Số lần đọc/download: 1101 / 19
Cập nhật: 2016-05-11 10:50:55 +0700
Chương 5: Chiếc Nhẫn
M
ột cuộc phiêu lưu tuyệt vời đã bắt dầu. Timoken và Zobayda đã đi lang thang qua khắp cả Bắc Phi trong hơn một trăm năm. Bằng ngón tay phép thuật của mình, Zobayda biến ra nhiều trang sức khác từ những trang sức mà họ lấy được trong chiếc rương của vị thương gia, vì vậy mà họ và cả Gabar không bao giờ bị đói.
Tuy nhiên, con lạc đà không phải lúc nào cũng nghe lời. Thỉnh thoảng, nó không muốn bay. Nó lý giải rằng: “Thật không công bằng khi bay trước mặt những con lạ đà khác.” Chúng sẽ không hài lòng khi thấy một con cùng loài với mình có thể bay trên trời. Lạc đà thì không làm thứ việc đó. Còn cuộc sống thì quá phức tạp đối với Timoken và Zobayda, thường xuyên bay lên cao chính là cách duy nhất để họ có thể trốn thoát.
Những cuộc thám hiểm bao giờ cũng thú vị, nhưng nguy hiểm rình rập khắp nơi khi hai đứa trẻ du hành một mình và luôn tìm cách đổi những viên ngọc quý lấy thức ăn và quần áo. Chúng thường xuyên gặp phải những kẻ cướp, bị truy đuổi bởi những tên bắt cóc và chúng thoát được những mũi dao phóng về phía chúng trong gang tấc. Và còn bọn viridee nữa, chúng ẩn nấp ở tất cả mọi nơi, từ bóng cây, giếng nước cho đến những hang động và những nơi tối tăm khác. Chúng luôn sẵn sàng xông tới, những cánh tay dài sẽ túm chặt bọn trẻ, những cái lưỡi sẽ thè ra quất vào hai chị em và cả con lạc đà.
Những lúc như thế, Timoken phải kéo mạnh dây cương và túm lấy lông của nó, gào lên: “Bay lên nào, Gabar, bay lên nào!”
Gabar bao giờ cũng liếc nhanh xung quanh mình, để chắc rằng không có con lạc đà nào đang ở gần đó. Nêu thấy có con lạc đà nào đang nhìn, nó sẽ hét lên: “Chưa được rồi!” Và rồi bọn trẻ sẽ phải nín thở chờ đợi, cho đến khi con lạc đà chịu cho hai người nhấc bay lên trời.
Đêm nào, Timoken và Zobayda cũng đắp tấm tơ nhện để ngủ. Họ gọi đó là áo choàng mặt trăng và tin chắc rằng mình sẽ được an toàn dưới những sợi tơ của nó. Những lúc không sử dụng được tấm mạng nhện, Zobayda sẽ dùng ngón tay phép thuật của mình để thoát hiểm. Cô run sợ, tức giận và cuống quýt lên mỗi khi có ai đó bắt được Timoken hay Gabar, rồi cô chỉ cần chỉ ngón tay vào kẻ địch, hắn sẽ văng ra xa và hét lên trong sợ hãi, đau đớn.
Không phải tất cả những người họ gặp đều là kẻ xấu. Họ vẫn thường gặp những người thật tốt bụng. Những người mang cho họ thức ăn mà không lấy tiền, hay cho họ một cái giường an toàn trong căn nhà ấm áp và thân thiện. Khi ấy, hai đứa bé mồ côi lại nghĩ đến việc tìm kiếm một tổ ấm ở một thành phố nào đó. Nhưng ngày hôm sau, họ lại tiếp tục bị truy bắt và hành hạ, và họ lại phải quên đi giấc mơ ấy.
Cho đến một ngày nọ, Zobayda nói: “Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy nhà của mình ở những thành phố đáng sợ như vậy, chị thật sự mệt mỏi vì lúc nào cũng phải chạy trốn, chị luôn lo lắng đến thắt cả tim và không thở được.”
Timoken nhìn chị mình, vẫn mười ba tuổi sau hơn một trăm năm lang thang. Cậu mân mê những ngón tay nhỏ của mình và nói: “Nếu chúng ta già đi như người bình thường, thì có lẽ họ đã để chúng ta yên.”
Zobayda lắc đầu: “Nhớ những gì mẹ nói chứ. Chúng ta không được phép lớn lên trước khi tìm thấy ngôi nhà thật sự của mình.” Giọng Zobayda kiên quyết khiến Timoken không thể tranh cãi điều gì.
