp trà và ba bốn lon sữa guigoz đã bóc giấy. Hai người đàn ông tuổi ngoài bốn mươi, một người mập phì, trắng trẻo mặc đồ bà ba đen, một người gầy ốm, đen đúa, măc quân phục cũng đen, đang ngồi đối diện nhau trước bộ bình trà, đăm đăm tôi nhìn và Năm Rùa đang bước qua sân giữa nhà.
Người đàn ông, đen đúa, gầy ốm, nhe chiếc răng vàng ra cười:
- Chà! Cậu từ Lộc Thuận mới về đó hả? Có phải cậu đưa đồng chí Vũ Hùng đến đấy không?
Năm Phiêu vải xuống, bước qua bước:
- Dạ, mới về tới, anh Bảy! Dạ báo cáo anh Ba với anh Bảy, đây là đồng chí Vũ Hùng đấy ạ!
Đúng người vừa hỏi Năm Rùa là Bảy Cảnh, phó thủ trưởng, dậy dậy ra bắt tay vồn vã, cười toét miệng đến mang tai:
- Mạnh giỏi đồng chí Hùng? Đi đường xa chắc đồng chí mệt lắm?.
Ba Biếu người béo mạp, trắng trẻo - cũng đứng dậy - đưa cái bụng phệ nhô về phía trước, ti hí mắt, cười vui vẻ không nguy hiểm. Anh ta thay vì bắt tay, đưa hai bàn tay hộ pháp vồ lấy hai vai tôi như một người bạn rất thân lâu ngày mới được gặp nhau:
- Dữ ác! Tới bữa ăn mới này để gặp anh! Chờ đợi anh đến cơn sốt bữa trưa rồi. Lo Sợ không biết anh đi dọc đường có được bình yên không? Ngồi uống nước trà một chút cho hôi hôi rồi tôi đưa anh ra tắm nắng. Năm! Ngồi uống nước cậu, rồi xuống bếp điều động chị nuôi Thưởng đằng sau khách khứa với chớ!
Giữa hai câu hỏi của người cùng một lúc, tôi không biết trả lời thế nào. Tôi vừa bồng bềnh để xuống ngồi vừa thoải mái:
- Dạ... cảm ơn hai anh! Tôi đi đường vẫn yên yên, vui vẻ ạ! Dạ, cũng không... mệt gì lắm.
Ba Biếu Cung cấp bột về phía tối, nghiêng bình rượu một loại nước trà đầy, bốc khói, đen như nước cau ngâm:
- Mời anh!
Tôi nâng cấp, và trả lời một thôi những câu hỏi về đủ mọi chuyện.
Gọi là để chào mừng tôi, «chào mừng mô thức cách mạng», Ba Biếu ra lệnh cho chị nuôi làm gà nấu cháo, «chiêu đãi người xa». Trong khi gà la oang oác, đánh chết ở nhà bếp, thì Ba Biếu cũng đang loay pha mấy cốc cà phê sữa, lấy bánh bạc quy, kem bày ra bàn để đãi tôi.
Cái chính sách chiếu cố định, đãi ngộ này là một công thức tác trị hữu hiệu nhất, động viên phấn khởi động tốt nhất. Vì vậy, đối với các cấp dưới, dọc trên đường đi, công việc xử lý của tôi là một điều khác biệt quá xa. Nhưng cái hình thức này càng làm cho tôi sợ hơn.
Tôi đã quen, đã hiểu rõ cái hình thức này rồi. Cái hình thức «buổi ban đầu lưu tiếc ấy...», để rồi mấy hôm sau chỉ còn dư dư nhiều cay đắng mà thôi. Chính trong lòng tôi, tôi không biết nên buồn hay nên vui đây?
Sau những phút «tao ngộ» qua chén trà, cà phê sữa, bánh kem, Ba Biếu đưa tôi ra suối tắm rửa. Lúc về nhà, trời đã nhá nhem tối. Được đốt sáng tự động trong thời gian. Ba Biếu đang nằm dài trên chiếc nhẫn tre nghệ đài BBC nói vang vang, thổi saym tuổi nguyên nhỏ chiếc radio Phillip lại:
- Anh thực sự khoẻ mạnh chưa anh?
Tôi đáp:
- Dạ, khỏe nhiều rồi anh!
- Có trên hai mươi năm rồi... tôi xa Sàigòn. Bây giờ chắc chắn đã thay đổi nhiều! Tối nay, thế nào cũng phải yêu anh kể chuyện Sàigòn nghe cho «no» một bữa!
- Nếu anh xa lâu đến như vậy thì anh khó mà tưởng tượng tinh sự thay đổi đến độ nào!
- Chắc chắn là như vậy rồi. Ngày tôi xa Sàigòn, ở đường xe lửa giữa, anh biết chớ? Đường Galliéni cái khoảng từ Nancy vô khỏi nhà thờ Chợ Quán nhiều khu đất hãy còn bỏ hoang, đường Hải Mươi toàn là ruộng..
- Hôm nay, bây giờ đường Galliéni, quảng anh nói đó, tòa nhà, cao ốc, phố lầu năm bảy tầng. Nhà cửa phố xá, san sát. Đường Hải Mươi cũng vậy, chính trên những mảnh ruộng, trên vũng rau muống bây giờ là những dãy phố lầu, những nhà bê-tông cốt sắt, đường ngang, ngõ dọc, không làm sao tìm ra một chỗ trống để mua thêm một căn nhà.
- Bây giờ tôi về Sàigòn chắc chắn ai cũng bị lạc thôi.. hôm nay anh đến Phòng Tuyển mộ I4, các đồng chí ở đó đánh điện báo cáo về Khu B trường hợp hợp của anh. Ở bên trong đó, Rờ (R) đánh lại điện chỉ cho chúng tôi đón anh về. Vì vậy khi anh còn ở Lộc Thuận chúng tôi đã nôn nao chờ anh rồi. Chính tôi đến đằng sau B1 bảo bộ phận điện đài, điện xuống ngay cho đoàn tiếp nhận tân binh của U.50 hay liền, chỉ thị cho đồng chí Năm Râu đưa anh về đây gấp.
Tôi thấy cần phải trả lời một câu trả lời:
- Cám ơn anh đã quan tâm đến! Tôi thì có đáng gì đâu để anh phải cực đoan như vậy. Bất quá, tôi chỉ là một người lính mới, đi sau, còn phải cố gắng nhiều...
Bà Biếu cười:
- Anh cảm ơn, tôi quá quá! Thôi! Bỏ chuyện đó đi anh! Anh em, đồng chí với nhau cả mà! Bổ sung phận, nhiệm vụ của mình được Đảng giao cho mình phải lo cho tròn, cho tốt, có gì đâu. Bây giờ, mời anh đi qua nhà ăn, mình nhậu lai rai được rồi đó. Cháo gà uống rượu đế thì tuyệt vời, chỉ tiếc thiếu món rau răm. Đi anh!
Ba Biếu nhảy xuống đất, nhấn cột đèn soi bước ra. Tôi không biết uống rượu, nhưng vì «nể» tình nhau, không tiện từ chối nên trong bữa tiệc tôi cũng uống hết một ly rượu «Anis». Nhờ thế, đêm đến tôi được ngủ một giấc ngon lành.
Sáng ra tôi dậy dậy, trong khi mọi người đã thức giấc từ lâu, đang sửa soạn ăn cơm sáng. Tôi xuống thanh xuân, trở lên ngang qua nhà ăn tôi thấy trên mỗi bàn làm việc bằng tre, chôn chân sâu dưới đất để một thau khoai mì sống. Tôi không hiểu khoai mì đâu thế này nhỉ? Trên đường đi từ tiết lộ 13 về đến đây, tôi chưa hề tìm thấy một cây khoai mì nào. Chà! Giữa rừng sáng có khoai mì sống chơi thế này, sang thực!
Tôi đụng đầu Ba Biếu xách ca, kềm giữa đường xuống nhà ăn. Thủ trưởng Ba Biếu nhoẻn miệng cười:
- Xong rồi anh xách ca, kềm xuống đây mình ăn sáng nhe anh!
Tôi cũng cười đáp lễ, dạ một tiếng:
- Dạ! Tôi xuống ngay. Xin các anh cứ dùng trước đó!
Tôi quay lại nhà ăn thì anh chị em trong Ban Chính Trị, tức B2 của U.50 non hai mươi người đã tề. Mọi người xầm xì để thu nhỏ tầm mắt nhìn tôi. Người ta, anh chị em chắc đang bình sản phẩm, kể chuyện về tôi đó! Tôi là bộ mặt mới, hôm nay lính mới đến đây, đến qua, giờ anh chị em mới Dược biết, nhìn rõ mặt, chiến binh ta không đắm mắt, xầm xì về mình.
Bước vào nhà ăn trước đông người, tôi thấy mất tự sự thật. Tôi lặng lẽ chào mọi người. Ba Biếu, Bảy Cảnh, Tám Chi và Năm Rùa đang ngồi xung quanh một bàn giữa nhà ăn cũng đang cười nhìn tôi. Năm đưa ra hiệu ứng cho tôi ngồi chung. Ba Biếu đứng dậy nhìn mọi người, lên tiếng:
- Xin giới thiệu với các đồng chí, đây là đồng chí Vũ Hùng vừa ở Saigòn ra tham gia cách mạng với chúng ta. Đồng chí Vũ Hùng là một biểu thức và cũng là một bộ cũ của chiến tranh chống Pháp lần thứ hai. Kể từ hôm nay đồng chí sẽ công tác chung với chúng ta ở B2 này trong khi chờ đợi Cục Chính Trị Rx xác định cấp và vị trí công tác mới.
