Nếu bạn không đủ sức để chịu thua, bạn cũng sẽ không đủ sức để chiến thắng.

Walter Reuther

 
 
 
 
 
Tác giả: Agatha Christie
Thể loại: Trinh Thám
Nguyên tác: Death On The Nile (1937)
Dịch giả: Lan Phương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 31
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 877 / 208
Cập nhật: 2020-04-04 20:28:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7
HOẢNG MƯỜI MỘT GIỜ SÁNG ngày hôm sau, Simon và Linnet Doyle khởi hành đi Philae. Khi đó, Jacqueline de Bellefort đang ngồi trên ban công khách sạn dõi mắt theo hai người họ đi trên chiếc thuyền sang trọng. Tuy nhiên, cô lại không ghi nhận được một chiếc xe con chất đầy hành lý đã xuất phát từ cổng trước của khách sạn, ngồi trong xe là cô hầu gái trông có vẻ nghiêm nghị. Chiếc xe này rẽ phải chạy thẳng hướng tới Shellal.
Hercule Poirot quyết định dùng hai tiếng còn lại trước bữa trưa để đi đảo Elephantine ở ngay đối diện khách sạn.
Ông bước xuống chỗ bến tàu. Khi ấy có hai người đàn ông cùng bước xuống một chiếc thuyền của khách sạn, và Poirot đi theo họ. Hẳn nhiên hai người đàn ông đó không quen nhau. Người trẻ hơn vừa mới tới bằng tàu lửa ngày hôm trước. Đó là một người cao, tóc đen với gương mặt xương xẩu và một cái cằm nhọn hoắt. Anh mặc một chiếc quần nỉ mỏng lấm lem bùn đất và chiếc áo polo cổ cao chẳng thích hợp với thời tiết lúc đó chút nào. Người đàn ông còn lại là một người trung niên hơi đậm người và thấp bé, ông ta chẳng cần mất nhiều thời gian để có thể bắt chuyện với Poirot bằng một thứ tiếng bóng bẩy lơ lớ. Không xen vào cuộc nói chuyện đó, chàng trai trẻ có vẻ khó chịu với hai người còn lại. Anh quay lưng lại về phía họ và tỏ vẻ thán phục người lái tàu vùng Nubia – một tay thì quay vô – lăng còn một chân thì chỉnh hướng con tàu.
Mặt nước thật thanh bình, những tảng đá đen bóng láng lướt qua tầm mắt và gió hiu hiu thổi qua mặt họ. Thoáng chốc đã đến đảo Elephantine, ngay khi vừa lên bờ, Poirot và người đồng hành lắm lời kia đã thẳng tiến đến viện bảo tàng. Cùng lúc ấy ông ta cung kính chìa một tấm danh thiếp đưa cho Poirot, trên đó có hàng chữ: “Ngài Guido Richetti, Nhà khảo cổ học.”
Đáp lại, Poirot cũng đưa tấm danh thiếp của mình cho ông. Sau khi màn nghi thức kết thúc, hai người đàn ông cùng bước vào viện bảo tàng, và ngay sau đó quý ông người Ý tuôn ra một tràng kiến thức uyên thâm của mình. Và bây giờ thì họ lại trao đổi với nhau bằng tiếng Pháp.
Trong khi đó, người thanh niên trong chiếc quần nỉ kia lượn khắp viện bảo tàng, ngáp tới ngáp lui một lúc, rồi sau đó nhanh chân lỉnh ra bên ngoài.
Cuối cùng, Poirot và ngài Richetti cũng tìm thấy anh ta. Trong lúc quý ông người Ý đang hăng say kiểm tra các tàn tích, thì Poirot đi về hướng gần các mỏm đá nơi ông đã chợt phát hiện ra một chiếc dù xanh.
Ở đó, bà Allerton đang ngồi trên một tảng đá to, với một bản thảo để bên cạnh cùng với một quyển sách đặt trên đùi.
