Nguyên tác: Горячий Снег
Số lần đọc/download: 811 / 9
Cập nhật: 2017-05-19 13:24:54 +0700
Chương 5
T
rong lúc ở các bộ tham mưu cao cấp Đức, mọi sự tưởng như đã được hoạch định sẵn, giải quyết, duyệt y và các trung đoàn xe tăng của Man-sten bắt đầu đánh phá vây từ vùng Cô-ten-ni-cô-vô về hướng Xta-lin-grát nát vụn sau cuộc chiến đấu suốt bốn tháng trời, để tiếp sức cho đạo quân ba mươi vạn tên của thượng tướng Pao-luýt-xơ bị các phương diện quân của ta bao vây giữa băng tuyết và đổ nát đang căng thẳng chờ đợi lối thoát,-trong lúc ấy thêm một tập đoàn quân của chúng ta vừa mới được thành lập ở hậu phương theo lệnh của Đại bản doanh đã được ném về phía Nam xuyên qua những thảo nguyên mênh mông để đón đánh tập đoàn quân xung kích “Gốt” gồm mười ba sư đoàn. Hoạt động của phía này cũng như phía kia dường như gợi cho ta nhớ đến những cái đĩa cân trên đó giờ đây đã được đặt tất cả mọi khả năng có thể có trong những hoàn cảnh đó…
… Chiếc xe chiến lợi phẩm nhãn hiệu “Hoóc-xơ” phóng nhanh, khi thì đi vòng quan hàng quân khi thì tụt lại, nhảy chồm chồm lên lề đường. Tướng Bét-xô-nốp rụt đầu trong cổ áo, ngồi im phăng phắc nhìn qua kính chắn gió, im lặng từ lúc rời khỏi bộ tham mưu tập đoàn quân. Sự im lặng kéo dài đó của vị tư lệnh được những người đi trong xe hiểu một cách đặc biệt, coi đó như dấu hiệu chứng tỏ ông ít thích giao du, như trở ngại không ai dám là người đầu tiên vượt qua. Ủy viên Hội đồng quân sự, chính ủy sư đoàn Ve-xnin im lặng. Ngay cả người sĩ quan tùy tùng của Bét-xô-nốp là thiếu tá Bô-gi-scô trẻ tuổi, tính tình xởi lởi, ngả người ở một góc ghế sau, giả vờ ngủ, cũng không dám liều phá tan sự im lặng hoàn toàn của cấp trên tuy ngay từ đầu chuyến đi anh luôn có ý muốn kể lại giai thoại mới nhất ở ban tham mưu nhưng chưa có tìm được dịp thích hợp.
Bản thân Bét-xô-nốp không nghĩ rằng sự kín đáo của ông có thể được xem như ý muốn không giao tiếp hoặc như thái độ dửng dưng tự đắc đối với người xung quanh. Từ lâu qua kinh nghiệm ông đã biết rằng tính hay nói hoặc sự im lặng không thể thay đổi gì được mối quan hệ qua lại của ông với mọi người. Ông không muốn làm cho tất cả mọi người vừa lòng, không muốn tỏ ra nhã nhặn đối với tất cả mọi người trò chuyện với mình. Mưu mẹo nhỏ nhen đầy tham vọng kiểu đó nhằm giành tình cảm bao giờ cũng khiến ông ghê tởm, bực bội và xa lánh, xem đó như là sự nông nổi trống rỗng hoặc sự yếu đuối của một con người thiếu tự tin. Từ lâu Bét-xô-nốp đã tin rằng những lời nói thừa trong chiến tranh lại là hạt bụi đôi khi che lấp thực trạng của sự vật. Vì vậy khi tiếp nhận tập đoàn quân, ông ít hỏi han về ưu điểm và khuyết điểm của các chỉ huy quân đoàn và sư đoàn, ông đi thăm họ, hầu như làm quen với họ một cách khô khan, nhìn kỹ từng người, không hài lòng lắm nhưng cũng không thất vọng lắm.
Điều Bét-xô-nốp nhìn thấy giờ đây qua kính chắn gió của chiếc xe “Hoóc-xơ”, dưới ánh sáng đèn pha ô tô đôi khi lóe lên trong sương mù giá lạnh-khuôn mặt chiến sĩ và chỉ huy với những chiếc mũ lót đầy sương giá buộc xùm xụp theo kiểu đàn bà nông thôn, dòng chảy bất tận của những đôi ủng lê gót trên đường-bảo cho ông biết rằng đây không phải là sự suy sụp “tinh thần chiến đấu” đáng sợ mà đây chỉ là sự mệt mỏi cùng cực làm người ta kiệt sức, nằm ngoài quyền lực của ông. Những người lính đội những chiếc mũ lót này sắp bước vào chiến đấu và có lẽ cứ năm người bọn họ thì có một người chết nhanh hơn là họ nghĩ. Họ không biết và không thể biết được trận đánh bắt đầu ở đâu, không biết rằng nhiều người trong bọn họ đang làm cuộc hành quân cuối cùng trong đời mình trước khi chiến đấu. Bét-xô-nốp xác định rõ ràng và tỉnh táo mức độ của nỗi hiểm nguy đang tới gần. Ông biết rõ rằng mặt trận khó lòng giữ vững được trên hướng Cô-ten-ni-cô-vô, rằng xe tăng của bọn Đức trong ba ngày đêm đã tiến được chục ki-lô-mét về phía Xta-lin-grát và giờ đây, trước mắt chúng chỉ có một trở ngại duy nhất là con sông Mư-scô-va, còn bên kia sông là thảo nguyên bằng phẳng chạy dài tới tận sông Vôn-ga. Và Bét-xô-nốp cũng hiểu rõ rằng trong những giây phút này khi ông ngồi trong xe suy nghĩ về tình huống mà ông đã biết rõ thì tập đoàn quân của ông và các sư đoàn xe tăng của Man-sten đều kiên trì như nhau tiến về cái giới hạn tự nhiên đó và vì vậy rất nhiều điều, nếu như không phải là tất cả, lệ thuộc vào chỗ ai sẽ đến sông Mư-scô-va trước.
Ông toan xem đồng hồ nhưng không xe, không cựa quậy sợ cử chỉ đó phá vỡ sự im lặng, tạo cớ cho mọi người nói chuyện, điều mà ông không muốn. Ông vẫn im lặng như trước, ngồi bất động như phỗng, tì tay vào cái gậy, tìm mãi một tư thế thuận tiện, chìa cẳng chân đau vào chỗ hơi nóng của động cơ. Người lái xe đứng tuổi thỉnh thoảng lại liếc mắt và trông thấy lờ mờ dưới ánh sáng yếu ớt của bảng máy trước mặt khóe mắt cau có, nặng trĩu của trung tướng, cái má khô khan, cặp môi mím chặt cứng của ông. Đã từng lái xe cho nhiều vị tư lệnh khác nhau, người lái xe từng trải hiểu sự im lặng trong xe theo cách riêng của mình-coi đây như hậu quả cuộc cãi nhau trước chuyến đi hoặc hậu quả của việc bị các cấp chỉ huy phương diện quân xạc. Ở phía sau đôi khi lửa diêm lóe lên, điếu thuốc lá của chính ủy lập lòe trong bóng tối, quai da đeo chéo người ông cọt kẹt; anh chàng Bô-gi-scô luôn luôn vui tính vẫn giả vờ thiêm thiếp ở một góc ghế trên xe.
