Những nỗ lực của bạn chỉ có thể đơm hoa kết trái nếu bạn quyết không bỏ cuộc.

Napoleon Hill

 
 
 
 
 
Tác giả: Cassandra Clare
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: T Nguyen
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4031 / 74
Cập nhật: 2017-05-02 19:26:31 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
6 - Đánh Thức Người Chết
hòng của Jace vẫn gọn gàng như mọi khi – giường được gấp gọn ghẽ, sách đặt trên giá theo thứ tự bảng chữ cái, những cuốn vở và sổ ghi chép được xếp thành chồng gọn ghẽ trên bàn. Kể cả vũ khí của anh cũng xếp dọc theo tường theo trình tự về kích thước, từ thanh đao bản lớn cho tới bộ dao găm nhỏ.
Clary, đứng ở ngưỡng cửa, cố nén tiếng thở dài. Anh sống quá ư ngăn nắp. Cô luôn nghĩ, đó là cách Jace cố kiểm soát những yếu tố của cuộc sống nếu không sẽ bị những hỗn loạn làm cho điên đảo. Anh đã sống rất lâu mà không biết anh là ai – hay cái gì, cô gần như không thể bực anh vì sự cẩn thận sắp xếp những tập thơ theo thứ tự bảng chữ cái được.
Nhưng, cô có thể – và đã – bực vì việc anh không có ở đây. Nếu anh không trở về sau khi rời khỏi cửa hàng đồ cưới, vậy anh đã đi đâu? Khi nhìn quanh phòng, một cảm giác mơ hồ choáng ngợp cô. Không thể nào mà bất cứ chuyện gì trong này có thể xảy ra, đúng không? Cô đã hiểu chia tay là như thế nào qua việc nghe những cô gái phàn nàn về chúng. Đầu tiên là lảng tránh, dần dà từ chối không gọi lại hay viết thư lại. Những bức thư lập lờ chẳng nói rõ có chuyện gì không ổn, rằng người kia chỉ muốn có chút không gian riêng. Rồi sau đó bài diễn văn sẽ về “Không phải do em, mà là do tôi.” Rồi tới phần khóc lóc ỉ ôi.
Cô chưa bao giờ nghĩ chuyện của cô và Jace sẽ có một phần nào như thế. Điều họ có không hề thông thường, hay là đề tài của những luật lệ về các mối quan hệ và chia tay thông thường. Họ hoàn toàn thuộc về nhau, và sẽ luôn luôn là như thế, chắc chắn là như thế.
Nhưng có lẽ họ thường cảm thấy thế nhỉ? Tới khi họ nhận ra họ cũng giống như mọi người khác, và mọi thứ họ nghĩ sẽ thật sự vỡ vụn.
Có gì đó màu bạc lấp lánh bên trong phòng khiến cô chú ý. Đó là cái hộp cô Amatis đã đưa cho Jace, có hình trang trí xinh đẹp về những chú chim ở xung quanh. Cô biết anh đã đọc đi đọc lại nhiều lần, đọc thư rất chậm, đọc hết các ghi chú và ảnh. Anh không nói nhiều về nó cho cô nghe, và cô cũng không muốn tò mò tọc mạch. Cảm xúc của anh đối với người bố ruột là một điều anh phải tự mình cảm nhận.
Cô thấy giờ mình đang bị cái hộp thu hút. Cô nhớ anh đã ngồi ở bậc thang ở ngoài Sảnh Hiệp Định ở Idris, ôm cái hộp trong lòng. Làm như anh có thể ngừng yêu em vậy, anh đã nói thế. Cô chạm vào gáy hộp và ngón tay tay tìm thấy cái móc và mở ra dễ dàng. Bên trong là đủ các giấy tờ, những tấm ảnh cũ. Cô cầm ra một và nhìn, rất hứng thú. Có hai người trong đó, một phụ nữ và một người đàn ông trẻ tuổi. Cô ngay lập tức nhận ra đó là em gái chú Luke, cô Amatis. Cô đang nhìn vào người đàn ông đang say mê đắm đuối tình yêu đầu. Chú ấy đẹp trai, cao ráo và tóc vàng, dù mắt chú màu xanh lam chứ không phải vàng, và đường nét của chú không góc cạnh như ở Jace… và nhưng, biết chú là ai – cha của Jace – đã đủ khiến bụng cô quặn lại.
Cô đặt bức ảnh về Stehen Herodale xuống ngay, và suýt bị đứt tay vì con dao đi săn mỏng đặt ngang hộp. Những con chim được khắc trên tay cầm. Lưỡi dao đã hơi gỉ sét, hay bị dính cái gì đó giống như gỉ sét. Chắc chắn nó không được lau sạch. Cô vội đóng hộp lại, và quay đi, cảm giác tội lỗi đè nặng trên hai vai cô.
Cô đã nghĩ đến việc bỏ lại giấy nhắn, nhưng rồi quyết định sẽ ở lại đợi tới khi cô có thể trực tiếp nói chuyện với Jace, cô rời đi và xuống hành lang ra cầu thang máy. Lúc trước cô đã gõ cửa phòng Isabelle, nhưng có vẻ cô nàng cũng không có ở nhà. Kể cả những ngọn đuốc phù thùy ở các hành lang dường như cũng tối hơn bình thường. Cảm thấy cực kỳ chán nản, Clary ấn nút gọi của thang máy – và nhận ra, nó đã sáng rồi. Có ai đó đang từ tầng dưới lên trên Học Viện.
Jace, cô ngay lập tức nghĩ, nhịp đập tăng cao. Nhưng tất nhiên đó không phải anh ấy rồi, cô tự nhủ. Đó có thể là Izzy, cô Maryse, hoặc –
“Chú Luke?” cô ngạc nhiên khi thấy cửa thang máy mở. “Chú làm gì ở đây?”
“Chú đang định hỏi cháu điều tương tự đấy.” Chú rời khỏi thang máy, kéo cửa xếp lại sau lưng. Chú đang mặc một chiếc áo gió viền lông cừu ở gần khóa kéo mà mẹ Jocelyn đã cố bắt chú ném nó đi từ ngày họ bắt đầu hẹn hò. Clary nghĩ, điều đó thật tuyệt khi dường như chẳng có gì thay đổi nổi chú Luke, dù cho chuyện gì đã xảy ra trong đời chú. Chú vẫn là chú, và luôn luôn như vậy. Kể cả cho cái chú thích là chiếc áo khoác cũ mèm trong nham nhở như bị chuột gặm. “Nhưng chú đoán ra được. Vậy, thằng bé có ở đây không?”
“Jace ạ? Không chú ạ.” Clary nhún vai. Cố ra vẻ không quan tâm. “Không sao đâu ạ. Mai cháu sẽ gặp anh ấy vậy.”
Chú Luke lưỡng lự. “Clary –”
“Lucian.” Một giọng lạnh lùng vang lên từ sau họ thuộc về cô Maryse. “Cám ơn anh đã tới mà không báo trước.”
Chú quay sang gật đầu với cô. “Chào Maryse.”
