"It's very important that we re-learn the art of resting and relaxing. Not only does it help prevent the onset of many illnesses that develop through chronic tension and worrying; it allows us to clear our minds, focus, and find creative solutions to problems.",

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Michel Benoît
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Nguyen Thanh Binh
Upload bìa: hoang viet
Số chương: 12
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1719 / 58
Cập nhật: 2015-12-21 16:42:53 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3
ối đó, ngồi trong văn phòng mình, đức cha tu viện trưởng sắp bị cơn nóng giận cuốn đi.
Ông đã yêu cầu được nói chuyện với Hồng ý giáo chủ Catzinger, ở Roma, nhưng đường dây số 390 dường như đã bị tắc nghẽn. Cuối cùng, giọng nói êm dịu của viên giáo sĩ cấp cao cũng vang đến tai ông.
- Tôi hy vọng không quấy rầy ngài, thưa Đức Hồng y… Tôi quyết định xin ngài cho tôi lời khuyên, và có thể là giúp đỡ tôi, về chuyện vị tu sĩ mà chúng ta đã từng nói đến… Cha Nil, giảng viên chú giải Kinh thánh ở học viện. Ngài hẳn còn nhớ tôi đã báo cho ngài… Vâng, đúng thế. Thời gian gần đây tôi nhận thấy có sự thay đổi đáng kể trong thái độ ông ấy. Trước đây ông ấy luôn là một thầy tu rất chuyên cần, vô cùng chú ý trong các giờ lễ. Từ sau cái chết của cha Andrei đáng thương, ông ấy không còn như thế nữa. Và một sự việc chưa từng có vừa xảy ra: trong khi chức vụ thủ thư còn bỏ ngỏ, tôi tự mình giám sát các cuốn sách được mượn trong thư viện của chúng tôi. Thế là, sáng sớm nay, tôi đã quan sát được cha Nil lấy cắp một tác phẩm nhạy cảm trong thư viện cánh Bắc. Xin lỗi ngài? À vâng, đó là bản thảo M M M nổi tiếng của người Mỹ…
Ông phải đưa ống nghe ra xa tai. Đường dây riêng của Vatican, vốn quen với những lời êm dịu, truyền đi trung thực cơn tức giận của Hồng y:
- Tôi chia sẻ nỗi lo lắng của ngài, thưa Đức hồng y. Ngài sẽ nhận được ngay một ít các ghi chép mà chính cha Nil đã thảo ra coi như để làm mẫu… Vâng, tôi đã lấy được một số tờ. Như vậy ngài có thể xem xét có cần áp dụng một số biện pháp không, hay chúng ta có thể để cha Nil thân mến được yên tĩnh tiếp tục các công trình khoa học của mình. Ngài sẽ đích thân phụ trách công việc này? Cảm ơn Đức Hồng y… Arrivederci, thưa Đức Hồng y.
Với một tiếng thở dài nhẹ nhõm, đức Cha tu viện trưởng gác máy. Ông đã không hào hứng lắm khi chấp nhận mua một tác phẩm nguy hiểm như tập bản thảo M M M nhưng làm sao có thể chiến đấu chống lại những trận tấn công của đối thủ nếu không biết vũ khí của chúng?
Ông tự biết mình phải có trách nhiệm trước Chúa về các tu sĩ của mình, cả về cuộc sống tâm linh lẫn cuộc sống trí tuệ của họ và xâm phạm đến hai lần chốn riêng tư thiêng liêng trong phòng của một trong những con chiên của mình là điều ông không hề muốn.
Trong văn phòng của mình ở Vatican, Emil Catzinger đưa ngón tay giận dữ ấn lên một nút trên điện thoại.
- Chuyển máy cho tôi nói chuyện với Đức ông Calfo. Đúng, ngay lập tức. Tôi quá biết chứ, giờ đang là tối thứ Bảy! Chắc chắn ông ấy đang ở căn hộ của mình trong khu lâu đài San Angelo. Tìm ông ấy đi.
27
Bàn tay cha Nil run run. Ông vừa kéo ra khỏi bìa cuốn sách của cha Andrei một mảnh giấy phô tô. Ông đưa nó sát vào đèn, và ngay lập tức nhận ra lối viết thanh lịch của tiếng Ai Cập cổ.
Một bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ.
Hoàn toàn có thể đọc được, đó là bản sao chụp một mảnh giấy da trong tình trạng tốt. Cha Nil rất hay được xem xét những kho báu mà cha Andrei lấy ra từ tủ của mình để đưa cho ông chiêm ngưỡng. Ông đã quen với lối viết của những bản thảo quan trọng ở Nag Hamadi, do nhà Ai Cập học Jean Doresse đối chiếu lần đầu tiên sau khi được phát hiện vào năm 1945 trên bờ trái sông Nil đoạn trung lưu. Vốn đã quen với các bản thảo bằng tiếng Hebrew hoặc Hy Lạp, ông biết rằng thuật viết chữ vận động theo thời gian, và luôn có xu hướng đơn giản hoá.
Chữ viết trên mảnh giấy da này cùng kiểu với chữ viết của các ngụy tác nổi tiếng như kinh Phúc âm theo Thánh Thomas vào cuối thế kỷ II, tác phẩm đã thu hút sự quan tâm của toàn thế giới. Tuy nhiên, rõ ràng là kiểu chữ này xuất hiện muộn hơn.
Vì có kích thước rất nhỏ nên mảnh giấy da này hẳn đã bị Doresse đánh giá là không mấy hấp dẫn hoặc khó hiểu và đã từ bỏ nó. Và cuối cùng, giống như biết bao bản thảo khác, nó đã hạ cánh xuống Roma. Để rồi một ngày được một nhân viên của Thư viện Vatican khai quật, và gửi đến tu viện. Là chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực này, cha Andrei thường nhận được những văn bản kiểu như vậy để phân tích.
Cha Nil biết rằng các ngụy tác ở Nag Hamadi xuất hiện vào các thế kỷ II và III, và từ thế kỷ IV, không có gì được viết ra từ ngôi làng Ai Cập cổ này nữa. Như vậy, mảnh giấy da muộn màng này có vào cuối thế kỷ III.
Một bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ vào thế kỷ III.
Đây có phải là bản thảo đã khiến cha Andrei bối rối đến mức không dám gửi báo cáo cuối cùng của mình về Roma? Nhưng tại sao ông ấy lại cẩn thận cất giấu bản phô tô này như vậy thay vì xếp vào tủ của mình cùng những bản thảo khác?
Cha Andrei không còn ở đây để trả lời những câu hỏi của ông. Cha Nil gục đầu vào lòng bàn tay và nhắm mắt lại.
Ông như lại nhìn thấy dòng đầu tiên trên mảnh giấy mà ông phát hiện trong bàn tay của người bạn: Bản thảo tiếng Ai Cập cổ (Apoc). Ngay lúc đó, ông đã dịch Apoc thành "apocalypse" – Khải Huyền: đó là cách viết tắt truyền thống trong các ấn bản Kinh Thánh. Cha Nil muốn xác minh lại, và mở bản dịch gần đây nhất của Kinh Thánh Công giáo mà cha Andrei sử dụng ra. Trong bản dịch mới và được dùng như tài liệu tham khảo này, tên viết tắt của Apocalypse không còn là Apoc nữa, mà là Ap.
Là người luôn tường tận mọi chuyện, lại tỉ mỉ, nếu có ý định ám chỉ đến cuốn sách về kinh Khải Huyền, có lẽ cha Andrei sẽ viết Ap, chứ không phải Apoc. Thế thì ông ấy đã nghĩ đến cái gì?