“Chắc có điều gì làm đồng chí ấy không hài lòng hay tính đồng chí ấy ít thích trò chuyện-anh lái xe suy nghĩ, đồng thời cứ mỗi khi điếu thuốc lá lóe lên ở sau lưng, anh lại càng thèm một hơi đến phát điên lên.-Đồng chí ấy không hút thuốc, trông khuôn mặt xanh xao thế chắc là ốm đau. Hay là mình xin phép: xin cho phép tôi hút một điếu thuốc, thưa đồng chí tư lệnh, không được hút thuốc tai tôi sưng cả lên…”.
-Bật đèn pha lên,-Bét-xô-nốp bỗng nói.
Nghe tiếng ông nói người lái xe giật mình, bật đèn pha. Luồng ánh sáng mạnh mẽ xuyên qua sương mù giá lạnh rọi về phía trước. Dưới ánh sáng rực của những ngọn đèn pha, sương mù tan loãng trên mặt đường, cuộn tròn, xô vào kính xe như sóng, vương trên những cái gạt nước đang quơ đi quơ lại, trùm lên xe làn khói xanh lam. Trong nháy mắt tưởng như xe đang đi dưới đáy đại dương, tiếng gầm rú đều đều của động cơ chính là tiếng vọng của những lớp âm vang nằm sâu dưới đáy biển.
Tiếp đó hàng quân đột ngột lại gần, xuất hiện ở phía bên phải, đông dần lên, đen ngòm, nào cặp lồng, nào súng máy, súng trường dính đầy sương giá hỗn độn sáng lóe lên dưới ánh sáng chói lòa. Hàng quân túm tụm đông đặc trước những chiếc xe tăng đồ sộ bị tuyết phủ kín trông như những chiếc xe tăng đồ sộ bị tuyết phủ kín trông như kho lúa, chắn hết cả đường đi. Các chiến sĩ quay lại nhín ánh sáng gay gắt lạ lùng của chiếc xe-không hài lòng, mệt mỏi, mũ lót dính vào mặt như dán lá cao màu trắng, họ đồng thời la thét gì đó, tay khua khua.
-Lại chỗ xe tăng,-Bét-xô-nốp ra lệnh cho lái xe.
-Có lẽ anh em ở quân đoàn cơ giới, ủy viên Hội đồng quân sự Ve-xnin nói vẻ sôi nổi.-Sao họ lại ở đây nhỉ, bọn nỡm, làm nghẽn cả đường! Liệu họ có làm cho đám bộ binh bực mình?-Tuy nhiên ông rất cưng các chiến sĩ xe tăng, bởi vậy ông nói chữ “bọn nỡm” một cách trìu mến và nói thêm ngay bằng một giọng phấn khởi thận trọng:-Kìa những con chim ưng!
-Chỉ có điều là chim ưng biết bò thôi, thưa đồng chí chính ủy,-Bô-gi-scô đột nhiên tỉnh ngủ, chêm vào một cách giễu cợt.
-Đây không phải là xe của quân đoàn cơ giới.-Bét-xô-nốp sửa lại một cách chắc nịch.-Quân đoàn cơ giới chuyển quân dọc theo đường sắt. Ở phía bên trái chúng ta. Họ không thể có mặt ở đây lúc này được. Vô luận trong tình hình nào.
-Đồng chí cho phép tôi tìm hiểu, thưa đồng chí tư lệnh.-Bô-gi-scô phấn khởi lên tiếng, tựa hồ như anh chẳng hề thiu thiu tí nào. Ngồi yên không làm gì, không được nói chuyện nên anh dường như vui thích trước bất cứ dịp nào có thể bày tỏ nghị lực của mình.
Bét-xô-nốp lại ra lệnh cho lái xe:
-Dừng xe lại.
Động cơ mạnh của chiếc xe “Hoóc-xơ” im bặt, ánh đèn pha vụt tắt trong im lặng tựa như nó chui vào bộ tản nhiệt. Đêm tối trùm xuống ngay, cả hàng quân lẫn xe tăng biến mất. Bét-xô-nốp nán lại trong xe cho quen với bóng tối rồi mở cửa, thò chiếc gậy ra ngoài tìm chỗ tựa. Khi chui ra khỏi xe, ông đụng chân vào thành cửa và cảm thấy nhói đau ở đầu gối, bực mình vì lúc ấy ông đã nghĩ làm sao để khỏi đụng chân, ấy thế mà vẫn cứ đụng.
Trời sáng sao, màu xanh lam đùng đục, lạnh giá. Bét-xô-nốp không phân biệt rõ được giữa bóng tối trên tuyến hàng quân ngoằn ngoèo như một dải băng kéo dài trên thảo nguyên đầy sao, bị những khối xe tăng vuông vức chắn lại: bóng dài của những chiếc xe với đèn pha bịt lại, những chiếc xe tải, đám chiến sĩ xúm xít lại. Ông nghe rõ tiếng động cơ ô tô và máy kéo đứng tại chỗ rồ lên ở trên đường; những tiếng nói khàn khàn như bị cảm lạnh, la ó, văng tục ở phía trước.
-Ê này, các cậu xe tăng, lính kỹ thuật, mẹ kiếp, làm gì mà đứng chôn chân ở đây thế hả?
-Bỏ mẹ thật, các bố ấy say mèm ra rồi!
-Dọn ngay cái mớ sắt thép của mình khỏi đường đi. Các anh khệnh khang như là đi dự đám cưới ấy! Chắc lại nốc rượu rồi mắt mờ cả đi!
-Giải phóng mặt đường. Cho đi với.
-Anh em ơi, hình như có cấp trên nào đến ấy… Hai xe con!…
Bét-xô-nốp đi vào giữa những tiếng la hét láo nháo đó, ông biết rằng anh em bộ đội con ít biết mặt ông, trên áo choàng ngắn của ông lại không đeo phù hiệu và quân hiệu cấp tướng nhưng khi trông thấy chiếc mũ lông cao của ông, tiếng xỉ vả trong đám đông dần dần lặng đi và một giọng nói lanh lảnh gần đó thốt lên:
-Hình như một ông tướng…
-Ai là chỉ huy đơn vị xe tăng?-Bét-xô-nốp hỏi bằng một giọng mệt mỏi, rin rít, không to lắm.-Tôi yêu cầu báo cáo.
Yên lặng như tờ. Sau khi trao đổi với nhau, ủy viên Hội đồng quân sự Ve-xnin và Bô-gi-scô rời xe đi tới. Họ dừng lại và cũng im lặng. Các xạ thủ súng máy, đội bảo vệ nhảy từ chiếc xe thứ hai xuống lòng đường.
Bét-xô-nốp chờ đợi. Không ai lên tiếng cả.
Từ khối đen sẫm đồ sộ của chiếc xe tăng gần nhất bị những mảng tuyết xam xám phủ lấp lánh trên vỏ bốc lên mùi kim khí bị nung trong băng giá, mùi dầu ma dút đăng đắng, đông lại. Trong xe tăng hình như không có ai, đèn tắt, chiếc xe tăng như chết lặng. Chỉ thấy ở tháp xe một vật gì đó đen đen, hơi ngọ nguậy, che lấp các vì sao nhưng không thấy tiếng động ở đó.
-Tôi bảo: chỉ huy đơn vị xe tăng hãy đến gặp tôi,-Bét-xô-nốp nhắc lại cũng bằng giọng khi nãy.-Tôi chờ đây.