Tiếng vỗ tay nhanh chóng nổi lên. Ba Biếu nhìn tôi nói tiếp:
- Trước lạ sau quen. Toàn là anh em đồng chí với nhau cả, rãng rồi anh sẽ biết hết, quen hết tên, tuổi, công việc của anh chị em ở đây. Thay mặt cho tập thể B2, chúng tôi rất hoan nghênh và vui mừng khi được đến công tác.
Tôi càng cạn kiệt, không biết nên làm gì cho thích hợp, đành phải nói lí nhí trong cổ ngọc:
- Xin cảm ơn anh! Cảm ơn các đồng chí tập thể đã nghĩ đến tôi.
Ba Biếu kéo tay ngồi xuống bàn ăn, đối diện:
- Có gì mà cảm ơn anh! Khách khứa cái gì!
Tôi ngồi xuống. Trên bàn ăn, ngoài thau mì còn có một ly nhôm thịt kho mặn và một ly nước mắm mỡ nổi ngủ yên.
Ba Biếu nói:
- Bữa ăn sáng của mình thế đấy. Khoai mì non, thịt nai kho mặn và nước mắm.
Tôi phát biểu một câu:
- Thế là sang quá rồi anh Ba! Ở thành thị, khó kiếm được miếng ăn lạ, ngon như thế này.
- Này! Bữa ăn đầu tiên, anh thấy đây là món ăn lạ miệng, ngon lành, món ăn sang nhưng được ít ngày thì nhất định anh không còn giữ ý kiến ​​này nữa đâu. Như vậy tôi cũng chán đến tận cổ.
Tôi tò mò, muốn biết sinh hoạt ăn uống ở đây.
- Sáng nào mình cũng ăn nhẹ à? Anh Bá!
- Lúc khác. Trước đây có mua bình, tải trà từ đồng bằng về dễ dàng thì sáng ăn cơm phải hưng khoái. Bắt đầu từ tháng mười một năm đến vũ nay thì xuất khẩu phần Trà không được cấp phát nữa, phải ăn khoai mì thay gạo. Tuy nhiên, ở trên vẫn hạn chế, ăn khoai mì cũng có xuất khẩu phần. Một người một ngày là 2 ký tự, không được ăn quá nhiều. Xui xẻo cho anh là anh đến khu A nhắm lúc này, cấp độ chăm gian khổ khó khăn lên đến đỉnh cao...
Bảy Cảnh ngồi bên cạnh tôi, chen vào:
- Như vậy phải có tinh thần hy sinh, chiu bảo gian khổ mới kham nổi, mới làm cách mạng được phải không anh Hùng? Mà đảm bảo gian khổ, hy sinh, trải qua những thử thách, khó khăn, chiến sĩ cách mạng mới thấy vinh quang hơn bao giờ hết. Trước khi bước chân vào cách mạng chắc anh Hùng cũng biết điều này chớ?
Tôi thấy khó chịu trong lòng, nhất là phải ngồi nghe lý luận quá cổ điển đó. Lý luận chính trị tôi vốn không cần phải lâu nữa rồi. Nhưng giờ Bảy Cảnh hỏi, tôi đành phải vui vẻ trả lời:
- Thưa anh, tôi đã hiểu và tôi còn chuẩn bị tư tưởng chịu đựng gian khổ hơn nữa kia. Như thế này hãy còn quá sung sướng. Có gì đáng gọi là gian khổ đâu! Nếu Sợ khó, Sợ khổ thì tôi đã không vào đây.
Mọi người đều vui vẻ, trao thưởng lời tôi nói. Năm Câu hỏi tôi:
- Thịt nai ông ăn thế nào?
- Ngon đấy anh! Khác gì thịt trâu, thịt bò!
- Sau đó ăn nhiều «Tào Tháo cởi» xách quần chạy không đáp ứng! Các loài thú ở rừng chỉ có thịt bồ với thịt min là hiền nhất. Ăn nhiều bao nhiêu cũng không sao. Chớ heo rừng với nai, độc địa lắm!
Tôi hỏi:
- Thịt bồ là thịt gì anh?
- Thịt voi đó! Ơ đây ai cũng kêu là thịt bồ. Còn thịt min là thịt trâu rừng...
Nhân câu chuyện về thịt rừng, Năm Rùa kể cho tôi nghe một mạch. Những thú lớn ở rừng Đông Bắc khu Dhun bắn được bao gồm nhiều thứ như voi, min, bò rừng, nai, heo rừng, cọp, gấu, trắng vv.. nhưng cọp, gấu mời mới hạ được một con. Với, min, bò rừng cũng khó săn hơn heo rừng với nai. Muốn bắn nai với heo rừng chỉ bò theo mấy câu khoai mi, Rác bắp, hoa màu. Cho nên từ trước giờ, thực phẩm tươi, nai với heo rừng là món phổ thông nhất. Muốn ăn nai, heo rừng cứ săn đuổi theo Trả thế nào cũng bắn được.
Những trường hợp bắn được cọp hay gấu, hầu hết đều là những lúc tình cờ, làm những anh em chiến sĩ đi công tác phản phơ hoặc những lúc anh đèn đi bắn cheo ban đêm, hay những lúc theo dấu một nhóm heo rừng. Ở trường hợp này, người và lực gặp nhau cùng mục tiêu. Cọp theo đàn heo để hộp, người cũng theo dấu heo để bắn. Rốt cục, phấn mê câu, quên phía sau lưng mình còn có người và khẩu trường Nga, trường Mas hay Carbine M1.
Với voi hay min cũng vậy, tình cờ có một tổ võ trang nào đó đi cảnh giới hay công tác xung quanh khu vực cơ cứ, đột nhiên nghe tiếng càn rào rào hoặc ngọn le hồng rôm rốp nom theo. Cuối cùng là súng nổ. Bắn min không khó lắm, but shot được voi là cả một vấn đề khó khăn. Súng trường bắn không trống, dù cho bắn đến hai mươi phát vẫn chưa hạ nổi nó. Hoặc là nó chạy mất, hoặc là nó phải đi lại để chết để trả thù.
Muốn bắn hạ voi, người bắn phải ngâm vào phòng u lên, phập phồng theo hơi thở dưới mang tai. Ngoài ra nơi đó ra, bắn vào đầu, vào lót, vào bụng chỉ mất công toi lại nhưng có thể bị mất mạng vì nó. Nếu không bắn được u lên, thì bắn ngay vào ống chân trước, nó nhảy chồm, sức mạnh của nó sẽ làm ống chân, ngã xuống không tài nào đứng lên được. Sau đó sẽ tìm cách hạ cấp cho nó chết sau đó.
Voi ở đây thuộc loại phụ thuộc, đi ăn từng đàn nhỏ từ ba đến năm con. Sức mạnh của mỗi con ước định có đến tám ngàn ký. Khi nó ngã xuống rồi, nó vẫn cao hơn đầu người ba bốn tấc. Người đứng bên này không thể làm sao được nhìn thấy bên kia. ·
Từ 1963 trở về trước, tại khu A, anh em cũng đã hạ hơn một rồi rồi. Nhưng chưa lần nào lấy hết thịt của nó mang về. Vì U.50 có đến mấy phong đại hiệp, trung vương trực thuộc những rừng núi khu A rộng mô mo, có nhiều đơn vị cách nhau phải đến ba ngày đường rừng, việc thông báo nhau đến chia thịt chuyện là không thể báo thông được. Dù có cho hay, khi đến nơi, thịt cũng đã thúi từ vài ngày trước. Việc thông báo nhau biết đến xẻ thịt mang về ăn chỉ một số đơn vị chung quanh.
Hồ hồ việc tải máu từ phòng với thiết bị hạ cấp về đơn vị, vừa đi về ít ra cũng phải tròn 1 ngày. Và công việc tải khó khăn hơn tải bất cứ thứ gì khác. Thịt cho vào bồng bềnh, mềm mại, đồng đưa, khi mang trên lưng làm cho người mang đi đứng khó khăn hết sức lực.
Mỗi người mang nhiều lắm lắm chỉ hai mươi lăm ký thịt là cùng. Nhưng thịt một con voi xẻ ra có đến trên hai ngàn kí. Đơn vị nào có đủ người để tải từng cơn thịt? Đơn vị nào có đủ người để ăn, tiêu thụ hết số thịt đó trong vòng hai ba ngày?
Để lâu thì bằng cách nào? Tất cả niêu, thau, chậu đâu để chứa? Muối, làm mắm không có tác dụng gì. Phơi khô, rừng không có nắng, quần áo giặt phơi hai ngày ba ngày nhưng chưa có vấn đề gì phơi thịt voi?