Maryse Lightwood đứng ở ngưỡng cửa, bàn tay đặt hờ lên khung cửa. Bà đang đeo găng tay màu lông chuột rất hợp với bộ vét xám được may đo. Clary tự hỏi liệu có bao giờ Maryse mặc đồ bò không. Cô chưa bao giờ thấy mẹ của Isabelle và Alec mặc gì ngoài những bộ vét và đồ chiến đấu thể hiện sức mạnh. “Clary,” bà nói, “Cô không nhận ra cháu ở đây.”
Clary đỏ mặt. Maryse dường như chẳng hề phiền hà gì chuyện cô đi hay đến lúc nào, nhưng Maryse thật ra vẫn chưa hề biết rõ về mối quan hệ giữa Jace và Clary. Khó mà trách bà được. Maryse còn buồn vì sự ra đi của Max, và bà tự mình gặm nhấm nỗi đau thương đó, vì chồng bà, Robert, vẫn ở Idris. Bà có những chuyện quan trọng hơn cần suy nghĩ hơn là chuyện tình yêu tình báo của Jace.
“Cháu đang định về ạ,” Clary nói.
“Chú sẽ chở cháu về sau khi xong việc,” chú Luke nói và đặt tay lên vai cô. “Maryse, có vấn đề gì nếu Clary ở lại trong lúc chúng ta nói chuyện không? Vì tôi muốn con bé ở lại.”
Maryse lắc đầu. “Chắc không sao đâu.” Bà thở dài và vuốt tóc. “tin tôi đi, thật ra tôi không muốn làm phiền anh chút nào. Tôi biết tuần tới anh sẽ kết hôn – à mà chúc mừng anh nhé. Tôi không biết tôi đã chúc mừng chưa nữa.”
“Chưa,” chú Luke nói, “nhưng không sao đâu. Tôi cám ơn.”
“Chỉ mới sáu tuần,” Maryse cười nhẹ. “Nhưng mọi chuyện đều đảo lộn hết.”
Tay chú Luke nắm chặt lấy vai Clary, dấu hiệu duy nhất cho thấy chú đang phật ý. “Cô gọi tôi không phải chỉ để chúc mừng tôi kết hôn đấy chứ?”
Maryse lắc đầu. Clary thấy bà có vẻ mệt mỏi và giờ trên mái tóc từng rất đen của bà đã điểm thêm vài sợi bạc. “Không phải. Chắc anh đã nghe về những xác chết chúng tôi tìm thấy trong tuần qua?”
“Những xác chết Thợ Săn Bóng Tối, có nghe.”
“Chúng tôi vừa tìm thấy thêm một thi thể nữa vào tối nay. Bị nhét trong thùng Dumpster gần Công viên Columbus. Phạm vi đàn của anh hoạt động.”
Chú Luke nhướn mày. “Đúng, nhưng những xác khác –”
“Thi thể đầu tiên được tìm thấy ở Greenpoint. Địa phận của pháp sư. Xác thứ hai nổi trong hồ tại Công Viên Trung Tâm. Địa bàn của thần tiên. Giờ chúng ta có phạm vi của người sói.” Cô nhìn chú Luke. “Điều đó khiến anh nghĩ sao?”
“Có ai đó rất không hài lòng về Hiệp Định mới đang cố để Thế Giới Ngầm chống lại Thế Giới Ngầm,” chú Luke nói. “Tôi có thể đảm bảo với cô rằng đàn của tôi không liên quan tới chuyện này. Tôi không biết ai đứng đằng sau vụ này, nhưng đó là một nỗ lực hết sức vụng về, nếu cô hỏi ý kiến tôi. Tôi hy vọng Clave sẽ nhìn thấu suốt.”
“Còn nữa,” Maryse nói. “Chúng tôi đã tìm được danh tính của hai thi thể đầu tiên. Chúng tôi mất khá nhiều thời gian, vì xác đầu tiên bị thiêu rụi gần như không thể nhận dạng, còn xác thứ hai bị phân hủy ghê gớm. Anh có đoán ra họ là ai không?”
“Maryse –”
“Anson Pangborn,” cô nói, “và Charles Freeman. Tôi nên báo cho anh biết, sau khi Valentine chết, chúng ta đều không nghe được tin gì về họ –”
“Nhưng điều đó là không thể,” Clary ngắt lời. “Chú Luke đã giết chết Pangborn vào hồi tháng tám - ở Renwick’s.”
“Chú ấy giết Emil Pangborn,” cô Maryse giải thích, “Anson là em trai của Emil. Cả hai đều thuộc Hội Kín.”
“Cũng như Freeman,” chú Luke nói. “Vậy có người không chỉ giết Thợ Săn Bóng Tối mà còn chú tâm nhắm vào các cựu thành viên của Hội Kín? Và bỏ xác họ lại lãnh thổ từng giống nòi thuộc Thế Giới Ngầm một?” Chú lắc đầu. “Nghe như có kẻ đang giúp tăng thêm… số lượng thành viên thủ cựu của Hội Clave. Bắt họ phải nghĩ lại về Hiệp Định mới, có lẽ. Chúng ta đáng ra phải tính tới chuyện này.”
“Có thể,” Maryse nói. “Chúng tôi đã gặp Nữ Hoàng Seelie, và tôi đã gửi thư cho Magnus dù anh ta ở đâu.” Bà đảo mắt; Maryse và Robert dường như đã chấp nhận mối quan hệ giữa Alec với Magnus theo một cách dễ chịu tới đáng ngạc nhiên, nhưng Clary có thể đảm bảo chí ít Maryse không nghĩ đó là chuyện nghiêm túc. “Tôi chỉ cho rằng điều đó có khả năng xảy ra thôi, -” Bà thở dài. “Dạo gần đây tôi kiệt sức lắm rồi. Tôi thấy mình không thể tỉnh táo suy nghĩ nổi. Tôi hy vọng anh có thể đưa ra một vài ý kiến về hướng giải quyết. một ý tưởng gì đó mà tôi không tài nào nghĩ ra được.”
Chú Luke lắc đầu. “Có ai đó không có thiện chí với hệ thống mới. Nhưng đó có thể là bất cứ ai. Tôi đoán không có bằng chứng gì trên những xác chết?”
Maryse thở dài. “Không có gì. Giá mà người chết có thể nói, Lucian nhỉ?”
Như thể Maryse vừa giơ tay kéo tấm màn che mắt Clary vậy; mọi thứ tối sầm, trừ một biểu tượng duy nhất, treo lơ lửng như một tấm biển hiệu sáng choang nổi bật giữa màn đêm đen kịt.
Có vẻ là sức mạnh của cô không hề biến mất.
“Nếu như…” cô nói chậm, ngước mắt lên nhìn cô Maryse. “Nếu họ có thể thì sao ạ?”
Nhìn chăm chăm mình trong tấm gương nho nhỏ trong phòng tắm nhà Kyle, Simon không thể nào không băn khoăn ba cái chuyện ma cà rồng không thể soi gương tới từ đâu. Cậu thấy mình phản chiếu rõ ràng trên bề mặt tấm gương dính bụi này – mái tóc nâu bù xù, đôi mắt to màu nâu, làn da trắng không tì vết. Cậu đã lau sạch máu tứa ra ở chỗ môi bị bầm, dù da cậu có thể tự lành.