Đột nhiên, cha Nil hiểu ra: (Apoc) không phải để chỉ "apocalypse", kinh Khải Huyền, mà là "apocryphe": ngụy tác!
Điều cha Andrei muốn nói là: "Mình phải nói với cha Nil về một bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ mà mình đã cất giấu trong cuốn sách in các ngụy tác của mình ngay trước khi đi". Đó chính là cuốn sách ông đã lấy trong văn phòng ông ấy sáng nay và bây giờ ông đang cầm trong tay. Một bản thảo có nội dung quan trọng đến mức ông ấy muốn nói với ông ngay lập tức, sau khi từ Vatican trở về.
"Đây là bản thảo bằng tiếng Ai Cập cổ từ Roma gửi đến!"
Giữa các ngón tay mình, cha Nil đang giữ văn bản đã dẫn đến việc triệu tập viên thủ thư của tu viện Saint-Martin.
Ông lại cầm mảnh giấy lên và quan sát nó thật gần. Mảnh giấy da rất nhỏ: cha Nil không phải là chuyên gia về tiếng Ai Cập cổ nhưng có thể đọc nó không chút khó khăn, và chữ viết rõ ràng đến nỗi ông không gặp vấn đề gì trong việc nhận mặt chữ.
Liệu ông có dịch được không? Một bản dịch thanh thoát thì chắc chắn là không thể. Nhưng một bản dịch chuyển chữ, theo kiểu mổ cò một cách phỏng chừng thì có thể. Tra từng từ trong từ điển, rồi ghép chúng với nhau: ý nghĩa của văn bản sẽ hiện ra.
Ông đứng dậy. Sau một lát ngập ngừng, ông đặt mảnh giấy quý giá lên phía trên tấm ván mà các tu sĩ dùng làm tủ quần áo rồi bước ra hành lang. Hẳn là người ta sẽ không viếng thăm phòng của ông trong vài phút vắng mặt mà ông đang cần.
Ông nhanh chóng đi về phía thư viện duy nhất ông có quyền vào: Khoa học Kinh Thánh.
Trên kệ sách đầu tiên, nơi xếp những tác phẩm thường được sử dụng nhất, ông tìm thấy cuốn từ điển từ nguyên Ai Cập cổ - tiếng Anh của Cerny. Ông lấy cuốn sách, đặt vào chỗ của nó một bóng ma có tên mình, rồi trở về phòng, tim đập thình thịch. Mảnh giấy quý giá vẫn nằm ở nơi ông đã đặt nó.
Tiếng chuông đầu tiên của giờ kinh chiều tối vang lên: ông đặt cuốn từ điển lên bàn, nhét mảnh giấy vào túi áo trong và đi xuống nhà thờ.
Một đêm không ngủ nữa đang chờ đón ông.
28
Thư của các Tông đồ, thư gửi tín hữu xứ Galatia, năm 48
- Abbou, cha không thể để mặc họ làm mà không nói gì!
Mười tám năm đã trôi qua kể từ khi Jesus chết. Đứng bên người môn đồ cưng, Iokhanân sôi lên vì sốt ruột. Đại diện của những người "Cơ Đốc" – như người ta gọi họ từ một thời gian trở lại đây – vừa hội họp lần đầu tiên tại Jerusalem, nhằm khơi sạch ung nhọt: cuộc chiến giữa các tín đồ "Do Thái", những người không chịu từ bỏ các quy định của Pháp luật – đặc biệt là phép cắt bì với người "Hy Lạp", những người không muốn duy trì thủ thuật này mà mong muốn một vị chúa mới cho một tôn giáo mói. Một vị chúa có thể là Jesus, được đặt lại tên là "Chirst": ý tưởng này bắt đầu được lan truyền rộng rãi, mọi người thì thào với nhau về nó ngày càng nhiều.
Cuộc chiến tư tưởng này che giấu một cuộc chiến khốc liệt để giành vị trí cao nhất: cuộc chiến giữa những người Do Thái sùng đạo đi theo Jacques, em út của Jesus, cũng là một ngôi sao đang lên, với các học trò của Peter – phe chiếm đa số mà thủ lĩnh già này duy trì bằng bàn tay sắt. Và chống lại họ là tất cả những người Hy Lạp theo Paul, một nhân vật mới xuất hiện đang mơ ước biến ngôi nhà nhỏ do các tông đồ xây dựng thành một công trình mang tầm vóc thế giới. Họ lăng nhục nhau, văng vào mặt nhau những lời thoá mạ khủng khiếp – em trai giả mạo, kẻ tiếm vị, gián điệp, thậm chí suýt đến chỗ đánh nhau.
Giáo hội Cơ Đốc đang hình thành tổ chức hội nghị Giám mục đầu tiên ở Jerusalem, thành phố giết hại các nhà truyền giáo.
- Hãy nhìn họ xem, Iokhanân! Họ đánh nhau quanh một xác chết, và chỉ nghĩ đến việc chia cắt danh tiếng của Người!
Chàng trai trẻ có mái tóc quăn nắm lấy cánh tay ông.
- Chính cha là người đầu tiên gặp Jesus, trước tất cả bọn họ. Cha phải nói, abbou!
Ông thở dài, đứng lên. Mặc dù đã tách mình khỏi nhóm Mười hai, nhưng uy tín của người đàn ông này vẫn còn rất lớn. Tất cả mọi người im lặng và quay về phía ông.
- Từ hôm qua, tôi nghe các vị diễn thuyết dông dài, và tôi có cảm giác mọi người đang nói về một Jesus khác chứ không phải người tôi biết. Mỗi người tái tạo Người theo cách của mình: những người này thì muốn Người chỉ là một người Do Thái sùng đạo, những người khác muốn biến người thành một vị thánh. Tôi đã tiếp Người ở bàn ăn nhà tôi, và chúng tôi đã có mười ba người ngồi quanh Người tối đó, trong căn phòng lớn ở nhà tôi. Nhưng ngày hôm sau, tôi là người duy nhất nghe tiếng đóng đinh, nhìn thấy mũi giáo, chứng kiến cái chết của Người. Tất cả vị đều trốn hết. Tôi làm chứng người đàn ông này không phải là môt vị chúa: Chúa không chết, Chúa không phải chịu đựng cảnh hấp hối mà Người đã phải trải qua trước mắt tôi. Tôi cũng là người đầu tiên đến mộ Người vào cái ngày người ta thấy nó trống rỗng. Và tôi biết điều gì đã xảy đến với thi thể bị hành hình của Người, nhưng tôi sẽ không nói gì nhiều hơn ngoài chuyện từ giờ trở đi, sa mạc là nơi che chở Người.
Một loạt những lời nguyền rủa ngăn cản ông nói tiếp. Một số người vẫn ngần ngại chấp nhận thiên chất của Jesus, nhưng tất cả đều thống nhất nói rằng Người đã phục sinh từ cõi chết. Ý tưởng về sự phục sinh thu hút đám đông, họ tìm thấy ở đó phương tiện giúp họ chịu đựng một cuộc sống vốn không chút hy vọng. Phải chăng ông ta, người chỉ có ít học trò, muốn xua đuổi hàng nghìn người cải đạo, buộc họ phải tay không trở về nhà mình?
Trước mặt ông, những nắm tay giương lên.
"Họ muốn sử dụng Jesus để phục vụ cho tham vọng của họ ư? Cứ để họ làm thế mà không có ta". Ông tựa vào vai Iokhanân và đi ra.