-Hỏi ai kia? Đằng ấy là bộ binh, không chỉ huy được tớ! Tốt hơn hết là đi vòng tránh xe tăng kẻo không sẽ sinh chuyện đấy!-một giọng hằn học vang lên ở phía trên và bóng đen lờ mờ đó nhô ra khỏi tháp xe, động đậy rõ hơn trên nền trời sao.
-Nào, xuống gặp trung tướng đi, cái đầu bò đội mũ lính tăng! Sao lại nói chuyệu kiểu ấy?-Bô-gi-scô nói với sự vui vẻ thái quá và chộp lấy tay vịn bằng sắt leo lên nóc xe, thúc giục người đứng trên đó-Mau lên, mau lên! Xuống gặp trung tướng!
-Gặp tướng nào nữa? Đừng có lừa tôi? Đây có phải trẻ con đâu… Ông tướng lóp ngóp cùng với bộ binh ấy à? Còn ai ở bộ tham mưu nữa nào?
-Thôi, thôi, chú mình, lý sự dài dòng quá. Nhảy từ trên trời xuống đất đi!
Chiếc đèn pin lóe lên ở trên cao, ánh sáng xanh ngụy trang của nó lôi từ trong bóng đêm ra một người nhìn từ phía dưới lên dường như cao lớn, vận áo liền quần có lẽ mặc ra ngoài áo bông. Người đó từ từ leo từ tháp pháo xuống nóc xe rồi nhảy xuống đường.
-Bô-gi-scô, bấm đèn nữa đi,-Bét-xô-nốp ra lệnh.-Và dẫn anh ta lại đây.
-Nào, nào, chú mình, lại gần đây, đừng sợ.-Bô-gi-scô nói.
Anh lính xe tăng dừng lại trước mặt Bét-xô-nốp, ở dưới mặt đất trông người nhỏ hẳn đi nhưng dẫu sao anh ta cũng cao hơn ông một cái đầu. Anh ta lúng túng, vụng về, trong bộ quân phục của mình, khuôn mặt kích động dính đầy muội, cặp mắt đầy khói đen cụp xuống dưới ánh đèn pin, đôi môi cũng đen sì, run lật bật. Anh ta thở ì ạch, phả ngay ra hơi rượu nồng nặc.
-Anh say rượu à?-Bét-xô-nốp hỏi.-Hãy nhìn thẳng vào tôi, anh lính xe tăng!
-Không… đồng chí trung tướng. Tiêu chuẩn của tôi… tôi… tiêu chuẩn…-Người lính xe tăng cố gắng đáp, vẫn không ngước được mi mắt đen rầu rĩ lên, lỗ mũi anh ta phập phồng.
-Phiên hiệu đơn vị, quân hàm? Đồng chí từ đâu tới?
Đôi môi rộp lên của người lính xe tăng động đậy liên hồi:
-Trung đoàn xe tăng độc lập số 45, tiểu đoàn một, chỉ huy đại đội ba, trung úy A.Giéc-ma-trép…
Bét-xô-nốp chăm chú nhìn anh ta, vẫn chưa tin là anh ta trả lời đúng.
-Sao lại 45? Bằng cách nào anh lại ở đây được, đồng chí đại đội trưởng?-ông hỏi rất rành rọt.-Trung đoàn 45 đã được phiên chế vào một tập đoàn quân khác và theo như tôi được biết, nó đang phòng ngự ở phía trước! Anh hãy trả lời rõ ràng hơn.
Người lính xe tăng bỗng ngẩng đầu lên, mí mắt anh ta mở to, ánh mắt đen mờ đục vì say rượu lộ vẻ khiếp sợ, trông như hề. Anh ta nói giọng khàn khàn:
-Làm gì có phòng ngự ở đó. Quân Đức đã chiếm được làng rồi. Chúng đánh tập hậu. Đại đội của tôi chỉ còn lại có ba chiếc xe tăng này… Hai chiếc bị đạn xuyên thủng… Trang bị không đầy đủ… Tôi và số còn lại của đại đội… chạy thoát…
-Các anh đã chạy thoát?-Bét-xô-nốp hỏi lại và mãi tới phút này mới hiểu thật rõ tất cả, ông lặp lại cái từ ngữ sắc nhọn, gai góc thường hay nghe nói vào năm bốn mốt:-Các anh đã chạy thoát? Và những người khác cũng đã chạy thoát hả trung úy? Còn ai chạy thoát nữa?-Bét-xô-nốp giận dữ lặp lại, dằn từng tiếng “chúng tôi đã chạy thoát” và “tôi đã chạy thoát”.
-Chà, đồ khốn kiếp.-Trong đám anh em chiến sĩ có người nguyền rủa.
Người lính xe tăng nói giọng nghẹn ngào:
-Tôi không biết… không biết ai đã chạy thoát. Tôi đã vọt ra cùng với những xe tăng này… không có liên lạc, thưa đồng chí trung tướng… Ra-đi-ô hỏng. Tôi không thể…
-Anh còn nói gì nữa không?
Bét-xô-nốp bị đau nhói ở đầu gối, cố nén giận, ông không còn trông rõ một người riêng biệt nào nữa, chỉ nghe thấy những khẩu lệnh tách bạch, tiếng rúng của động cơ ở sau lưng hàng quân dài đã dừng lại, thở ì ạch như một cơ thể sống, y như thể nó đã bị đánh tan trên đường đi tới nơi mà từ đó người trung úy xe tăng say khướt này trong cơn tuyệt vọng mù quáng đã bỏ chạy cùng với ba chiếc xe tăng giờ đây đang ngáng trở đường đi và ông cảm thấy như có một cái gì độc hại giống như chính sự hoảng loạn đang lượn lờ trong không khí như một bóng đen. Các chiến sĩ đứng quanh người lính xe tăng lặng người đi.
Bét-xô-nốp nhắc lại:
-Anh không nói thêm gì nữa chứ, trung úy?
Người lính xe tăng hít không khí qua lỗ mũi, tựa hồ như khóc không thành tiếng.
-Thiếu tá Tít-cốp.-Bét-xô-nốp ra lệnh trong bóng tối bằng một giọng rành rọt cứng rắn, không khoan nhượng như người ta ta tuyên đọc bản án không được phép kháng án.-Hãy bắt giam hắn!… Và đưa ra tòa án quân sự xét xử như một tên hèn nhát!
Ông hiểu rõ hiệu lực không thể cưỡng lại được của mệnh lệnh của mình, hiểu rõ rằng mệnh lệnh của ông sẽ được thi hành ngay tức khắc và khi trông thấy dáng người thấp, đanh chắc như thép của thiếu tá Tít-cốp trong đội bảo vệ của mình với hai chiến sĩ súng máy khỏe như lực sĩ tiến lại gần người lính xe tăng, ông chau mày, bất giác quay đi, buông từng tiếng nhát gừng với thiếu tá Bô-gi-scô:
-Anh hãy kiểm tra xem những người khác trong xe tăng thế nào!
-Rõ, thưa đồng chí tư lệnh!-Bô-gi-scô đáp bằng một tiếng hô yếu ớt thể hiện sự ngạc nhiên và phục tùng như thể lúc này từ thân mình của vị tư lệnh phát ra một luồng sóng chết chóc, chạm cả vào người anh, một sĩ quan tùy tùng. Và điều đó khiến Bét-xô-nốp khó chịu. Ông đi trên đường về phía trước.
o0o
-Ai chỉ huy ở đây? Tại sao xe tải chắn mất lối đi?-Bét-xô-nốp thốt lên với vẻ dè dặt lạnh lùng, bước lên chiếc cầu, chiếc gậy của ông gõ xuống sàn gỗ. Ông đi nhanh, có không khập khiễng.