Cậu biết, nói một cách khách quan, trở thành ma cà rồng cho cậu vẻ ngoài quyến rũ hơn. Isabelle đã giải thích rằng các chuyển động của cậu giờ trở nên thanh lịch và, dù trước đây cậu thấy mình lôi thôi lếch thếch thế nào thì giờ cậu mang một vẻ đẹp theo kiểu bất cần, như thể vừa bước dậy khỏi giường. “Giường của một người khác,” cô đã nhắc thế, và cậu đã đáp rằng mình đã đoán ra ý cô là gì, cảm ơn.
Nhưng khi tự ngắm mình, cậu không hề thấy điều đó. Như thường lệ, làn da trắng chẳng thấy lỗ chân lông làm cậu khó chịu, cũng như những đường gân đen chạy như mạng nhện hiện rõ trên thái dương – bằng chứng cho thấy hôm nay cậu chưa uống máu. Cậu thấy mình xa lạ và không giống cậu. Có lẽ cái chuyện “khi thành ma cà rồng, bạn không thể nhìn mình trong gương” là một sự ước ao. Cũng có thể đơn giản là vì hình ảnh bạn thấy trong gương kia chẳng còn là bạn của ngày xưa cũ nữa.
Tắm rửa xong, cậu trở lại phòng khách, bắt gặp Jace đang nằm dài trên ghế sô pha nệm mút, đọc cuốn Chúa tể Những chiếc nhẫn đã rách tươm của Kyle. Anh bỏ nó xuống bàn khi Simon vào. Tóc anh trông ướt như vừa té nước lên mặt trong bồn rửa bát vậy.
“Tôi hiểu vì sao cậu thích ở đây,” anh nói và đưa tay chỉ toàn bộ những bộ sưu tập poster film và những cuốn sách khoa học viễn tưởng của Kyle. “Ở đây có một lớp mọt sách mỏng bao phủ toàn bộ mọi thứ.”
“Cám ơn.” Simon lườm Jace. Ở gần, dưới cái ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn trên đầu, Jace trông có vẻ - ốm. Simon nhận thấy bọng mắt của anh rõ ràng hơn bao giờ hết, còn lớp da những căng trên xương mặt. Tay Jace hơi run khi gạt những sợi tóc lòa xòa trên trán theo một cách rất Jace.
Simon lắc đầu để xua ý nghĩ đó đi. Từ khi nào mà cậu biết Jace tới mức hiểu đâu là hành động rất Jace vậy? Họ còn chẳng phải bạn nữa là. “Trông anh khá tệ đấy,” cậu nói.
Jace chớp mắt. “Hình như giờ không phải lúc hay ho để khơi mào cuộc thi thóa mạ đâu, nhưng nếu cậu muốn, tôi có thể nghĩ ra cái gì đó hay ho đấy.”
“Không, tôi nói thật đấy. Trông anh không ổn.”
“Một lời nhận xét từ một gã chỉ có mức cuốn hút nữ giới ngang với một con chim cánh cụt. Nghe này, tôi nhận ra có thể cậu ghen tị vì Chúa trời đã không ban cho cậu vẻ đẹp mã như tôi, nhưng đó không phải lý do để -”
“Tôi không có ý xúc phạm anh,” Simon quát. “Ý tôi là trông anh như bị ốm ấy. Lần cuối anh bỏ gì đó vào bụng là khi nào?”
Jace ngẫm nghĩ. “Hôm qua thì phải?”
“Anh đã ăn gì đó hôm qua. Anh chắc không?”
Jace nhún vai. “Ờ, tôi không thề trên một chồng Kinh Thánh đâu. Nhưng tôi nghĩ là hôm qua thật.”
Simon đã kiểm tra tủ lạnh của Kyle khi xem xét nơi này, và ở đó cũng chẳng có gì nhiều. Một quả chanh héo khô héo quắt, vài lon xô đa, một pound thịt xay, và không thể hiểu nổi vì sao Kyle chỉ có một hộp Pop-Tart duy nhất trong tủ lạnh. Cậu lấy chìa khóa ở quầy bếp. “Đi nào,” cậu nói. “Có một siêu thị ở góc đường. Chúng ta sẽ mua cho anh ít đồ ăn.”
Jace hình như đang có hứng thú phản đối, nhưng sau rồi chỉ nhún vai. “Được,” anh nói, giọng của một người không quan tâm nhiều tới chuyện họ đi đâu hay sẽ làm gì ở đó. “Đi nào.”
Ra ngoài cửa tòa nhà, Simon loay hoay khóa cửa bằng những cái chìa mà giờ cậu vẫn chưa nhớ cái nào đi với ổ nào, trong khi Jace kiểm tra danh sách những cái tên bên cạnh chuông cửa của từng căn hộ. “Đó là phòng của cậu, đúng không?” anh hỏi và chỉ vào cái chuông phòng 3A. “Sao chỉ ‘Kyle’ thôi nhỉ? Anh ta không có họ à?”
“Kyle muốn trở thành một ngôi sao nhạc rock,” Simon nói và đi xuống bậc tam cấp. “Tôi nghĩ chắc anh ta thích có một cái tên cộc lốc. Như kiểu Rihanna ấy.”
Jace đi theo, vai hơi dồ lên dưới con gió lạnh, dù anh không hề có ý kéo khóa chiếc áo anh lấy từ chỗ Clary lúc trước. ‘Tôi chẳng hiểu cậu đang nói cái gì.”
“Tôi biết mà.”
Khi họ vào ở góc tường tới Đại lộ B, Simon liếc Jace. “Vậy,” cậu nói. “Anh theo dõi tôi đấy à? Hay chỉ là thật là tình cờ và thật là bất ngờ anh đang ở trên mái nhà tôi đi ngang qua lúc tôi bị tấn công?”
Jace dừng lại nơi góc tường, đợi đèn giao thông chuyển màu. Rõ ràng là Thợ Săn Bóng Tối vẫn phải tuân thủ luật lệ giao thông như thường. “Tôi đi theo cậu.”
“Giờ là đến phần anh nói anh yêu thầm tôi hả? Bùa chú ma cà rồng lại có tác dụng rồi.”
“Làm gì có cái gọi là bùa chú ma cà rồng chứ,” Jace nói, rõ ràng đang eo éo nhại lại lời nhận xét lúc trước của Clary. “Chính ra tôi đi theo Clary nhưng Clary lên taxi mà tôi thì không đuổi theo nổi. Thế là tôi quyết định đi theo cậu. Chủ yếu là để có việc mà làm.”
“Anh đi theo Clary?” Simon nhắc lại. “Có một kinh nghiệm anh nên biết này: hầu hết các cô gái không thích bị theo đuôi.”
“Clary bỏ quên điện thoại trong túi áo tôi,” Jace nói và vỗ vỗ túi áo bên trái, nơi, có thể, chiếc điện thoại đang yên vị, “Tôi nghĩ nếu biết nơi Clary tới, tôi có thể bỏ nó lại chỗ đó cho Clary.”
“Hoặc,” Simon nói, “anh có thể gọi tới nhà Clary và nói rằng anh cầm điện thoại bạn ấy, và bạn ấy nên tới lấy điện thoại.”
Jace chẳng nói chẳng rằng. Đèn đổi màu, và họ đi qua đường sang siêu thị C-Town. Nó vẫn mở cửa. Simon để ý thấy các siêu thị ở Manhattan chẳng bao giờ đóng cửa, và đó là cả một thay đổi hay ho so với Brooklyn. Manhattan chốn sinh sống tốt cho ma cà rồng. Bạn có thể nửa đêm đi ra ngoài mua đồ mà chẳng ai thấy đó là việc quái dị.