Vì những lý do kể trên, trong những lần bắn với vừa qua, lần nào cũng để thịt thúi om rừng. Chuyện đó lành đến tai Năm Quốc Đăng, Thủ trưởng của U.50. Đăng lệnh cấm bắn như vậy là tội phạm thịt rừng, còn làm mất vệ sinh khu căn cứ...
Năm Quốc Đăng ra lệnh trên, khu A không ai còn bắn với lấy thịt nữa. Cho đến khi Hải Cà về thay Quốc Đăng làm thủ trưởng U.50, nhưng đẩy gao hơn. Thường ngày, để cải thiện sinh hoạt, mỗi đơn vị đều đều vào việc săn giộc, săn heo rừng, nai, bắn mển, bắn cheo và những loài thú nhỏ.
Tôi vừa ăn vừa say mê theo chuyện săn thú rừng của Năm Rùa. Bữa ăn lạ miệng, ngon sao là ngon. Khi Năm Rùa ngừng nói thì mọi người chung quanh họ đã ăn xong, đi tứ tán tự bảo giờ. Bàn tôi, Tám Chi, Bảy Cảnh cũng xách ca đi mất, chỉ còn lại tôi, Năm Râu và Ba Biếu.
Ba Biếu ngồi đối diện với tôi, chu một cách thoải mái mấy mẫu khoai mì nhỏ, theo kiểu cầm khách:
- Anh ăn coi bộ ngon thiệt! Nhưng chắc chắn chỉ đến mai là cùng. Anh hùng không vô cho coi.
Tôi cười và hỏi lại:
- Khoai mì này mình trồng ở đây hả anh?
- Gần đây, chung quanh đây thôi! Anh cũng nên biết U.50 của mình là một vị trí hậu cần của Cục Hậu Cần, quản lý vùng A.
Cho nên công tác chính của U.50 là công tác Hậu Cần, cung cấp lương thực, thực phẩm, quân nhu, quân trang cũng như quân y, thuốc nam cho quân chủ lực R. Ngoài những nhiệm vụ đó, U.50 còn mười đơn vị trực thuộc chuyên phá rừng, trồng cây để sản xuất bắp, lúa, khoai mì. Chủ yếu là khoai mì. Nó được xem là thực phẩm dự trữ chiến lược, để bao lâu cũng không hư hỏng.
- Như vậy, mình ở đây hoàn toàn lấy khoai mì ăn thay bình hả anh Ba?
- Từ trước đến nay vẫn ăn Vàng đấy chớ! Nhưng mới ở đây phải ăn khoai mì thay Bình vì cơ sở thu mua của mình ở Bình Mỹ - Vĩnh Tân bị phá vỡ vương quốc, con đường chạy của bộ phận vua vận tải xe leo cam cũng được chiếm đóng, chiến lược ngang trên đường đi. Trong thời gian tạm thời, Khu A mình đây đã được phong tỏa, cắt đường tiếp tế lúa gạo thực phẩm. Bây giờ còn lại một số bình dự trữ khá lớn nhưng vẫn phải dự trữ... đâu đó thùng xử lý trước khi cơ sở thu mua của mình hoạt động lại bình thường. Chỉ có các bệnh binh tại ba bệnh viện G1, G2, G3 hoặc quân y của các đơn vị trực thuộc mới được cung cấp với tiêu chuẩn chế độ là 10 lít một tháng. Tức là mỗi người một ngày được một lon sữa bò Bình. Còn lại tất cả chúng ta đều phải ăn khoai mì thay cho Bình. Trong khi đó, nếu đơn vị nào có khả năng tự mua Bình thì cứ lo. Tài khoản sẽ thanh toán theo tiêu chuẩn.
Nghe Ba Biếu nói tôi tính nhẩm có lẽ quân số của riêng U.50 thôi cũng đã có trên hai hộp người. Chưa kể số lượng các bộ phận, đơn vị khác. U.50 mỗi ngày tiêu thụ ít ra cũng trên bốn ngàn ký khoai mì. Quả là một số lượng đáng kể, làm sao có thể cung cấp được trong nhiều tháng? Tôi tò mò:
- Nhưng nếu tình trạng ăn khoai mì kéo dài trong nhiều tháng khoai mì đâu đủ...
- Khuyến khích cũng đáng ngạc nhiên. Tôi đang lo lắng ở đây!
Ba Biếu nhìn xuống bàn như mơ mộng đến một hình ảnh xa thoải mái nào đó, tay cầm chiếc ôm «i-nốc» thoáng nhẹ nhàng êm ái vào tiếng ồn kêu leng keng:
- Toàn khu A mình hiện giờ trồng được khoảng trên dưới ngàn mẫu khoai mì. Nỗi buồn gần phân nửa là khoai mì chưa ăn được. Số lượng ăn cũng phải để dự trữ ba phần trăm mẫu. Cấm xử lý. dành cho mấy trung đoàn thực binh từ miền Bắc vào, có lẽ nay mai sẽ đến khu A.
Hơn tháng qua, số lượng khoai mì được phép xử lý, có đơn vị họ đã rút sạch cả rồi. Họ vừa báo cáo cho tôi biết và xin cung cấp thêm các trường hợp mới. Biết làm thế nào?... Hủy! Ta đi rửa ca rồi về nhà uống trà anh!
Ba Biếu dậy. Tôi và Năm Rùa đứng lên theo đi xuống. Nhà bếp trên gò đất cao. Suối ở bên dưới bên cạnh hai kích thước. Đường đi xuống mòn mỏi, giữa những cây dầu, và nhiều cây khác gốc đến đến mấy người ôm, cao vút che kín ánh mặt trời. Dọc theo những bụi mây nước, cây đến bằng cổ tay, lá um tùm, gai lởm nông, bò chim theo mấy cành cây trên cao.
Đêm qua, tối mò, lúc tắm không thấy được gì. hôm nay nhìn rõ, hình ảnh trước mắt mũi cho tôi một cái gì hoang dã, rừng bên lạnh, ngăn cách chắc chắn cho đời sống con người bình thường. Đời sống ở đây chỉ có rừng và rừng, sống không ai biết, chết sáng ai hay.
Bình tĩnh, cạn kiệt. Nó lên đến võ phục, nhanh chóng. Đá toàn đá cuội, đá đỏ lớp lớp nằm chồng lên nhau. Tôi Càn Quét quần cao, đứng giữa dòng nước hỗn loạn mạnh mẽ. Một mảnh rác xám. Không có xà-bông tôi càng kỳ cọ, nó càng dây thêm ra tay.
Năm Rùa thấy vậy, liêng cho tôi địa phương xà-bông nhỏ:
- Bắt ông! Xà-bông nè! Sau này, khi nào chốt không có xà-bông, rút ​​kinh nghiệm bí tôi, ông ngắt máy lá dầu non sét. Khá lắm! Nó sạch bóng. Chắc chắn ăn hơn nữa, ông thú thư giãn một tro, cái gì ông rửa nó cũng sạch sẽ.
Tôi dọn dẹp đón nhận «kinh nghiệm » của Năm Râu. Vào buổi sáng, nước lạnh như ngâm nước đá, tôi rửa mặt xong, lướt thửng bước lên bờ biển. Chợt nhìn xuống ống chân, tôi thấy một con chai lớn hơn bình tĩnh chân đang ngoe ngoe, quơ đầu tìm chỗ bám để bò lên trên. Tuy dày dạn không sợ gì hay vắt nhưng tôi thấy nổi gai ốc. Tôi co chân, lấy tay búng cho nó rơi giữa xa, hỏi Năm Rùa:
- Ở ngày hôm nay coi bộ nhiều quá anh Năm! Nó mới xong cho tôi nè!
Năm Râu cười:
- Đủ dùng thôi! Coi như vậy chưa nhắm được gì đâu, ông! Tháng nắng, vắt nó không ở trên khô, nó chui xuống đất hoặc xuống mé còn sót lại ở hết nên đi dọc đường chưa gặp. Thêm nữa, trên đường đi, anh em qua lại ngày thường, suy nghĩ mấy con. Đến mùa mưa, ông sẽ biết. Nhứt là sau đám đám mưa đầu mùa, gần như là vắt bò đặc đất. Ra đường không bước, vừa đi phóng to như bay cũng vẫn được đeo đen chân. Với ai con người có cường giáp, nghễnh cổ như súng cao xạ. Đi đường chậm rãi, nếu ông ấy quay lại bắt nó giải quyết năm sáu con tiếp theo, ông ấy không có tài khoản nào để giải quyết. Cái cảnh chuồi vào quần, vào bụng, bò lên nải, đến cổ no nóc như múi bưởi là bình thường. Đêm, leo lên phòng ngủ, sáng ra mướp đỏ cổ, đỏ áo, Cà phê, Cúmmùng không ai là không bị. Thanh niên nhóm mình không nói làm gì dám mấy vị nữ, mới đến Khu A vị vị nào cũng sợ xanh mặt. Có nhiều tay, đang lúc máy bay khu trục oanh sa, bom xịt trầm vậy mà không chịu nằm xuống đất, cứ leo lên mấy rễ cây tránh ngậm. Sợ hãi hơn sợ hãi máy bay. Ông coi chừng có ngày nào cũng bị con gái khu A nó ôm ông ngắt, gỡ không ra cho coi!