Poirot giở mũ lịch sự chào và bà Allerton cũng liền đon đả: “Chào buổi sáng. Tôi cho rằng thật khó mà thoát khỏi đám trẻ ghê gớm này.”
Lúc đó có một nhóm trẻ con đen đúa đang bao quanh bà, vừa cười nhăn nhở vừa thi thoảng đưa tay nài nỉ một cách hi vọng: “Cho con một ít bạc lẻ đi.”
“Tôi tưởng chúng đã mệt với tôi rồi chứ,” bà Allerton buồn rầu nói. “Chúng đã theo tôi suốt hơn hai tiếng đồng hồ liền – và càng ngày chúng càng tiếp cận gần hơn; chỉ đợi đến khi tôi hét: ‘Đi đi’ và vung dù lên thì chúng mới chịu đi ra chỗ khác. Mà rồi chúng cũng lại quay lại và ngó chằm chằm vào tôi, những đôi mắt của chúng thật ghê tởm, thứ mùi trên cơ thể của chúng cũng thế, có lẽ tôi không ưa chúng được – khi mà chúng không tắm rửa sạch sẽ và cư xử đàng hoàng.”
Bà cười buồn bã.
Poirot xua đám nhỏ một cách hòa nhã, nhưng cũng không có kết quả. Chúng tản ra rồi xúm lại, càng lúc càng gần hơn.
“Tôi sẽ thích Ai Cập hơn nếu ở đây có được một chút yên bình.” Bà Allerton làu bàu. “Nhưng ở đâu thì cũng không được yên thân. Sẽ luôn luôn có ai đó vòi tiền, mời mọc đi xe lửa, mua chuỗi hạt, hay là một chuyến đi tới những ngôi làng bản địa, hoặc săn vịt.”
“Đúng thế, quả thật là bất tiện.” Poirot đồng tình.
Viên thám tử thận trọng trải chiếc khăn tay lên tảng đá và nhẹ nhàng ngồi xuống, rồi ông tiếp tục: “Sáng nay con trai bà không đi cùng sao?”
“Không, Tim có một số thư từ phải giải quyết trước khi chúng tôi đi. Ông biết không, chúng tôi sẽ có chuyến đến Cataract thứ hai đấy.”
“Tôi cũng vậy.”
“Tôi mừng quá. Tôi muốn nói cho ông biết rằng tôi thật sự hứng thú khi được gặp ông. Khi chúng tôi ở Majorca, có một bà tên Leech đã kể với chúng tôi những điều khá hay về ông. Bà ấy bị mất một chiếc nhẫn hồng ngọc khi đang đi bơi, và bà ấy buồn rầu vì không có ông ở đó kiếm giúp đấy.”
“Ồ, thánh thần ơi, nhưng tôi đâu phải là thợ lặn chuyên nghiệp!”
Cả hai cùng cười ồ rồi bà Allerton nói tiếp.
“Sáng nay tôi nhìn qua cửa sổ thấy ông đi cùng với Simon Doyle. Kể cho tôi nghe anh ta như thế nào đi! Chúng tôi rất quan tâm về anh ấy.”
“À? Thật không?”
“Thật chứ. Ông cũng biết đám cưới của anh ấy với Linnet Ridgeway là bất ngờ lớn mà. Người ta cho rằng cô ấy sẽ cưới Ngài huân tước Windlesham và rồi đột nhiên cô ấy đính hôn với người đàn ông mà chưa hề ai biết đến trước đó!”
“Bà biết rõ về cô ấy nhỉ?”
“Không, nhưng đứa cháu của tôi, Joanna Southwood, là bạn thân của cô ấy.”
“À, vâng, tôi có nghe thấy cái tên đó trên báo chí.” Ông im lặng một lúc rồi nói tiếp. “Cô ấy là một người cũng hay lên báo, cô Joanna Southwood đó mà.”