“Anh đang tránh mặt Clary,” Simon nhận xét. “Tôi không nghĩ anh muốn nói cho tôi lý do đâu nhỉ?”
“Không,” Jace nói. “Cứ coi là cậu may mắn khi tôi đã đi theo cậu, hoặc -”
“Hoặc sao? Một kẻ trấn lột nữa sẽ chết à?” Simon nghe ra sự đắng nghét trong giọng cậu. “Anh thấy chuyện xảy ra rồi đấy.”
“Đúng. Và tôi thấy vẻ mặt cậu khi chuyện đó xảy ra.” Giọng Jace bình thường. “Đây không phải lần đầu tiên cậu thấy chuyện đó, đúng không?”
Simon kể cho Jace nghe về kẻ mặc bộ đồ gió đã tấn công cậu ở Williamburg, và sao cậu lại nghĩ hắn là một kẻ trấn lột. “Sau khi hắn chết, hắn biến thành muối,” cậu kết thúc câu chuyện. “Gã thứ hai cũng vậy. Tôi đoán đây chính là điều được nhắc tới trong Kinh Thánh. Những cột muối. Như vợ của Lot[1].”
[1] Sáng thế ký 19 kể rằng một ngày nọ có hai thiên thần tới thành Sodom và được Lot mời ở lại qua đêm ở nhà ông. Sáng hôm sau thiên thần giục họ đi nhanh bỏ chạy trước khi Chúa trời giáng nạn xuống thành. Ông Lot cầu xin cho được sống ở một thị trấn gần đó(được biết tới là Zoar) và được chấp nhận. Khi ông Lot và gia đình bỏ chạy, bà vợ vì tiếc nuối cuộc sống sung túc ở nơi đó nên quay đầu nhìn và bị biến thành một cột muối.
Hai anh chàng đã tới siêu thị; Jace đẩy cửa và Simon đi theo anh ta vào, nắm lấy cái xe đẩy bạc trong một hàng xe tại cửa trước. Cậu bắt đầu đẩy nó đi dọc theo một dãy hàng còn Jace đi theo sau, rõ ràng đang ngẫm ngợi gì đó. “Vậy tôi nghĩ vấn đề là,” Jace nói, “cậu có biết ai muốn giết cậu không?”
Simon nhún vai. Nhìn thấy bao nhiêu là thức ăn xung quanh mình khiến bụng cậu quặn lại, nhắc cậu nhớ mình đang đói thế nào, dù cậu chẳng ăn được bất cứ thứ gì trong các món họ bán ở đây. “Có lẽ là Raphael. Anh ta có vẻ ghét tôi. Và anh ta muốn tôi chết trước khi -”
“Không phải Raphael đâu,” Jace nói.
“Sao anh chắc thế?”
“Vì Raphael biết về Ấn Ký của cậu và không ngu tới mức tấn công trực tiếp như thế. Anh ta biết chính xác chuyện sẽ xảy ra. Dù ai đang muốn giết cậu, đó phải là người biết rõ về nơi cậu sẽ tới nhưng lại không biết về Ấn Ký.”
“Nhưng đó có thể là bất cứ ai.”
“Chính xác,” Jace nói và cười toe toét. Trong một thoáng, trông anh ta khá giống Jace của thời gian trước.
Simon lắc đầu. “Nghe này, anh có biết anh muốn ăn gì, hay chỉ muốn nhìn tôi đẩy xe cho vui thôi?”
“Chắc rồi,” Jace nói, “và tôi không biết rõ cửa hàng tạp hóa của người thường bán gì. Thường thì mẹ Maryse sẽ nấu hoặc không chúng tôi gọi đồ ăn về nhà.” Anh nhún vai, và cầm một khay hoa quả thái sẵn lên. “Cái gì đây?”
“Xoài.” Simon nhìn Jace. Đôi khi cậu cảm thấy Thợ Săn Bóng Tối với người ngoài hành tinh chẳng có mấy khác biệt.
“Tôi không nghĩ sẽ nhìn thấy một quả nào đã được cắt sẵn miếng thế này,” Jace hứng thú. “Tôi thích ăn xoài.”
Simon cầm lấy chỗ xoài đó và vứt vào xe đẩy. “Tuyệt. Anh thích gì nữa không?”
Jace nghĩ ngợi một lát. “Súp cà chua,” cuối cùng anh nói.
“Súp cà chua? Anh muốn súp cà chua và xoài cho bữa tối?”
Jace nhún vai. “Ăn gì chẳng được.”
“Được. Gì cũng được. Ở nguyên đây. Tôi sẽ trở lại ngay.” Thợ Săn Bóng Tối. Simon thầm bực bội khi ngoặt xe đẩy vào góc một gian hàng xếp đầy những lon súp. Họ là sự kết hợp của những tỉ phú – những người chẳng bao giờ thèm đắn đo suy nghĩ tới những phần nhỏ nhặt của cuộc sống, giả dụ như mua thức ăn, sử dụng thẻ MetroCard để đi tàu điện ngầm – và những người lính, với tính kỉ luật cứng nhắc và sự luyện tập thường xuyên. Khi cầm lấy một lon súp, cậu bỗng nghĩ tới họ, có khi đi lại giữa đời mà chẳng ai biết tới lại hóa hay. Khi đó, bạn sẽ tập trung vào những điều vĩ đại hơn – mà trong trường hợp này là giữ thế giới khỏi nanh vuốt của lũ quỷ, một điều quá vĩ đại ấy chứ.
Khi gần về tới gian hàng cậu bỏ Jace lại, cậu sắp thông cảm cho anh ta thì bỗng dưng cậu – đứng khựng lại. Jace đang dựa người vào xe đẩy, xoay cái gì đó trong tay. Từ khoảng cách này Simon không biết đó là gì, và cậu không thể tới gần hơn vì có hai cô gái đang chắn đường, đứng ở giữa hành lang cười khúc khích và ghé đầu sát vào nhau thì thầm theo kiểu của bọn con gái. Họ rõ ràng đã qua hai tuổi hai mốt, đi giày cao gót và mặc váy ngắn, áo lót nâng ngực và không thèm mặc áo khoác để tránh lạnh.
Họ có mùi son môi. Mùi son môi, phấn rôm và máu.
Tất nhiên cậu thừa sức nghe rõ câu chuyện của họ, dù họ đang thì thầm. Họ nói về Jace, anh ta đẹp trai ra sao, và hai cô nàng đang thách nhau tới bắt chuyện với anh ta. Họ nói rất nhiều về mái tóc cũng như cơ bắp của Jace, mặc dù họ làm cách nào để nhìn xuyên qua quần áo Jace thì Simon không rõ. Rõ bệnh, cậu nghĩ. Chuyện này lố bịch thật. Cậu đang định nói “Xin tránh đường,” thì cái cô tóc đen, cao hơn trong hai người không nói nữa và đánh hông đi ra chỗ Jace, hơi chệnh choạng trên đôi giày cao gót. Jace ngước nhìn khi cô gái tiến tới, đôi mắt anh hiện rõ sự cảnh giác. Simon đột nhiên sợ rằng biết đâu Jace lại nghĩ cô ta là một ma cà rồng hay một dạng yêu quái và anh ta sẽ rút con dao thiên thần, cắt hai cô gái kia làm mấy khúc.
