Books serve to show a man that those original thoughts of his aren't very new after all.

Abraham Lincoln

 
 
 
 
 
Thể loại: Giáo Dục
Upload bìa: Dinh Hoang Minh
Số chương: 10
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 17691 / 1748
Cập nhật: 2017-12-22 17:07:00 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6
hu Giang Nguyễn Duy Cần
Tôi tự học
Chương Thứ Năm
ĐỌC NHỮNG GÌ?
Đọc tiểu thuyết tâm lý
Đọc tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết tâm lý hoặc kịch, là để xem người ta bày giãi tâm trạng con người quá nhiều khía cạnh trong khi tiếp xúc với đời để giúp cho ta suy nghĩ việc đời một cách sâu sắc hơn. Tiểu thuyết và kịch cũng giúp cho ta đặt lạivấn đề giá trị của cuộc đời, và đi sâu vào tâm lý của con người.
Nhưng làm cách nào, do tiêu chuẩn nào để nhận thấy một tiểu thuyết gia hay một kịch gia sành sỏi về tâm lý?
Tiểu thuyết gia hoặc kịch gia tầm thường bao giờ cũng miêu tả nhân vật của họ có một chiều thôi, nghĩa là nhân vật của họ rất thuần nhất, trung hay nịnh. Sự thật trong đời, con người, dù là bực hiền hay ngu, quân tử hay tiểu nhân, không có một tâm hồn nào thuần nhất cả. Người cao nghĩa không phải luôn luôn là người cao nghĩa, người quân tử hay người anh hùng. Có những lúc tâm hồn họ bị nhiều thử thách và có những cái tầm thường quá mức tầm thường. Bề mặt nào cũng có bề trái của nó. Những nhân vật thuần thanh cao hay đê tiện là những nhân vật nguỵ tạo. André Gide có bảo: “Chính nhờ nơi những mâu thuẫn của họ mà một nhân vật làm cho ta lưu ý và chứng tỏ sự thành thật của y”. Pascal cũng có nói: “Con người không phải là một vị tiên thánh, mà cũng không phải là một con vật. Và kẻ nào chỉ muốn làm bực thánh lại trở làm con vật”.
Tâm hồn con người bao giờ cũng có hai mặt: một mặt phàm, một mặt thánh. Không có một bực anh hùng vĩ nhân nào mà không có những lúc tầm thường và ti tiện. Không có một bực thánh nào mà chẳng có những sa ngã cùng tội lỗi. Có điều là bực thánh hay bực hiền là những kẻ trong cuộc tranh đấu với cõi lòng họ đã đem ông thánh trong con người của họ thắng được cái con vật trong lòng họ.
Đời người thật là hết sức phức tạp. Trên thế, chưa từng có một người nào mà con đường đi được luôn luôn phẳng phiu không trở ngại. Ai ai cũng phải hằng ngày đụng chạm với người và vật chung quanh. Cách phản ứng phải có khi mềm, bao giờ cũng còn phải biết chiều theo hoàn cảnh, theo biết bao nhiêu là sự bó buộc của xã hội không thể nào tránh được.
Khi tạo một nhân vật điển hình yếm thế ghét đời, một nhà văn vụng về thiếu tâm lý sẽ làm thế nào? Họ sẽ đặt nhân vật của họ ở trong những trường hợp và hoàn cảnh luôn luôn thuận tiện để cho nhân vật ấy tha hồ thi thố tấm lòng hiếu tố của mình không gặp gì trở ngại cả: họ tha hồ mỉa mai chỉ trích thiên hạ không sợ thù oán, không chút thắc mắc gì cả. Tánh tình ấy vẫn luôn luôn không thay đổi bất cứ ở vào trường hợp nào.
Cách miêu tả ấy rất sai với sự thực. Thực ra, không bao giờ có hạng người như thế trong đời nầy. Dù là một “người chuyên quyền độc tài bực nào cũng phải có lúc lo nghĩ và biết nể người chung quanh mình. Cũng phải có lúc biết sợ đến dư luận chung quanh, biết sợ đến trời đất thánh thần, và cũng muốn được lòng người chung quanh mình. Cho nên họ cũng phải biết chiều chuộng và nhún nhường. Chính những lúc ấy, giữa sự xung đột của bản tánh và hoàn cảnh là những lúc gây cấn và linh hoạt nhất làm cho câu chuyện trở nên thú vị.
Thật vậy, một nhà tâm lý sành sỏi như Moliere sẽ trình bày nhân vật ấy như thế nào? Đọc vở “Misanthrope” của Moliere các bạn hẳn đã thấy kịch gia đại tài ấy dùng những lối nào? Moliere để cho chàng “ghét đời” Alceste trong những trường hợp khó khăn đặc biệt làm cho chàng ta không làm sao tha hồ kích bác chê bai như ý muốn. Alceste rất ghét những kẻ luôn tươi cười và chiều đời, xu thời nịnh thế. Anh ta rất bất bình đối với chàng Philinte, vì anh nầy mới vừa gặp người lạ là đã niềm nở ngon ngọt không tiếc lời. Cái đó cũng có lý do: anh vừa bị kiện tụng bởi một gã “lưu manh” mà tất cả mọi người đều biết mặt, nhưng trước mặt lại được người người tươi cười niềm nở. Vì vậy, anh ta tức giận muốn điên. Qua màn nhì, Alceste lại gặp một anh “nịnh thần” đến đọc cho anh ta nghe những bài thơ “ngửi” không vô. Alceste cũng muốn nói tạt trong mặt ông ta sự thật chua cay… nhưng làm sao mà nói cho thẳng được, nhất là địa vị của anh nầy kể ra cũng đáng sợ. Dù sao một người có giáo dục chả lẽ lại nói thẳng một sự thật trắng trợn và không đẹp đẽ ngay trong mặt một nhà thơ đã có nhã ý đến đọc thơ người ta cho mình nghe, cũng như ai nỡ nào nói trắng trợn sự thật trước mặt một cô gái làm dáng rằng cô ấy không đẹp chút nào cả và lại vô duyên là khác? Alceste biết rõ rằng ở trường hợp nầy, anh ta phải bắt buộc không được nói sự thật…
Và ông ta đã phải đôi ba lần thối thác không dám nói thẳng một sự thật mà ông biết sẽ làm nặng lòng, dù là đối với một người xấc xược hỗn láo. Lòng nhân của Alceste cũng như lễ độ đã bắt buộc anh ta không đặng quyền nói thật những sự thật đau lòng và làm nhục người ta một cách vô ích. Cái hay của tác phẩm là chỗ mà tác giả khéo đặt nhân vật chánh của mình trong những nghịch cảnh như ta thường thấy trong đời sống hằng ngày. Càng gặp nhiều nghịch cảnh càng làm cho nhân vật càng tăng lòng cương quyết tranh đấu, càng làm cho vở kịch thêm nhiều hứng thú.