Anh em chiến sĩ tụ tập ở trên cầu kính cẩn giãn ra trước mặt Bét-xô-nốp, có người nói trong bóng tối:
-Thiếu úy ở đây… động cơ gay rồi…
Ở phía trước, trên dải cầu hẹp màu lam nhạt dưới ánh sáng sao, lờ mờ nhô ra sườn của một chiếc xe tải có thùng xe cao-chắc hẳn sao khi quay máy thử tại chỗ-trùm vải bạt trong đó có ánh đèn vàng vọt le lói. Mấy người với vẻ mặt lo lắng nghiêng mình trên động cơ, hầu như che khuất ánh đèn trong xe.
-Chỉ huy đến gặp tôi! Xe của ai đây?
Ngay lúc ấy một dáng người nhỏ nhắn trông như một đứa trẻ mặc cái áo choàng lụng thụng-nhanh chóng đứng thẳng dậy gần tấm vải bạt. Ánh sáng ngọn đèn ở phía sau soi rõ chiếc mũ lông đội sụp xuống tận vai, đôi vai hẹp, không trông rõ mặt, chỉ thấy hơi thở bốc hơi và tiếng hét vang như tiếng gáy rất cao của một chú gà trống non:
-Thiếu úy Bê-len-xki! Xe của T.Đ.S.C phục vụ pháo binh… phải dừng lại bất ngờ vì xe hỏng… Chúng tôi chở đạn đại bác…
“Giọng nói đến là buồn cười… cứ như báo cáo ở trường pháo binh ấy”,-Bét-xô-nốp nghĩ và ngắt lời anh ta có ý giễu cợt:
-T.Đ nghĩa là gì nhỉ… rồi thế nào nữa nhỉ?
-S.C-thiếu úy nói tiếp,-T.Đ.S.C nghĩa là tiểu đoàn sửa chữa độc lập… Sáu ô tô tạm thời trao cho pháo binh.
-À thế ra là T.Đ.S.C… khó đọc quá,-Bét-xô-nốp nói.-Líu cả lưỡi.-Và ông hỏi:-Liệu năm phút nữa các anh có sửa xong ô tô không?
-Khô-ông, thưa trung tướng…
Bét-xô-nốp không nghe nói hết, cắt ngang:
-Năm phút để dỡ đạn đại bác xuống và giải phóng mặt cầu. Nếu các anh không kịp sửa chữa, hãy đẩy xe sang lề đường! Không được trì hoãn một giây nào lại!
Thiếu úy đứng sững người, tai nhô ra một cách kỳ quặc dưới mũ lông
-Thưa đồng chí trung tướng! Thưa đồng chí tư lệnh!-Một tiếng thét man rợ, van xin, giống như tiếng nức nở vang lên từ phía những chiếc xe tăng.-Xin nghe tôi nói… tôi xin!… cho tôi được gặp trung tướng! Đưa tôi đến gặp trung tướng! Rồi sau các anh hẵng… tôi…
Tiếng thét đó lại làm cho cẳng chân bị thương của Bét-xô-nốp đau dội lên, ông quay người lại và bất chợt cảm thấy mình ngã nếu bước đi không cẩn thận. Ông đi trở lại phía sau, bị cơn đau hành hạ, và bất giác dừng lại khi trông thấy ở gần đám xe tăng những người trong đội bảo vệ của mình đang dùng sức rứt người trung úy xe tăng ngồi bệt trên tuyết, hai tay bám chặt vào xích xe tăng. Vừa lúc ấy ủy viên Hội đồng quân sự Ve-xnin lại gần ông, nói một cách sôi nổi, thuyết phục:
-Tôi xin anh, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích… dẫu sao đây cũng là một anh chàng còn trẻ. Có lẽ anh ta bị mất tinh thần khi quân Đức xông đến. Nhưng anh ta hiểu rằng mình đã phạm tội lỗi, nhận ra rằng… Tôi vừa mới nói chuyện với anh ta xong. Xin anh đừng quá gay gắt như thế!…
“Đấy, chừng như đấy là những bất đồng đầu tiên giữa mình và chính ủy,-Bét-xô-nốp nghĩ.-Anh ấy đã thấy ngay sự tàn ác trong hành động của mình!”.
Cơn đau ở chân không giảm đi, kẹp chặt lấy đầu gối ông như những chiếc kìm nung đỏ. Bét-xô-nốp nhìn nghiêng như qua một tấm kính màu xanh, khuôn mặt trái xoan và cặp kính lấp loáng của Ve-xnin và lúc sắp ngồi lên xe ông nói một cách khô khan:
-Vi-ta-li I-xa-ê-vich, hình như anh quên không nhớ thế nào là sự hoảng loạn? Anh quên rằng nó lây lan ghê gớm? Hoặc giả là, với trạng thái mất tinh thần như thế chúng ta sẽ tới Xta-lin-grát? Nhưng thôi được, cứ để họ đưa người lính xe tăng đến đây. Tôi muốn trông thấy anh ta một lần nữa,-ông nói thêm.
-Thiếu tá Tít-cốp, dẫn trung úy xe tăng lại đây!-Ve-xnin ra lệnh.
Thiếu tá và các xạ thủ súng máy dẫn người lính xe tăng tới, anh này khản đặc và thở dốc, răng khẽ lập cập, tựa hồ anh ta bị lột trần, đổ nước lạnh ngắt lên người vậy. Anh ta không thốt ra được một lời nào và rốt cuộc, lúc anh ta thử nói thì người ta chỉ nghe thấy những âm thanh tắc nghẹn ở cổ họng. Ve-xnin vỗ vai anh ta:
-Hãy trấn tĩnh, trung úy. Anh nói đi!
Người lính xe tăng bước một bước về phía Bét-xô-nốp, nói giọng khàn khàn:
-Thưa đồng chí tư lệnh… tôi xin đem thân tôi, máu tôi… ra chuộc tội…-Anh lấy tay vuốt ngực để lùa không khí vào phổi.-Đây là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng! Nếu tôi không làm đúng như tôi… Xin đồng chí hãy bắn chết tôi. Chỉ xin đồng chí hãy tin tôi! Chính tôi sẽ tự cho mình một phát đạn vào đầu!…-Bét-xô-nốp không nghe hết, khoát tay ngăn anh ta:
-Đủ rồi! Lên xe tăng ngay và tiến về phía trước! Tới nơi mà từ đó anh đã dám bỏ chạy! Còn nếu như một lần nữa anh nghĩ tới “chạy thoát” thì anh sẽ bị đưa ra trước tòa án quân sự như một tên hèn nhát và khiếp đảm! Tiến ngay về phía trước!
Bét-xô-nốp khập khiễng đi tới chỗ xe và tưởng như nghe thấy ở đằng sau lưng mình tiếng cười bị cơn nấc loạn thần kinh chẹn lại, tiếng “cám ơn” nghẹn ngào, một cái gì vô lý, vô nghĩa, khó chịu giống như tiếng cười thú vật đó, y như thể ông, Bét-xô-nốp do thói tùy hứng lệch lạc có quyền ban phát hoặc tước đoạt cuộc sống của người khác và khi ban phát như thế ông đã đem lại hạnh phúc vô ngần cho những người khác.