Iokhanân mới chỉ là một cậu bé khi quân lính La Mã phá huỷ Séphoris, thủ phủ của vùng Galilee. Cậu đã nhin thấy hàng nghìn giá chữ thập được dựng lên trên đường phố, và những người bị đóng đinh câu rút dần hấp hối dưới ánh mặt trời. Một hôm, chúng đến tìm cha cậu: cậu kinh hoàng thấy cha bị quất roi vào người, rồi bị đặt nằm lên một cái xà gỗ. Những nhát búa nện lên đinh dội vào tận ngực cậu, cậu thấy máu bắn ra từ cổ tay, nghe tiếng thét đau đớn của cha. Khi chúng dựng giá chữ thập dưới bầu trời vùng Galilee, cậu bất tỉnh; mẹ cậu bọc cậu trong một chiếc khăn san, và trốn về nông thôn ẩn náu.
Từ đó trở đi, đứa trẻ không chịu nói. Nhưng đêm đến, trong giấc ngủ chập chờn, cậu liên tục nhắc đi nhắc lại: "Abba! Cha!"
Khi cậu tỉnh lại, hai mẹ con đến sống ở Jerusalem. Theo lời nguyện của người Nazareth, mẹ cậu dâng cậu cho Chúa: cậu sẽ không cắt tóc nữa. Từ đó trở đi, cậu là một người Do Thái sùng đạo, nhưng cậu vẫn không nói.
Sau đó, giống như mọi người trong thành phố, cậu biết về chuyện Jesus bị đóng đinh câu rút. Nỗi kinh hoàng của cậu trước cảnh hành hình trên giá chữ thập lớn đến nỗi cậu xua đuổi Người ra khỏi trí nhớ của mình. Cậu mong chờ một Đấng Cứu thế, người sẽ sớm xuất hiện, và không thể là Jesus: Đấng Cứu thế không bao giờ để mình bị đóng câu rút. Đấng Cứu thế sẽ mạnh mẽ, để đánh đuổi người La Mã và khôi phục lại vương quốc của vua David.
Rồi sau đó, cậu đã gặp người đàn ông vùng Judee này, một người cũng dè dặt như cậu, người đã nhìn nhận sự câm lặng của cậu một cách thân thiện, không tỏ ra ngạc nhiên. Người nói về Jesus như đã từng sống rất gần Người, dường như ông biết rõ Người từ bên trong tâm hồn. Khi mẹ cậu chết, người đàn ông yêu mến Thầy nhường ấy, người tự nhận mình là môn đồ cưng của Người, đã đón cậu về nhà. Ông đã trở thành abbou, người cha của tâm hồn cậu.
Một hôm, để ông biết rằng cậu đã hiểu về thế giới mới mà Jesus khám phá ra, Iokhanân lấy kéo cắt ngắn những bím tóc dài của mình. Vừa làm, cậu vừa nhìn chăm chăm vào abbou, vì cậu vẫn không nói mà chỉ thể hiện bằng hành động.
Thế là người môn đồ cưng lấy ngón tay cái đánh dấu lên trán, lên môi và lên trái tim cậu một chữ thập vô hình. Iokhanân cũng hiểu điều này, lặng lẽ thè ra chiếc lưỡi nơi dấu vết kinh hoàng vẫn còn in rõ.
Đêm tiếp theo, lần đầu tiên cậu ngủ mà không hất tấm chăn bằng len thô ra. Và ngày hôm sau, lưỡi cậu lại bắt đầu nói để diễn đạt sự dào dạt trong tâm hồn đã được Jesus chữa lành của cậu.
Đến gần nhà mình, người môn đồ cưng đặt bàn tay lên vai cậu.
- Iokhanân, tối nay con đến gặp Jacques, em trai của Jesus. Nói với ông ấy là ta muốn gặp. Bảo ông ấy đến nhà ta.
Chàng trai trẻ gật đầu, và nắm lấy bàn tay của abbou trong tay mình.
29
Khi cha Nil đặt cuốn từ điển xuống mặt bàn chất đầy sách vở, đêm đã về khuya. Ông cảm thấy giờ đây mình cách xa biết bao với hội nghị Giám mục bi thảm ở Jerusalem, mặc dù chỉ mấy ngày trước ông còn đang tìm hiểu các diễn biến của nó! Thế nhưng chính là ngày đó, mười tám năm sau khi Jesus chết, hẳn là người môn đồ cưng đã thực sự bị loại khỏi Giáo hội đang hình thành.
Ông đã có thể dịch được mảnh giấy da tìm thấy trong cuốn sách do bạn ông biên tập. Chỉ có hai câu ngắn, dường như không có mối liên hệ nào với nhau:
Nguyên tắc đức tin của mười hai tông đồ
chứa đựng mầm mống phá huỷ nó
Bức thư phải bị huỷ bỏ khắp nơi
Để nơi ở còn ở lại.
Cha Nil đưa tay xoa trán: điều này có ý nghĩa gì?
"Nguyên tắc đức tin của mười hai tông đồ": ở thời Cổ đại, đây là cách người ta gọi Tín điều Nicée, Tín điều của các Giáo hội Cơ Đốc. Điều mà họ đã thấy khắc ở Germigny, điều đã khiến cha Andrei phải suy nghĩ nhiều đến thế. Còn cụm từ "mầm mống phá hủy" mà Tín điều này chứa đựng là gì? Điều này chẳng có ý nghĩa gì cả.
"Bức thư phải bị huỷ bỏ ở khắp nơi": từ Ai Cập cổ mà ông vừa dịch thành "bức thư" cũng là từ chỉ những bức thư của Thánh Paul trong kinh Tân ước. Liệu có phải là một trong những bức thư này không? Giáo hội chưa bao giờ cấm bất cứ bức thư nào của Thánh Paul. Phải chăng bản thảo này do một nhóm người Cơ Đốc ly khai soạn ra?
Dòng cuối cùng đặt ra cho cha Nil một vấn đề khác: "để nơi ở còn ở lại". Từ điển đưa ra nhiều nghĩa, "nơi ở" hoặc "nhà" thậm chí là "hội". Điều chắc chắn ở đây là cùng một gốc ký tự Ai Cập cổ được dùng hai lần liên tiếp. Như vậy là có sự cố tình chơi chữ ở đây: nhưng đó là gì?
Ông vừa dịch nghĩa các từ, nhưng không phải ý nghĩa của cả thông điệp này. Cha Andrei có hiểu được ý nghĩa đó không? Và ông ấy đã tìm ra được mối liên hệ nào giữa thông điệp này với các chỉ dẫn khác trong mảnh giấy ông ấy để lại trước khi chết?
Viên thủ thư đã chết sau khi được triệu tập về Roma để báo cáo về bản dịch của mình. Bốn dòng chữ này có liên quan gì tới việc ông đột ngột mất hay không?
Cha Nil đang phải đối mặt với một ván cờ mà các quân cờ nằm rải rác không theo trật tự nào. Cha Andrei đã kiên nhẫn tập hợp những quân cờ này lại trước ông. Và khi từ Roma trở về, trên tàu, ông đã viết: ngay lập tức. Như vậy, khi ở bên ngôi mộ của tông đồ, ông ấy đã có một phát hiện mang tính quyết định – nhưng đó là gì?
Đối với ông, sẽ không còn gì giống như trước đây nữa. Ông phải xem xét lại cả cuộc đời mình chăng? Có thể tự coi mình là người Cơ Đốc nữa không nếu nghi ngờ về thiên chất của Jesus?