Nhưng những kẻ có một tâm hồn như Alceste, ghét đời, ghét những thói đời siểm nịnh, Moliere lại bắt chàng ta đáng buồn cười hơn là phải bị si tình… Mà si tình phải một cô nhí nhảnh… Rõ là một sự phi lý…Nhưng trong thực tế lại luôn luôn có những sự tình oái ăm và ngang trái, nếu không nói là phi lý như thế. Người ta là một cái gì mâu thuẫn không thể giải được. Những nhà đạo đức, những bực vĩ nhân thường lại có rất nhiều tiểu tật, những cái yếu đuối, những cái ngu dại tầm thường và bất ngờ (3). Nhà bác học Newton là một bực thông minh xuất thế, nhưng lắm lúc tỏ ra đần độn buồn cười: Ông có nuôi hai con chó, một con chó lớn và một con chó nhỏ. Muốn cho hai con chó ra vào khỏi phải mở cửa, ông bèn khoét cho mỗi con một cái lỗ trống nơi chân sách. Thánh Benoit nói: “Người trí sở dĩ khác thường nhân là trong ngày chỉ sống ngu có vài khắc đồng hồ thôi”. “Khôn ba năm, dại một giờ” là thường sự mà cũng là may mắn lắm mới được thế.
Đem những hoàn cảnh trái ngược với bản tính của nhân vật chánh trong truyện để làm nổi lên rõ ràng hơn tánh đặc sắc ấy, đó là phương pháp chung của những nhà văn đại tài và tâm lý sâu sắc.
Jean Valjean, trong vở truyện Les Miserables của Victor Hugo, là một nhân vật cũng linh động lắm. Ông là một người có một tấm lòng hào hiệp, cứng cỏi, anh hùng nhưng gặp toàn là nghịch cảnh. Càng gặp nghịch cảnh bao nhiêu ông lại càng tỏ ra càng hào hiệp, anh hùng bấy nhiêu. Tuy vậy phần đông các nhân vật của Victor Hugo không được thực tế lắm.
Hamlet, trong vở kịch bất hủ của Shakesease, là một thành niên đa cảm, có tánh do dự và thờ ơ, đang sống một đời sinh viên lười biếng êm đềm ở Đức. Bỗng tin cha chết và hồn cha về mách cho biết là ông bị ám sát mà người ám sát ấy lại là chú của Hamlet. Hamlet hứa với hồn người chết sẽ trả thù… Nhưng anh ta là một tâm hồn uỷ mỵ nay gặp việc cần phải cương quyết, anh ta tìm đủ mọi cách để diên trì và thối thác. Tất cả vở truyện toàn dệt bằng những do dự, rụt rè của chàng Hamlet. Khi cơ hội đã đến, chàng thấy rõ bằng cớ chắc chắn để trả thù, lúc ấy kẻ sát nhơn kia đang quỳ đọc kinh… Hamlet rút gươm, nhưng rồi, ngừng lại… do dự và tìm lý lẽ để tự nhủ: “Nó đang cầu nguyện… giết nó, thế là nó đang sám hối và hồn nó sẽ lên trời. Ta sẽ đợi lúc nó đang tội lỗi mà giết đi thì mới đưa hồn nó vào địa ngục”… Thế là bản tánh Hamlet, vẫn càng ngày càng hiển lộ ra rõ ràng trong nhiều trường hợp gây cấn bắt buộc anh ta phải làm sái lại với bản tánh của anh ta (2)
Đem đối chọi hoàn cảnh và bản tánh của những nhân vật chánh để bắt buộc nó phải bộc lộ ra một cách tinh tế và muôn mặt, đó là mật pháp chung của phần đông các nhà tiểu thuyết, các kịch gia tài giỏi.
Tóm lại, đọc tiểu thuyết có ích cho sự học là để giúp ta hiểu biết rõ hơn ý nghĩa của đời sống của ta và là của đời sống của những người chung quanh ta thường bị thói quen hàng ngày che giấu. Cần phải đọc tiểu thuyết để đi sâu vào nhiều hoàn cảnh xã hội khác ta để tìm thấy chỗ đại đồng của bản tánh con người sống dưới hình thức của những phong tục khác nhau, và để mà nghiên cứu mọi vấn đề quan trọng của nhân sinh như tội lỗi, ái tình và số mạng một cách cụ thể hơn, ngoài sự giải thích xuyên tạc của luân lý, đạo đức… Những tiểu thuyết hay bao giờ cũng đặt cho ta nhiều nghi vấn về cuộc đời… và bắt ta suy nghĩ. Ngoài ra những tiểu thuyết có mục đích khác khêu gợi những dục vọng tầm thường của ta để thoả mãn óc tò mò bệnh hoạn đều là những sách cần phải vứt vào lò lửa.