Cậu không cần phải lo lắng. Jace chỉ nhướn mày. Cô gái kia nói liến thoắng gì đó với Jace; anh nhún vai; cô ta nhét gì đó vào tay anh rồi vội vàng trở lại chỗ cô bạn. Họ gõ guốc lộp cộp vừa rời cửa hàng và nhìn nhau cười khúc khích.
Simon tới chỗ Jace và ném cái lon súp vào xe đẩy. “Chuyện gì thế?”
“Tôi nghĩ,” Jace nói, “cô ta hỏi liệu có thể chạm vào khay xoài của tôi được không.”
“Cô ta nói thế sao?”
Jace nhún vai. “Ờ, rồi cô ta đưa tôi số điện thoại.” Anh đưa cho Simon xem mẩu giấy với vẻ hững hờ, rồi ném nó vào trong xe đẩy. “Giờ chúng ta đi được chưa?”
“Anh không định gọi cho cô ta chứ?”
Jace nhìn Simon như thể cậu bị điên.
“Quên điều tôi vừa nói đi.” Simon nói. “Mấy kiểu chuyện này xảy ra với anh suốt, đúng chứ? Chuyện con gái cứ lao vào anh ấy?”
“Chỉ khi tôi không dùng phép ẩn thân thôi.”
“Đúng, vì khi đó, các cô gái klhông thể nhìn thấy anh, vì anh vô hình.” Simon lắc đầu. “Anh là mối đe dọa với cộng đồng. Anh không nên cho mình ra ngoài chứ.”
“Ghen tị là xấu lắm nhé, Lewis.” Jace cười nhăn nhở mà trong những hoàn cảnh bình thường sẽ khiến Simon muốn cho anh ta lỗ mũi ăn trầu. Nhưng không phải lần này. Cậu chỉ nhận ra cái vật anh ta xoay đi xoay lại trong tay như một thứ quý giá hoặc nguy hiểm hoặc cả hai. Đó là điện thoại của Clary.
“Chú vẫn không nghĩ đây là ý kiến hay,” chú Luke nói.
Clary, khoanh tay trước ngực để bớt đi cái lạnh của Thành phố Câm Lặng đang len lỏi vào người cô, liếc sang chú. “Có lẽ chú nên nói trước khi chúng ta tới đây.”
“Chú khá chắc là chú đã nói. Vài lần.” Giọng chú Luke vang vọng qua những hàng cột đá ở trên cao có đính những dải đá bán quý – đá mã não đen, carnelian màu đỏ hồng, và đá xanh dương. Đèn phù thủy màu bạc cháy trên những ngọn đuốc gắn trên cột, tỏa sáng những hầm mộ nằm dọc các bức tường thành màu sáng lóa khiến người ta phát đau mắt.
Hầu như Thành phố Câm Lặng chẳng thay đổi gì nhiều kể từ lần cuối Clary tới đây. Nó vẫn cho người ta cảm giác xa lạ và xa cách, dù giờ với cô, những chữ rune khắp trên sàn nhà được khắc theo vòng xoắn và những họa tiết cắt sâu đã có ý nghĩa chứ không hoàn toàn vô nghĩa như trước kia. Maryse đã bỏ cô và chú Luke ở trước lối vào căn phòng ngay khi họ tới để đi thảo luận với các Tu Huynh Câm. Cô đã báo cho Clary biết trước rằng chưa chắc họ sẽ cho ba người xem thi thể. Những Nephilim đã chết do các hộ vệ của Thành phố Xương bảo vệ, và không ai khác có quyền đối với họ nữa.
Nhưng giờ cũng chẳng còn nhiều hộ vệ nữa. Valentine đã giết gần hết họ trong khi tìm Kiếm Thánh, chỉ còn sót lại vài người không có mặt tai Thành phố Câm Lặng vào giờ phút đó. Đã có thêm những thành viên mới gia nhập kể từ đó, nhưng Clary không nghĩ có hơn mười hay mười lăm Tu Huynh Câm trong thế giới này.
Tiếng giày cao gót của Maryse nện trên nền đá báo cho hai người họ biết về bà trước khi bà thật sự xuất hiện với một Tu Huynh Câm mặc áo choàng đi ngay sau. “Hai người đây rồi,” bà nói, như thể Clary và chú Luke không ở đúng nơi mà bà bỏ họ lại. “Đây là Tu Huynh Zachariah. Tu Huynh Zachariah, đây là cô gái tôi vừa nói cho anh nghe.”
Tu Huynh Câm hơi gạt mũ trùm che mặt. Clary cố nén cơn ngạc nhiên. Anh ta không hề giống Tu Huynh Jeremiah, người có đôi hốc mắt trống rỗng và cái miệng bị khâu lại. Đôi mắt Tu Huynh Zachariah nhắm nghiền, đôi gò má cao có hai vết sẹo của một chữ rune đen duy nhất. Tuy nhiên, mồm anh ta chưa bị khâu chặt lại, và cô không nghĩ anh ta đã cạo đầu. Tuy nhiên, với cái mũ đội sùm sụp trên đầu vị Tu Huynh kia thì cô khó lòng biết được anh ta có tóc hay không.
Cô nghe thấy giọng anh ta chạm tới đầu óc mình. Em tin mình thật sự có thể làm điều này sao, con gái của Valentine?
Cô đỏ mặt. Cô ghét bị nhắc cô là con của ai.
“Chắc chắn anh đã nghe về những việc khác cô bé đã làm,” chú Luke nói. “Chữ rune Đồng Hành đã giúp chúng ta kết thúc cuộc Thánh Chiến.”
Tu Huynh Zachariah kéo mũ che mặt. Cùng tôi đi tới phòng di cốt.
Clary nhìn chú Luke, mong nhận một cái gật đầu khích lệ, nhưng chú cứ nhìn thẳng và đẩy gọng kính như mỗi khi lo lắng. Với một tiếng thở dài, cô đi theo Maryase và Tu Huynh Zachariah. Anh ta đi lại êm như sương, trong khi tiếng giày cao gót của Maryse nghe như tiếng súng nổ đì đoành trên nền đá cẩm thạch. Clary tự hỏi liệu việc Isabelle thích sử dụng những đôi giày chẳng thích hợp với hoàn cảnh chiến đấu có phải được di truyền không.
Họ đi trên con đường ngoằn ngoèo qua các hàng cột, qua sảnh lớn của Ngôi Sao Tiên Tri, nơi lần đầu tiên các Tu Huynh Câm nói cho Clary biết về Magnus Bane. Bên kia sảnh là một cánh cửa hình vòm bằng sắt khổng lồ. Trên bề mặt chúng là những chữ rune được khắc vào đó mà Clary nhận ra mang ý nghĩa chết và an nghỉ. Trên hai cánh cửa có viết những lời đề tự khiến Clary ước giá cô mang theo sổ để ghi lại. So với các Thợ Săn Bóng Tối khác, trình độ tiếng Latinh của Clary quá kém; hầu hết bọn họ sử dụng nó như ngôn ngữ thứ hai vậy.
Taceant Colloquia. Effugiat risus. Hic locus est ubi mors gaudet succurrere vitae.