“Có cái gì không ổn ở mình, không đúng như mình mong muốn… Không nên như vậy,-Bét-xô-nốp nghĩ lúc đã ngồi trên xe duỗi cẳng chân sát vào động cơ.-Mình muốn khác kia. Nhưng sự thể như thế nào? Mình đã gây nên nỗi sợ hãi, sự phục tùng trước nỗi sợ hãi chăng? Hay người lính xe tăng này thực lòng hối hận?”
Người lái xe vội vã hút nốt điếu thuốc, anh rít mạnh điếu thuốc to tướng đến nỗi thuốc nổ lép béo, tàn lửa bay lả tả, soi sáng ria mép, anh nói với Bét-xô-nốp:
-Xin trung tướng tha lỗi, tôi đã làm khói um…
Anh mở máy, Ve-xnin lặng lẽ leo lên xe.
-Anh cứ hút đi,-Bét-xô-nốp cho phép, vẻ ghê sợ mùi thuốc lá,-nếu anh không nhịn được. Ta sẽ đón thiếu tá Bô-gi-scô ở trên cầu. Lên đường thôi.
-Anh hút thuốc lá gì thế hả, I-gô-nat-chi-ép? Cho tôi nếm thử với. Có lẽ nó bào cả ruột gan lên phải không?-Ve-xnin lên tiếng khi đã yên vị trí trên ghế sau.
-Thưa đồng chí ủy viên Hội đồng quân sự, nếu như đồng chí không chê, cái món thuốc lá này bào ruột bào gan ghê lắm,-anh lái xe hả hê đáp.-Đồng chí cầm lấy túi thuốc này.
Ở phía trước, những chiếc xe tăng gầm lên dữ dội, ném từng nắm tia lửa ra khỏi các ống xả; các mắt xích nghiến ken két, nhúc nhích, đèn pha lóe sáng như mắt dã thú. Xe tăng đi, xích sắt cuốn tung tuyết lên, anh em bộ binh thận trọng né sang lề đường. Chiếc đi đầu bắt đầu đi lên chiếc cầu rung bần bật như gõ trống. Nó dừng lại trước chiếc xe tải chắn ngang đường, xung quanh chiếc xe đó các chiến sĩ vẫn tíu tít làm việc, dở những hòm đạn cuối cùng. Đèn pha rọi sáng bóng dáng thiếu tá Bô-gi-scô đang chỉ huy việc dỡ đạn khỏi xe. Chiếc xe tăng đi đầu xả khí ầm ầm, xông lên, dùng xích dắt của nó nghiến vào thành chiếc xe tải, lôi nó đến thành cầu như kéo một đồ chơi trẻ em nhẹ bẫng. Chiếc xe tải phá gãy lan can cầu, rơi tõm suống dòng sông đã đóng băng.
Chiếc xe “Hoóc-xơ” phanh lại, bật đèn pha lên giục giã những chiếc xe tăng. Thiếu tá Bô-gi-scô bị kích động, hít thở mạnh làn không khí băng giá, người như khỏe hẳn ra, anh không trèo mà lao lên xe và sau khi đóng cửa xe, lấy lại hơi thở sau khi hoạt động hăng hái trên mặt cầu, anh hể hả báo cáo:
-Có thể đi được rồi, thưa đồng chí tư lệnh.
-Cám ơn thiếu tá.
Dưới ánh đèn pha, Bét-xô-nốp trông thấy ở rìa cầu, gần chỗ lan can bị gãy bóng dáng người thiếu úy trẻ đứng thẳng, vận chiếc áo choàng dài, có giọng cao như tiếng gà trống, tai thì vểnh ra một cách kỳ quặc dưới chiếc mũ lông. Thiếu úy bối rối đưa mắt khi nhìn xuống lòng sông, khi quay nhìn thấy chiếc xe “Hoóc-xơ” tựa hồ như đây là lần đầu tiên anh không hiểu nên xin ai bảo vệ và giúp đỡ.
Bét-xô-nốp ra lệnh:
-Bật đèn pha lên I-gô-nat-chi-ép,-và khi tìm được chỗ thuận tiện để duỗi chân gầm động cơ ấm nóng, ông lim dim mắt, rụt đầu sâu vào trong cổ áo.
“Vích-to,-ông nghĩ.-Phải rồi, Vi-chi-a…”
Trong thời gian gần đây, mọi khuôn mặt trẻ trung mà Bét-xô-nốp tình cờ bắt gặp đều gợi lên trong ông cảm giác cô đơn ốm yếu, cảm giác mình là người cha có lỗi không bào chữa được đối với con trai và giờ đây càng nghĩ đến con, ông càng tưởng như cả cuộc đời con trai ông đã trôi qua bên ông, và kỳ quái thay, ông đã không hề chú ý tới nó.
Bét-xô-nốp không thể nào nhớ chính xác những chi tiết về thời thơ ấu của nó, không rõ nó thích gì, nó có những đồ chơi gì khi bắt đầu đi học. Ông chỉ đặc biệt nhớ rõ một lần vào ban đêm con trai ông thức giấc có lẽ do giấc mơ hãi hùng, nó khóc và khi nghe tiếng khóc ông bật đèn lên. Đứa bé ngồi trong chiếc giường nhỏ, gầy gò, những bàn tay thon nhỏ của nó run rẩy bám lấy tấm lưới. Bét-xô-nốp ẵm nó lên, ôm chặt thân mình yếu đuối của nó vào bộ ngực lông lá của mình, cảm thấy mùi chim sẻ trên mái tóc sáng, ẩm của nó, ông bế nó đi trong phòng, vừa đi vừa ru nó bằng những lời ru do ông đặt ra, những lời ru toát lên vẻ trìu mến vô cùng của bản năng người cha: “Con ơi, con hỡi, con hời, bố chẳng đem con cho ai đâu, bố con mình sẽ cùng nhau, con nhỉ…”.
Nhưng ông còn nhớ rõ một kỷ niệm khác, nó khiến ông về sau đặc biệt đau lòng: với nét mặt sợ hãi, bà vợ ông giằng khỏi tay ông chiếc dây lưng ông dùng để quất vào đùi đứa con trai mười hai tuổi, cái quần may bằng thứ vải rẻ tiền và dính đầy bụi bẩn ở nhà kho. Thằng bé không kêu một tiếng nào. Khi ông vứt chiếc dây lưng đi, thằng bé chạy ra ngoài, cắn chặt môi, đến cửa nó ngoái nhìn lại-trong đôi mắt màu xám giống như mắt mẹ của nó long lanh những giọt lệ sững sờ của trẻ thơ.
Đã một lần trong đời, ông làm cho con trai đau đớn. Lần ấy con trai ông đã xoáy tiền trên bàn viết của ông để mua chim sẻ… Chả lẽ Vích-to đã nuôi chim sẻ ở trong nhà kho? Chuyện đó cũng mãi về sau ông mới biết rõ.
Người ta chuyển ông từ đơn vị này sang đơn vị khác-từ Trung Á đến Viễn Đông, từ Viễn Đông đến Bi-ê-lô-rút-xi-a,-đến chỗ nào cũng ở nhà của Nhà nước, dùng đồ đạc của Nhà nước; đồ đạc khi di chuyển vẻn vẹn chỉ có hai chiếc va li; từ lâu vợ ông đã quen với cảnh đó, lúc nào bà cũng chuẩn bị chuyển chỗ, tới nơi công tác mới của ông. Bà lặng lẽ chịu đựng ông và gánh nặng của mình.