Về phương diện nầy, nên đọc tiểu sử các bực danh nhân thế giới. Nó sẽ giúp ta thấy rõ tâm lý phức tạp của con người, và những bực phi phàm cũng chỉ phi phàm ở những mực độ nào thôi. Có nhiều lúc họ cũng tầm thường hơn chúng ta nhiều.
Đọc tiểu thuyết cần phải thận trọng. Kẻ nào đọc những loại tiểu thuyết nhảm sẽ làm mất thời giờ rất quý báu của họ và đáng ân hận hơn, là rồi họ sẽ mất lần óc phán đoán và quân bình của tâm tình họ nữa. Giờ ngày cần phải dành cho những sách chuyên môn, những sách tu luyện thân tâm cùng trí não. Những loại tiểu thuyết diễm tình xa sự thực dắt dẫn những kẻ đầu óc non nớt, nhất là phụ nữ đa cảm đa tình đi vào con đường phiêu lưu lãng mạn ngoài thực tế đến đỗi quên rằng đời là một trường tranh đấu trắng trợn của các dục vọng, quyền lợi của con người, và chỉ có những kẻ nào thật khôn mới sống nổi. Lãng mạn của những tiểu thuyết như Tố Tâm, Werther đã làm hư hỏng đầu óc thanh thiếu niên nam nữ không phải ít.
Những tiểu thuyết phải đọc là những tiểu thuyết có tánh cách soi đường chỉ nẻo, cắt nghĩa đời sống con người trải qua những giai đoạn đi tìm con đường lập chí. Loại tiểu thuyết ấy trong văn học giới rất ít. Những quyển Les Annees d’Apprentissage de W.Meister của Goethe; Jean Christophe của Romain Rolland là những bộ sách không thể bỏ qua được đối với những người tự học. Sách Việt dĩ nhiên là chưa có loại nầy.
Nhất Linh, trong quyển “Viết và đọc tiểu thuyết” có nói: “Thế nào là những cuốn tiểu thuyết hay, có giá trị trong không gian và thời gian và chỉ giúp ích nhiều nhất cho nhân loại? Những cuốn tiểu thuyết hay là những cuốn tả đúng thực sự cả bề trong lẫn bề ngoài, diễn được một cách linh động các trạng thái phức tạp của cuộc đời, đi thật sâu vào sự sống với tất cả những chuyển biến mong manh tế nhị của tâm hồn, bằng cách dùng những chi tiết về người và việc để làm hoạt động những hành vi, cảm giác và ý nghĩ của họ. Những cuốn đó cần phải do sự thành thực của tác giả cấu tạo nên, viết bằng một lối văn giản dị, không giảng giải nhiều và không phải hay chỉ vì cốt truyện.”
Biết đọc tiểu thuyết là biết thưởng thức cái hay của tiểu thuyết. Muốn biết thưởng thức cái hay của tiểu thuyết phải biết qua những quy tắc cần thiết để viết một quyển tiểu thuyết hay. về sách giúp cho ta có một quan niệm tổng quát về tiểu thuyết, các bạn nên đọc những quyển sau đây: “Khảo về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh (1929), Khảo về tiểu thuyết của Vũ Bằng (1951) và nhất là Viết và đọc tiểu thuyết của Nhất Linh (1961).
Sách Pháp thì nên đọc Defense des Letres của Georges Duhamel, Comment un Romancier fait ses Romas của Claude Farrere (Conferencia số 12, 5/6/1927), Pour quoi et Comment on ecrit un Roman của Andre Maurois (Conferencia số 3, 20/1/1932), Reflexions sur le Roman của Albert Thibaudet (Gallimard).
Theo Georges Duhamel, trong Defense des Lettes, thì thể văn tiểu thuyết tuy khác nhau nhiều, nhưng kể về loại thì chỉ có 2 loại: một loại cốt làm cho ta quên cuộc đời đang sống của ta đây, và một loại khác cố gắng soi sáng và làm cho đời sống trong thực tế của ta trở nên có ý thức hơn. Hay nói một cách khác: Có hai loại tiểu thuyết, một loại giúp ta trốn cuộc đời hiện tại và một loại giúp ta sống cuộc đời hiện tại bằng cách nhìn thẳng vào thực trạng của nó.
Nhưng dù sao, dù tiểu thuyết thuộc về loại tả chân, tả thực, cũng là “đặt ra một truyện khác với việc thường của mỗi người, khiến cho người ta trong cái khoảng dài hay ngắn, cầm đến quyển truyện trên tay, thoát ly được ra ngoài cái đời mình mà cùng với người trong truyện hoặc vui hoặc buồn, hoặc sướng hoặc khổ, hoặc đi viễn du những nơi xa lạ, hoặc ngồi hồi tưởng việc xa xưa. Tiểu thuyết hay, người đọc trong lúc đọc tưởng như mình không phải là mình nữa mà là người trong truyện…” (Khảo về Tiểu thuyết của Phạm Quỳnh).