Tôi còn như thế, quyết gì mấy cô gái từ bé đến lớn chưa biết mặt mũi con nho ra sao?
Khu vực của Bản Chính Trị U.50 gồm có sáu nhà, chưa kể nhà bếp, nhà ăn.
Nhà tôi ở là nhà của Ban Chỉ Huy mà Thủ trưởng là Ba Biếu. Hai ông phó là Bảy Cảnh và Tám Chi. Mái nhà lợp bằng lá trung quân khô, hiện lên một màu đèn, tròn và dài, khi nhẹ kết nối mí, chồng lên nhau, trò chuyện nhìn từ xa tôi thoáng nhà lợp ngói. Đến lúc nhìn lại mới biết đó là một loại lá rừng.
Nhà không vách, trống trơn, từ bên ngoài nhìn vào không một cái ruộng chòi nào khác. Tất cả những gì trong nhà đều được thấy rõ mồn một. Nhà trước đây chỉ có ba người, giờ tôi đến, được xếp ở chung thành bốn người. Ba Biếu có cái nền bằng tre đóng bụi xuống đất ở một góc như Bảy Cảnh. Tám Chi và tôi ngủ. Võng xéo qua bốn góc mhà. Mùng thì, bốn góc cứ hai góc mỗi đầu quay lại một thành ra mùng không nóc, cột dây giăng thẳng xuôi theo phía trên. Vách mù buông xuống bao lấy thành phố.
Cái lối ngủ này kể ra tiện lợi cũng thật.
Giữa nhà kê một bàn dài, trên để một cái cào nước sôi, bộ chung trà, mấy lon sữa guigoz đã bóc giấy xếp thành hàng, bên trong bông trà, đường cát, kẹo đâu phọng.
Tất cả ngồi quay quần đối diện nhau quanh chiếc bàn dài uống trà, ăn kẹo. Thành thực mà nói, tôi chỉ hưng phấn ăn chờ không thích uống trà đậm thế này.. Dầu rằng, kể từ hôm hôm mồng bốn Tết đến nay, hai tháng rồi, tôi đã tàn tậph «u-tê-cu» (UTQ) nghĩa là «uống trà quạo» với Ba Dũng ở Phòng Tuyển tân binh I4, rồi với Năm Tóc và Tiếp nhận tân binh của U.50, tôi vẫn chưa thể hiểu nổi, thông cảm nổi chương trình thưởng thức «u-tê-cu đó.
By «u-tê-cu» nó không phản phảng một hơi hướng tao nhã, «phong lưu quân tử » theo cái phong cách «tao nhân mặc khách» của trà đạo.
Nó chỉ là một thói quen, một tập quán hơn là ghiền.
Mặt khác, nó còn biểu hiện một trạng thái tâm lý Bốc đồng, lập dị, bắt mồi, khoe khoang không chịu ai như một cái «mốt» thời trang.
Trà bỏ cho thật nhiều vào bình, nước ngải màu đen, uống vào chát quánh miệng, đắng hơn cả thuốc bắc, vậy tôi làm sao hào ngẫu thưởng thức trà?
Ba Biếu đưa ra lời chào vào tôi:
- Uống đi anh! Thứ này khá lắm! Blao chính cống đó!
Tôi đưa ra một bản ghi nháp. Thắng thật đấy. Tôi đã tìm thấy ứng cử chỉ của tôi, Ba Biếu cười:
- Tại anh chưa quen, chứ khi đã quen rồi, pha kích thước này anh sẽ chê là pha dợt, uống không đã cho coi.
Bảy Cảnh báo thêm vào:
- Mình chiến đấu chực mấy anh em ở bộ đội chiến đấu, thấy mà phát sợ. Trà họ đổ cho đầy lon guigoz rồi chế độ nước sôi vào. Nhận bao nhiêu trà, bấy nhiêu nước. Đến nỗi, trà mới pha nước thứ hai nó phóng ra, xác trà vương miện không được nắp nữa. Uống cùng họ, nhóm mình ở đây có lẽ phải chờ đợi nước thứ mười trở về mới say mê. Cái gì chớ ăn, bộ đội nó rải mạng lắm.
Tôi hỏi Ba Biếu:
- Dạ, hồi 9 năm đó anh Ba, bộ đội cũng uống trà, cũng «u-tê-cu» nhưng đâu có vậy. Sao bây giờ anh Ba đang uống vậy?
Ba Biếu cười nụ, suy nghĩ một thoáng, trả lời tôi:
- Thực ra... thành thực mà nói, anh em bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc hồi 1951, ai cũng biết uống trà nhưng uống loảng, ít thôi. Chỉ có từ sau Tết năm 1957 cái hy vọng Tổng tuyển cử nhất đất nước không thành công, việc anh em quản lý, chiến trường miền Nam tập kết không biết đến bao giờ mới được trở về Nam, tổng cuộc thi với gia đình nên hầu hết cán bộ chiến sĩ hai sư đoàn 330 và 338 đều sinh khả năng chè be bé. Dạo đó, tôi ở sư đoàn 338 làm anh Ba Tô Ký làm Sư trưởng dày Chính. Ba ngày Tết đầu năm 1957 sao mà nó buồn ghê rợn nhớ nhà không chịu được. Đêm 30 Tết, rồi dẻo ngày mồng một, mồng hai anh em tụm năm, tụm ba nhậu say mèm, ôm nhau khóc như đám ma. Không riêug gì sư 338 mà sư 330 làm anh Bảy Cống làm sư trưởng cũng vậy, lũ trẻ ai ai cũng khóc húp mắt. Cô ngày sau, cơn sốt lan sang sư 304 của anh em bộ đội khu 5. Chuyện đó làm mất tinh thần anh em dữ lắm, có một số giáo ra vô kỹ luật, rồi giành hóa, ăn nói trải mạng không ai chịu nổi. Phòng Chính Trị sư đoàn nản lòng bất lực không giải quyết vấn đề nổi bật đó, báo cáo lên Tổng cục Chính Trị và Quân đội Trung Quốc Đảng. Cuối cùng Hồ chủ phải xuống từng sư đoàn an ninh,ủi lạo, động viên chính trị mới tạm thời. Đồng thời, Bộ Tổng Tư Lệnh kèm theo biện pháp đối phó là trao đổi, cắt cắt, thay đổi toàn bộ tổ chức về nhân sự để cách ly anh em ra, không còn sống chung với nhau để khóc lóc, ăn vạ nhà nước nữa.
Dừng lại một chút, Ba Biếu tiếp theo:
- Ngày, bắt nguồn từ nỗi nhớ nhung gia đình vợ con, quê hương miền Nam, nên từ đó anh em bộ đội miền Nam cứ đêm đêm là uống trà thật đậm để thức, ngồi nhắc nhở tâm sự với nhau về những kỷ niệm miền Nam. Nó tăng dần thành thói quen. Hồi số anh em có thể bộ máy chiến đấu trở về Nam hoạt động mấy năm nay, mang theo thói quen uống trà đậm, chiến sĩ trong này nó bắt nhẹ nhàng, nó đi quá đột phá, ý muốn bảo mình ở đây cũng có thói quen quen sinh hoạt khác với bất cứ điều gì có thể tập hợp miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Anh em họ mát mẻ về cái miền Bắc xã hội chủ nghĩa đó, ai ngờ cái tốt không bắt lại đua nhau tập cái thói quen, suy cho cùng chỉ đáng xấu hổ chứ vinh hạnh gì đâu!
Năm ga được tìm thấy:
- Anh ơi! Tết năm đó tôi ở Sư đoàn 330, không biết mắc bệnh gì mà xúm ôm nhau khóc, như đám ma cha mình. Cho đến cái hôm bác Hồ xuống thăm an ủi, động thành viên này, mới thấy mặt ổng là một đứa trẻ òa lên Than. Ô nào cũng vậy, bụng bảo dạ là sẽ không khóc nữa khi bác tới, nhưng có một đứa con khóc là cả Sư đoàn lên bò theo. Ô hu hu, hi hi, ho ho đủ hết. Cái loại tập tin có thể nghe sao đó thảm quá nhẹ. Sau này, có mấy đứa con nó làm thơ, nó ví tiếng khóc như tiếng sấm làm phổi lay Hà-nội, làm Đảng và nhà nước mất ngủ bỏ ăn.
- Rồi bác Hồ thế nào? - Tôi hỏi.
Năm Râu cao giọng:
- Tiếng kêu theo chớ làm sao!
Ba Biếu đưa gói thuốc ra trước mặt tôi:
- Hút thuốc anh!
Tôi lấy một câu trả lời lửa. Thuốc thơm này được sản xuất ở Nam Vang nhưng cũng được bỏ rơi về Sàigòn bán đầy dẫy. Trong khi Ruby 15 đồng một gói thì chỉ có 10 đồng. Cảm ơn rẻ và hương thơm gần Ruby bao nhiêu, giới ít tiền, bình dân, lao động tiêu thụ nhiều. Gợi cảm tôi vẫn hút nó. Tôi hỏi Ba Biếu:
- Thưa anh Ba, trong này thuốc thơm chắc chắn lắm. Ruby chắc chắn cũng có ít khi có?