“Ồ, Joanna biết cách đánh bóng bản thân lắm.” Bà Allerton có vẻ cáu kỉnh.
“Bà không thích cô ấy à?”
“Đó chỉ là lời nhận xét của tôi thôi.” Bà Allerton có vẻ hối hận. “Ông thấy đấy, tôi là típ người xưa rồi, tôi không thích cô ấy lắm. Nhưng Tim và cô ấy lại là bạn thân của nhau.”
“Tôi hiểu,” Poirot trả lời.
Bạn đồng hành của ông liếc nhanh qua ông. Rồi bà chuyển chủ đề: “Ở đây thật ít người trẻ tuổi nhỉ! Chỗ này chỉ có mỗi người trẻ nhất là cô gái xinh đẹp với chiếc mũ hạt dẻ có bà mẹ dữ tợn trong chiếc khăn kia mà thôi. Tôi thấy ông đã nói chuyện nhiều với cô ấy rồi thì phải. Cô gái đó thích tôi đấy.”
“Tại sao lại như thế chứ?”
“Tôi cảm thấy thương cô ấy. Ông chỉ có thể chịu đựng giỏi khi ông còn trẻ và nhạy cảm. Tôi nghĩ cô ấy đang đau khổ.”
“Đúng, cô gái nhỏ đáng thương, cô ấy đang không vui.”
“Tim và tôi gọi cô ấy là ‘cô gái buồn rầu’. Tôi cố bắt chuyện với cô ấy một hoặc hai lần gì đó, nhưng lần nào cô ấy cũng lảng tránh. Tuy nhiên, tôi tin rằng cô gái ấy cũng sẽ tham gia chuyến đi sông Nile này, và tôi hi vọng chúng tôi có thể thân mật hơn, phải không?”
“Cũng có thể, thưa bà.”
“Tôi là người rất dễ mến – mọi người rất thích tôi. Tất cả mọi loại người.” Bà ngừng một chút, rồi tiếp. “Tim kể với tôi rằng cô gái đen đen kia tên là de Bellefort – đã từng đính hôn với Simon Doyle. Thật là khó xử cho họ khi gặp nhau như thế này.”
“Đúng là khó xử thật.” Poirot đồng tình.
“Ông biết không, nghe có vẻ hơi ngớ ngẩn, nhưng cô gái đó làm tôi sợ. Cô ấy có vẻ – căng thẳng quá.”
Poirot gật đầu.
“Bà cũng không sai lắm đâu. Tình cảm chất chứa thường gây ra sự sợ hãi.”
“Ông Poirot, ông cũng hứng thú về con người sao? Hay là ông chỉ dành sự đam mê cho những tội phạm tiềm ẩn?”
“Thưa bà… thể loại đó cũng không bỏ qua những người ở ngoài kia đâu.”
Bà Allerton trông có vẻ ngạc nhiên.
“Ông nghĩ như vậy sao?”
Poirot tiếp: “Xét trên một phương diện nào đấy, thì điều đó đúng.”
“Thế thì có khác gì đâu?”
“Chuyện bình thường thôi mà.”
Bà Allerton do dự – một nụ cười chợt xuất hiện chớp nháng trên môi bà.
“Thậm chí cũng có thể là tôi sao?”
“Thưa bà, các bà mẹ thường bất chấp mọi thứ khi con mình gặp nguy hiểm đấy.”
Bà sa sầm: “Tôi nghĩ cũng đúng… vâng, ông có lí.”
Bà chợt im lặng một lúc, rồi sau đó mỉm cười: “Tôi đang cố hình dung xem động cơ phạm tội của từng người ở trong cái khách sạn này như thế nào. Thật là hấp dẫn. Simon Doyle, chẳng hạn?”
Poirot cười đáp lại: “Một tội ác đơn giản – một con đường tắt dẫn đến mục đích của anh ta. Không còn nghi ngờ gì nữa.”