Người ta sở dĩ khác muôn vật là có tánh không chịu an phận, không chịu mãn nguyện với hiện tại của mình, bao giờ cũng đứng núi này trông núi nọ, tìm cách thoát ly cuộc đời bình thường của ta đây để mà tưởng tượng một cuộc đời khác thú vị hơn, ly kỳ hơn, sung sướng hơn. Vì vậy, đối với phần đông, tiểu thuyết là nguồn an ủi duy nhất để ta có thể an phận mà vượt qua những đau khổ trắng trợn của cuộc đời đầy gió bụi và ngang trái… Đó cũng là sứ mạng cao cả nhất của nó, một sứ mạng văn hoá nếu nó đừng huyễn hoặc người đời đến lôi kéo họ vào cõi mộng và không còn biết phân biệt đâu là Thực, đâu là Mộng nữa. Nó là con dao hai lưỡi, nếu sử dụng sai lầm, nó là một tai hoạ cho người đời không nhỏ.
2. Đọc sử
Đọc sử có ích gì cho sự đào luyện óc phán đoán của ta chăng? Phần đông cho rằng sử là việc đã qua, sử là để học những bài học của quá khứ.
Nói thế có đúng mà cũng có sai.
Muốn cho sử học giúp ta những tài liệu đã qua, để hiểu hiện tại và dự bị cho tương lai thì sử phải trước hết được viết ra và thuật lại một cách đúng với sự thực đã xảy ra, nghĩa là phải được thuật lại một cách khách quan. Nhưng làm gì viết sử được một cách khách quan? Nhiều người còn rất hoài nghi chỗ đó. Tôi nhớ có đọc được một câu chuyện mang máng như sau đây do nhà văn Anatole France thuật: Có một nhà bác học quyết đem hết đời mình để viết lại một bộ sử tổng quát về nhân loại. Ông đã tham khảo hầu hết sách vở từ cổ kim để soạn bộ sử ấy. Công việc gần xong, thì ông đã già gần xuống lỗ. Ngày kia, vào một buổi sáng, ông đứng trên lầu cao, trước cửa sổ, chứng kiến được một cuộc cãi lộn và ẩu đả ở phố trước từ đầu đến cuối. Một hồi lâu, chị nấu bếp dọn ăn cho ông, vui miệng thuật lại câu chuyện cãi lộn và ẩu đả ấy cho ông nghe. Nhưng ông lấy làm lạ tại sao những chi tiết đều sai cả với những điều chính ông đã nghe thấy? Ông suy nghĩ và không bao giờ ngờ đến lòng thành thực của chị nấu bếp vì ông biết chị ấy thực thà lắm. Ông bèn xách gậy đi xuống đường phố… Khi ông vừa gặp bà giữ cửa, bà ấy thuật lại cho ông nghe câu chuyện trên, hoàn toàn không giống với những điều ông nghe thấy, lại cũng không giống với những điều nghe thấy của chị bếp nữa. Ông tò mò đi từ đầu phố đến cuối phố… thì ông lại được nghe biết bao chi tiết ly kỳ hơn nữa… không đúng với những sự nghe thấy của ông mà lại còn nghịch nhau lung tung. Ông trở về… cảm thấy sự mỏng manh của chứng từ con người… Các chứng cứ do các sử gia từ thế kỷ này đến thế kỷ kia để lại… ông cảm thấy cũng chỉ là những chứng cứ không sao tin cậy được nữa…
Buồn chán, ông cho chồng sử của ông đã viết vào lò lửa…
Hẳn các bạn cũng đã có xem qua vở tuồng Rashomon của Nhật và các bạn cũng đã có dịp nghĩ qua sự mong manh của những chứng cứ của con người.
Huống chi những cái mà người gọi là những “bài học lịch sử” lại càng bắt ta nên thận trọng. Người ta thường có thói dùng lịch sử để làm những bài học luân lý, chánh trị. Thực ra, những sự kiện lịch sử thường chỉ có giá trị của những tài liệu lịch sử mà thôi chứ tự nó không có ý nghĩa để dùng làm bài học.
Tôi xin đơn cử một tài liệu lịch sử nầy về trận giặc Peloponese. Vào khoảng 431 trước tây lịch kỷ nguyên là khởi đầu trận giặc Peloponese giữa hai địch quốc Athenes và Sparte. Vào năm 404 trước tây lịch kỷ nguyên thì Sparte thắng Athenes và bắt Athenes phải chịu nhận một chánh phủ do ba mươi vị quan toà cai trị thường gọi là Ba mươi vị Độc tài (Les Trente Tyrans) phần đông là người Sparte.
Tại sao là có sự kết cuộc như thế, đem Sparte làm bá quyền Athenes? Là vì người xứ Athenes, nghệ sĩ, thông minh nhưng không kỷ luật, rất ghét rất giai cấp và sống dưới chế độ dân chủ và tự do. Trái lại, địch thủ của họ thì tuy không quan thiết gì đến văn minh, nhưng biết lấy tánh khí làm căn bản, và sống dưới chế độ giai cấp, khắt khe theo truyền thống theo kỷ luật khắt khe, biết đem uy quyền đặt trên những nền tảng vững chắc và độc tài.
Dĩ nhiên, Sparte phải thắng Athenes.
Đó là bài học của lịch sử.
Và người ta lại không để ý, cũng chính lịch sử cho ta biết, chính Thrasybule lại lật đổ “Ba mươi vị Độc tài” kia trong mấy tháng sau khi Athenes thất thủ, và hai mươi bốn năm sau, Pélopides, người Thèbes đuổi quân Sparte ra khỏi thành nầy. Epaminondas, tám năm qua, cũng là dân Thèbes, thắng dân Sparte trong trận Leuctres, và Mantinee làm cho Sparte mất cả tên tuổi trên lịch sử ngày xưa. Ta nên nhớ rằng Thebes lại là bạn đồng minh của Athenes.