Tưởng chừng như tất cả phải như thế. Nhưng mãi về sau này, sau khi đã trải qua các trận chiến đấu ở gần Mátxcơva, lúc nằm bệnh viện, đêm đêm ông nghĩ tới vợ con và vỡ lẽ ra rằng nhiều điều đã có thể không như thế, rằng cuộc đời ông như một bản nháp mà tự đáy lòng mình ông luôn luôn hy vọng viết sạch lại sau một, hai năm, khi ông đã ba, bốn mươi tuổi. Nhưng sự đổi thay may mắn đó đã không xảy ra. Ngược lại, ông đã được lên cấp, lên chức đồng thời nổ ra các cuộc chiến tranh ở Tây Ban Nha, ở Phần Lan, sau đó ở Pri-ban-tích, Tây U-crai-na và sau hết là năm bốn mươi mốt. Giờ đây ông không định cho mình những thời hạn kỷ niệm nữa, chỉ tự nhủ rằng cuộc chiến tranh này sẽ thay đổi nhiều cái.
Khi nằm bệnh viện, lần đầu tiên ông nảy ra ý nghĩ rằng cuộc đời ông, cuộc đời của một quân nhân chắc chỉ có thể diễn ra theo một kiểu duy nhất mà ông đã lựa chọn, xem như nhất thành biến biến.
Chẳng có cái gì ngẫu nhiên xảy ra trong cuộc đời của ông cả. Ông không chép sạch lại cuộc đời đó và cũng không cần thiết làm như vậy. Cứ như là số phận: hoặc là thế này, hoặc là thế kia. Không có sự lấp lửng nửa vời. Nếu như phải chọn lựa lại, chắc ông sẽ không thay đổi số phận của mình. Nhưng một khi đã hiểu được như thế, Bét-xô-nốp nhận ra một điều không thể tha thứ được: cái kiểu sống duy nhất, gần gũi nhất mà ông lựa chọn đã trôi qua nhanh chóng, như thấp thoáng trong sương khói và ông không thể bào chữa được trước vợ và con trai.
Ông đã gặp Vích-to, con trai ông lần cuối cùng chính tại một viện quân y ở gần Mátxcơva, trong căn phòng sạch sẽ, trắng tinh dành cho các vị tướng. Sau khi tốt nghiệp trường sĩ quan bộ binh và nhận phân công công tác, con trai ông đã cùng với mẹ đến thăm ông ba giờ đồng hồ trước khi lên tàu ra mặt trận từ ga Lê-nin-grát. Quân hàm đỏ chói, dây lưng và quai dai mới tinh đeo chéo, bảnh bao, chàng thiếu úy mới ra lò ăn vận như ngày hội, sung sướng, rạng rỡ, tuy có vẻ choáng lộn như một thứ đồ chơi, chắc các cô gái ngoài phố phải ngoái nhìn. Anh ngồi ở chiếc giường bên cạnh-giường của vị tướng đã lại sức, vừa tế nhị đi ra khỏi phòng-và bằng một giọng trầm trầm mới vỡ, anh kể rằng mình được phân công về một đơn vị đang chiến đấu. Anh nói rằng anh đã “chán ngấy” những trò đơn điệu vô tận “tập hợp, nhìn trước, thẳng!” ở trong trường. May mắn thay, giờ đây anh được ra trận, anh sẽ được nhận chỉ huy một đại đội hoặc một trung đội-tất cả học viên ra trường đều như vậy-và thế là bắt đầu cuộc sống thật sự.
Khi trò chuyện chẳng hiểu sao anh đã cẩu thả gọi Bét-xô-nốp bằng “bố”, chứ không xưng hô như trước đấy và anh còn chưa quen với cách xưng hô mới này. Bét-xô-nốp nhìn khuôn mặt linh hoạt của con trai với đôi mắt xám vui tươi, hàng lông tơ mềm mại, bàn tay nhỏ nhắn của một chú bé khéo tay mà anh hay dùng để vỗ vào túi quần với vẻ băn khoăn và chẳng hiểu sao ông nghĩ tới những chú bé khác-những thiếu úy, trung úy và chỉ huy trung đội, đại đội mà ông hầu như bao giờ cũng chỉ được gặp có một lần: sau mỗi cuộc chiến đấu có những người khác tới thay thế họ…
-Pê-chi-a, mình cho phép, con nó hút thuốc,-bà vợ xen vào khi thấy con trai có vẻ băn khoăn.-Nó đã bắt đầu hút thuốc rồi đấy, mình không biết ư?
-Thật thế hả Vích-to?-Bét-xô-nốp hỏi, cảm thấy ngạc nhiên một cách khó chịu nhưng ông đẩy thuốc lá và diêm của vị tướng nằm bên cạnh để trên mặt bàn lại phía con trai.-Đấy hút đi…
-Con mười tám rồi đấy bố ạ. Ở trường pháo binh ai cũng hút thuốc. Con không thể là con quạ trắng được.
-Chắc là con biết uống rượu nữa chứ? Đã nếm thử chưa. Nào, cứ thẳng thẳn: vì con là thiếu úy, một người tự lập rồi cơ mà.
-Có, con đã nếm thử… Không, không cần, con có thuốc rồi, thuốc “Pu-sca”. Con hút được chứ ạ? Bố không sao chứ?-Người con trai nói nhanh, đỏ mặt, thổi thổi vào điếu thuốc; anh quẹt diêm theo kiểu đặc biệt, kiểu ở ngoài mặt trận, giữa hai bàn tay chụm lại, có lẽ anh đã học được cách đó lúc ở trường. Anh bắt đầu nói nhanh để che giấu sự bối rối:-Con cứ nghĩ nếu trước đâu bố biết việc này thì không hiểu sự thể sẽ ra sao? Bố đánh con chắc?
Người con trai hút thuốc một cách vụng về, nhả khói xuống phía gậm giường như khi ở doanh trại trong trường, vì sợ sĩ quan trực nhật tới, Bét-xô-nốp và vợ lặng lẽ đưa mắt nhìn nhau.
-Không,-Bét-xô-nốp trả lời giọng trầm trầm.-Sau lần ấy thì chả bao giờ nữa. Chả lẽ con cho bố… là một người cha hà khắc à?
-Dẫu sao lúc ấy bố cũng đã làm đúng.-người con trai nói.-Đánh là phải. Con thật là ngốc nghếch!
Anh cười vang khi nói chuyện đó, nhắc lại điều đôi lúc làm cho Bét-xô-nốp đặc biệt bị giày vò vì đã có lúc ông làm cho con trai đau đớn về thể xác.
-Trời ơi, bố con ông rõ thật là… Thế là nhà ta bây giờ có hai trang nam nhi!-Bà mẹ khẽ kêu lên và siết chặt cổ tay Bét-xô-nốp để trên tấm chăn.-Pê-chi-a ạ, xảy ra chuyện kỳ quặc lắm, như thể, không có sự can thiệp của mình ấy; Vích-to sẽ đi Vôn-khốp, tới một đơn vị nào không rõ… Chả lẽ mình không thể làm gì để giữ nó lại với mình… cho nó vào một sư đoàn nào của mình không được sao? Chí ít mình cũng để mắt được tới nó. Mình hiểu chứ?
Ông hiểu rõ mọi việc hơn bà, ông biết số phận bấp bênh của các chỉ huy trung đội và đại đội bộ binh. Ông đã nghĩ nhiều lần tới chuyện đó và muốn vuốt ve bàn tay nhỏ nhắn ấm áp của vợ để bà yên tâm nhưng trước mặt con trai ông kìm lại.