Đêm còn lại vài giờ nữa. Cha Nil tắt đèn và đi nằm trong bóng tối.
"Chúa trời, chưa ai từng nhìn thấy Người. Còn Jesus, dù Người không phải là Chúa trời, vẫn là con người hấp dẫn nhất mình từng gặp. Không, mình đã không nhầm khi dâng hiến cả cuộc đời cho Người".
Vài phút sau, cha Nil, tu sĩ dòng Benedict, người đang nắm giữ những bí mật quá nặng nề, chìm vào giấc ngủ đầy tin tưởng.
30
- Mời Đức ông ngồi.
Khuôn mặt như búp bê của Hồng y Giáo chủ, được bao quanh bởi một mái tóc bạc trắng, đang có vẻ lo lắng. Ông đưa mắt nhìn Calfo, người vừa thở dài vừa ngồi xuống chiếc ghế rộng.
Emil Catzinger ra đời cùng thời điểm với chủ nghĩa phát xít. Giống như tất cả trẻ em cùng độ tuổi khác, dù không muốn, ông vẫn phải gia nhập Đội thiếu niên của Hitler. Sau đó, ông đã dũng cảm tách xa Quốc trưởng, thoát khỏi những vụ thanh trừng của Gestapo. Nhưng con người ông vẫn in đậm dấu ấn của những điều đã nhận được thời thơ ấu.
- Cảm ơn ông vì đã ngừng các hoạt động tối thứ Bảy của mình lại.
Hội trưởng, người vừa bỏ rơi cô gái Rumani ngay giữa một hành trình đặc biệt hứa hẹn, gật mạnh đầu.
- Phụng sự Giáo hội, thưa Đức Hồng y, là công việc không có thời hạn cũng không có giờ giấc!
- Đúng thế. Tốt, xem nào … Chiều nay tôi vừa có một cuộc trao đổi qua điện thoại với Cha tu viện trưởng của tu viện Saint-Martin.
- Một giáo sĩ cấp cao tuyệt vời, xứng đáng về mọi mặt với niềm tin mà ngài trao cho ông ấy.
- Ông ấy cho tôi biết rằng cha Nil đó, người chúng ta từng nói đến, đã lấy cắp trong một thư viện mà ông ta không được phép tiếp cận, một tập tài liệu do bọn ly khai xuất bản.
Calfo chỉ nhướng một bên lông mày lên.
- Và ông ấy vừa fax cho tôi một mẫu trong số các ghi chép cá nhân của ông ta, chúng khiến tôi hết sức bận lòng. Rất có khả năng ông ta sẽ đến được gần bí mật mà Giáo hội rất thánh của chúng ta và Hội Thánh Pie V của các ông đang phải kiên cường gìn giữ.
- Ngài có nghĩ rằng ông ta đã tiến xa trên con đường nguy hiểm này không?
- Tôi còn chưa biết gì cả. Nhưng ông ta rất gần gũi với cha Andrei, ông này lại đã tiến rất xa trên con đường cấm kỵ này. Ông biết điều gì đang đe doạ ở đây: chính là sự tồn tại của Giáo hội Công giáo. Chúng ta phải biết điều mà cha Nil biết. Ông có đề xuất gì không?
Calfo nở một nụ cười thoả mãn, hơi ngả người ra sau, rút từ trong áo dòng ra một chiếc phong bì và đưa cho Hồng y Giáo chủ.
- Nếu Đức Hồng y muốn xem qua cái này… Ngay khi ngài nói với tôi về cha Nil này, tôi đã yêu cầu các anh em trong Hội tiến hành một cuộc điều tra kép. Đây là kết quả thu được, và có lẽ có thể trả lời cho câu hỏi của ngài.
Catzinger lấy từ phong bì ra hai tập hồ sơ có in chữ confidenziale. 1
- Hãy xem hồ sơ đầu tiên này… Ngài sẽ thấy rằng cha Nil đã có thời gian học tập rất xuất sắc tại trường đại học dòng Benedict ở Roma. Rằng đó là một… nói thế nào nhỉ, một người lý tưởng chủ nghĩa, hay nói cách khác ông ta không có chút tham vọng cá nhân nào. Một thầy tu luôn tuân thủ kỷ luật, chỉ tìm kiếm niềm vui trong việc nghiên cứu và cầu nguyện.
Catzinger chăm chú nhìn vào mặt ông ta qua phía trên cặp kính.
- Calfo thân mến của tôi, với ông, tôi không cần phải nói rằng những kẻ nguy hiểm nhất chính là những kẻ lý tưởng chủ nghĩa. Arius là một người lý tưởng chủ nghĩa, Savonarole và Luther cũng vậy… Một con chiên tốt của Giáo hội tin vào các giáo lý mà không đặt ra việc xem xét lại chúng. Bất kỳ lý tưởng nào khác đều có thể vô cùng gây hại.
- Certo, Eminenza 2. Khi học ở Roma, ông ta có quan hệ bạn bè với một tu sĩ dòng Benedict người Mỹ: Rembert Leeland.
- Này, này! Anh chàng Leeland của chúng ta phải không? Chuyện này thú vị đấy!
- Đúng là Đức ông Leeland. Tôi đã lấy hồ sơ của ông ta – tập hồ sơ thứ hai. Trước hết và trên tất cả là nhạc sĩ, tu sĩ ở hạt Kentucky tại tu viện St.Mary, nơi có một học viện âm nhạc. Đã được bầu làm tu viện trưởng. Sau đó, vì thể hiện một số quan điểm gây nhiều tranh luận…
- Đúng, tôi biết đoạn sau, giai đoạn tôi đã là chủ tịch Cơ quan truyền bá đức tin rồi. Ông ta được bầu làm Giám mục in partibus 3 sau đó được phái đến Roma theo nguyên tắc tuyệt vời promoveatur ut amoveatur 4. Ồ, ông ta không thực sự nguy hiểm đâu: chỉ là một nhạc sĩ thôi mà! Nhưng khi đó phải dập vụ tai tiếng do những tuyên bố công khai của ông ta về chuyện linh mục kết hôn gây ra. Hiện ông ta đang là thư lại ở đâu đó, đúng không?
- Ở Văn phòng Quan hệ với người Do Thái, sau khi ở Roma, ông ta đã ở Israel hai năm, ở đó ông ta nghiên cứu về âm nhạc nhiều hơn về tiếng Hê brơ. Hình như Leeland là một nhạc công piano tuyệt vời.
- Thế thì sao?
Calfo nhìn vào mặt người đối thoại với vẻ thương hại.
- Sao cơ ạ, Eminenza, ngài không thấy gì sao?
Ông cố kìm nén mong muốn điên rồ là được châm điếu xì gà đang làm biến dạng chiếc túi trong của ông. Hồng y Giáo chủ không hút thuốc, cũng không uống rượu. Nhưng Hội Thánh Pie V sở hữu một hồ sơ đầy những chữ thập ngoặc về quá khứ của ông, là thứ bảo đảm cho sự an toàn của hội trưởng.
- Chừng nào cha Nil còn ở Saint-Martin, chúng ta sẽ không thể biết được những điều ông ta nghĩ trong đầu. Ông ta phải đến đây, đến Roma này. Nhưng ông ta sẽ không thổ lộ điều gì trong văn phòng của tôi lẫn văn phòng của Ngài, thưa Đức Hồng y. Ngược lại, dưới một cái cớ nào đó, hãy để ông ấy gặp gỡ ông bạn Leeland của mình, hãy để họ có thời gian nói chuyện cởi mở với nhau. Giữa nghệ sĩ và người sùng tín, họ sẽ tâm sự với nhau những điều bí mật.