“Hãy ngừng nói chuyện. Hay ngừng cười đùa,” chú Luke đọc lớn. “Đây là nơi người chết vui lòng dạy người sống.”
Tu Huynh Zachariah đặt tay lên cửa. Người chết gần đây nhất sẵn sàng cho em gặp mặt. Em đã chuẩn bị tinh thần chưa?
Clary nuốt nước bọt, tự hỏi rằng không hiểu mình đã tự lôi mình vào chuyện gì. “Tôi đã sẵn sàng.”
Cánh cửa mở rộng, và họ bước vào. Bên trong căn phòng lớn, không cửa sổ với những bức tường bằng đá cẩm thạch trắng. Trong đó chẳng có gì ngoài vài cái móc treo vài thứ dụng cụ giải phẫu màu bạc: những con dao mổ sáng loáng, vài thứ giống như búa, dụng cụ cưa xương và dụng cụ vạch lồng ngực. Và bên cạnh chúng, nằm trên các giá là những dụng cụ còn kỳ quái hơn: những công cụ giống như cái mở nắp chai, những mảnh giấy nhám và những chai đựng chất lỏng đủ màu sắc khác nhau, bao gồm cả cái chai màu xanh lá có dán nhãn “axit” đang bốc khói.
Ở những phòng có đặt một dãy bàn đá cẩm thạch cao cao. Hầu hết đều trống trải. Có ba bàn đặt xác và Clary có thể thấy hai trong số ba cái xác đó đã được quấn trong lớp vải trắng. Ở bàn thứ ba là một cái xác khác, lớp vải được kéo xuống dưới mạng sườn. Qua tấm thân để trần từ thắt lưng đổ lên, Clary nhận thấy xác chết đó rõ ràng là của một người đàn ông, và là một Thợ Săn Bóng Tối. Nước da trắng ởn của xác chết vằn vện những Ấn Ký. Đôi mắt người chết được che bằng vải lụa trắng, đúng như tập tục của Thợ Săn Bóng Tối.
Clary ném cảm giác buồn nôn xuống và đứng bên cạnh xác. Chú Luke đi cùng, bàn tay đặt lên tay cô đầy che chở; Maryse đứng đối diện với họ, quan sát mọi thứ bằng đôi mắt xanh lam tò mò, rất giống với đôi mắt của con trai bà, Alec.
Clary rút thanh stele từ trong túi ra. Cô có thể cảm thấy cái lạnh buốt từ lớp cẩm thạch xuyên qua lớp áo khi nhoài người lên người chết. Ở gần thế này, cô có thể thấy rõ từng chi tiết – mái tóc hắn mang màu nâu đỏ, còn cổ họng bị xé toạc như bởi một bàn tay to lớn.
Tu Huynh Zachariah vươn tay và bỏ cái khăn bịt mắt của người chết. Bên dưới đó, đôi mắt đang nhắm. Em có thể bắt đầu.
Clary hít một hơi sâu và ấn đầu mũi stele lên cánh tay thi thể Thợ Săn Bóng Tối. Chữ rune cô đã nhìn thấy lúc trước, ở cửa Học Viện, trở lại với cô rõ ràng như những chữ cái trong tên cô vậy. Cô bắt đầu vẽ.
Những nét Ấn Ký màu đen tuyền uốn lượn xuất hiện từ đầu mũi stele hệt như thường lệ - nhưng tay cô cảm thấy nặng trịch, đầu mũi thanh stele chỉ hơi dịch đi chút đỉnh, như thể cô đang vẽ trên bùn chứ không phải trên da người. Cô có cảm giác như thanh stele của cô đang bối rối, đang trượt đi trên làn da người chết để tìm kiếm linh hồn còn sống đã không còn ngự trị trong thể xác này. Dạ dày Clary quặn lên từng đợt, và khi vẽ xong và rút thanh stele lại, cô toát mồ hôi và thấy váng vất.
Trong một lúc lâu chẳng có gì xảy ra. Rồi, với một sự đột ngột ghê rợn, đôi mắt Thợ Săn Bóng Tối đã chết bật mở. Chúng mang màu xanh lam. Lòng trắng vằn những tia máu.
Maryse thở hắt một hơi dài. Rõ ràng bà không tin chữ rune sẽ có tác dụng. “Lạy Thiên Thần.”
Tiếng thở ồ ồ vang lên từ người chết, tiếng của người cố hô hấp qua cái cổ bị cắt tung. Vùng da cổ bùng nhùng của hắn phập phồng như mang cá. Ngực hắn phập phồng lên xuống, những lời nói phát ra khỏi miệng.
“Đau lắm.”
Chú Luke chửi thề và liếc nhìn Zachariah nhưng người Tu Huynh Câm không biểu lộ chút cảm xúc nào.
Maryse tới gần bàn hơn, đôi mắt đột nhiên sắc sảo, gần như một con thú săn mồi. “Thợ Săn Bóng Tối,” cô nói. “Anh là ai? Tôi muốn biết tên anh.”
Đầu người chết lắc sang hai bên. Bàn tay hắn giơ lên rồi thả xuống một cách dữ dội. “Đau… hãy ngừng nó lại.”
Thanh stele của Clary suýt tuột khỏi tay. Chuyện này tệ hơn điều cô đã tưởng tượng quá nhiều. Cô nhìn chú Luke, người đã lùi khỏi bàn, mắt mở to hoảng hốt.
“Thợ Săn Bóng Tối,” Giọng cô Maryse vô cùng độc đoán. “Ai làm chuyện này với anh.”
“Làm ơn…”
Chú Luke quay phắt lại, lưng quay lại với Clary. Chú có vẻ đang lục lọi đồ đạc của Tu Huynh Câm. Clary đứng chết lặng khi đôi bàn tay đeo găng xám của Maryse giơ ra và nắm lấy vai xác chết, những ngón tay bấu chặt. “Nhân danh Thiên Thần, tôi ra lệnh cho anh phải trả lời!”
Thợ Săn Bóng Tối kêu lên những tiếng như bị nghẹn. “Cư dân Thế Giới Ngầm… ma cà rồng…”
“Ma cà rồng nào?” Maryse hỏi.
“Camille. Ma cà rồng trưởng lão…” Lời nói nghẹn lại khi dòng máu đen đông đặc phun ra từ miệng xác chết.
Maryse há hốc miệng và rụt tay lại. Đúng lúc đó, chú Luke trở lại, cầm theo một chai axít màu xanh lá mà Clary đã nhìn thấy lúc trước. Với một cử động duy nhất, chú giật cái nút và đổ axít lên Ấn Ký trên tay xác chết để xóa nó đi. Xác chết chỉ ré lên một tiếng duy nhất khi da thịt hắn sôi xèo xèo – và rồi hắn đổ sụp xuống bàn, đôi mắt mất hết sinh khí và mở trân trân, điều gì đã khiến cái xác cử động lúc nãy giờ đã biến mất.
Chú Luke đặt cái lọ trống xuống bàn. “Maryse.” Giọng chú quở trách. “Đây không phải cách chúng ta đối xử với người chết.”
“Tôi mới là người quyết định chúng tôi đối xử với người chết như thế nào, cư dân Thế Giới Ngầm ạ.” Cô Maryse mặt mũi trắng bệch, má lấm tấm máu. “Giờ chúng ta đã có cái tên. Camille. Có lẽ chúng ta có thể ngăn việc nhiều người chết hơn.”