Những anh học sinh ngoan ngoãn đều biết rõ những sự kiện lịch sử ấy và đã học thuộc lòng nó để trả bài cho giám khảo họ nhưng cũng luôn luôn không quên nhắc đến cái bài học lịch sử trên đây về việc Sparte bá quyền Athenes. Ta thấy rằng ở đây lịch sử lại bị lịch sử cải chính, nhưng rồi cũng không ai quan tâm đến, người ta chỉ lo nhớ cả cái bài học lịch sử và luôn sự cải chính lại nó nữa, mới là mỉa mai!
Các bài học lịch sử khác thì cũng một thế: phần nhiều đều có một tánh cách chung là dạy cho người ta đã biết, nghĩa là không dạy thêm được việc gì cả.
Khi người ta đọc sử với cái mộng tìm nơi đó một bài học, thì có khác nào người ta gặp phải tâm trạng của một luật sư đang soạn bài biện trạng của ông ta. Ông luật sư ấy không làm việc như một nhà khoa học đi tìm chân lý mà chỉ làm cái việc tìm những chứng minh cho một định kiến sẵn có của anh ta. Những sự kiện lịch sử chỉ là những bằng cứ để anh ta dùng chứng minh những ức đoán của anh ta: anh đã biết trước phải dùng những sự kiện gì rồi. Thực ra, sự kiện không chứng minh gì cả (les faits ne prouvent rien). Phần đông ngày nay người ta quá mê tín, quá tin tưởng nơi nó và cho rằng tự nó có đủ uy quyền để bảo đảm sự thật. Người ta không để ý rằng: cũng thời những sự kiện ấy, người ta lại có thể dùng mà giải thích rất hợp lý những lý thuyết trái nghịch nhau như nhiều nhóm duy vật và duy tâm đã làm. Như vậy, những sự kiện lịch sử tự nó không thể bảo đảm rằng nó là một chân lý bất di bất dịch, giá trị của nó có cùng không là do sự giải thích của nhà viết sử mà thôi.
Muốn viết sử mà được liêm khiết, nhà viết sử chỉ nên trình bày sự kiện lịch sử đủ mọi phương diện nhưng đừng cố gắng rút ra một bài học lịch sử quá vội vàng.
“Lịch sử vị lịch sử” cũng như “nghệ thuật vị nghệ thuật” là quan niệm rất cận thời. Ngày xưa lịch sử trước tiên là do chánh trị mà ra, thường là công việc của những kẻ chuyên môn ca tụng chánh thể, những kẻ nịnh thần, những nhà lập pháp, nghĩa là của những kẻ phụng sự một chủ quyền nào. Đọc sử cần phải biết tránh sự xuyên tạc của nhà viết sử.
Tóm lại, viết sử cho thật đúng rất khó. Huống chi, nhân quá khứ để tìm một bài học cho tương lai, thiết tưởng ta cũng cần phải hết sức thận trọng mơí được.
Ta nên tự hỏi: những bài học của cuộc đời trong quá khứ có thể nào giúp ta để giải quyết được những vấn đề rất phức tạp của thời buổi hiện tại nầy chăng? Thời cung tên dao kiếm, đánh giặc thì theo lối địa phương có thể nào giúp ta hiểu được những biến cố hiện tại của thời nguyên tử lực chăng? Nhiều người lại nghi ngờ rất có lý nhưng kết luận trẻ con và ngây thơ của một phần đông các nhà viết sử đã vượt qua sứ mạng khoa học của nhà kể chuyển để sang qua cái nghề triết luận và lý sự…
Có kẻ chủ trương rằng bỏ qua những bài học của lịch sử thì có khác gì trong khi du lịch, từ chối không chịu nghe lời khuyên của người dẫn đường: kẻ ấy sành đường hơn ta… Họ làm như người ta luôn luôn có thể biết trước được những tai nạn sẽ xảy ra, họ làm như không biết đến những bất ngờ của lịch sử, và hễ biết được việc trước tất sẽ đoán được tương lai, dòng đời sẽ luôn luôn chảy xuôi mà không bao giờ chảy ngược… Họ tin tưởng một cách quá thật thà rằng “những nguyên nhân giống nhau sẽ tạo ra những hậu quả giống nhau”. Tương lai đâu phải là quá khứ diễn lại.
Phải coi chừng, trong cuộc cờ người ta đâu phải chỉ chơi mãi một nước cờ mà thôi đâu. Lắm khi ta có thể nói theo Andre Gide rằng: “Lịch sử để lại cho ta nhiều bài học có hại hơn là có lợi. Nó tạo cho ta nhiều ảo vọng sai lầm..rất đáng nguy hiểm”. Chính vì quá tin nơi những bài học của trận giặc vừa qua mà phần đông có lắm bộ tham mưu phải chiụ thất bại nặng nề trước những chiến thuật tối tân của quân địch.
Andre Gide cho rằng: “Bài học của lịch sử nếu có thể nói là một bài học, là nó dạy cho ta biết rằng quá khứ không thể dùng để soi sáng tương lai, và muốn đối phó với những biến cố hiện tại và mới mẻ, thà có một đầu óc không quan thiết gì đến quá khứ còn hơn là có một đầu óc quá bị mù loà vì những ánh sáng giả tạo của quá khứ”.
Thật là câu nói đáng cho ta suy nghĩ mà dè dặt và hoài nghi, một thứ “hoài nghi triết học” theo Descartes.
Với những “dè dặt” trước đây, thì đọc sử mới có bổ ích mà không sợ bị di hại.
Nhưng học sử cần nhất là học phương pháp viết sử và phương pháp học sử. Hai phương pháp ấy đều quy về một mối: phương pháp phê bình sử học. Muốn đọc sử mà không sành phương pháp phê bình sử học, rất nguy hiểm. Thật vậy, muốn cho hành động ta khỏi phải có sự sai lầm hay thất bại, cần phải thấy đặng sự thật trong những việc xảy ra chung quanh ta hằng ngày.