“Dễ phát hiện đến thế à?”
“Vâng; anh ấy không tài tình lắm đâu.”
“Còn Linnet?”
“Cô ấy giống như nhân vật nữ hoàng trong truyện Alice ở xứ sở thần tiên, chuyên ra lệnh: ‘Xử nó đi.’”
“Dĩ nhiên rồi. Đặc quyền của nữ hoàng mà. Đặc quyền của sự chuyên chế! Và cả cô Jacqueline de Bellefort nguy hiểm kia – liệu cô ấy có dám giết người không nhỉ?”
Poirot lưỡng lự một lát, rồi ông trả lời, mông lung: “Vâng, tôi nghĩ cô ấy có thể lắm.”
“Nhưng ông cũng không chắc phải không?”
“Vâng. Cô gái nhỏ đó làm tôi bối rối.”
“Tôi thì không nghĩ ông Pennington có thể thực hiện được một tội ác nào cả? Trông ông ấy héo rũ – không còn sức sống.”
“Nhưng có thể sở hữu sức mạnh tiềm ẩn đấy.”
“Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Còn bà Otterbourne trông thật tội nghiệp trong chiếc khăn đó?”
“Luôn có một cái gì đó thật hư ảo.”
“Như động cơ giết người ư?” bà Allerton ngờ vực hỏi.
“Động cơ giết người đôi lúc lại rất dễ nhận ra, thưa bà.”
“Ông Poirot, thế những động cơ nào thường gặp nhất?”
“Nhiều nhất à – tiền. Cũng phải nói rằng nó được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Kế đến là trả thù – và tình yêu, rồi sự sợ hãi, hay đơn thuần chỉ là ghét bỏ, và làm ơn nữa…”
“Ông Poirot?”
“Vâng, thưa bà. Chúng ta có thể giả sử rằng B sẽ loại trừ A để có được C. Những vụ giết người mang tính chính trị thường có luận điệu này. Một người nào đó bị coi là nguy hiểm cho xã hội sẽ bị loại trừ ra khỏi cộng đồng. Những người như thế đã quên rằng sự sống và cái chết nằm trong tay ông Trời.” Ông nghiêm giọng.
Bà Allerton trả lời khẽ khàng: “Tôi rất vui vì ông nói vậy. Nhưng cũng thế thôi, vì ông Trời cũng phải chọn công cụ thực thi cho mình chứ.”
“Thưa bà, nghĩ như vậy thật nguy hiểm đấy.”
Rồi bà xuống giọng, nói: “Ông Poirot, sau cuộc nói chuyện này, tôi nghi ngờ không biết có ai còn sống sót không nhỉ!”
Và bà đứng dậy.
“Phải quay về thôi. Chúng ta sẽ khởi hành ngay sau bữa trưa.”
Khi cả hai tiến đến cầu tàu, họ đã thấy chàng thanh niên trong chiếc áo khoác polo đã yên vị trên tàu. Còn gã người Ý thì đã đứng đợi ở đó. Khi người lái tàu vùng Nubia tháo dây con tàu để họ xuất bến, Poirot liền lịch sự chào một người lạ mặt.
“Ở Ai Cập có nhiều thứ hay để xem phải không?”
Người thanh niên đó đang hút một ống điếu hơi. Anh rút nó ra và trả lời ngắn gọn bằng giọng của người có học với vẻ đầy ngạc nhiên: “Chúng làm tôi phát ốm.”
Bà Allerton chun mũi và thích thú nhìn anh ta.
Còn Poirot lại hỏi: “Thật vậy sao? Mà tại sao lại như thế chứ?”
“Lấy Kim tự tháp làm ví dụ nhé. Những tảng đá xây to lớn vô dụng, được xếp lên để thể hiện sự ích kỷ của một ông vua chuyên chế kiêu ngạo. Hãy nghĩ đến những người đã đổ mồ hôi sôi nước mắt và chết để xây dựng lên nó xem. Nó làm tôi phát ốm khi nghĩ đến sự đau khổ và bóc lột mà họ phải chịu đựng.”