“Có những điều còn kinh khủng hơn là chết.” Chú Luke đưa tay ra với Clary nhưng không nhìn cô. “Đi nào, Clary. Chú nghĩ đã đến lúc chúng ta phải đi rồi.”
* * *
“Vậy cậu không thể nghĩ ra ai muốn giết cậu?” Jace hỏi, không phải lần đầu tiên. Họ đã xem đi xem lại danh sách vài lần, và Simon đã chán với việc phải bị chất vấn bằng những câu hỏi lặp đi lặp lại. Đấy là còn chưa kể cậu nghĩ Jace cũng chỉ chú tâm có chút xíu. Dù đã ăn món súp Simon mua – lạnh, đổ ra khỏi lon, ăn bằng thìa, khiến Simon không khỏi thấy ghê ghê – cậu dựa người vào cửa sổ, rèm hơi kéo ra để có thể nhìn dòng phương tiện đi lại trên Đại lộ B, và những ô cửa sổ sáng ánh đèn của những căn hộ bên kia đường. Qua đó Simon có thể thấy mọi người đang ăn tối, xem TV, và ngôi quanh bàn trò chuyện. Những điều bình thường mà những người bình thường làm. Nó khiến cậu có cảm giác khó chịu kỳ lạ.
“Không giống như anh,” Simon nói, “tôi không bị nhiều người ghét lắm.”
Jace lờ đi. “Cậu có chuyện không cho tôi biết.”
Simon thở dài. Cậu không muốn nói gì về lời đề nghị của Camille, nhưng vì có người muốn giết cậu, dù không thành công, nên có lẽ chuyện giữ bí mật không phải ưu tiên hàng đầu nữa rồi. Cậu giải thích chuyện đã xảy ra trong buổi gặp mặt với nữ ma cà rồng trong khi Jace chăm chú lắng nghe.
Khi cậu nói xong, Jace bảo, “Thú vị đấy, nhưng có lẽ cô ta không phải kẻ muốn giết cậu. Cô ta biết về Ấn Ký của cậu. Và tôi không chắc cô ta muốn bị bắt vì tội vi phạm Hiệp Định như vậy. Khi cư dân Thế Giới Ngầm lớn tuổi, họ thường biết cách tránh rắc rối.” Anh ta bỏ lon súp xuống. “Chúng ta có thể ra ngoài tiếp,” anh đề nghị. “Xem chúng có thử tấn công lần thứ ba không. Nếu chúng ta có thể tóm được một tên, biết đâu chúng ta sẽ -”
“Không,” Simon nói. “Vì sao anh luôn cố giết mình chứ?”
“Đó là việc của tôi.”
“Đó là chướng ngại vật cho công việc của anh. Ít nhất là cho hầu hết các Thợ Săn Bóng Tối. Còn anh hình như làm thế có mục đích.”
Jace nhún vai. “Bố tôi luôn nói -” Anh ngừng nói, gương mặt nghiêm lại. “Xin lỗi. Tôi muốn nói Valentine. Nhân danh Thiên Thần. Mỗi lần tôi gọi ông ta như thế, tôi cảm thấy như tôi đang phản bội bố đẻ mình.”
Simon cảm thấy thông cảm cho Jace. “Nghe này, anh đã tưởng ông ấy là bố mình trong bao nhiêu năm nhỉ, mười sáu năm? Anh không thể quên đi điều đó trong ngày một ngày hai. Và anh chưa bao giờ gặp người thật sự là bố anh. Và chú ấy mất rồi. Và anh không phải thật sự phản bội ông ấy. Chỉ cần anh là người có hai ông bố là được.”
“Cậu không thể có hai ông bố.”
“Chắc chắn có thể chứ.” Simon nói. “Ai nói anh không thể nào? Chúng ta có thể mua cho anh một trong những cuốn sách dành cho trẻ con. Timmy có hai ông bố. Trừ việc tôi không nghĩ họ có bản cuốn Timmy có hai ông bố và một người độc ác. Phần đó anh phải tự mình giải quyết thôi.”
Jace đảo mắt. “Thật hay làm sao,” anh nói. “Cậu biết tất cả những từ đó, chúng đều là tiếng Anh, nhưng khi cậu xâu chuỗi chúng với nhau, chúng chẳng có nghĩa gì hết.” Anh ta chạm nhẹ vào rèm cửa sổ. “Tôi không mong cậu hiểu.”
“Bố tôi đã qua đời,” Simon nói.
Jace quay sang nhìn cậu. “Sao cơ?”
“Vậy là anh không biết,” Simon nói. “Ý tôi là, anh đâu có định hỏi hay đặc biệt hứng thú chút nào với tôi. Vâng, đúng. Bố tôi đã qua đời. Vậy chúng ta có điểm chung.” Đột nhiên thấy kiệt sức, cậu dựa lại vào nệm ghế. Cậu thấy mệt mỏi, chóng mặt và buồn nôn – cảm giác mệt mỏi cực độ dường như ngấm vào tận xương. Jace, ngược lại, có vẻ có một nguồn năng lượng dồi dào khiến Simon phát bực. Nhìn anh ta ăn súp cà chua cũng chẳng dễ dàng gì. Nó quá giống máu.
Jace nhìn. “Đã bao lâu rồi cậu chưa… ăn? Trông cậu tệ lắm.”
Simon thở dài. Cậu nghĩ không thể nói gì, sau khi ép Jace nhét gì vào họng. “Đợi đã,” cậu nói. “Tôi trở lại ngay.”
Đứng dậy, cậu trở vào phòng khách và lấy chai máu cuối cùng từ dưới giường ra. Cậu cố không nhìn – máu hỏng thật ghê rợn. Cậu lắc mạnh cái chai trong khi trở lại phòng khách, nơi Jace vẫn đang nhìn ra ngoài cửa sổ.
Dựa người vào quầy bếp, Simon khui chai máu và uống một ngụm. Thường thì cậu không uống máu trước mặt người khác, nhưng đây là Jace, và cậu không quan tâm xem Jace nghĩ gì. Hơn nữa, không phải Jace chưa từng thấy cậu uống máu. Ít nhất Kyle không ở nhà. Nếu không thật khó giải thích cho anh bạn cùng phòng mới này. Không ai thích một gã chứa máu trong tủ lạnh.
Hai Jace đang nhìn cậu – một Jace thật, một Jace trên cửa kính. “Cậu không thể bỏ ăn được, cậu biết không.”
Simon nhún vai. “Giờ tôi đang ăn đây thôi.”
“Đúng,” Jace nói, “nhưng cậu là ma cà rồng. Máu với cậu không giống thức ăn. Máu là… máu.”
“Thật rõ nghĩa làm sao.” Simon ngồi phịch xuống cái ghế đối diện TV; chắc nó từng bọc nhung màu vàng nhạt nhưng giờ đã phai sang xám xỉn. “Anh có nhiều suy nghĩ sâu sắc như thế nữa không? Máu là máu? Lò nướng là lò nướng? Quái vật thạch là Quái vật thạch?[2]
[2] Nguyên văn Gelatinuos Cube: một loại quái vật thạch trong suốt trong game Dungeon & Dragon.