Họ quyết định tạm tránh xa các thành phố và bắt đầu đi vào những vùng đất khô cằn đầy bụi rậm ở rìa sa mạc. Những người dân du mục đã dạy cho họ biết cách buộc vải lên đầu và mặt để tránh những trận bão cát và họ cũng được học cách chịu đựng cái nóng và thiếu tiện nghi của sa mạc. Họ có thể nhìn thấy những khu rừng rậm, dù Gabar có thể tiến xa đến những con suối chảy ra từ rừng cây, nhưng có lẽ nó không muốn đi xa hơn nữa. Nó sợ bóng tối, những cái bóng lướt đi trong rừng và cả những tiếng kêu kỳ quái của chim và khỉ. Có lẽ nó đánh hơi thấy có sự hiện diện của bọn viridee ở đây.
Bọn viridee không bao giờ để mất dấu Timoken và chị của cậu. Chúng làm đủ mọi cách chỉ để lấy áo choàng mặt trăng. Chúng giả thành những người lái buôn, ăn xin và cả những con quái vật để truy đuổi bọn trẻ, nhưng với sức mạnh của áo choàng mặt trăng, mọi nỗ lực của chúng đều thất bại.
Chúa Tể Degal nảy ra một ý nghĩ. Nếu như ngón tay của đứa con gái không còn phép thuật, thì nó sẽ bị bắt dễ dàng. Và để cứu được chị mình, đứa con trai sẽ phải giao nộp tấm tơ nhện và lọ nước.
“Phép thuật là từ chiếc nhẫn của nó,” Chúa Tể Degal nói. “Đó chính là vật đang bảo vệ nó. Chúng ta phải lấy bằng được chiếc nhẫn.”
Hắn cho gọi ca sĩ hay nhất của chúng, một tên viridee có giọng hát không ai có thể cưỡng lại được. Chúa Tể Degal ra lệnh cho ca sĩ của mình luyện tập âm thanh ngọt ngào của dòng suối.
Và rồi, vào một ngày oi ả, Timoken đã thành công trong việc thuyết phục Gabar tiến vào bóng râm mát mẻ của một cánh rừng. Bọn viridee chỉ chờ có thế. Tên ca sĩ sẽ dùng giọng hát của mình để quyến dỗ Zobayda đến bên dòng suối. Và rồi, bị thu hút bởi ánh sáng dưới đáy hồ, nơi có những bông hoa đẹp như kim cương, những viên đá cuội lấp lánh như ngọc trai, cô bé sẽ nhúng tay vào nước. Ngay khi nhúng tay vào nước, một tên viridee sẽ rút chiếc nhẫn ra khỏi tay Zobayda, làm cho ngón tay cô trở nên vô dụng.
Thế là chúng ta sẽ bắt được nó, chúng thì thầm trong tiếng cười khúc khích.
Sau một đêm trong rừng già, bọn trẻ đang ngồi ăn tối bên đống lửa thì Zobayda chợt giật nảy người, như thể có một con chuột chạy ngang qua đầu gối cô vậy.
“Có chuyện gì vậy?” Timoken hỏi, liếc ngón tay mình.
“Chị cảm thấy có gì đó lạ lắm.” Zobayda nắm chặt lấy ngón tay đeo nhẫn của mình. Chiếc nhẫn có vẻ như nặng hơn so với thường ngày, khuôn mặt bé tí trên đó cũng lộ vẻ lo lắng. Zobayda hiểu rằng chiếc nhẫn đang cảnh báo cho cô biết, nguy hiểm đang rình rập. “Timoken, em không bao giờ được nói cho ai biết là mình có phép thuật, rằng em có thể bay, có thể nói chuyện với thú vật và thay đổi thời tiết... Không một ai biết nhé.”
“Nhưng có nhiều người đã thấy chúng ta bay trên trời cùng với Gabar, hẳn rằng họ có thể đoán được điều đó.”
“Phải,” Zobayda lẩm bẩm. Đôi mắt đen huyền của cô nhìn xa xăm, cô nói như thể những lời phát ra từ miệng cô là của một người nào đó: “Em không được sử dụng phép thuật của mình, ngoại trừ những lúc thật sự cần thiết.”
Dù đang ngồi gần lửa ấm, Timoken chợt cảm thấy rùng mình. Giọng nói của chị cậu thật sự nghiêm trọng.