Vậy phải làm thế nào để nhận thấy được sự thật? Có hai cách: tự mình tai nghe mắt thấy, hoặc nghe hay đọc lại những gì kẻ khác đã nghe đã thấy.
Nhưng đối với mắt thấy tai nghe, chắc gì ta đã nghe thấy đúng y như sự thật đã xảy ra, hay ta chỉ thấy nghe những gì ta muốn thấy muốn nghe và mong ước đó phải xảy ra như thế nào? Vì quyền lợi, vì tư dục, vì thành kiến… ta đã nghe thấy sai cả với sự thật. Ta hãy để ý nghe câu chuyện cãi vã của hai người, ta sẽ nhận thấy rõ điều ấy: mỗi người mỗi nghe theo ý riêng của mình, chứ không ai chịu nghe những gì họ không muốn nghe.
Huống chi sự thấy nghe ấy lại do kẻ khác thuật lại hay biên chép lại, thì quả quyết ta cần phải hết sức thận trọng và hoài nghi trước khi tin nó.
Những nguyên nhân xui giục người ta mang đến cho mình những tin tức sai lầm thật rất nhiều. Vả, cũng như ai, ai lại là người không đeo theo mình một quyền lợi, một thành kiến hay một tư dục… Lẽ cố nhiên sự nghe thấy của họ khó có thể khách quan được và không nên tin họ bằng lời mà phải biết xem xét và phê bình cẩn thận lại. Muốn có được một bộ óc phê bình cho đúng đắn, theo tôi, không còn phương pháp nào hay bằng dùng đến phương pháp phê bình sử học
Phương pháp phê bình sử học,(xem lại quyển Thuật Tư Tưởng) không phải chỉ dùng vào việc sưu tầm tài liệu về viết lịch sử mà thôi, nó lại còn giúp cho ta phê bình tất cả những điều ta nghe hay đọc, do báo chí, sách vở hoặc những lời đồn đãi của dư luận đem lại cho ta hằng ngày.
Vậy, trước một câu chuyện nào bất luận, ta phải tự hỏi:
Ai thuật lại chuyện đó?
Người thuật lại chuyện đó có thuật lại rõ ràng câu chuyện của họ thuật chăng?
Người đó có thể tin cậy được chăng?
Người đó có phải là người hay quả quyết suông những chuyện vu vơ, và họ làm thế là để thích ra mặt sành chuyện hơn người không?
Người ấy có quyền lợi gì để dối mình hay dối người chăng?
Tánh tự nhiên của con người là hay tin những điều kẻ khác thuật lại. Vậy chớ ta không thấy, hằng ngày, bất kỳ là chuyện gì của ai thuật lại, ta sẵn sàng tin theo một cách dễ dàng, không đòi hỏi một bằng cứ nào cả hay sao? Trừ ra khi nào tin tức ấy quan hệ đến nhiều, ta mới chịu để ý đến mà phê bình, mà gạn lọc… bằng không, nếu câu chuyện ấy không đến ngớ ngẩn hay phi thường thì ta nhận nó ngay, lại còn đem nó mà thuật lại cho kẻ khác nghe và có khi lại còn tô điểm thêm cho nó có duyên hơn là khác nữa. Bất cứ ai thành thật với mình đều phải công nhận rằng mình thường có tánh hay lười biếng cẩu thả như thế. Bởi vậy óc phê bình không phải là tánh tự nhiên của con người, mà cần phải tập luyện cho nó lâu ngày mới thành thói quen được.
Những sự vật trên đời mà chính tai ta nghe, mắt ta thấy rất ít. Hầu hết những điều ta hay biết đều do kẻ khác đem lại cho ta: hoặc nhân nói chuyện mà biết, hoặc do đọc sách, đọc báo hay nghe đài phát thanh mà biết. Những điều mà kẻ khác mang lại cho ta, sử gia gọi chung là chứng cứ. Chứng cứ thật rất quan trọng trong đời sống của ta không phải nhỏ, vì không có nó, ta không thể biết được những điều gì đã qua. Vị lại thời chưa có thể biết được, người ta cần phải căn cứ nơi hiện tại mới có thể độ mà hiểu trước được. Nhưng hiện tại làm sao hiểu được, nếu không đem so sánh với những gì đã qua. Người ta bảo: Quá khứ là nguồn gốc của sự hiểu biết của con người.
Nhưng, những chứng cứ ấy có nên tin cả không? Và phải làm sao biết nó có thể tin đặng? Đó là vấn đề quan trọng mà phương pháp phê bình sử học giải quyết cho ta vậy.
Phần đông ai ai cũng tin rằng: một người kia, nếu không có lợi riêng gì để gạt gẫm ta, ắt không bao giờ họ nói dối với ta làm chi cả. Nghĩ thế là không đúng. Thường thường những điều họ nói với ta nếu đúng cả trăm phần trăm, thì có lẽ đó là một điều may mắn bất ngờ. Như ta đã thường thấy xảy ra hằng ngày có lắm chứng cứ không đúng với sự thật đã gây ra không biết bao tai hoạ. Một chứng cứ sai lầm đủ làm cho người lương thiện hàm oan trong ngục thất. Nếu phải kể ra những vụ “sai lầm của công lý” thì không biết phải bao nhiêu quyển sách mới nói ra hết được.