-Mình thấy đấy, Ô-li-a, bây giờ tôi là tướng không quân,-Bét-xô-nốp nói với vợ nhưng vợ chăm chú nhìn con trai.-Khi nào tình hình thực tế rõ ràng rôi sẽ gọi Vích-to về, cố nhiên nếu như…
Người con trai không để cho ông nói hết, sặc khói thuốc lá, lắc đầu quầy quậy tỏ ý không tán thành.
-Ấy, không đâu bố ạ! Nấp dưới cánh của một ông tướng là bố mình ư? Không đâu! Thôi đừng nói chuyện ấy nữa mẹ ạ! Có lẽ rồi mẹ còn bảo xếp con làm sĩ quan tùy tùng cho bố chắc? Để bố phát huân chương cho con nữa chứ?
-Bố sẽ không để con làm sĩ quan tùy tùng đâu, mà sẽ trao cho con một đại đội,-Bét-xô-nốp nói.-Còn về huân chương, nếu không có công lao bố sẽ không trao đâu. Tuy bố biết rằng người ta được huân chương theo nhiều cách khác nhau.
-Không đâu! Bố biết không, ở trường lũ bạn con lúc nào cũng cứ tủm tỉm cười và hỏi: “Thế nào, bây giờ về chỗ bố chứ?”. Con chả thích thế đâu bố ạ. Chỉ huy đại đội ở đâu mà chả thế? Với lại con đã có quyết định ở trong túi rồi. Bốn chúng con ở trường ra sẽ cùng nhau tới đó. Chúng con đã cùng học với nhau và sẽ cùng nhau xông lên tiến công! Còn nếu xảy ra chuyện gì thì đó là số phận! Làm gì có hai số phận hả bố!-Anh lặp lại những lời nghe được của người khác.-Thật thế đấy mẹ ạ!
Bét-xô-nốp chỉ hơi đụng đậy các ngón tay trong lòng bàn tay đã trở nên ẩm ướt của bà vợ, bà cũng im lặng. Bét-xô-nốp nhìn nhận hơi khác điều mà con trai ông giờ đây tưởng như rõ ràng, đơn giản, điều thôi thúc anh đợi chờ cuộc sống mới tự lập, tình đồng chí chiến đấu và các cuộc tiến công quyết định và cố nhiên bao giờ cũng thắng lợi. Ông hiểu rất rõ thế nào là chiến trường, và cái chết trong chiến tranh không phải lúc nào cũng đẹp đẽ.
Nhưng ông không có quyền nói tất cả những điều đó với con trai bằng một giọng từng trải và quá ư thiết thực, phá tan ảo tưởng ngây thơ của tuổi trẻ ở trong anh. Hơn thế nữa, lúc này anh không chấp nhận gì hết. Có lẽ Vích-to chỉ cảm thấy một điều: tấm giấy quyết định cử anh ra mặt trận, đang sọt soạt đầy sức lôi cuốn trong chiếc áo va rơi của anh. Phải, chỉ có chiến tranh mới có quyền uốn nắn mọi cái cho đúng.
-Số phận-Bét-xô-nốp nhắc lại.-Vích-to, con nói tới số phận. Nhưng trong chiến tranh số phận dẫu sao cũng không phải là một sự ngẫu nhiên ngu xuẩn. Dù con thấy lạ lùng thế nào đi nữa, đó là sự khắc phục bản thân… nếu như con muốn biết rõ. Tuy nhiên vấn đề không phải ở chỗ đó…
-Vâng, vấn đề không phải ở chỗ đó, chúng ta sẽ không lao vào triết lý rắc rối-Anh con trai tán thành một cách vô tư và chỉ cẳng chân băng bó của cha đặt dưới tấm chăn, hỏi:-Bây giờ bố thấy dễ chịu rồi chứ? Bố sắp ra viện chưa? Con cứ nghĩ: nằm đây thật là chán ngắt! Con thông cảm với bố lắm! Bố không đau chứ?… Ồ, thì giờ quái quỷ thật!… Các bạn con đang chờ. Đến giờ con phải đi ra ga rồi!-Và anh nhìn đồng hồ. Qua cử chỉ đó của anh có thể thấy rằng anh còn chưa hình dung được thế nào là đau đớn, có lẽ thậm chí anh không thể hình dung được ngay chính cái khả năng đau đớn.
-Bố hy vọng là sẽ sớm được ra khỏi đây,-Bét-xô-nốp nói.-À mà này, nhớ viết thư cho mẹ nhé. Ít nhất, mỗi tháng một lần.
-Bốn lần trong một tháng, con xin hứa như vậy!-Vích-to đứng dậy, hầu như sung sướng khi nghĩ rằng rốt cuộc chả mấy chốc anh sẽ ngồi trong toa xe lửa cùng với các bạn học của mình.
-Không, hai lần thôi, Vi-chi-a ạ,-bà mẹ sửa lại.-Chả cần viết nhiều hơn đâu. Chỉ cốt mẹ biết được…
-Con xn hứa, mẹ ạ, con xin hứa. Đến giờ rồi, chúng con đi đây!…
Và còn một kỷ niệm nữa.
Trước khi ra đi, người con trai đứng lại, mỉm cười, do dự không biết có nên ôm hôn cha hay không (trong gia đình không quen làm như vậy). Vì không quyết định được nên anh chìa tay ra theo kiểu người lớn:
-Tạm biệt bố!
Tuy nhiên Bét-xô-nốp siết chặt những ngón tay mảnh dẻ của con trai, kéo anh lại gần và chìa má hốc hác, bao giờ cũng cạo nhẵn nhui, cau có nói:
-Thôi được, bố không biết liệu chúng ta có còn gặp nhau nữa không,-chiến tranh mà, con trai của bố.
Lần đầu tiên trong suốt cuộc trò chuyện này ông gọi anh là “con trai” nhưng không phải với giọng điệu như khi Vích-to gọi ông là “bố”.
Vích-to lúng túng đặt môi lên khóe miệng ông và Bét-xô-nốp hôn lên cặp má nóng hổi của anh, cảm thấy trên áo va rơi mùi mồ hôi dìu dịu toát ra từ tấm thân trẻ trung trong trắng của anh. Ông nói:
-Con đi đi! Con hãy nhớ lấy điều này: mảnh đạn và đạn không thích các ông già. Chúng tìm những người như con… Và nếu như con nghĩ lại-cứ viết thư, bố sẽ giao cho con một đại đội ở chỗ bố. Thôi, chúc thiếu úy mọi sự may mắn!
-Mong bố chóng khỏe. Sau trận đầu tiên con sẽ viết thư?
Anh cười vang, đưa tay lên dây lưng của quai da đeo chéo, sửa lại những nếp gấp của cái áo sĩ quan, thích thú chỉnh lại bao da súng ngắn màu vàng bóng lộn, nhấc chiếc áo đi mưa mới tinh, sột soạt, để ở thành giường, khéo léo vắt nó trên tay. Vừa lúc đó có cái gì rơi lộp bộp trên sàn nhà chói nắng. Đó là những viên đạn súng ngắn T.T mới tinh, vàng chóe. Vích-to nhét đạn đầy các túi áo đi mưa. Sau khi tốt nghiệp, người ta chỉ phát có hai kẹp đạn cho mỗi người, còn anh chẳng hiểu bằng cách nào, đã tăng số đạn dự trữ, có lẽ đủ dùng nhiều tháng trong chiến tranh.