“Nhưng tại sao vậy?” Timoken hỏi.
Zobayda mỉm cười thật tươi với em mình: “Đừng lo lắng, em trai yêu quí. Chị biết chắc em có thể cố hết sức để giữ được bí mật này. Sứ mệnh của em đã được định trước.”
Timoken rùng mình. Cậu nhìn những ngọn lửa nhỏ đang cháy, như thể chúng sẵn sàng reo hò hoan hô cậu. “Ý chị là sao?” cậu thì thầm.
“Chị cũng không rõ nữa.” Zobayda đứng dậy, phủi thẳng vết nhăn trên áo mình. “Chỉ là chị linh cảm vậy thôi. Chị sẽ đi lấy một ít nước. Chị có thể nghe thấy tiếng của một dòng suối róc rách chảy gần đây.” Zobayda xoay người, nhìn xuyên qua những hàng cây. “Chỉ chắc là nó chỉ đâu đây thôi.”
“Hãy để em đi,” Timoken nói.
“Không, chị có thể tìm thấy nó.” Cô cầm lấy chiếc bình bằng gốm nhỏ và chạy xuyên qua những bụi cây rừng.
Khi cô vừa đi được môt đoạn, Gabar im lặng quan sát. Rồi nó kêu lên một tiếng to, một tiếng nữa, rồi kêu lên liên tục.
“Có chuyện gì thê?” Timoken gọi.
“Thật tệ,” Gabar nói. “Càng lúc càng tệ. Tôi không thích rừng rậm chút nào.”
Timoken bắt đầu hiểu ra thái độ vừa rồi của Gabar. “Ta xin lỗi,” cậu nói. “Chúng ta sẽ rời nơi này ngay khi Zobayda quay lại.”
Zobayda đi theo tiếng suối chảy. Nó tạo ra một ân thanh như tiếng chuông ngân đầy mê hoặc, tựa như một bản nhạc. Cô đang khát khô cả cổ, cô thèm cảm giác được thưởng thức dòng nước mát chảy qua cổ họng mình.
Dòng suối đây rồi, khi cô tìm thấy nó, đó là tất cả những gì cô mong đợi. Nó sủi tăm và chảy róc rách qua những viên đá cuội óng ánh. Có chỗ thì sâu, có chỗ thì rộng và nước phản chiếu lấp lánh. Cô chạy dọc theo dòng suối, xa và xa hơn nữa, về phía phát ra âm thanh thậm chí còn ấn tượng hơn: tiếng thác nước chảy ầm ầm như sấm. Trước khi đến được cái thác, cô dừng lại nơi cái hồ sâu dưới chân thác nước. Cô có thể nhìn thấy những ngọn cỏ đang đung đưa, tỏa sáng lấp lánh, sáng đến mức trông nó như một báu vật. Cô quỳ xuống một phiến đá phẳng màu đen bên cạnh cái hồ và đưa tay ra. Một cơn đau đột ngột chạy dọc cánh tay cô. Nếu cô nhìn vào chiếc nhẫn thì cô có thể thấy vẻ mặt nhăn nhúm kinh sợ của nó, miệng của nó mở to, con mắt thì nhắm nghiền lại.
“Không, không, không,” một giọng nói khẽ vang lên.
Zobayda không nghe thấy gì ngoài tiếng thác đổ. Phớt lờ cơn đau, cô nhúng tay vào nước, hướng đến luồng ánh sánh quyến rũ. Khi tay cô vừa chạm vào nước, những ngọn cỏ quấn chặt lấy tay cô. Chúng leo lên cổ tay cô, rồi quấn lấy cánh tay. Zobayda cố dùng tay còn lại của mình để gỡ chúng ra khỏi cánh tay có đeo nhẫn, nhưng những cây cỏ dại đen sì đã bám quá chặt và cô thét lên khi chiếc nhẫn từ từ, chầm chậm tuột khỏi tay cô.
Ngay khi lấy được chiếc nhẫn, chúng thả tay Zobayda ra, làm cô ngã lăn ra nền đá. Khi cô đứng dậy và toan bỏ chạy thì thấy những hàng cây tiến lại gần sát cô hơn. Cô đứng run rẩy trên nền đá. Những khóm cây nghiêng xuống và xoắn lại. Chúng hạ xuống thấp hơn và rung rung cành lá, hóa thành những hình thù cao lớn màu xanh, nó cứ tiến lại cô càng lúc càng gần và gần hơn nữa. Zobayda có thể nhìn rõ đôi mắt đỏ ngầu của chúng hiện lên. Cô thấy những cánh tay như dây leo uốn éo dưới tàn lá lấp lánh đang hướng về phía mình và cô đã đoán biết được những hình thù gớm ghiếc kia muốn gì.