Ngay trong đời sống hằng ngày của ta đây, cả danh dự và hạnh phúc ta, có thể do một chứng cứ sai lầm mà tiêu tan như giá rữa. Nguy hiểm nhất là có những lời vu báng tồi tệ nhất lại do những kẻ thành thực nhất đưa ra. Họ không phải vì ác tâm mà hại ta, nhưng vì họ thấy sai hoặc nghe kẻ khác thuật sai mà vội tin và lặp lại với kẻ khác. Chúng ta cần phải để ý đến sự mỏng manh của chứng cứ mà không bao giờ vội tin liền. Hãy biết thận trọng phê bình trước khi tạm thời chấp nhận nó.
Ta nên biết rằng trí não ta bị luật tư lợi chi phối, chỉ thấy và nghe cùng nhớ được có những gì quan thiết ích lợi đến ta mà thôi, ngoài ra đều bị để qua một bên cả, nghĩa là ta sẽ không thấy gì khác hơn những gì ta cần muốn thấy. Giữa một sự vật ở ngoài với cái tâm nhận thức của ta ở trong, có một khoảng cách xa hoặc nhiều hoặc ít, không thế nào không có được. Ta thử thí nghiệm như vầy thì rõ: để trên bàn một mớ đồ thường dùng như cây viết mực, cây viết mực, cây viết chì, một cái khoá, một cái ly… và trong mớ đồ đó ta có thể thêm vào một cái ghế nhỏ (đồ chơi con trẻ) mà thiếu một chân. Ta bảo một người nào quan sát kỹ các vật ấy. Ta cho họ một thời gian vừa ngó qua đủ món. Rồi bắt họ tả lại các vật họ vừa thấy, ta sẽ thấy họ tả lộn xộn cả. Cây viết chì có khía, họ cho là tròn; cái ly tròn, họ cho là có khía. Nhiều món họ lại kể thiếu, có khi có cái thiếu họ lại kể thêm. Nếu hỏi cái ghế nhỏ có mấy chân, họ sẽ nói có bốn, trong khi sự thật chỉ có ba. Họ không quen quan sát, nhứt là họ không biết cách quan sát. Mà phần đông con người là thế. Ta không nên quá tin cậy nơi trí nhớ của ta. Lại nữa, ta cũng cần để ý đến điều quan trọng nầy: Ta chỉ có thể thấy được những gì ta đã biết thôi. Những y sĩ quen với cách sắc bệnh nhân, hễ nhìn ai là họ đã nhận thấy kẻ ấy đau bệnh gì rồi mà chính người ấy soi mặt hằng ngày không thấy biết gì cả.
Do đó ta nên để ý hai điều nầy:
Trước một sự vật, chỗ nghe thấy của ta không bao giờ đầy đủ đặng. Có nhiều việc và chi tiết ta không thể nghe thấy đặng, mặc dù ta đã để cả hai mắt mà nhìn, hai tai mà nghe.
Sự nguỵ tạo của trí nhớ rất là tai hại. Thường ta hay thêm vào những gì ta không nhớ để cho sự nhớ được đầy đủ. Chính đó là cách nhận lầm cái bóng đen là kẻ trộm, sợi dây thừng là con rắn. Thấy trong bóng tối mập mờ một sợi dây thừng, và bởi thấy không rõ, ta bèn dùng trí tưởng tượng mà thêm vào và cho đó là con rắn.
Chứng cứ sai không phải luôn luôn do sự thiếu trí nhớ. Thường lại do nơi sự nhận thức sai lầm. Chính ngay vào lúc ta nhận thức sự vật, đã bắt đầu có sự thay đổi dạng rồi. Ở đây, ta lại đi vào cái giới bao la của “tình cảm”. Ta thấy sự vật, thường ít khi nào y như nó có thật mà thường thường là theo cái chiều của ý muốn của ta ao ước nó phải xảy ra như thế nào. Dục vọng, yêu ghét, óc phe đảng, tư lợi… làm cho ta giải thích sai lầm tất cả những điều ta nghe thấy. Không cần phải nói ra, cái kết quả tai hại của những chuyện hiểu lầm rất đáng tiếc thường xảy ra giữa người và người, hoặc giữa dân tộc khác nhau, rất là nhan nhản, không ai không thấy.
Tai hại hơn hết, là những kẻ đem lại cho ta những chứng cứ sai ngoa ấy, lại là những kẻ hết sức thành thật. Họ không có chút lòng dối trá gì cả, vì chính họ tin thật những điều họ đã thuật lại cho mình kia là đúng cả trăm phần trăm. Họ tin như thế, nên họ mới quả quyết như vậy. Đó mới thật là nguy hiểm. Bởi vậy, đối với những kẻ tố cáo, thuật lại hay biên ra, ta phải hết sức thận trọng dè dặt cho lắm mới đặng. Bất cứ là chứng cứ nào, hãy phê bình nó rồi sẽ tin sau. Phải coi chừng sự dối trá của con người, nhứt là những nguyên nhân sai lầm về tâm lý mà người thường vô tâm sa vào như ta đã thấy ở trên.
Ta nên để ý điều nầy: Những kẻ có ý gạt gẫm mình thì ít, mà những kẻ vô tâm gạt mình thì rất nhiều. Vì vậy, những chứng cứ thành thực rất dễ tìm hơn những chứng cứ xác thực.
Giờ đây xin bàn qua phương pháp phê bình sử học:
Thu Giang Nguyễn Duy Cần
Tôi tự học
Chương Thứ Năm (tt)
A. PHÊ BÌNH NGOẠI BỘ
1. Trước hết, nhà làm sử hay viết sử phải để ý đến sự tìm tài liệu cho đầy đủ. Tài liệu mà thiếu sót thì không thể nào có cơ sở để phê bình được. Tìm tài liệu là để tìm ra thực sự.