Bà Allerton cười vui vẻ: “Thế thì anh thà không có Kim tự tháp, không có tòa Parthenon, không có những ngôi đền hay mộ phần hoành tráng – mà chỉ thỏa mãn với việc con người hàng ngày được ăn ba bữa và rồi chết đi thôi?”
Chàng thanh niên ném ánh nhìn cau có về phía bà.
“Tôi nghĩ con người mới đáng được trân trọng hơn những tảng đá chứ.”
“Nhưng họ cũng chẳng tồn tại mãi.” Hercule Poirot bình luận.
“Tôi thì thà thấy một người công nhân được ăn no còn hơn thấy những thứ gọi là công trình nghệ thuật. Điều đáng quan tâm là tương lai – chứ không phải là quá khứ.”
Đối với ngài Richetti, việc dính vào cuộc tranh luận về sở thích thật quá sức, không dễ dàng nắm bắt được.
Chàng thanh niên cãi lại bằng cách kể cho mọi người nghe điều mình nghĩ về hệ thống tư bản chủ nghĩa với giọng điệu đầy cay nghiệt.
Họ cập bờ tại bến phà khách sạn cũng là lúc anh kia vừa xổ xong bài nói chuyện của mình.
Bà Allerton vui vẻ: “Ừ, ừ” rồi bước lên bờ. Còn chàng thanh niên nhìn theo như có ý nguyền rủa bà.
Khi bước vào sảnh khách sạn, Poirot gặp Jacqueline de Bellefort trong bộ trang phục cưỡi ngựa.
Cô cúi chào ông một cách chế nhạo.
“Tôi sẽ đi cưỡi lừa. Ông Poirot, ông có ủng hộ việc chọn các ngôi làng địa phương không?”
“Thưa cô, đây có phải hành trình ngày hôm nay của cô không? À tốt, phong cảnh rất đẹp – nhưng đừng chỉ xài nhiều tiền quá vào những thứ lạ nhé.”
“Những thứ được nhập từ châu Âu về đây chứ gì? Tôi không dễ bị lừa như thế đâu.”
Và sau cái gật đầu, cô bước ra ngoài nơi đang ngập tràn ánh nắng.
Poirot đã sửa soạn hành lý xong xuôi – rất đơn giản gọn nhẹ bởi vì mọi thứ của ông lúc nào cũng được sắp xếp cẩn thận. Sau đó ông đi đến phòng ăn và dùng bữa trưa sớm.
Sau bữa trưa, chiếc xe buýt của khách sạn đưa những người đi Cataract thứ hai đến trạm đón chuyến tốc hành từ Cairo đi Shellal – một chuyến đi khoảng mười phút.
Hành khách gồm mẹ con nhà Allerton, Poirot, chàng thanh niên trong chiếc quần nỉ lấm lem bùn đất và quý ông người Ý. Bà Otterbourne và con gái đã đi đến đập Assuan, Philae và sau đó sẽ gia nhập đoàn của chuyến tàu hơi nước tại Shellal.
Chuyến tàu từ Cairo và Luxor đã trễ hai mươi phút. Nhưng rồi nó cũng tới, và cảnh tượng đông đúc thường thấy lại diễn ra. Những cửu vạn bản địa dỡ hành lý xuống tàu cụng trán với các cửu vạn xếp hành lý lên.
Cuối cùng sau một hồi ngột ngạt, Poirot đã lấy lại tinh thần, thấy hành lý của mình và của nhà Allerton, một vài hành lý lạ hoắc trong cùng một khoang, trong khi Tim cùng với mẹ đang ở đâu đó với đám đồ còn lại.