- Cái cớ đó có thể là gì?
- Leeland quan tâm đến các loại âm nhạc cổ còn hơn là các vụ việc của người Do Thái. Chúng ta sẽ phát hiện ra rằng đột nhiên ông ta cần đến sự trợ giúp của một chuyên gia về các văn bản cổ.
- Và ông tin rằng ông ta sẽ… hợp tác?
- Đó là việc của tôi. Ngài biết rằng chúng ta đang nắm giữ ông ta: ông ta sẽ hợp tác.
Một lát im lặng. Catzinger cân nhắc cái được và cái mất. "Calfo là người Napoli. Quen với những thủ đoạn ngoắt nghoéo. Không ngốc".
- Đức ông ạ, tôi giao toàn quyền cho ông. Hãy thu xếp để triệu tập anh chàng James Bond chuyên chú giải Kinh Thánh đến đây. Và hãy làm thế nào để ông ta trở nên ba hoa.
Khi ra khỏi Cơ quan truyền bá đức tin, Calfo thoáng thấy một tấm thảm dày những tờ tiền xanh sẽ đổ vào lâu đài San Angelo. Catzinger tưởng mình biết rõ tất cả mọi việc, nhưng ông ta lại không biết điều mấu chốt. Chỉ có ông, Alessandro Calfo, thằng bé khốn khổ trở thành hội trưởng của Hội Thánh Pie V, là có được cái nhìn toàn diện.
Chỉ có mình ông biết cách trở nên hiệu quả. Dù có phải sử dụng cùng những phương tiện đã khiến các Hiệp sĩ dòng Đền bị thiêu sống ở châu Âu vào thế kỷ XIV.
Có thể họ không biết điều này, nhưng Philippe le Bel và Nogaret đã cứu cả phương Tây. Ngày nay, đến lượt ông và Hội thánh Pie V đảm nhiệm sứ mệnh đáng sợ này.
31
Jerusalem, năm 48
- Cảm ơn anh đã đến nhanh chóng như vậy, Iakôv.
Người môn đồ cưng gọi Jacques bằng họ của ông theo tiếng Hê brơ. Mặt trời buổi hoàng hôn chiếu sáng mái che của ngôi nhà bằng thứ ánh sáng màu vàng hung, họ chỉ có hai người với nhau. Em trai của Jesus đã bỏ bùa chữ 5 ra, nhưng vẫn còn quấn khăn choàng dùng khi cầu nguyện. Ông có vẻ khiếp sợ.
- Hôm qua, Paul đã quay về Antioche, suýt nữa thì hội nghị Giám mục đầu tiên của Giáo hội kết thúc một cách tồi tệ. Tôi đã phải áp đặt một thoả hiệp, Peter ra đi với tinh thần rất sa sút. Ông ta căm thù anh, cũng như căm thù tôi.
- Peter không phải là người độc ác. Cuộc gặp gỡ với Jesus đã khiến ông ta phải đột ngột đối mặt với số phận nghèo khổ của mình. Ông ta từ chối quay lại phía sau, và ghét tất cả những ai có thể cướp đi vị trí cao nhất của ông ta.
- Tôi là em của Jesus. Nếu một trong hai chúng tôi phải biến mất, thì người đó sẽ là ông ta. Ông ta phải đi nơi khác để xác lập vị trí đứng đầu của ông ta!
- Ông ta sẽ đi, Jacques ạ, ông ta sẽ đi. Sau khi Paul xây dựng xong tôn giáo mới mà ông ta mơ ước, nguồn sáng sẽ chuyển từ Jerusalem đến Roma. Cuộc đua quyền lực mới chỉ bắt đầu.
Jacques cúi đầu.
- Từ khi công khai giết chết Ananie và Saphire, Peter không mang vũ khí nữa, nhưng một số người trung thành với ông ta vẫn mang. Hôm qua, tôi đã nghe họ nói chuyện, họ cho rằng anh là người của quá khứ, rằng anh chống đối những người mang lại tương lai. Không thể có một tông đồ thứ mười ba, anh biết điều đó mà. Cuộc sống của anh đang gặp nguy hiểm. Anh không thể ở lại Jerusalem.
- Vụ giết hại Ananie và vợ ông ấy đã xảy ra lâu rồi, và đó là vấn đề tiền bạc. Từ đó trở đi, từ tất cả các nhà thờ ở châu Á, tiền dồn hết về Jerusalem.
- Đó không phải là vấn đề tiền bạc. Anh đang đòi xem xét lại tất cả những điều mà họ tranh đấu. Cùng với Judas, anh là môn đồ mà anh Jesus của tôi yêu mến nhất. Chúng ta biết Peter đã loại bỏ Judas thế nào, cũng như ông ta đã loại trừ những chướng ngại vật trên con đường ông ta đi thế nào. Nếu anh cũng biến mất như Iscariote, thì cả một mảng ký ức sẽ biến mất cùng anh. Anh phải trốn đi, nhanh lên, và có thể đây là lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, vậy thì, tôi xin anh, hãy nói cho tôi biết người Esseni đã chôn xác Jesus ở chỗ nào. Hãy nói cho tôi biết mộ của anh ấy ở đâu!
Người đàn ông này không có tham vọng của Peter, cũng không có thiên tài của Paul: anh ta chỉ là một người Do Thái bình thường, đang hỏi thăm tin tức của anh trai mình. Ông nhiệt tình trả lời:
- Thời gian tôi sống với Jesus ít hơn rất nhiều so với anh, Iakôv ạ. Nhưng điều tôi hiểu về Người thì không ai trong số các anh có thể hiểu được. Về phần anh thì là vì anh gắn bó sâu sắc với đạo Do Thái. Còn Paul thì là vì lúc nào cũng gần gũi với các vị thần trong đạo đa thần của Đế chế La Mã, và luôn mơ ước thay thế họ bằng một tôn giáo mới, dựa trên một Christ được xây dựng lại theo cách của ông ta. Jesus không thuộc về bất cứ ai, anh bạn ạ, không thuộc về những người ủng hộ anh cũng chẳng thuộc về những người ủng hộ Paul. Giờ đây Người đang yên nghỉ trong sa mạc. Chỉ sa mạc mới có thể bảo vệ thi thể Người khỏi những người Do Thái hoặc Hy Lạp tham lam trong Giáo hội mới. Đó là con người tự do nhất tôi từng biết. Người muốn thay thế luật pháp của Moise bằng một luật pháp mới, không phải viết trên những tấm bảng mà viết trong trái tim con người. Một luật pháp không có giáo lý nào khác ngoài giáo lý của tình yêu.
Jacques sầm mặt lại. Không được đụng đến luật pháp của Moise, nó chính là bản chất của Israel. Ông muốn thay đổi chủ đề.
- Anh phải đi. Và hãy dẫn mẹ Marie của tôi đi xa khỏi đây, bà có vẻ rất hạnh phúc khi ở bên anh…
- Chúng tôi rất quý mến nhau, và tôi kính trọng mẹ của Jesus. Mỗi lúc bà ở bên đều là niềm vui của tôi. Anh nói đúng, tôi không còn chỗ cả ở Jerusalem lẫn ở Antioche. Tôi sẽ đi. Ngay sau khi biết có thể dựng chiếc lều du mục của mình ở đâu, tôi sẽ cho đưa bà Marie đến ở với tôi. Trong khi chờ đợi, Iokhanân sẽ làm người liên lạc giữa tôi và bà. Đối với cậu ấy, bà gần như là người mẹ thứ hai.
