Số lần đọc/download: 202 / 19
Cập nhật: 2020-01-25 21:22:13 +0700
Chương 5 - Căn Phòng Bí Mật
J
ason ngồi trên sân phủ đầy sỏi của Biệt thự Argo, cậu mở cuốn Cẩm nang những tạo vật đáng sợ và đọc chương Căn phòng bí mật. Trên thực tế, đó là một nghiên cứu rất đơn giản: trong những ngôi nhà cũ, nơi những bóng ma rất thích ẩn náu, hầu như luôn có thêm một căn phòng chỉ có thể tiếp cận thông qua một lối đi bí mật và người ta có thể khám phá ra nó từ bên ngoài bằng cách đếm số cửa sổ của ngôi nhà đó. Tựa lưng vào cây ngô đồng già, Jason lấy một tờ giấy ô ly, áp vào mặt sau cuốn sách và bắt đầu đếm số cửa sổ ở tầng trệt. Bảy. Sau đó là những cửa sổ tầng trên. Tám. Và ba phòng áp mái.
Ông Nestor ló ra từ cửa bếp, tay đang nâng một cái nồi ám màu đen như than.
“Jaaason! Cháu muốn ăn, hay là không nào?”
“Cháu tới đây!” Cậu bé đứng dậy và nói lớn để đáp lại.
Nhưng cậu không nhúc nhích bước nào.
“Nếu ông ở trong một căn phòng bí mật thì cháu sẽ tìm thấy ông...” Cậu bé lẩm bẩm. Rồi cậu di chuyển để đếm cửa sổ ở những mặt khác của ngôi nhà.
“Cháu đã gọi cho mẹ cháu chưa?” Ông Nestor hét lên với cậu dù chẳng mong chờ một câu trả lời.
Ông trở vào bếp và đặt nồi vào chính giữa bàn ăn đã dọn sẵn cho ba người. Có một cái bình màu vàng đựng đầy nước cam, ba chiếc cốc và ba chiếc đĩa bị mẻ.
“Nếu thức ăn nguội thì thật tệ cho chúng...” Người làm vườn càu nhàu, dựa vào bồn rửa bằng đá cẩm thạch.
Bên chiếc bàn, bọn trẻ đã bắt đầu chuẩn bị đồ dùng cần thiết cho chuyến đi của chúng: ba chiếc áo choàng kiểu Venice, ba chiếc đèn pin, một cái ba lô, vài mét dây, một chiếc máy ảnh, một con dao Thụy Sỹ đa năng, một cái la bàn, tấm bản đồ Venice thế kỷ 18 và, dĩ nhiên, cả cuốn sổ cũ ghi chép hành trình.
Ông Nestor định tiến lại gần cuốn sổ thì chuông điện thoại reo.
“Đúng lúc thật.” Ông cằn nhằn, bước tập tễnh đến bên cái bàn lộn xộn đầy những đồ vật mang từ nước ngoài về, trong đó có cả chiếc điện thoại.
Đó là bà Covenant, mẹ của cặp sinh đôi.
“Không thưa bà... Tất nhiên là chúng đã đi học! Bây giờ chỉ có mỗi Jason thôi. Tôi không biết tại sao Julia vẫn chưa về, có lẽ cô bé ở lại trong làng để mua ít đồ. Không, tôi cũng không thể chuyển máy cho Jason được vì thằng bé đang bận đếm số cửa sổ của ngôi nhà. Đúng là như vậy. Thằng bé có vẻ rất bận rộn. Vâng. Tất nhiên rồi. Tất nhiên tôi sẽ nói lại với thằng bé, có thể ông bà sẽ trở về vào đêm nay, sáng mai thì chắc chắn. Ôi, tôi rất tiếc về sự chậm trễ trong việc chuyển nhà... Nhưng những chuyện đó vẫn thường xảy ra mà. Chẳng còn ai biết phải làm việc thế nào mới phải. Nhưng bà đừng lo. Bà hãy thử gọi lại sau nhé. Vâng, một lúc nữa.”
Và ông gác máy.
“Một lúc nữa thì bọn cháu đã tới chỗ nào đó ở Venice rồi.” Jason chạy nhanh tới trước mặt ông Nestor. Cậu đếm cửa sổ ở cả hai mặt của căn phòng rồi biến mất phía trên cầu thang.
“Này cháu!” Người làm vườn hét lên. “Món thịt hầm đã sẵn sàng rồi đấy!”
“Chỉ một lát thôi ạ!” Tiếng Jason vọng lại từ tầng trên.
“Chẳng có căn phòng bí mật nào,” vài phút sau cậu bé lẩm bẩm trong lúc dùng món thịt hầm. ”Tức là chẳng có căn phòng bí mật nào có cửa sổ. Điều đó không có nghĩa là không thể có một cái...” Cậu giở phần mục lục cuốn Cẩm nang những tạo vật đáng sợ tìm mục Căn phòng bí mật bị bịt kín!