Trong khoang của Poirot đã có sự hiện diện sẵn của một người phụ nữ lớn tuổi với gương mặt nhăn nheo, mang một chiếc vớ trắng thô cứng, một món trang sức nhiều kim cương và thái độ lên mặt với những người khác.
Bà nhìn Poirot với vẻ nhìn quý tộc khinh khỉnh rồi tiếp tục chúi mũi vào một quyển tạp chí của Mỹ. Một cô gái trẻ tuổi dưới ba mươi trông to con và có phần vụng về ngồi đối diện với bà. Cô có một đôi mắt nâu sáng, trông khá giống mắt của loài khuyển, tóc tai bờm xờm nhưng có vẻ rất xởi lởi. Thỉnh thoảng, bà già lại rời mắt khỏi tờ báo và ném một cái nhìn về phía cô.
“Cornelia, gom mấy cái mền lại đây.”, “Khi chúng ta tới nơi phải trông chừng va-ly quần áo của dì đấy. Bất cứ giá nào cũng không để người khác làm việc đó.”, “Đừng quên cái đồ rọc giấy nữa.”
Chuyến tàu đi thật nhanh. Chỉ trong vòng mười phút họ đã dừng lại nơi chiếc S.S Karnak đang đợi từ trước. Nhà Otterbourne đã sẵn sàng lên tàu.
Chiếc tàu hơi nước Karnak nhỏ hơn chiếc Papyrus và chiếc Lotus, là những chiếc tàu hơi nước ở Cataract thứ nhất, chúng quá to để có thể lọt qua được đập Assuan. Hành khách lên tàu và được dẫn đến chỗ ngồi. Hầu hết ở trên tầng trên cùng vì tàu không đầy khách. Toàn bộ phần phía trước của tầng trên cùng là chỗ của phòng quan sát bằng kiếng, nơi hành khách có thể ngồi và ngắm dòng sông hiện dần ở phía trước. Ở tầng dưới có một phòng hút thuốc và một phòng khách nhỏ, còn tầng dưới cùng có một phòng ăn.
Khi đã thấy tất cả hành lý của mình ở trong ca-bin, Poirot thong thả bước ra ngoài ngắm con tàu khỏi hành. Rồi ông bước lại chỗ Rosalie Otterbourne đang tựa người vào thành tàu.
“Thế là chúng ta sẽ đi Nubia. Cô có thấy vui không?”
Cô hít một hơi thật sâu rồi trả lời.
“Vâng, tôi có cảm giác là người ta cuối cùng cũng thoát khỏi mọi phiền toái.”
Cô đưa tay chỉ. Mặt nước phía trước họ mang một vẻ hung bạo, nhiều tảng đá không có màu xanh sự sống đang trôi về cuối mép nước – đây đó là vết tích của những căn nhà bị bỏ hoang và đổ nát vì việc ngăn dòng xây đập. Cảnh tượng trông thật buồn thảm, mặt trái của sự hấp dẫn quyến rũ.
Otterbourne nói tiếp: “Rời xa khỏi con người.”
“Trừ những thứ liên quan đến mình, phải không cô?”
Cô nhún vai rồi nói: “Có những điều của đất nước này làm tôi cảm thấy… chán ngấy. Nó hiện ra ngoài tất cả những điều không hay. Mọi thứ thật không công bằng – không công bằng một chút nào.”
“Tôi không nghĩ vậy. Cô không nên đánh giá vội vàng những gì thấy được.”
Rosalie lẩm bẩm: “Hãy nhìn – nhìn mẹ của người ta kìa – và nhìn mẹ tôi đi. Trên đời này chẳng có ông Trời nào cả, chỉ có Tình Dục thôi, và Salome Otterbourne chính là nhà tiên tri của nó.” Cô dừng lại. “Tôi nghĩ tôi không nên nói thế thì hơn.”
Poirot khoát tay.