- Không anh! Không lạ đâu! Muốn mua bao nhiêu cũng được. Chỉ có cái là công đi xa rẻ nhất. Còn lại Ruby cũng thiếu gì nhưng tại nó mắc hơn Ara nên không mua cái đó thôi. Anh nghĩ, anh em mình đi làm cách mạng, thoát ly gia đình, mỗi tháng chỉ có 25 đồng tiền sinh hoạt phí phải mua bất cứ xà-bông tắm, xà-bông tẩy, kem đánh răng rồi dao bào bào mòn, đủ thứ vụn vạnh khác nữa. Chưa kể tiền trà lá, thuốc rê, đường... Những anh em có liên lạc được gia đình, gia đình tiếp tế cho thì không nói. Những anh em khác, hoặc vì gia đình nghèo, hay nhiều năm rồi không gặp gia đình thì anh tính xem tiền đâu hút Ara hay Ruby?
Năm Câu trả lời thích bổ sung thêm tài khoản làm thế nào để mua:
- Vấn đề mua dễ thôi thôi anh! Cám ơn hạ giá vàng. Ở đây anh muốn mua gì cũng có. Này nhé. một cơ sở thu mua của U.50 họ mua dưới Sài Gòn, Bình Dương hay ở đường 13, họ giả cam nhông về giao diện cho B4 Store giữ. Quản lý đơn vị hàng hóa háng đến mua lại, mang về chia cho anh em. Nếu không, mấy tổ sản phẩm tiếp theo của mỗi đơn vị, tự lực đi xuống đồng bằng hay đường 13, mua bán với đồng bào. Ngay những anh em đi công tác dưới đồng bằng như mời tôi nè, ở nhà anh em nào cần gì thì gửi tìm, mời tôi mua mang về dùm cho. Muốn nhanh thì như vậy. Nếu không, qua bên kia hồ sông Bé, mấy cái quán ở Đất Cuốc, Nước Trong hay ở đồi Tam Điệp, những vật dụng cũng không thiếu món gì. Duy có cái là bọn buôn buôn, nó cắt cổ dữ lắm.
Tám Chi khóc giờ ngồi yên, chà chà trà, giờ cũng lên tiếng. Luận điệu sôi động chính trị:
- Tôi cũng cần phải có thông tin rõ ràng. Cái chuyện thuốc thơm, cái chuyện ăn để xài lớn chỉ là điều bất ngờ. Khi nào có liên hoan, lễ lộc hoặc mời chào khách đặc biệt đến thăm, hoặc công tác tại đây. hôm nay có anh đến, nên gọi là đặc cách chiêu đãi người xa. Đứng về phương diện lãnh đạo tư tưởng, Đảng không chấp nhận sự phung phí, xa xỉ. Dù rằng có nhiều đồng chí gia đình rất giàu có, từng lần liên lạc gia đình đến tham quan, có thể cho đến hàng năm tuổi bảy tuổi gọi là sử dụng. Đảng không cho phép các đồng chí nhận nhiều tiền như vậy. Vì có tiền thì tư tưởng nó cũng thay đổi. Nó biểu hiện tư tưởng khó khăn, tinh thần thách khó gian khổ, dễ mất lập trường, dễ bị chiến đấu mua kiệt, cám dỗ, lợi ích. Nó còn gây nhiều ảnh hưởng không tốt đến tập thể, mất đoàn kết nội bộ, so sánh, suy bì vv.Về việc hút thuốc, chỉ có thuốc rê, giấy quyến rũ là trường kỳ. Chiến trường du kích, gian khổ mà...
Tôi hiểu những lời Tám Chi vừa nói. Và với cái hiểu biết cũng như «nhạy cảm» của tôi, tôi vẫn có thể hiểu nhiều hơn, đo lường trước những gì Tám Chi chưa nói hết, về tác phong, sinh hoạt, cũng như hành động thường ngày.
Kẹo trên bàn đã hết. Trà cũng nhạt màu, nước trắng nhách. Tám Chi kéo tay Năm đuôi dậy:
- Cậu xuống dưới đây làm việc với tôi một chút!
Cả hai kéo nhau đi xuống nhà bếp. Sự nhớ lại của mình, không biết kể từ hôm nay số phận tôi sẽ được định đoạt ra sao. Đây là B2, tức Ban Chính Trị của U.50, tức khu A. Tôi sẽ được phân công làm gì ở đây? Hiện tôi có thể nhận công việc nào phù hợp với khả năng của mình?
Tôi xoay tròn nước, giọng thấp xuống, lời lời nói với Ba Biếu:
- Dạ. thưa anh Ba, vài anh định... thu thập công tác cho tôi ra sao? Tôi nghĩ rằng hôm nay tôi có thể nhận ra...
Ba Biếu đưa tay xua lia lịa:
- Khoan! Khoan đã, anh! Không có gì! Anh đi đường xa hãy còn mệt mỏi. Anh phải nghỉ ngơi ít ra là ba bốn ngày cho sức khoẻ đã!
- Dạ không sao, anh Ba! Thú thực với hai anh, tôi muốn được làm việc càng gần càng tốt. Trong lúc mọi người ai cũng tối mắt tối mũi vì công việc, mình ngồi không, trong lòng nó xốn xang làm sao.
- Cái chuyện tham công tiếc ai ai cũng có hết! Nhưng anh hãy nghỉ đã! Tôi với anh Bảy đây đã có ý với nhau rồi. Để anh nghỉ ngơi ít hôm nay cho sức khỏe, nhứt là tập cho quen, thích ứng với khí hậu ẩm thấp của núi rừng, cũng muộn màng gì. Trong đó, anh Bảy ảnh sẽ thay mặt Đảng ủy Khu A cũng như Ban Chỉ Huy U.50 về phía chính quyền, bàn bạc kỹ năng với anh về những công tác mà anh đảm nhận. Xin giới thiệu với anh, anh Bảy sau đây phụ trách về bộ hoàn nguyên. Những công việc nghiên cứu, xử lý, phân công, nói chung là những gì liên quan tới chính sách quản lý, quản lý bộ ngăn chặn của toàn khu A đều làm anh Bảy phụ trách. Anh Bảy sẽ làm việc trực tiếp với anh.
° ° °
Quả thực tôi chán khoai mì lên đến tận cổ, ngay ngày hôm sau, khi tôi đến đây. Buổi sáng đầu tiên, ăn khoai mì nhung với thịt nai kho mặn sao mà ngon thế, không biết nữa. Đến bữa trưa, tuy tôi chưa chán nhưng tôi không còn tìm thấy hứng, thấy hứng thú khi bóc đến củ khoai.
Chiều lại, để thay đổi cách nấu cho dễ ăn, khoái ta không nữa mà được mài ra, bô viên hấp chín. trông giống như chiếc bánh bao. Duy nó không trắng, lại trong thu hút, nhìn thấy những mảnh vụn bồi bồi trắng bên trong. Dù vậy, dù được thay đổi cách nấu và bụng tôi đang đói ngấu, cũng không có tài năng nào hết thứ hai.
Và sáng hôm sau, khi thức dậy tôi đói một cách kỳ lạ.
Cái đói vừa khát xa, bào bọt không bắt nguồn ở dạ dày trống rỗng, cần ăn mà là cái đói của những trường hợp ăn tôi chua, của những đêm công thức sáng nước thở ly cà phê dắng. Đói nhưng khi ngồi vào bàn ăn, tôi chỉ có thể gỡ từng ngòi khoai ta một chút xíu phác thảo với mảnh thịt nai kho cháy nổ nhừ.
Tôi thấy mục đích vô hạn. Cái mát tôi tưởng nhẹ nhàng như mình chịu đói đã lâu, không ăn cơm từ nhiều tháng trước. Tôi chán khoai mì rồi thực sự rồi. Nhưng tự ái của tôi không cho phép tôi nói điều đó với bất cứ ai ở đây. Tôi sợ bị người ta đánh giá thấp, bị người ta xem thường, bị người ta cho là ý thức chịu đựng gian khổ vv.. Tôi phải cố ngâm, phải ăn như mọi người. Tôi nghe bợn dạ buồn nôn, khó chịu, bức rứt không được mô tả.
Tôi đã cố gắng hết sức, vậy mà Thủ trưởng của tôi, Ba Biếu, vẫn nhìn thấy mồ hôi một. Anh ta khuyến khích tôi:
- Lúc mới bắt đầu ăn khoai mì thay cơm tôi cũng phải trải nghiệm qua vài ngày xót xa, chán mứa, khó chịu như anh bây giờ vậy! Một vài ngày sau nó sẽ nguội đi. Thầy thầy thuốc của mình, họ giải thích đó là cái phản ứng «lạ lùng» chưa quen với việc nạp dạ dày thôi. Trạng thái đó không lâu đâu. Anh nghĩ, có chịu đựng gian khổ, còn thử nhiều thì giá trị mạng nó mới cao, vinh quang mới chứ lớn, phải không anh!
Vẫn biết mình không giấu được ai, người ta nhìn rõ quá rồi, tôi vẫn thấy tự ái ái lên mắt, tìm cách phản đối xung quanh. Cái cố định của thể thức, tiểu tư sản nó vậy mà, ít khi chịu chấp nhận cái lối của mình. Tôi đưa tay xoa bụng:
- Dạ, đừng nản lòng gì đâu, anh Ba! Có lẽ như anh nói, tại ăn khoai mì nó lạ Bụng. sáng nay tôi thấy đau bụng không muốn ăn! Sợ không ăn nó đói nên miễn cưỡng ráng ăn thôi.