Jace nhún vai. “Được. Quên lời khuyên của tôi đi. Rồi cậu sẽ thấy hối tiếc đấy.”
Trước khi Simon kịp trả lời, cậu nghe thấy tiếng cửa trước mở. Cậu lườm xéo Jace. “Đấy là bạn cùng phòng của tôi, Kyle. Tỏ ra tử tế chút nhé.”
Jace cười giả lả. “Lúc nào tôi chẳng tử tế.”
Simon không kịp trả lời theo như cậu muốn, vì một lát sau Kyle đã vào phòng, mắt sáng rực và tràn đầy năng lượng. “Bạn hiền, hôm nay tôi đã rong ruổi khắp thị trấn nhé,” anh ta nói. “Tôi suýt lạc, nhưng cậu biết họ nói gì rồi đấy. Trên Bronx, dưới là Battery -” Anh ta nhìn Jace, muộn màng nhận ra có người khác trong phòng. “À, xin chào. Tôi không biết cậu có bạn sang chơi.” Anh ta giơ tay chào. “Tôi là Kyle.”
Jace không trả lời. Simon ngạc nhiên khi thấy Jace đứng đờ người, đôi mắt vàng nheo lại, toàn bộ cơ thể thể hiện rằng sự cẩn trọng của Thợ Săn Bóng Tối đã chuyển anh ta từ một cậu thiếu niên bình thường thành một cái gì đó hơn thế.
“Thú vị,” cậu nói. “Anh biết không, Simon chưa bao giờ nói cho tôi hay cậu ta có anh bạn cùng phòng là người sói.”
Clary và chú Luke gần như đi hết đoạn đường về Brooklyn trong im lặng. Clary nhìn ra ngoài cửa xe, quan sát Chinatown vụt qua, và rồi cầu Williamsburg tỏa sáng như một chuỗi dây chuyền kim cương trong màn đêm. Ở xa xa, bên kia dòng sâu nước đen, cô có thể thấy Renwick’s vẫn sáng đèn như thường lệ. Giờ nó lại giống một đống đổ nát với những ô cửa sổ tối om như những cái hốc mắt. Giọng của người Thợ Săn Bóng Tối vang lên trong đầu cô:
Đau… Hãy ngừng nó lại.
Cô rùng mình và kéo áo khoác sát vai hơn. Chú Luke nhìn sang nhưng không nói gì. Tới khi đỗ xe trước nhà và tắt máy, chú mới quay sang bắt đầu câu chuyện.
“Clary,” chú nói. “Điều cháu vừa làm -”
“Là sai,” cô nói. “Cháu biết là nó sai. Cháu cũng ở đó mà.” Cô dùng mép tay áo vuốt qua mặt. “Tiếp tục và mắng cháu đi.”
Chú Luke nhìn qua kính chắn gió. “Chú không định mắng cháu. Cháu không biết chuyện gì sẽ đến. Chết tiệt, chú cũng đã tính tới khả năng nó có tác dụng. Nếu không chú đã không đi cùng cháu.”
Clary biết điều này đáng ra phải làm cho cô thấy dễ chịu hơn, nhưng không hề. “Nếu chú không đổ axít vào chữ rune -”
“Nhưng chú đã làm.”
“Cháu không hề biết sao chú có thể làm thế, hủy một cữ rune bằng cách đó.”
Clary thấy môi hơi run, và mím chặt lại, để ngừng run. Đôi lúc cô quên mất những khía cạnh kinh khủng của việc trở thành Thợ Săn Bóng Tối – Cuộc đời của những vết sẹo và chém giết, đúng như bác Hodge đã từng nói với cô. Cô nói, “Cháu sẽ không bao giờ làm lại nữa.”
“Không bao giờ làm lại cái gì nào? Tạo chữ rune đặc biệt đó? Chú chắc chắn cháu sẽ không bao giờ vẽ nó nữa, nhưng chú không chắc đó là vấn đề.” Chú Luke gõ ngón tay lên chiếc vô lăng. “Cháu có khả năng, Clary. Một khả năng tuyệt vời. Nhưng cháu hoàn toàn không biết nó có ý nghĩa gì. Cháu hoàn toàn chưa được đào tạo. Cháu hầu như chẳng biết gì về lịch sử của những chữ rune, hay chúng có ý nghĩa gì đối với Nephilim trong suốt nhiều thế kỷ. Cháu không biết chữ rune nào có mục đích xấu, cái nào có mục đích tốt.”
“Chú vui vẻ cho cháu sử dụng chữ rune Đồng Hành,” cô bực bội nói. “Lúc đó chú đâu có nói cháu không được tạo ra chữ rune đâu.”
“Chú không bảo cháu không được sử dụng sức mạnh vào lúc này. Thật ra, chú nghĩ vấn đề là cháu sử dụng nó quá ít. Chú không bảo cháu sử dụng sức mạnh của mình để thay đổi màu sơn móng tay hay bắt tàu điện ngầm tới khi cháu cần nó. Cháu dùng nó chỉ trong những trường hợp cực kỳ quan trọng.”
“Những chữ rune cũng chỉ tới những thời khắc đó.”
“Có lẽ do cháu chưa được dạy cách để sức mạnh của cháu có tác dụng. Hãy nghĩ tới Magnus, sức mạnh là một phần của anh ta. Cháu hình như nghĩ sức mạnh của cháu tách biệt khỏi cháu. Một cái gì đó tình cờ xảy ra với cháu. Nó là một dạng công cụ cháu phải học để sử dụng.”
“Jace nói cô Maryse muốn thuê một chuyên gia chữ rune để dạy cháu, nhưng vẫn chưa được.”
“Đúng,” chú Luke nói, “chú biết giờ cô Maryse đang có nhiều vấn đề khác phải lo nghĩ.” Chú rút chìa ra khỏi ổ khóa và ngồi im lặng một hồi. “Mất đi một đứa con như khi mất đi Max,” chú nói. “Chú không thể tưởng tượng nổi. Chú có thể thứ lỗi cho cách hành xử của cô ta. Nếu có chuyện gì với cháu, chú…”
Giọng chú lạc đi.
“Cháu ước gì chú Robert trở về từ Idris,” Clary nói. “Cháu không hiểu sao cô ấy phải đối diện với vấn đề này một mình. Chuyện hẳn phải đáng sợ lắm.”
“Rất nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ khi một đứa con qua đời. Những cặp vợ chồng không thể ngừng đổ lỗi cho mình, hay cho nhau. Chú nghĩ Robert đi chủ yếu vì chú ấy cần một khoảng không gian riêng, và cô Maryse cũng vậy.”
“Nhưng họ yêu nhau mà,” Clary sợ hãi nói. “Không phải tình yêu là thế sao? Chú phải ở đó khi người kia cần đến chú, dù có vấn đề gì đi nữa?”
Chú Luke nhìn ra bờ sông, về màn nước đen đang lững lờ trôi dưới ánh trăng mùa thu. “Đôi lúc, Clary,” chú nói, “chỉ yêu không thôi chưa đủ.”
Vũ Khí Bóng Đêm 4 - Thiên Thần Sa Ngã Vũ Khí Bóng Đêm 4 - Thiên Thần Sa Ngã - Cassandra Clare Vũ Khí Bóng Đêm 4 - Thiên Thần Sa Ngã