“Các ngươi muốn dùng ta để đổi lấy áo choàng mặt trăng à!” Giọng nói của cô run run, nhưng vang xa, to và dữ dội, lấn át cả tiếng thác nước. “Các ngươi sẽ không bao giờ có được nó.”
Bọn viridee vươn những cánh tay xanh lè, gân guốc về phía Zobayda, cô chạy về sát rìa phía phiến đá to phẳng màu đen. “Áo choàng mặt trăng là của em ta!” cô gào to. “Và sẽ luôn là như thế!” Rồi Zobayda quay người lại, nhảy xuống.
Cả bọn cười khằng khặc đắc thắng, chúng nhìn mái tóc đen của cô nổi giữa dòng nước xoáy bọt trắng xóa, nó cuốn cô về phía thác nước đang đổ xuống ầm ầm. Và cô mất hút.
o O o
Timoken đi lại quanh đống tro tàn. Mặt trời đang lên cao; khu rừng cũng đã hầm hập không khí ẩm nóng. Tiếng chim và tiếng thú rừng càng lúc càng rõ hơn. Zobayda đang ở đâu? Cô ấy đã đi quá lâu rồi.
“Ta sẽ đi tìm chị mình,” Timoken nói với con lạc đà, quàng áo choàng mặt trăng quanh vai, cậu đi về phía khu rừng.
Gabar không thể ở lại một mình. Nó theo cậu đi xuyên qua những cái cây. Chân của con lạc đà di chuyển thật vụng về trong rừng; nó vấp phải dây leo và lá khô, những cành cây con cứ vướng vào đầu nó. Nó kêu lên buồn bã.
Mặc kệ những lời than thở của con lạc đà, Timoken đi xăm xăm về hướng nước chảy. Cậu đã tìm thấy dòng suối và đi theo nó. Dòng suối nhỏ trở thành một con sông lớn, Timoken bắt đầu nghe thấy tiếng thác nước đổ. Cậu dừng lại và bắt đầu gọi chị mình. Giọng cậu nghẹn lại vì sợ hãi. Chầm chậm, cậu tiến đến phiến đá phẳng màu đen. Linh cảm mách bảo cậu rằng, chị cậu đã ở đây, cậu có thể cảm nhận được điều đó.
Timoken đi về phía đầu phiến đá. Tay cậu rung lên, trống ngực đập thình thịch. Chuyện gì đã xảy ra ở đây? Cậu quỳ xuống. Cậu tìm thấy dấu vết dưới tay mình. Dấu chân của Zobayda vẫn còn trên mặt đá ướt. Và rồi chúng biến mất. Những dấu chân lao vào dòng nước chảy xiết. Tại sao?
Timoken nhìn xuống những đám cỏ vặn vẹo dưới mặt nước. Cậu nhìn thấy có cái gì lóe sáng mắc kẹt ở giữa những hòn đá. Thò tay xuống nước, lần tìm dưới những viên đá ngầm, Timoken chạm vào thứ gì đó. Khi đem vật đó lên, cậu mới biết rằng mình đã tìm thấy chiếc nhẫn của Zobayda. Cậu nhìn thấy khuôn mặt của thần rừng trên chiếc nhẫn nhăn nhó, ân hận.
“Tôi đã không thể ngăn cản chúng,” một giọng nói thì thầm vang lên.
Những giọt nước mắt tức giận rơi ra từ khóe mắt Timoken. “Là kẻ nào?” cậu tra hỏi.
Một giọng nói nhẹ như bông vang lên từ chiếc nhẫn: “Bọn viridee.”
Lại là cái tên đó.
“Tại sao chứ?” Timoken gầm lên giận dữ. “Tại sao lại là chị ấy mà không phải là tôi?” Cậu nắm chiếc nhẫn trong lòng bàn tay, rồi ném mạnh nó xuống sông.
“Không... g... g... g...!” chiếc nhẫn gào lên.
Timoken nghiến chặt răng và rít lên: “Tại sao ta phải giữ ngươi chứ? Ngươi đã không bảo vệ được chị ta.”