Bét-xô-nốp quay mặt nhìn ra cửa sổ, không nói gì. Còn bà mẹ thốt lên giọng thiểu não:
-Cái gì đấy? Sao nhiều thế hả con? Để mẹ nhặt giúp cho. Người ta phát cho con những ngần này cơ à?
-Con kiếm lấy đấy, mẹ ạ… Khoan đã mẹ. Con làm như thế để phòng bất trắc.
Vích-to hơi bối rối, nhanh chóng nhặt những viên đạn vung vãi trên sàn và khi đứng thẳng dậy anh nhét chúng vào các túi áo, khi trông thấy một viên đạn đang lăn đi, anh ngoái nhìn bố-ông đang nhìn ra cửa sổ-anh dùng mũi giày của mình đá nhẹ viên đạn vào một góc, khuôn mặt rạng rỡ, người thiếu úy ăn mặc bảnh bao, trông như một đồ chơi, dây lưng cót két, áo đi mưa mới tinh vắt trên tay, bước ra khỏi phòng như đi dạo chơi.
Về sau Bét-xô-nốp tìm thấy viên đạn bóng như gương này ở phía lò sưởi bằng hơi nước và ông giữ nó mãi trong lòng bàn tay, cảm thấy nó nhẹ bẫng kỳ lạ.
-Anh ta bao nhiêu tuổi, đồng chí chính ủy? Mười chín hay hai mươi?-Bét-xô-nốp hỏi bằng giọng rin rít, phá tan sự im lặng trong xe.
-Anh lính xe tăng ấy à?
-Và một anh khác nữa, đứng ở trên cầu.
-Nói chung toàn là các chú nhóc cả, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích.
Chiếc xe “Hoóc-xơ” xóc nhẹ trên các ổ gà, bật đèn pha phóng nhanh. Những chiếc xe tăng đã biến mất từ lâu vào màn sương màu lam nhạt của đem đen lạnh giá. Những chiếc xe tải kéo những cỗ pháo nặng, không bật đèn, đi ở bên phải như những chấm đen. Thỉnh thoảng lại vọng tới tiếng bánh xe nghiến ken két trên mặt đất đóng băng, gió đưa những tiếng hô khẩu lệnh rời rạc lọt qua những tấm kính lạnh giá-và Bét-xô-nốp lúc nào cũng cảm nhận được cuộc chuyển quân liên tục này, nghĩ: “Phải, nhanh lên, nhanh nữa lên!”.
Ở phía sau, ánh lửa diêm lóe lên như lân tinh và khói thuốc lá tỏa ra khắp trong xe.
-Vâng, hai mươi tuổi, anh ta bảo tôi thế,-Ve-xnin đáp và lập tức hỏi ngay với vẻ thận trọng tin cậy:-Thế con trai đồng chí thế nào rồi, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích? Vẫn không có tin tức gì à?
Bét-xô-nốp cảnh giác, các ngón tay nắm chặt lấy cái gậy đặt giữa hai đầu gối.
-Do đâu anh biết chuyện con trai tôi, Vi-ta-li I-xa-ê-vich?-Ông dè dặt hỏi, không quay đầu lại.-Nghĩa là anh muốn hỏi: con trai tôi còn sống không?
Ve-xnin đặt tay lên lưng ghế, gần vai Bét-xô-nốp.
-Xin lỗi, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích, cố nhiên tôi không muốn… Tất nhiên tôi cũng có biết chút ít. Tôi biết là anh có một con trai, thiếu úy… cháu nó chiến đấu ở mặt trận Vôn-khốp trong tập đoàn quân xung kích số Hai… Nói chung chắc anh đã rõ về số phận của tập đoàn quân này.
-Hoàn toàn đúng,-Bét-xô-nốp lạnh lùng nói,-tập đoàn quân xung kích số Hai trong đó có con trai tôi, đã bị đánh bại vào tháng Sáu. Tư lệnh tập đoàn quân đã đầu hàng, bị bắt làm tù binh. Ủy viên Hội đồng quân sự tự sát, trưởng ban thông tin đã dẫn tàn quân thoát khỏi vòng vây. Trong số những người chạy thoát không có con trai tôi. Những người quen biết nó quả quyết rằng nó đã bị giết.-Bét-xô-nốp chau mày.-Tôi mong rằng mọi người ngồi đây hãy quên đi những điều tôi nói ở đây. Tôi không muốn để những kẻ nhàn rỗi hay đi săn tin giật gân xì xào về những biến cố xảy ra ở Vôn-khốp. Không phải lúc.
Nghe rõ tiếng lịch kịch của tấm kính do Ve-xnin hạ xuống để vứt mẩu thuốc lá ra ngoài, tiếng người lái xe trở mình trên ghế, như thể lời ngăn đe chỉ nhắm vào anh, anh làu bàu:
-Đồng chí làm chúng tôi phật lòng đấy, thưa đồng chí tư lệnh. Tôi đã được kiểm tra hàng trăm lần…
-Các anh phật lòng vì các anh không hiểu,-Bét-xô-nốp nói.-Điều tôi nói còn liên quan cả đến thiếu tá Bô-gi-scô. Tôi không chịu được những người lái xe cũng như những sĩ quan tùy tùng hay ba hoa ở bên cạnh.
-Tôi hiểu cả, thưa đồng chí tư lệnh!-Bô-gi-scô phấn khởi lên tiếng, không phật ý.-Nếu có sai lầm tôi sẽ cố gắng sửa chữa.
-Ai cũng có sai lầm cả.-Bét-xô-nốp nói.
“Một người khắt khe và không đơn giản,-Ve-xnin nghĩ.-Anh ấy cho thấy rõ là sẽ không lấy lòng ai cả. Nói chung đây là một người không cởi mở. Anh ấy nghĩ gì về mình nhỉ? Chắc đối với anh ấy mình chỉ là một anh dân sự đeo kính cận tuy khoác áo chính ủy sư đoàn…”.
-Xin lỗi, Pi-ốt A-lếch-xan-đrô-vích, tôi xin hỏi thêm một câu nữa,-Ve-xnin thốt lên với ý muốn phá tan bầu không khí lạnh lùng trong quan hệ giữa họ.-Tôi được biết anh đã đến làm việc ở Đại bản doanh. Tổng tư lệnh tối cao thế nào hả anh? Anh thử hình dung xem, trong đời mình tôi đã được thấy Người mấy lần, nhưng chỉ được trông, thấy trên lễ đài thôi. Chưa bao giờ được thấy gần.
-Biết trả lời anh thế nào bây giờ, Vi-ta-li I-xa-ê-vich-Bét-xô-nốp nói.-Về chuyện đó không thể trả lời vắn tắt được.
Cũng như Ve-xnin bất giác còn dè dặt khi dò dẫm tìm hiểu vị tư lệnh mới của mình, Bét-xô-nốp cũng không thích tâm sự, không thích nói về những gì liên quan đến bản thân mình cũng như những điều có liên quan đến con tra mà Ve-xnin vừa hỏi. Ông ngày càng cảm thấy thấm thía hơn rằng số phận con trai ông đã trở thành gánh nặng của người cha, thành nỗi đau không nguôi và như điều thường xảy ra, sự chú ý, sự cảm thông và sự tò mò của những người xung quanh chỉ càng làm đau thêm vết thương rớm máu. Thậm chí ngay ở Đại bản doanh, nơi Bét-xô-nốp được mời tới trước khi được bổ nhiệm chỉ huy tập đoàn quân, trong cuộc trao đổi, vấn đề về con trai ông cũng đã được đặt ra.