Ba Biếu tưởng thật, mắt mở lớn tròn xoe:
- Ý chết tiệt! Anh đau bụng sao anh không nói để đồng chí Thu y tá thuốc cho anh uống. Bậy chưa!
Và Ba Biếu đứng lên:
- Thu ơi! Thu!
Có con gái dạ từ phía bếp. Và một cô con gái nhỏ nhắn, tóc kẹp đuôi gà ở dưới hầm lò Hoàng Cầm thông bước bước lên:
- Dạ, chú Ba kêu cháu?
- Ờ! Đồng chí làm gì vậy?
- Dạ, cháu nướng khoai mì để lát nữa đi tải khoai mì, theo ăn chơi.
Trời đất! Tôi nghĩ bụng, lớn đến tận cổ thế này mà cô ta còn nướng nổi khoai mì đưa theo ăn chơi thì còn hiểu làm sao nữa!
Thu bước vội đến:
- Dạ, có chuyện chi, chú Ba?
Bảy Cảnh ngồi bên cạnh tôi nói:
- Bộ đội đâu có «bộ đội chú», «bộ đội cháu», đồng chí Thu? Tác phong huynh trưởng, hoàng hào hô chú cháu, thuộc về gia đình ở ngoài đời, đâu phải của cách mạng, đồng chí?.
Thư giãn nép, cười bẽn lẻn xuống đất:
- Dạ, cháu quên! Tại cháu quen miệng rồi, cháu xin nhận điểm!
- Nữa, cháu nữa!
Ba Biếu hoa cười:
- Nè, đồng chí Thu! Đồng chí lấy cho anh Hùng mấy viên thuốc đau bụng. Anh Hùng bị đau bụng từ lúc đó. À!. Còn thuốc phòng nữa, đồng chí có cho anh ấy uống chưa?
- Dạ, chưa! Dạ để cháu đi lấy.
Thu bắt đầu chạy. Một phút sau trở lại cho tôi 2 viên thuốc lớn và hai viên thuốc nhỏ:
- Hai thành viên lớn này là Pa-re-go-ric, đau bụng. Còn 2 viên thuốc nhỏ là thuốc phòng. Thuốc Pa-lu-rinh đó. Anh uống đi.
Tôi cầm lấy, Paregorique tôi đã uống vài lần nên tôi hiểu. Còn Pa-lu-rinh, nghe Thu nói tôi đoán mãi không hiểu là thuốc gì. Phòng thuốc, phòng có gì mới được chứ?
Ba Biếu giải thích cho tôi biết:
- Mình ở đây có chế độ uống thuốc trong phòng. Bô đội phải uống thuốc phòng. Lúc này tập kết ra Bắc, cứ mỗi sáng thứ ba và sáng thứ sáu trong tuần, sau khi trình bày đơn vị điểm danh xong phải đứng tại quân hàng, chờ uống thuốc. Y tá nó bưng bình ton nước chín, rê hết người này đến người khác, đưa ra hai viên Paludrine, loại 0,10 bắt uống tại phòng. Uống xong mới được giải nén. Rất xin lỗi nhưng ít bị sốt rét, nếu có, cũng nhẹ nhàng thôi không đến mức độ nguy hiểm.
À, thì ra Pa-lu-rinh của Thu là Paludrine, loại thuốc trị sốt rét hóa hợp. Tôi bỗng nhớ đến lúc này ở Lộc Thuận, Năm Rùa nói với tôi về cái chuyện nói tiếng Tây là nô lệ, vong bản. Ba Biếu nói tiếng Tây Line và đúng giọng đấy chứ! Không hiểu ai có nhận xét, phê bình anh ta không? Và anh ta nghĩ thế nào về công việc đó.
Ba Biếu nói iiếp:
- Từ khi anh em bộ đội mình ở Bắc trở về Nam kháng chiến lần thứ 2, chống Mỹ Diệm thì nguyên tắc uống thuốc phòng được áp dụng theo điều lịnh quân y của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Anh biết không, em nói anh đừng sợ nha! Vùng mình đang ở đây là vùng Mã Đà. Trong tất cả các vùng rừng núi, khu A nổi tiếng là khu sốt rét. Nhưng toàn khu A chỉ có vùng Mã Đà này căng thẳng, được xem như căn cứ của cơn sốt rét. Ở đây, vi trùng sốt rét là vua. Không một ai ở khu A này mà không sốt, dù cho phòng bệnh kỹ lưỡng đến đâu cũng vậy. Điều lịnh quân y như: bất luận ngày đêm, có đổ mồ hôi khi công tác lao động cũng không được trần trần, buổi chiều phải mặc áo dài tay, quần dài để chống thấm. Phải ngủ mù. Có tắm phải tắm nhanh để lạnh. Uống nước phải uống nước chín. Hàng tuần, thứ ba, thứ sáu phải uống thuốc phòng đều đặn. Vậy mà. trung bình mỗi năm, người khỏe mạnh nhất, số ngày sốt cộng lại ít ra cũng phải hai tháng. Có người đến sáu tháng. Vì vậy, hãy tìm yêu cầu của tôi cho bất kỳ ai cũng xanh, xanh như mặt hàng. Như anh đó, mới đến chưa thấy gì, vài bữa rồi anh biết. Khác khí hậu, phong thổ, vì ở rừng khí hậu rất thấp, độ ẩm rất cao. Muỗi truyền bệnh sốt rét. Cho nên trong thời gian đầu, tôi sẽ xem như là để tập anh chịu sốt lạnh một chút keo cái đã. Cho nó quen, thích ứng khí hậu ở đây cái đã.
Anh ta cười cười:
- Chưa đóng góp sốt rét cho "ông bà rừng", chưa phải là chiến sĩ khu A. Có đóng góp thành tích sốt rét càng nhiều, giá trị chiến sĩ khu A mới càng lớn. Anh chuẩn bị tinh thần đi!
Tôi cũng cười. Tôi đã từng sốt rét, tôi không sợ điều đó. Ngay cả mọi người ta gọi là gian khổ về vật chất, tôi cũng nhớ chút nào. Người ta chịu được, tôi chịu được. Tôi chỉ sợ đau khổ về tinh thần, bị hành hạ về tinh thần, căng thẳng thần kinh, tôi sẽ hoá điên thôi. Trong suốt những ngày rời xa Sàigòn đến giờ, kết quả là tinh thần của tôi đã bị hành hạ, đau khổ nhiều rồi.
Mong rằng từ nay tôi sẽ không còn bị rơi vào thế đối xử hành động hạ tầng đó nữa.
Ăn xong trở về nhà, tôi tĩnh bưng ca nước trà pha loảng ra sân, ngưỡng cổ uống thuốc. Kỳ thực, tôi đã cung cấp thuốc của Thu cho ban giảm xuống mất rồi. Parégorique, tôi không đau bụng thì uống làm gì. Còn Paludrine đắng, đắng đến buồn nôn, cái chuyện uống nó, đành chịu để khi nào bị sốt rét chứng minh.
Kể ra về vấn đề phòng sốt rét cũng tích cực, sẵn sàng dữ đấy chứ! Báo chí đến thế mà không ai bị sốt rét, theo lời Ba Biếu nói. Quả sốt rét ở đây kinh khủng thật. Từ nam đến nữ, mũi mũi ai người xanh như mặt giộc, không sai!
Tôi liên tưởng đến những đơn vị chiến đấu, trong hoàn cảnh thiếu thốn, gian khổ lại sống giữa vùng đất mà vi trùng Falciparum làm thần tiên, thì chỉ có thể chiến đấu với sốt rét chứ đừng nói chiến đấu với quân thù trên chiến trường. Những giai thoại về sốt lạnh của chiến khu D trong 9 năm kháng chiến Pháp trước đây là chứng vật linh hồn nhất. Trong một đơn vị, tỷ lệ sốt rét năm mươi phần trăm thôi cũng đủ để cho phương pháp làm việc với một lượng năng lượng tương thích, hoặc hơn nữa. Cơn sốt rét phải!
Hôm nay, mỗi khi xuống bếp, tôi thấy trên miệng lò Hoàng Cầm bao giờ cũng có sẵn một thùng nước sôi. Lúc đầu tôi thấy thoải mái ở chỗ nhà bếp trống trơn, có gì để bảo vệ nước mang dưới đáy cao. Trầm ăn, vo gạo phải xuống. Rửa chén, thực phẩm, làm gà, làm giộc, làm nai cũng xuống đi. Nước nấu, rút ​​xuống. Suối là bể chứa nước. Rồi mỗi nhà cũng có thứ gì đó để đựng nước uống. Có thể là tôi ở chung nhà với Ban Chỉ huy, lúc nào cũng có trà, có mủ bảo nước sôi. Nhưng bây giờ thì tôi hiểu rõ tác dụng của cái bình tấn rất lớn. Ai cũng có binh tấn riêng, ca, kềm riêng, luôn mang bên người. Mỗi người, sau khi ăn cơm phải đến nước chín vào cho đầy bình tấn để lấy. Ở nhà cũng như đi công tác, bình tấn là vật bất ly thân. Kẻ nào không có, quả là khổ đau, bất hạnh nhất đời.