- Anh định đi đâu?
Người môn đồ cưng nhìn quanh. Giờ đây bóng tối đã bao trùm trên mái che, nhưng cửa sổ căn phòng lớn vẫn còn được ánh hoàng hôn chiếu sáng. Căn phòng đó là nơi ông đã ăn bữa ăn cuối cùng với Jesus cách đây mười tám năm. Ông phải rời bỏ nơi này, nơi giờ đây chỉ còn là một ảo ảnh. Tìm kiếm sự thật ở nơi chính Jesus đã tìm thấy.
- Tôi sẽ đi về phía Đông, về phía sa mạc. Chính trong khi đang ở sa mạc, Jesus đã hoàn thiện phép biến đổi, chính ở đó Người đã hiểu ra sứ mệnh của mình. Tôi thường nghe Người vừa mỉm cười vừa nói rằng Người đã ở giữa những con vật hoang dã và chúng tôn trọng nỗi cô độc của Người.
Ông nhìn thẳng vào mặt em trai Jesus.
- Sa mạc, Jacques ạ… Có thể từ nay trở đi đó là tổ quốc duy nhất cho các môn đồ của Jesus xứ Nazareth. Nơi duy nhất họ được ở nhà mình.
32
Trong lúc cởi bỏ trang phục sau lễ kinh mừng, Cha tu viện trưởng nhận thấy nét mặt căng thẳng và vẻ nhợt nhạt của cha Nil.
Khi ông quay lại văn phòng, chuông điện thoại reo vang.
Hai mươi phút sau, khi gác máy, ông cảm thấy vừa phân vân vừa nhẹ nhõm. Ông đã ngạc nhiên khi nghe đích thân Hồng y Giáo chủ thông báo một vinh dự lớn cho tu viện của ông: Vatican đang cần gấp đến năng lực của một trong số các tu sĩ của tu viện. Một chuyên gia về âm nhạc cổ đang làm việc tại Triều chính Toà Thánh cần được hỗ trợ để tiến hành các công trình nghiên cứu về nguồn gốc của âm nhạc Grégorie. Những nghiên cứu quan trọng, được Đức Thánh Cha đặt rất nhiều hy vọng nhằm cải thiện mối quan hệ giữa Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo. Tóm lại, Roma đang chờ đợi cha Nil đến ngay, để mang khả năng của ông ra phục vụ Giáo hội toàn năng. Ông sẽ chỉ vắng mặt trong vài tuần, và ông sẽ đi chuyến tàu đầu tiên đến Roma, ông sẽ ở San Girolamo, tu viện dòng thánh Benedict tại Roma.
Giống hệt như cha Andrei đáng thương.
Không được tranh luận về những mệnh lệnh của Hồng y Catzinger, Cha tu viện trưởng nghĩ. Và cách hành xử gần đây của cha Nil khiến ông lo lắng. Đối với các vấn đề thì càng cách xa càng tốt.
Đức ông Calfo đã phải tạm ngưng một lát trong ngày Chủ nhật thú vị của mình để lướt qua văn phòng của ông ở ngay gần đó, nhưng vẫn không tiếp cận được người cộng tác của mình tại Cairo. Ông leo lên cầu thang trong căn hộ của mình bằng những bước chân hoạt bát. Điều đang chờ ông trên đó khiến ông quên đi những bất lợi của một người Napoli đẫy đà, và chắp cánh cho ông.
Em dấu yêu đang khỏa thân, và hiểu rõ trái tim tôi,
Nên chỉ giữ lại trên người những trang sức kêu vang.
Thực ra, trang sức duy nhất trên cơ thể Sonia đang thiếp ngủ chính là những ánh phản chiếu trên mái tóc cô. Calfo thích thú: "Thật là một nhà thơ đại tài, cái ông Baudelaire này! Nhưng ta sẽ không bao giờ cho họ đồ trang sức; duy chỉ có tiền mặt thôi."
Moktar nói đúng: Sonia không chỉ tỏ ra hết sức có khiếu trong nghệ thuật tình ái, mà cô còn hoàn toàn kín đáo. Nhân lúc cô đang ngủ, ông nhấc điện thoại và gọi một lần nữa đến Cairo:
- Làm ơn cho gặp Moktar Al-Quraysh … Tôi chờ máy, cảm ơn.
Lần này, người ta đã tìm được hắn: hắn vừa xong buổi cầu kinh ở đền Al-Azhar.
- Moktar? Salam aleikoum 6. Hãy cho tôi biết các học trò của anh có cho anh một chút thời gian rảnh lúc này không? Tuyệt vời. Anh hãy bay đến Roma, và chúng ta sẽ gặp nhau. Tiếp tục nhiệm vụ nhỏ mà tôi đã giao phó cho anh vì chính nghĩa … Vẫn hợp tác với kẻ thù yêu thích của anh à? Không, còn quá sớm, nếu cần anh sẽ liên hệ với anh ta ở Jerusalem. Ồ, cùng lắm là vài tuần thôi! Đúng thế, ở Teatro Marcellus như thường lệ: discrezione, mi racommando! 7
Ông vừa gác máy vừa mỉm cười. Người cộng tác của ông đang phụ trách việc giảng dạy giáo lý kinh Coran tại đại học Al-Azhar nổi tiếng: một kẻ cuồng tín, người bảo vệ dữ tợn của giáo lý Hồi giáo. Khiến một người Ả rập và một người Do Thái, hai điệp viên ngầm thuộc các cơ quan đặc biệt vào loại đáng gờm nhất ở Trung Đông làm việc cùng nhau, để bảo vệ bí mật quý giá nhất của Giáo hội Công giáo: phải nói rằng đó chính là chủ trương giáo hội thế giới.
Chính trong khi làm công sứ của Tòa Thánh ở Cairo, ông đã gặp Moktar Al-Quraysh. Cả nhà ngoại giao và giảng viên giáo lý đều phát hiện ra rằng người kia cũng bị thiêu đốt bởi cùng một ngọn lửa được che dấu bên trong, điều đó đã tạo ra giữa họ một mối liên kết không ngờ đến. Nhưng không giống ông, người đàn ông Palestine này không tìm cách đạt đến mức độ siêu nhiên thông qua các lễ nghi tình ái. Hắn chỉ là một kẻ bị ám ảnh tình dục.
Sonia rên rỉ và mở mắt.
Ông đặt điện thoại lên sàn và nghiêng về phía cô.
33
- Quay lại Roma, Moktar. Hội đồng các Anh em Hồi giáo đã thuyết phục được Fatah về tầm quan trọng của nhiệm vụ này. Những vụ mưu sát của họ không đủ để bảo vệ đạo Hồi nếu bản chất thần khải của kinh Coran bị đưa ra xem xét lại, hoặc nếu nhân thân thiêng liêng của Đấng Tiên tri – cầu cho tên Người được ban phúc – có nguy cơ bị vấy bẩn vì một sự nghi ngờ bóng gió nào, dù là nhỏ nhất. Nhưng có một điều …
Moktar Al-Quraysh mỉm cười: hắn đang chờ đợi điều đó. Nước da nâu, cơ thể săn chắc và vóc người nhỏ bé của hắn lại càng làm nổi bật thêm dáng vóc cao lớn của Mustapha Machlour, thứ được tất cả các sinh viên của đại học Al-Azhar ở Cairo kính trọng.