Cậu mở nắm tay của mình ra, tin rằng chiếc nhẫn đã rơi xuống dòng nước. Nhưng chiếc nhẫn bám dính trên tay cậu, một giọng nói trong trẻo như tiếng chuông ngân lên, át cả tiếng thác đổ:
“Tôi đã cố gắng cứu chị cậu, Timoken. Nhưng chúng quá mạnh. Tôi đã cố gắng không để chúng mang tôi đi. Bây giờ, tôi thuộc về cậu.”
“Ngươi chẳng giúp được gì cho ta cả,” Timoken hét lên, vẫy tay, cố ném chiếc nhẫn đi.
“Rồi cậu sẽ cần tôi mà! Cậu sẽ thấy!” giọng van nài thì thầm.
Bỗng nhiên, hàng loạt tiếng động vang lên sau lung Timoken, cứ như tất cả sinh vật trong khu rừng cùng đồng thanh với chiếc nhẫn: “Cậu sẽ cần! Cậu sẽ cần! Cậu sẽ cần!”
“Xin hãy giữ lấy tôi! Xin giữ lấy tôi!” chiếc nhẫn kêu lên.
Hàng ngàn tiếng chim hót, tiếng hú, tiếng sủa lại vang vọng: “Hãy giữ lấy chiếc nhẫn! Hãy giữ lấy chiếc nhẫn!”
Timoken thả tay xuống. Cậu quay lại nhìn khu rừng bằng ánh mắt ngạc nhiên. “Ngươi có nghe thấy không?” cậu hỏi con lạc đà.
“Hãy giữ chiếc nhẫn,” Gabar khuyên cậu.
Timoken thì thầm: “Vâng, ta sẽ giữ nó lại!”
Cậu đeo chiếc nhẫn vào ngón tay giữa của bàn tay trái. Gương mặt nhỏ bé biểu lộ vẻ nhẹ nhõm, nó nhẹ nhàng nhắm mắt lại.
Timoken bước xuống tảng đá màu đen, tựa đầu vào cái cổ bờm xờm của Gabar. “Chúng ta sẽ phải làm gì khi không có chị ấy đây?” cậu khóc òa lên.
Gabar vẫn chưa hiểu được tất cả mọi cảm xúc của con người, nhưng nỗi buồn trong giọng nói của Timoken như đã làm cho nó thật sự xúc động, và con lạc đà ngạc nhiên khi cảm nhận giọt nước mắt ứa ra, lăn dài trên mặt nó. Tuy nhiên, nó cũng có những mối quan tâm riêng trong lòng. “Chúng ta nên rời khỏi khu rừng này thôi,” nó vỗ về.
“Chưa được,” Timoken thổn thức trong nước mắt. “Chưa được đâu!” Theo phong tục của những người dân vương quốc bí ẩn, khi vào rừng và gặp nỗi đau buồn lớn như thế này thì phải ở lại đó cho tới khi nỗi buồn ấy vơi đi. Khoảng thời gian đó có thể là một năm, hay cũng có thể đến mười năm.
Timoken lau nước mắt, cậu đi qua những khóm cây, Gabar ngoan ngoãn theo sau. Timoken không thể ngăn được những dòng nước mắt cứ trào ra từ khóe mắt mình, cậu cứ xăm xăm đi về phía trước cho đến khi màn đêm buông xuống. Cậu không thể dừng lại nghỉ ngơi. Cậu cũng không thể ăn hay uống. Nỗi buồn như tảng đá đen cứ đè nặng trên vai cậu, cậu không thể nào thoát khỏi nó được.
Họ vẫn tiếp tục đi trong đêm tối. Trước đây, những đàn dơi bay lượn phía trên đầu mình vào ban đêm đã làm cho Timoken rất thích thú, nhưng giờ đây, với đôi mắt sưng húp của cậu, chúng chỉ mờ ảo như những hạt bụi bay lơ lửng trên bầu trời. Tiếng kêu của những con cú mèo, ngày xưa, đã từng khiến cậu say mê lắng nghe, bây giờ đối với cậu không khác gì tiếng lá xào xạc.
Họ cắm cúi đi cho tới khi rạng sáng. Khi ánh nắng và tiếng chim hót rộn rã cả khu rừng, Timoken chợt nhận ra có điều gì đó không ổn. Cậu giật mình quay đầu ngoảnh nhìn lại.
Gabar không còn đi cùng cậu từ lúc nào.