“Tại sao lại không nói… với tôi chứ? Tôi là một trong những người biết lắng nghe đây. Nếu như cô nói, cô nung chảy mọi thứ bên trong… y như mứt – ồ hay đấy – hãy để những thứ cặn bã đó nổi lên mặt nước, và ai đấy có thể dùng muỗng vớt nó đi thôi.”
Rồi ông làm một động tác như ném vật gì xuống dòng sông Nile.
“Rồi, nó đã đi rồi.”
“Ôi, ông thật hài hước!” Rosalie thốt lên. Cái miệng buồn rầu của cô nhoẻn cười. Nhưng cô chợt cáu kỉnh nhận xét: “À, cô Doyle và chồng đây rồi! Tôi không hiểu sao họ lại có mặt trong chuyến đi này nhỉ!”
Linnet vừa mới bước lên từ ca-bin bên dưới. Simon đi ngay phía sau cô. Poirot rất ngạc nhiên bởi vẻ ngoài của cô gái – rất rạng rỡ, rất tự tin. Trông cô tràn ngập hạnh phúc. Simon Doyle cũng trở thành một con người khác hẳn. Anh đang cười toét miệng và trông như một cậu học trò vui vẻ.
“Con sông lớn quá.” Anh vừa nhận xét vừa tựa người vào thành tàu. “Anh thật sự mong đợi chuyến đi này, em có thế không, Linnet? Có vẻ như không giống đi du lịch lắm – mặc dù thật sự chúng ta đang đi đến trung tâm của Ai Cập.”
Vợ anh nhanh nhẹn đáp: “Em biết. Nó có vẻ hoang dã.”
Bàn tay cô luồn qua cánh tay anh và anh ép chặt nó vào người mình.
“Chúng ta khởi hành rồi, Lin.” Anh thì thầm.
Chiếc tàu đang từ từ rời bến. Họ bắt đầu cuộc hành trình bảy ngày đến Cataract thứ hai rồi trở về lại.
Bỗng một tiếng cười lạnh lẽo vang lên sau lưng họ. Linnet giật mình quay phắt người lại.
Jacqueline de Bellefort đang đứng đó và trông cô có vẻ rất thích thú.
“Xin chào, Linnet! Tớ không nghĩ sẽ gặp cậu ở đây. Tớ nhớ là cậu nói với tớ sẽ ở lại Assuan thêm mười ngày nữa mà. Thật là ngạc nhiên!”
“Cậu… cậu không…” Linnet líu lưỡi lại. Và cô cố cười gượng gạo. “Tớ… tớ cũng không nghĩ sẽ gặp cậu.”
“Không ư?”
Jacqueline di chuyển về mạn bên kia của con tàu. Linnet nắm tay chồng thật chặt.
“Simon… Simon…”
Mọi niềm vui của Doyle bị dập tắt. Anh có vẻ nổi giận. Hai bàn tay anh nắm chặt dù anh đã cố giữ bình tĩnh.
Cả hai người họ bước ra xa một chút. Không cần quay đầu lại, Poirot cũng nghe lõm bõm được những từ rời rạc: “… quay lại ư… không thể nào… chúng ta có thể…” Và sau đó thì Doyle lớn tiếng, tuyệt vọng nhưng đầy sự nóng giận: “Chúng ta không thể chạy trốn mãi được, Lin. Chúng ta phải giải quyết ngay bây giờ…”
Sau đó một vài tiếng, ánh nắng nhạt dần rồi tắt. Poirot đứng trong phòng quan sát bằng kiếng nhìn ra ngoài. Karnak đang đi vào một khúc hẹp. Nhũng viên đá rơi một cách lạnh lùng xuống dòng chảy sâu và xiết của con sông. Họ giờ đang ở Nubia.