Thực ra, cái sinh hoạt và nếp sống trong chiến tranh, đối với tôi không phải là chuyện mới lạ gì. Nhưng trước kia, cường 9 kháng chiến chống Pháp, tôi chỉ được sống ở các tỉnh miền Trung miền Tây Nam Bộ nên tôi không sao hình dung được độ sắc nét thực sự của nó. Và trong 9 năm chống Pháp, cách thức làm việc, lề lối làm việc, nguyên tắc chỉ đạo về chính trị, về tư tưởng nó cũng khác xa ngày này, tôi tưởng nhẹ ngày nay mình bị lạc vào một thế giới mới lạ - thế giới mà mình chưa từng sống.
Thu hẹp cái nhìn của tôi trong phạm vi nhà bếp thôi, cũng đã vô vàn mới rồi. Lần đầu tiên tôi nghe danh từ chị nuôi, anh nuôi, tôi ngơ ngác không hiểu nuôi theo cái kiểu nào đây? Tôi tò mò, để ý xem công việc của anh nuôi, chị nuôi thì họ toàn nấu bếp. Trước kia người ta gọi là hỏa thực. Năm Rùa giải thích cho tôi biết, Đảng và chính phủ không chọn dùng danh từ hương thơm nữa vì nó là tiếng Hán Việt, mất gốc, khó hiểu, cầu kỳ trái với bản chất giai cấp công nông. Giai cấp công nông là giai cấp nghèo đói, ít học. Đối với họ, việc dùng danh từ Hán Việt còn nói tiếng Tây, tiếng Ăng Lê. Điều đó có nghĩa là mất lập trường giai cấp, xa rời quần áo chúng công nông, dù không nói là khinh thường, chống lại khối quần chúng căn bản đó. Vi vậy «hỏa thực» là tiếng Hán Việt phải thủ tiêu nó đi, thay vào danh từ «anh nuôi » nếu đàn ông nấu bếp và «chị nuôi» để gọi phụ nữ, thanh thiếu nữ.
Nuôi dưỡng là nuôi quân. Tôi cười. Với chút hóm hỉnh, tôi hỏi Năm Râu bên quân đội đúng là nuôi quân, nhưng nếu ở các cơ quan «dân, chính lễ» đoàn thể vv.. lửa thực gọi là anh nuôi, chị nuôi, họ đâu phải nuôi quân vậy họ nuôi cuộc, nuôi dân à?
Năm Râu bảo tôi «ăn nói móc câu quá trả lời thế chó nào được! »
Đến lò Hoàng Cầm, Năm Gui dẫn tôi «đi xem cho biết » và giải thích đó là phong cách lò khói, đào dư đất cho phi cơ không phát hiện được phòng đóng quân.
Trong chiến trường du kich miền Nam ngay bây giờ, Đảng ra lệnh phải áp dụng hết sức để lò Hoàng Cầm cho bộ đội như một thứ công tác bắt quân, một kỷ luật thứ điều điều lịnh, nội quy bảo vệ đặt ra phải bồi theo.
Trong «tứ đại công tác» của bộ đội ở rừng núi miền đông Nam bộ hôm nay, đối với mọi người ai cũng phải làm ơn như một Kinh nhật lễ tụng là: Hầm, tải, lò, leo. «Nhất hầm, nhì tải, tam lò, tứ dê» như một khẩu hiệu, một ngạn ngữ. Không hiểu ai đã đề ra cái biểu tượng đó, sao mà nó sai vô nghĩa. Bộ đội muốn sống thì phải làm bốn công việc đó.
Hành quân đến bất cứ nơi nào, dù là 5 giờ sáng, buồn ngủ đến mắt phải chống sào mới mở ra cũng phải đào xong hố vũ, công sự cái đã. Buồn ngủ chưa chết nhưng không có hầm hố, công thức tối ưu khó sống dù được phi cơ hoàng oanh kích hay pháo thăm thăm.
Hầm xong rồi, thứ đến phải lo đi tải Bình. Mỗi đại vương, trung đội đều phải cử ra một toán đi tải bình. nếu không, không chết bom đạn cũng chết đói. Ông bà ta từ xưa đã bảo: «Dĩ thực vi tiên», vấn đề bao tử là nguồn gốc của vấn đề sinh tử, hục hặc nhau đến bươu đầu sứt mà!
Hầm xong, tải xong cũng chưa phải sống. Vì có hầm, có bình phải nấu ăn, nhưng nấu khơi trên mặt đất, nhất là về mùa mưa, củi rừng ướt mem, khói như cháy nhà, thế nào tử thần cũng đến lăng bằng khu trục, với bom, với pháo nhất là với bom B.52, không biết đường dù tránh.
Còn chưa đủ... Nấu cơm, nấu nước đâu phải chỉ có chứa bình, có lửa mà đủ? Phải có nước nữa. Nhưng nước ở chỗ mới có. Chỗ trống lại bị cấm không được dùng cho đại quân, đơn vị đông dân đóng quân. Đóng quân theo lợi ích. Tuy nhiên, cũng là điểm cho phi cơ, pháo oanh kích. Vì vậy, khi đóng quân ở rừng phải đóng quân cách xa để bảo toàn năng lượng. Xa thì nước đâu? Người ta có thể nấu cơm nhiều ngày chứ ai có thể xả nước nổi hai ngày? Sau đó thì phải đào sâu. Đất cao, mùa khô đào đến hai mươi thước mới có nước cũng phải hì hục mà đào. Nổ đom đóm mắt cũng phải đào.
Ấy thế là «Nhất hầm, nhì tải, tam lò, tứ trâu » ra đời, - truyền miệng với nhau như một thứ kinh nhật tụng về «tứ đại công tác ».
° ° °
Bốn ngày liền, tôi ở tại Ban Chính Trị (tức B2) của U.50, ăn rồi ngủ. Ngủ rồi dậy đọc sách. Đọc sách rồi ăn. Tám Chi đi moi ở đâu ra được mấy bộ truyện dài của Liên Xô và Trung Hoa đưa cho tôi mượn đọc. Nhìn chồng sách cao chất, tôi nghĩ chắc mình không sao đọc hết trong những ngày đầu nghỉ yên chờ đợi này, dù tôi vốn rất mê đọc sách, đọc nhanh như gió, ngấu nghiến cả ăn, trong những ngày còn lại ở Sàigòn. Nhưng rồi, trong bốn ngày hôm đó, tôi «nghiến » dọn dẹp chồng sách. Quả là một kỷ lục.
Đây là bộ tiểu thuyết nổi tiếng được giải thưởng Lénine: «Đoàn Thanh Niên Cận vệ đội» của Fadéev. Kì là bộ «Thép đã tôi thế đấy». Nọ là «Mùa Xuân trên sông Ô Đe», «Những cuộc chiến đấu trên đường Vô Cô Lam xcơ ». «Thượng Cam Lĩnh» của Trung Quốc v.. Nhiều quá! Toàn bộ danh sách dịch xuất bản ở Hà Nội, do nhà xuất bản bản «Quân đội Nhân dân» của quân đội miền Bắc ấn hành.
Thành thực mà nói, tôi rất mê đọc sách, nhưng tôi cũng rất sợ bị người ta nhận xét là thiếu tinh thần xung phong công tác, thiếu «lửa cách mạng » trong những ngày đầu bước chân đến đây. Tôi nghĩ bụng, mình không sao đọc hết đống sách này cũng vì lý do đó.
Tôi yêu cầu người ta phân công cho tôi một công việc nào đó cũng được. Tôi không muốn nằm xuống để đọc sách khi mọi người cũng có công việc. Trong đời, tôi ghét những kẻ lười, ăn không ngồi rồi, không chịu làm việc. Làm người, ai cũng phải làm việc để biến mình thành người có ích. Một con người hoàn toàn ý thức có được mặt của mình trong cuộc đời. Và nhất là sự việc làm cho mình vui vẻ, không phải suy nghĩ bâng quơ, chán nản, ray rứt với chính mình. Lần nào cũng vậy, tôi mở miệng yêu cầu được làm việc thì Ba Biếu, Bảy Cảnh báo trả lời y như nhau:
- Anh đi đường kiệt, cần phải yên tĩnh sức lực mấy ngày. Anh ấy đọc sách cho vui. Vừa đọc vừa ngâm những tư tưởng cách mạng chính yếu chỉ đạo qua tác sản phẩm để học tập. Như là cuốn sách «Những cuộc chiến đấu trên đường Vô Cô Lam xcơ sở » cùng với anh chàng Tiểu đoàn trưởng xây dựng chiến phong, kỷ luật cho Tiểu đoàn ô hợp của mình. Hay là trong quyển «Thượng Cam Lĩnh» với tinh thần bất khuất gian khổ hy sinh cao độ của băng đảng quân sự tử thủ thủ một ngọn đồi, cống hiến mà chiến đấu suốt tháng trường, hiển thị quyết định không lùi trước bọn đế quốc Mỹ.