Để tìm ra căn phòng bí mật bị bịt kín, trước tiên cần đo diện tích bên ngoài ngôi nhà, sau đó tính diện tích của những căn phòng bên trong. Bằng một phép tính trừ đơn giản...
“Jason,” ông Nestor cắt ngang, “không có căn phòng bí mật nào khác trong ngôi nhà này đâu.”
“Phòng khác là sao ạ?”
“Ngoài căn phòng có Cánh cửa Thời gian ấy.”
“Đó chính là vấn đề.” Jason nhận định, cắm dĩa vào một miếng thịt. “Căn phòng tròn ở phía bên kia Cánh cửa Thời gian còn có bốn lối ra. Một lối dẫn tới Biệt thự Argo. Một lối khác dẫn tới hang có con tàu Metis. Nhưng còn hai lối đi còn lại?”
“Người chủ cũ chưa từng nói với ta về những căn phòng đặc biệt khác.” Người làm vườn nói ngắn gọn.
“Nhưng ông đã bao giờ tới đó chưa?”
“Chưa.”
“Ông thấy chưa? Làm sao chúng ta biết được cơ chứ? Có thể có những căn phòng bí mật dưới Biệt thự Argo, giống chỗ người La Mã cổ đại chôn người chết, chỗ đó gọi là gì nhỉ? Hầm mộ! Nói cho cùng thì đây là một ngôi nhà kiểu La Mã cổ, phải không ạ?”
“Đúng vậy. Trên mũi đất này từng có một tháp canh cổ.”
“Do đó giả thiết của cháu có thể đúng! Có lẽ bí mật của ông Ulysses Moore là một trong những đường hầm đó. Có thể đó chính là nơi ông ấy ẩn náu, và thi thoảng bước ra từ Cánh cửa Thời gian giúp chúng cháu tìm được những chỉ dẫn mà chúng cháu cần... Phải rồi! Tại sao lúc trước cháu lại không nghĩ đến điều đó nhỉ?”
“Ta nghĩ vấn đề đã được khép lại rồi. Ông chủ cũ không thể làm được những điều như cháu nói. Cháu phải chấp nhận thực tế này thôi.”
Jason mím môi, cậu bé không thấy thuyết phục lắm.
“Vâng, nhưng...”
“Nhưng gì?” Ông Nestor gắt lên với cậu. “Cháu vẫn còn chưa tin à?”
Jason tin những gì mà người làm vườn kể cho cậu về ông Ulysses Moore, về những người bạn của ông, về những cánh cửa và về những Kỵ sĩ của Kilmore Cove, nhưng có điều gì đó cậu vẫn chưa nắm bắt được: đó là cảm giác bị kiểm soát và... lần theo những dấu vết do đích thân ông chủ cũ để lại cho chúng.
“Thế nếu ông ấy vẫn chưa chết mà bị giam cầm ở một nơi nào đó thì sao ạ?”
“Ông ấy không bị giam cầm. Jason, làm ơn. Hôm nay các cháu sẽ phải tìm lại ông Peter Dedalus. Và việc này sẽ không dễ đâu.”
“Đúng vậy ạ.” Jason đồng tình, vẻ lưỡng lự. Sau đó cậu bé trở lại vấn đề mà cậu quan tâm. “Vậy thì chỉ còn mỗi giả thiết về bóng ma là hợp lý.”
“Gì cơ?”
“Có lẽ trong ngôi nhà này có một bóng ma muốn giúp đỡ bọn cháu. Bóng ma của ông Ulysses Moore, hoặc là... à đúng rồi! Có thể là của bà Penelope...”
“Ta nghĩ cháu nên ghi chép lại, Jason à,” ông Nestor làu bàu khuyên cậu. “Nếu không cháu sẽ không bao giờ nhớ hết được những suy nghĩ từ trực giác thiên tài của mình đâu...”
Julia thình lình xuất hiện ở cửa phòng bếp và lên tiếng.
“Biến mất rồi!” Cô bé đầy lo âu hết nhìn người làm vườn rồi lại nhìn cậu em trai. “Biến mất rồi, không còn nữa!”
“Ai biến mất?” Ông Nestor hỏi.
“Cuốn sách hướng dẫn du lịch về Kilmore Cove ạ!” Cô bé thốt lên và ném ba lô xuống đất để ngồi vào bàn ăn.
“Này, này!” Ông Nestor cáu kỉnh đưa cho cô bé một chiếc khăn lau tay.
Trong khi lau tay, Julia kể về những gì đã xảy ra ở chỗ cô Calypso.
“Không thể trùng hợp như vậy được,” cuối cùng Jason kết luận. “Có người muốn ngăn cản chúng ta tìm hiểu sự thật về Kilmore Cove.”
“Có thể là ai nhỉ?”
“Chưa chắc đã là Oblivia Newton...” Ông Nestor lẩm bẩm.
Bọn trẻ nhìn người làm vườn với vẻ mặt đầy thắc mắc và ông giải thích.
“Cô Calypso có nói với cháu một người đàn ông đã mua cuốn sách hướng dẫn du lịch. Và đó là một người lạ mặt.”