- Đó là mối quan hệ của anh với người Do Thái kia. Việc anh làm bạn với hắn …
- Anh ta đã cứu mạng tôi trong cuộc chiến Sáu Ngày, vào năm 67. Tôi chỉ có một mình và không hề có vũ khí trước xe tăng của anh ta trong sa mạc, quân đội của chúng ta đang thua chạy tán loạn: anh ta đã có thể chèn lên người tôi, đó là luật của chiến tranh. Nhưng anh ta đã dừng lại, cho tôi uống nước và để tôi được sống. Đó không phải là một người Do Thái như những người khác.
- Nhưng đó là một người Do Thái! Và không phải là bất cứ người nào, anh biết mà.
Họ dừng lại dưới bóng tháp của giáo đường Al-Ghari. Mặc dù đã là cuối tháng Mười một, nhưng làn da mỏng manh của ông già vẫn khó chịu đựng nổi ánh mặt trời thiêu rọi.
- Đừng quên lời Đáng Tiên tri: "Hãy là kẻ thù của người Do Thái và người Cơ Đốc, chúng là bạn bè của nhau! Kẻ nào coi chúng là bạn là tự liệt mình vào với chúng, và Đấng Allah không dẫn dắt một dân tộc tự lừa dối mình." 8
- Ông thuộc kinh Coran hơn bất kỳ ai, Mourchid ạ - hắn dùng danh hiệu "Người dẫn đường tối cao" của ông để thể hiện lòng kính trọng của mình. Chính Đấng Tiên tri cũng đã không ngần ngại liên minh với kẻ thù của mình vì một sự nghiệp chung, và thái độ của Người chính là tiền lệ, kể cả trong trường hợp của Djihad. Cả người Do Thái lẫn người Ả Rập đều không được lợi gì nếu nền tảng lâu đời của Cơ Đốc giáo bị đảo lộn một cách sâu sắc.
Người dẫn đường tối cao mỉm cười nhìn hắn.
- Chúng ta đã đi đến kết luận này trước anh rất lâu, và chính vì thế chúng ta đã để mặc anh hành động. Nhưng đừng quên rằng anh xuất thân từ bộ lạc đã chứng kiến Đấng Tiên tri ra đời – cầu cho tên Người được ban phúc. Vì vậy, hãy cư xử như một người Quraysh, anh đang mang cái họ vinh quang đó. Hãy làm sao để tình bạn đối với người Do Thái này không bao giờ khiến anh quên đi hắn là ai, cùng như hắn làm việc cho ai. Dầu và dấm có thể tạm thời ở cạnh nhau, nhưng chúng không bao giờ trộn lẫn vào nhau.
- Ông hãy yên tâm, Mourchid ạ, dấm của một người Do Thái không bao giờ ngấm được vào một người Quraysh, tôi có làn da bền lắm. Tôi biết người này, nếu tất cả kẻ thù của chúng ta đều giống anh ta, có lẽ hòa bình đã ngự trị ở Trung Đông rồi.
- Hòa bình … Sẽ không bao giờ có hòa bình cho một người Hồi giáo, chừng nào toàn thể trái đất này chưa cúi mình năm lần một ngày trước Qibla chỉ hướng đến Mecca.
Họ rời khỏi cái bóng che chở của tháp giáo đường và lặng lẽ tiến về phía cửa vào giảng đường, mái vòm của tòa nhà sáng rực rỡ dưới ánh mặt trời. Trước khi bước vào bên trong, ông già đặt bàn tay lên cánh tay Moktar.
- Còn cô gái, anh có tin tưởng cô ta không?
- Cô ta ở Roma tốt hơn nhiều so với cái nhà chứa ở Ả Rập Xê út nơi tôi đã lôi cô ta ra! Hiện tại, cô ta đang cư xử tốt. Nhất là cô ta không hề muốn bị gửi trả về gia đình mình ở Rumani. Nhiệm vụ này đơn giản, và chúng ta không sử dụng bất kỳ phương tiện tinh vi nào: chỉ là những phương pháp thủ công cũ kỹ và hiệu quả.
- Bismillah Al-Rach’im. Sắp đến giờ lễ rồi, hãy để ta làm sạch mình.
Bởi vì Người dẫn đường tối cao của Hội đồng các Anh em Hồi giáo, người kế vị của người sáng lập Hội đồng là Hassan Al-Banna, trước đáng Allah cũng chỉ là một muslim – một kẻ phục tùng – giống như mọi người.
Moktar tựa người vào một cây cột và nhắm mắt lại. Có phải là cái vuốt ve của mặt trời không? Hắn sống lại cảnh tượng đó: người đàn ông nhảy ra khỏi xe tăng và tiến về phía hắn, tay phải giơ lên để người phụ trách súng máy không bắn. Xung quanh họ, sa mạc Sinai đã im ắng trở lại, những người Ai Cập thua trận đang trốn chạy. Tại sao hắn vẫn còn sống? Và tại sao người Do Thái này không giết hắn ngay lập tức?
Viên sĩ quan người Israel có vẻ lưỡng lự, khuôn mặt hoàn toàn bất động. Đột nhiên, anh ta mỉm cười, và đưa cho hắn một túi đựng nước. Trong khi uống nước, Moktar nhận thấy một vết sẹo chạy dài bên dưới mái tóc vàng hoe cắt rất ngắn của anh ta.
Nhiều năm sau, phong trào Intifada nổ ra ở Palestine. Trong một con phố nhỏ ở Gaza, Moktar đang vơ vét một khu nhà nát mà những người Israel đang rút chạy bỏ lại trong cơn khốn khó. Hắn bước vào một cái sân bị lựu đạn phá toang: Một người Do Thái ngồi bệt dưới chân một bức tường thấp đang vừa ôm chân vừa rên khe khẽ. Anh ta không mặc đồng phục của Tsahal – chắc đây là một điệp viên của Mossad. Moktar chĩa khẩu Kalachnikov về phía anh ta và sắp sửa bóp cò. Khi nhìn thấy nòng súng chĩa vào ngực mình, gương mặt nhăn nhó vì đau đớn của người Do Thái đó động đậy, và phác ra một nụ cười. Từ tai anh ta, một vết sẹo chạy khuất vào dưới mũ.
Người đàn ông trong sa mạc! Người đàn ông Ả Rập chậm rãi nâng nòng súng lên. Khạc đờm và nhổ xuống trước mặt. Thò tay trái vào trong áo sơ mi, và vứt cho người Do Thái một túi bông băng cứu thương.
Rồi quay lưng đi và ra lệnh ngắn gọn cho quân của mình: tiến lên, chẳng có gì cũng không có người nào trong căn nhà tồi tàn này.
Moktar mỉm cười: Roma là một thành phố đẹp, đầy gái. Chắc chắn là nhiều hơn ở sa mạc.
Hắn sẽ quay lại Roma. Rất sẵn lòng.
34
Ba ngày sau, cha Nil cố lựa tư thế cho thích hợp với những chiếc ghế ngồi thiếu tiện nghi trên đoàn tàu Roma Express.
Ông đã sửng sốt khi biết mình bị triệu tập đến Roma mà không có lời giải thích nào. Những bản thảo âm nhạc cổ! Cha tu viện trưởng đã đưa cho ông tấm vé tàu chuyến ngày hôm sau, không thể quay lại Germigny để chụp ảnh phiến đá một lần nữa. Trong khi sắp xếp các tài liệu – vì không thể để lại bất cứ thứ gì có hại trong phòng mình – ông đã nhét xuống đáy va li cuộn phim lấy được trong văn phòng của cha Andrei. Liệu ông có thể rút ra được điều gì từ đó không?