Kể cũng buồn cười. Người ta bảo mật đọc sách cho vui. Đọc sách cho vui mà «nghiền ngâm những tư tưởng cách mạng chính yếu chỉ đạo trong tác phẩm để học tập », thế còn vui nỗi buồn gì? Người nói điều đó, dù tôi gần thông minh nhưng tôi cũng hiểu được những gì ẩn giấu trong đó.
Từ trước, từ 9 năm kháng chiến chống Pháp, tôi vẫn biết một cách rõ ràng là bất kỳ nhân viên nào, có thể bộ mới cũng phải thử thách về công tác, thử thách các lập trường tư tưởng, về tác phong, đạo đức, sau đó mới có thể giao cho một công việc thích hợp, căn cứ vào sự thử thách đó.
Bây giờ, tôi đang ở trong thời điểm "có thể" thử thách điều này.
Thử điều gì tôi cũng xin nhận, đã từ chối! Riêng về phần tôi trong bước đầu, ngoài việc làm để ý, quan sát cách thức, lối sinh hoạt, làm việc để mình làm quen với không khí mới, thích hợp với môi trường mình sẽ sống, tôi vẫn muốn tìm hiểu thêm về tổ chức, về nhiệm vụ của đơn vị mình. Nhất là những cá tính, chế độ xử lý của cấp chỉ huy. Có thể mới «lựa cơm gắp mắm», mới tạo được sự lợi lợi, tình cảm công tác buổi ban đầu.
Tìm hiểu về tổ chức, nhiệm vụ thì tôi đã xác định U.50 là một cơ quan Hậu Cần, đơn vị Hậu Cần trực thuộc Cục Hậu Cần R. Nói cách khác, là một Phân địa của Cục Hậu ở Cần Khu A, quản lý sáng một vùng rừng núi thật rộng, giới hạn bởi đường quốc lộ 13, quốc gia 1, sông Đồng Nai và biên giới Miên. Nhiệm vụ chính yếu của nó là sản xuất, cung cấp, dự trữ tất cả mọi nhu cầu chiến lược cũng như chiến thuật của quân đội chủ lực mỗi khi cần đến nó.
Ả Rập theo nguyên tắc tổ chức chung của quân đội miền Bắc, ngoài các bộ phận trực thuộc về chuyên môn sản xuất tự túc, thu mua thực phẩm, vận chuyển dự trữ thực phẩm, thuốc nam, súng ống, vũ dược, nó cũng giống như bất kỳ đơn vị quân đội nào, cũng có các bộ phận có tính cách văn phòng.
B1 là Ban Tham Mưu, quân lực.
B2 là Ban Chính Trị.. nơi tôi đang ở đây, quản lý chính sách, quản lý quản lý, quản lý tinh thần, tư tưởng chung cho đơn vị.
B3 là Ban Sản Xuất.
B4 là Ban Tài Vụ, tức Ban Tài Chánh lo việc phân phối kiểm soát tiền nông.
B5 là Ban Quân Y với hệ thống bệnh viện và dược liệu bào chế của nó.
B6 là Ban Tiếp Liệu tải vv..
Theo tập quán chung, đốt khi nào nói đến B1, B2, B3, B4, B5 vv.. của bất kỳ đơn vị cấp Sư đoàn, hay cấp Tiểu đoàn, chủ lực hay địa phương, mọi người đều hiểu giống nhau. B1 luôn tham vọng, quân lực. B2 luôn là giá trị chính. B5 luôn là quân y.
Nhưng tìm hiểu về cấp chỉ huy trực tiếp của tôi như Ba Biếu, Bảy Cảnh, Tam Chi vv.. thì được quy tắc, nghĩ tiến trình nào. Hôm nay, mỗi ngày sau những giờ ăn, tôi la cà ở nhà bếp để kể chuyện với chị nuôi, anh nuôi, với những chiến sĩ, nhân viên khác, làm quen, gây cảm tình với mọi người. Qua những cuộc trò chuyện đó, tôi thấy ai cũng sợ hãi mỗi khi nói với các thủ trưởng của mình, nhất là những việc làm có Snapchat «chất » Đảng. Họ không phê bình phán xét, không có nhận xét nào nhỏ nhoi. Tôi không hiểu tại sao họ lại sợ hãi kỳ lạ thế nữa. Anh em, đồng chí với nhau việc gì lại sợ hãi?
Chiều tối thứ năm, kể từ khi tôi đến đây, sau khi nghe đài BBC xong, Ba Biếu tắt radio mời tôi uống nước và hỏi:
- Sao, mấy hôm nay anh dễ chịu chứ? Sách hay chứ?
- Dạ, hay. Anh Bá! - Tôi trả lời.
- Có điều gì chưa biết hả anh? Cũng không có triệu chứng nào báo hiệu sốt rét?
- Dạ, không!
Bà Biếu cười:
- Những anh em khác khi mới đến khu A khoảng năm năm sau, phần nhiều là trùm chăn rên hù hù rồi. Hãy nhắc nhở sức khỏe của các loại anh thuộc khá đấy.
- Dạ, sốt thì uống thuốc chứ lo gì, anh Ba! Chắc chắn bây giờ thuốc nam mình ở đây đầy đủ lắm? Tôi thấy vài anh tuy người dù nước da cũng xanh nhưng vẫn khỏe mạnh cả mà!
Ba Biếu không trả lời, đương nhiên hỏi tôi:
- Anh Hùng! Anh có thích Dải bá không? Không có khí cụ ngoài thật mát mẻ, dãn. Thích lắm! Nó không gây nặng nề như ở nhà.
Tôi chợt hiểu và trả lời:
- Dạ, thích chớ anh! Cái không khí đồng ruộng, Cánh bái mát mẻ, dễ chịu đã đành mà tôi cũng thích trồng trọt nữa.
- Chả là B2 mình có một cái lan trồng hoa màu ở ngoài nhung Ràng đấy.' Vòng quanh ba cây số thôi. Ngoài ra các thứ hoa màu mình trồng như rau, đậu, khoai môn, mướp, bí vv.. còn có cá ở đáy và gà rừng thật nhiều. Làm siêng biết cải hoạt, thức ăn đầy đủ gấp mấy lần ở đơn vị. Tôi cũng thích nó hết sức lực nhưng công việc bận rộn nên ít khi nào bùng phát ở chơi.
- Ở dưới đáy, cá gì nhiều, anh Ba?
- Ồ, thiếu gì cả! Nhứt là cá trê, cả lăng, cá mè, cá chạch lấu. Những loại cá khác cũng có nhưng ít hơn.
- Cá sống nhiều, mình ở đây tổ chức đi cắm câu mỗi đêm không nhẹ lắm lắm anh!
- Câu thì đơn vị mình còn thiếu gì. Đồng chí quản lý B2 mình có mua nhiều rêu câu lắm. Vậy thì...
Ba Biếu liên tục, nhìn tôi:
- Vậy thì... ngày mai anh ra Rào cho biết, anh Hùng nhe! Anh tha hồ đi câu. Anh gặp ông quản lý hỏi xin phong câu đi.. Trước khi nhận công tác mới, anh cũng nên đi chơi cho nó thoải mái, cho nó quen khí hậu núi rừng.
Tôi đã hiểu giai đoạn mới bắt đầu với tôi rồi đây! Người ta muốn đưa tôi đi làm công tác lao động để cải thiện tư tưởng, thử thách sức chịu đựng và phản hồi của tôi ra sao. Thủ trưởng của tôi thông minh thật sự. Nói chuyện toàn những việc làm đâu rồi nhắc đến những cái thú, đời sống nhà hạ ở Cánh bái để sau cùng mời tôi ra Rổ chơi. Ra rải để câu cá, để không gây ảnh hưởng trong lành. Ra rải để chơi mà! Ôi, thú biết bảo!
Sáng hôm sau, ăn xong nửa ly khoai mì, tôi yên tĩnh thu đồ đồ, quần áo, đồ dùng bỏ vào bồng bềnh và đến nhà quản lý xin ba vòng ngọc câu với năm thứ bảy kích thước bằng nylon. Mười phút sau, Sơn, một chiến sĩ ở tiểu đội quản trị và Hoa, chị nuôi của đơn vị, đầu đội nón vải xanh, eo mang bồng bềnh đến gặp tôi để chờ tôi ra sóng.
Tôi hét cười, chào Ba Biếu, Bảy Cảnh báo rồi bước ra sân nhập bọn. Bảy Cảnh cũng cười lại:
- Chà! Anh ra ít hôm nay cũng có những điều chưa biết khác cho coi! Mập mạp, hồng hào, lên cân như lực sĩ là chắc! Câu được nhiều cá, nhớ ăn dùm gợi tôi ở nhà với nghe l
Tôi vã mồ hôi nhanh theo Sơn, ra khỏi cổng chiến đấu. Không biết Sơn đarg nghĩ gì nói với tôi:
- Thủ trưởng mình bình dân lắm đó. Anh Ba với anh Bảy là người có thể cao cấp ở miền Bắc xã hội. Ông nào cũng thiếu tá không, bình thường, dễ gặp điều gì.
Tôi lười biếng nhưng cũng cố gắng bước theo Sơn.
Bóng Tối Đi Qua Tập 1 Bóng Tối Đi Qua Tập 1 - Kim Nhật Bóng Tối Đi Qua Tập 1