“Đúng vậy ạ.”
“Cháu thấy cô ấy có vẻ sợ hãi hay lo lắng không?”
Julia lắc đầu.
“Không ạ. Cô ấy cực kỳ bình thản. Chính cháu mới là người sợ hãi.”
Cô bé cố gắng mô tả cơn rùng mình kỳ lạ mà mình cảm nhận được khi liếc vào phía trong cửa hàng. Cứ như thể có ai đó ở trong hiệu sách.
“Thế người đó là ai?”
“Chị có nói là trong hiệu sách có ai đó đâu,” cô chị chỉ rõ. “Chị nói là cứ như thể có ai đó.”
“Kiểu như một bóng ma?”
“Ôi không, lại quay lại chuyện này rồi!” Ông Nestor thốt lên bực dọc.
Julia dùng món thịt hầm trong khi Jason tóm tắt lại những lý luận mới nhất của mình.
“Chúng không vô lý tới mức đó: tối qua bóng ma đã gợi ý chúng ta đi tìm ở Venice và nó đã gọi chúng ta bằng cách đập đập cửa sổ ở trên tháp...”
Julia vẫn còn nhớ như in. Sau khi nghe thấy tiếng động, cô bé trèo lên để xem và đã tìm thấy ngay chính giữa bàn làm việc mô hình thuyền gondola và một cuốn sổ màu đen. Sau đó cô chạy ra ngoài kiểm tra liệu có ai trên mái nhà hay không, nhưng chẳng nhìn thấy ai cả.
Cuốn sổ màu đen xuất hiện như có phép màu ngay chính giữa ngọn tháp giờ đang nằm trước mặt chúng: những ghi chép về một chuyến đi tới Venice thế kỷ 18 được viết bằng chính nét chữ bé xíu và gần như không thể đọc nổi của ông Ulysses Moore.
“Em đang nghĩ gì vậy Jason?” Julia hỏi.
Cậu bé chìa cuốn Cẩm nang những tạo vật đáng sợ cho cô bé xem.
“Rằng nếu có một bóng ma trong nhà, em có thể thử tóm nó.”
Một người đàn ông bước ra khỏi bóng tối của những giá sách nằm cuối tiệm sách và thì thào.
“Tôi xin lỗi về tiếng động.”
“Anh đừng lo,” cô Calypso trả lời. “Julia đi rồi.”
Người đàn ông dựa vào tường, nhìn quảng trường bên ngoài từ cửa kính và thở dài.
“Cô thấy cô bé thế nào, có bình tĩnh không?”
“Không hẳn. Tôi cho là mình đã làm cô bé hơi hoảng sợ một chút. Tôi nói với cô bé những gì anh đã dặn, dù tôi không đồng tình lắm với mấy chuyện kiểu này.”
“Tôi rất tiếc, nhưng không nên làm cho cô bé phân tâm quá. Không phải lúc này...” Người đàn ông lôi ra từ túi quần cuốn sách có tựa đề Người lữ hành tò mò - Sách hướng dẫn du lịch bỏ túi tại Kilmore Cove và khu vực lân cận.
“Có thể là anh có lý,” Calypso mỉm cười, đặt chìa khóa cửa hàng lên quầy, “nhưng theo tôi, anh chỉ làm cho cô bé nghi ngờ thêm.”
“Có một tờ giấy nằm trong cuốn sách lúc trước.”
“Tôi tin là hôm qua Julia đã lấy nó đi rồi, khi cô bé phát hiện ra cuốn sách.”
“Cô có biết nó viết gì không?”
“Có ghi chép của anh. Của anh hoặc... của ai đó trong số đám bạn anh.”
“Đừng gọi tên họ, làm ơn.”
Người phụ nữ khúc khích cười.
“Tại sao chứ? Anh sợ có ai đang nghe lén chúng ta à?”
“Có thể.”
“Anh đang trở nên hoang tưởng rồi đó...”
“Có thể.” Người đàn ông lại nhìn ra bên ngoài. “Cô bé có lẽ đã đi rồi nhỉ?”
Cô Calypso gật đầu, rồi ngó ra phía sau hiệu sách và nói.
“Cô bé đang đạp cật lực lên mỏm đá. Anh có muốn ăn gì không?”
“Cái mỏm đá đó thật là nguy hiểm...” Người đàn ông lầm rầm. Ông ta đút lại cuốn sách hướng dẫn du lịch vào túi. “Không, cảm ơn cô. Đã đến lúc tôi phải đi rồi.”
“Anh đi đâu?”
“Cô tò mò rồi, cô Calypso... Lúc nào cô cũng quá tò mò.”
“Buộc phải thế thôi, anh chẳng bao giờ nói gì với tôi cả! Anh nín lặng và trốn tránh để...”
Khi quay lại phía cửa kính, cô Calypso nhận ra trong hiệu sách chẳng còn ai.
Chiếc chuông gắn trên cửa ra vào thậm chí còn chẳng thèm kêu.