Ông nghe có tiếng động và thấy Linnet Doyle đứng ngay bên cạnh mình. Những ngón tay của cô lúng túng đan vào nhau rồi lại buông ra; ông chưa bao giờ thấy cô với vẻ như thế. Cô hoang mang lên tiếng: “Ông Poirot, tôi thấy sợ… tôi sợ mọi thứ. Trước đây tôi chưa bao giờ cảm thấy như thế này. Tất cả những hòn đá hoang dã này và sự hung tợn đáng sợ nữa. Chúng ta đang đi đâu đây? Chuyện gì sẽ xảy ra? Tôi muốn nói với ông là tôi sợ. Mọi người ai cũng ghét tôi. Trước đây chưa bao giờ tôi cảm thấy như thế này cả. Tôi đã luôn tốt với mọi người… tôi đã làm nhiều việc cho họ… nhưng họ lại ghét tôi… rất nhiều người ghét tôi. Ngoài Simon ra, tôi bị kẻ thù vây quanh… Thật tồi tệ khi có cảm giác rằng người ta ghét mình…”
“Nhưng tất cả những chuyện này là thế nào, thưa cô?”
Cô gái lắc đầu.
“Tôi nghĩ… là sự căng thẳng… Tôi chỉ cảm thấy rằng… mọi thứ xung quanh mình đều không an toàn.”
Cô sợ sệt nhìn ra xung quanh, rồi đột nhiên cô tiếp: “Làm thế nào để mọi việc kết thúc đây? Chúng tôi đã bị thộp ở đây. Bị bẫy rồi! Không còn lối thoát nữa. Chúng tôi phải đi tiếp. Tôi… tôi không biết mình đang ở đâu.”
Cô thả người xuống một chiếc ghế. Poirot nhìn cô nghiêm nghị; ánh mắt ông không hề nhuốm vẻ thương hại.
“Làm sao cô ấy biết chúng tôi ở trên chiếc tàu này được?” Cô thắc mắc. “Làm cách nào mà cô ấy biết nhỉ?”
Poirot lắc đầu trả lời: “Cô biết đấy, cô ấy thông minh mà.”
“Tôi có cảm giác như mình sẽ không bao giờ thoát khỏi cô ấy được.”
Poirot đáp lại: “Có một phương án mà cô có thể thực hiện được. Thực ra tôi ngạc nhiên là nó lại không xảy ra với cô. Sau cùng, đối với cô thì chuyện tiền bạc không phải là vấn đề. Tại sao cô lại không quanh quẩn trong lãnh địa của riêng mình nhỉ?”
“Giá như chúng tôi biết được những việc này… nhưng chúng tôi không biết, như ông thấy đấy. Rất khó khăn…” Rồi không thể giữ được kiên nhẫn nữa, cô tuôn ra một tràng. “Ồ, ông không thể hiểu được sự khó khăn của tôi đâu. Tôi phải dè chừng Simon… Anh ấy… anh ấy rất nhạy cảm về… chuyện tiền nong, về chuyện tôi có nhiều thứ nữa chứ! Anh ấy muốn tôi tới một nơi nhỏ bé ở Tây Ban Nha với anh ấy… anh ấy… anh ấy muốn tự chỉ trả mọi chi phí cho chuyến trăng mật. Như thể nó rất quan trọng. Đàn ông thật ngốc nghếch! Anh ấy phải làm quen dần với việc sống tiện nghi chứ. Cái ý tưởng lãnh địa riêng làm anh ấy buồn… một… một chi phí không cần thiết. Tôi phải uốn nắn anh ấy… từ từ.”
Cô ngẩng mặt lên, môi cô cắn chặt, mặc dù cô cảm giác rằng cô đang nói đến những khó khăn của mình một cách quá hớ hênh.
Và cô đứng dậy.
“Tôi phải thay đổi. Xin lỗi, ông Poirot. Tôi e rằng mình đã nói quá nhiều thứ linh tinh.”
Án Mạng Trên Sông Nile Án Mạng Trên Sông Nile - Agatha Christie Án Mạng Trên Sông Nile