Ông ngạc nhiên nhận thấy khoang tàu ông ngồi gần như trống không; tuy nhiên tất cả các chỗ ngồi còn trống đều đã được đặt trước. Chỉ có một hành khách duy nhất, một người đàn ông mảnh khảnh trung tuổi hình như đang ngủ, ngồi thụt vào trong góc sát hành lang. Khi khởi hành từ Paris, họ chỉ trao đổi với nhau một cái gật đầu. Mái đầu được bao bọc bởi một mái tóc vàng hoe như một vầng hào quang bị một vết sẹo dài cắt ngang.
Cha Nil cởi áo vest tu sĩ, gấp lại cho khỏi nhàu và đặt lên ghế bên phải.
Ông nhắm mắt lại.
Mục đích của cuộc sống tu sĩ là kìm nén mọi dục vọng, và loại bỏ chúng đến tận gốc rễ. Ngay từ khi tập tu, cha Nil đã ở trong một ngôi trường tốt: tu viện Saint-Martin tỏ ra là một nơi tuyệt vời cho việc từ bỏ cái tôi. Toàn tâm hướng đến việc tìm kiếm sự thật, ông không mấy đau khổ về điều này. Ngược lại, ông thích thú được giải thoát khỏi những dục vọng chế ngự loài người, khiến loài người phải chịu đau khổ nhiều nhất.
Từ lâu, ông không còn nhớ cảm giác giận dữ, đó là một dục vọng thấp hèn. Cho nên ông ngần ngại không muốn xác định điều mình cảm thấy từ vài ngày nay. Cha Andrei chết, việc điều tra được tiến hành qua quýt, rồi vụ việc bị xếp lại: kết luận là tự sát, một điều sỉ nhục đối với ông ấy. Ở tu viện, người ta rình rập, lục lọi, ăn cắp. Người ta gửi ông đến Roma như một gói hàng.
Giận dữ ư? Dù sao cũng có một cảm giác tức giận đang dâng lên, khiến ông lúng túng, giống như một trận dịch bỗng xảy ra do một căn bệnh đã biến mất từ lâu nhờ tiêm vắc xin.
Ông quyết định tạm gác lại việc xem xét căn bệnh đột phát này: "Đợi đến Roma. Thành phố này đã sống sót sau mọi chuyện."
Ông đã kiên nhẫn dựng lại các sự kiện xung quanh cái chết của Jesus, để từ đó có thể dựng lại cuộc sống của người môn đồ cưng. Sau hội nghị Giám mục ở Jerusalem, người này vẫn tiếp tục sống. Cha Nil thấy giả thiết cho rằng ông đã trốn vào sa mạc là có vẻ đúng hơn cả: đó chính là nơi bản thân Jesus cũng nhiều lần ẩn nấp. Cũng chính tại sa mạc, người Esseni, sau đó là những người Do Thái yêu nước cuồng nhiệt, đã trú ngụ cho đến cuộc nổi dậy của Bar Kochba.
Vết chân của người này đã tan lẫn trong cát sa mạc. Để tìm lại, cha Nil phải nghe được một giọng nói vang lên từ dưới mồ, giọng người bạn đã mất của ông.
Tiếp tục cuộc kiếm tìm này sẽ có tác dụng như một phương tiện chuyển giải cho nỗi tức giận mà ông cảm thấy đang dâng lên trong người.
Ông cố gắng lựa tư thế thoải mái để ngủ một chút.
Tiếng động của đoàn tàu khiến ông dần cảm thấy đờ đẫn. Những ngọn đèn trên đoạn Lamotte-Beuvron vun vút chạy qua.
Khi ấy mọi việc diễn ra rất nhanh. Người hành khách trong góc hành lang rời chỗ ngồi và tiến lại gần, như để lấy thứ gì đó trong lưới trên đầu ông. Cha Nil đưa mắt nhìn lên theo phản xạ: lưới rỗng không.
Ông không có thời gian để suy nghĩ: mái tóc hoe vàng đã nghiêng xuống phía ông, và ông nhìn thấy bàn tay người đó đưa về phía chiếc áo vest tu sĩ.
Cha Nil đang định phản đối cử chỉ sỗ sàng đó của người đồng hành: "Cứ như một người máy vậy!"
Nhưng cánh cửa khoang tàu mở ra với một tiếng động ầm ĩ.
Người đàn ông nhanh chóng đứng thẳng người lên: bàn tay anh ta buông thõng xuống dọc thân người, nét mặt linh hoạt hẳn lên, và anh ta mỉm cười với cha Nil.
- Xin lỗi vì quấy rầy, thưa các ông – hóa ra là người soát vé. Những hành khách đặt chỗ trong khoang của các ông không có mặt. Ở đây tôi có hai nữ tu không tìm được chỗ ngồi cạnh nhau trên tàu. Nào, các xơ của tôi, hãy ngồi chỗ nào các bà muốn, vẫn còn đủ chỗ trong khoang này đấy. Chúc chuyến đi tốt đẹp.
Trong khi hai nữ tu bước vào và trịnh trọng chào cha Nil, người khách đi cùng lùi về chỗ của mình không nói một lời. Một lúc sau, anh ta nhắm mắt ngủ gà gật.
"Thật là một gã kỳ quặc! Anh ta làm sao thế nhỉ?"
Nhưng việc thu xếp chỗ ngồi của hai người mới đến đã thu hút toàn bộ sự chú ý của ông. Phải đưa một cái va li lên lưới, nhét hai cái hộp to tướng xuống dưới ghế ngồi, và sau đó là chịu đựng câu chuyện ba hoa không dứt của họ.
Đêm buông xuống, đang cố ru giấc ngủ, cha Nil nhận thấy người khách bí ẩn đối diện ông ngồi im, chìm sâu trong góc của anh ta.
Bị ánh bình minh đánh thức, khi ông mở mắt ra, chỗ ngồi trong góc hành lạnh trống không. Để ăn sáng, ông phải đi dọc toàn bộ đoàn tàu: không có dấu vết gì của người đàn ông cùng khoang.
Khi trở về khoang của mình, nơi một bà xơ tốt bụng bắt ông phải nếm thứ cà phê kinh khủng mà bà rót từ phích ra, ông phải thừa nhận một sự thật rõ ràng: người hành khách khó hiểu đã biến mất.
Chú thích
(1)Tiếng Ý trong nguyên bản: mật.
(2)Tiếng Ý trong nguyên bản: Chắc chắn rồi, thưa Đức Hồng y.
(3)Giám mục không có địa phận (chú thích của tác giả).
(4)"Được nâng lên một chức vụ danh dự để từ bỏ chức vụ trước của mình" (Chú thích của tác giả).
(5)Những hộp hình vuông bằng da để đựng các câu trích từ kinh Phúc ân đeo ở trước trán và quấn quanh tay tái bằng những sợi dây da. Người ta đeo nó mỗi ngày trong các buổi cầu nguyện ban sáng.
(6)Câu chào trong tiếng Ả Rập.
(7)Nhất là phải kín đáo (Chú thích của tác giả).
(8)Kinh Coran, thiên Xura 5 (chú thích của tác giả).
Bí Ẩn Tông Đồ Thứ Mười Ba Bí Ẩn Tông Đồ Thứ Mười Ba - Michel Benoît Bí Ẩn Tông Đồ Thứ Mười Ba