Thực sự là gì? Là những sự có thực xảy ra. Đó là lấy theo nghĩa hẹp và cụ thể của nó. Còn lấy theo nghĩa rộng và trừu tượng của nó thì thực sự cũng dùng để chỉ một ý tưởng, một trạng thái của tâm ý hay một ý kiến.
Nếu lấy theo cái nghĩa hẹp của nó, thì ta phải để ý kỹ điều nầy: có tài liệu, chưa ắt ta đã nắm ngay được thực sự. Như ta đã thấy, tài liệu là những hình ảnh sai lầm của thực sự. Những chứng cứ của kẻ khác mang lại cho ta đâu phải là luôn luôn đúng với sự thực trăm phần trăm. Trái lại, có khi nó chỉ là những phán đoán hay phỏng đoán của kẻ khác, trong đó đã pha phách ít nhiều dục vọng ưa ghét rồi. Thật vậy, những điều kẻ khác mang lại cho ta toàn là những điều mà họ muốn cho ta thấy như họ. Nếu họ ưa thì họ sẽ thêm thắt hoặc xới bớt câu chuyện, sắp đặt cách nào mà cho câu chuyện trở nên dễ ghét.
Bởi vậy, ta phải phân biệt cẩn thận cái nào là “thực sự”, cái nào là “phán đoán” hay “phỏng đoán” và cố nhiên là phải dùng “thực sự” làm tài liệu và chứng cứ mà thôi. Những cái sau thì nếu muốn dùng, cần phải lo tẩy sạch cái màu chủ quan của nó đi, để tìm lại cái thực diện của nó, nghĩa là phải phê bình nó một cách không thiên lệch mới đặng.
Ứng dụng phương pháp nầy, tưởng không gì hay bằng đem năm, bảy tờ báo khác đảng chính trị với nhau nhưng cùng thuật lại một việc mà so sánh… Ta hãy so sánh lại những điều các báo ấy thuật lại, phân tích ra từng bộ phận như sau đây:
a. những chỗ dị đồng, thuộc về “thực sự”;
b. những cách thuật lại khác nhau, vì chánh kiến, vì dục vọng biến thiên thể cách;
c. những phỏng đoán rặt ròng là phỏng đoán thôi, chứ không dính dấp gì đến thực sự cả.
Bên Anh trong những trường bình dân cao đẳng, có những lớp học gọi là “lớp báo chí”. Ở đó giáo viên mỗi tuần gom góp lại tất cả báo chí trong nước, nghiên cứu và đem ra diễn giải cho học sinh thấy những chỗ dị đồng về thực sự, phân tích những chỗ khác nhau về cách trình bầy và giải thích những tin tức của các báo, và tìm cắt nghĩa lý do của những sự sai biệt ấy. Thật rất bổ ích cho óc phê bình không biết chừng nào.
2. Tìm được tài liệu rồi, hãy phê bình về lai lịch của nó.
Phê bình lai lịch của nó, phải hỏi coi:
nó ở đâu mà đến?
nó xảy ra hồi nào?
ai thuật nó lại đó?
Phê bình lai lịch của sử liệu là cốt kiểm soát lại sự chính xác của nó, bởi thường có rất nhiều tài liệu hoàn toàn giả, do bọn con buôn giả mạo để bán cho những nhà hiếu cổ. Cũng có nhiều câu chuyện người trước tạo ra, truyền tụng lại một cách quả quyết như việc có thật. Ta phải thận trọng những thứ nguỵ tạo ấy.
3. Ta lại cũng phải biết “phục hồi” lại nguyên văn hay nguyên thể những tài liệu mình đang nghiên cứu nữa.
Có nhiều tài liệu truy ra, thấy tuy thật là món tài liệu chính xác rồi, nhưng trong đó có nhiều chỗ hoặc nhiều chữ, nhiều câu hoặc nhiều đoạn văn bị kẻ khác thêm vào (sách xưa thường bị sự thêm thắt ấy, vì người chéo sách hay thêm ý riêng của mình vào), hoặc vì kẻ sau cho là nói không hết ý nên tự tiện viết tiếp theo mà thành ra “tam sao thất bổn”. Lại nữa cũng có khi quyển sách bị ấn công sấp làm sai cả nguyên văn, vậy ta phải để ý tìm cách phục hồi lại nguyên văn mới đặng.
B. PHÊ BÌNH NỘI BỘ
Biết đặng lai lịch và phục hồi lại được nguyên thể hay nguyên văn của sử liệu rồi, đó cũng mới chỉ là công việc phê bình ở ngoại bộ mà thôi. Muốn cho sự phê bình được đầy đủ hơn, phải đi sâu vào nội bộ nó mà phê bình.
Phê bình một chứng cứ, theo cái nghĩa rộng và hẹp của nó, cần phải phân ra làm hai giai đoạn:
2. tìm sự thành thực và đích xác của nó.
I. Giải thích tài liệu
Trước hết, phải tìm coi tác giả muốn nói gì?
Đây là lời phê bình, để tìm lại cái nghĩa chánh của một văn bản, từ cái toàn thể đến từng chi tiết của nó. Nếu tư tưởng của tác giả trong sáng, văn chương của tác giả rõ ràng thì có gì là khó khăn. Nhưng sự thực thì đâu phải luôn luôn gặp được như thế mãi. Phải coi chừng: nhiều khi tác giả (thuộc về thế hệ trước) dùng một thứ tiếng như ta, nhưng thực ra để chỉ một nghĩa khác hơn ta đang hiểu và đang dùng bây giờ. Đọc cổ văn thường gặp những khó khăn nầy. Bởi vậy, có nhiều nhà nghiên cứu họ gán cho cổ nhân nhiều tư tưởng tân thời mà tự cổ nhân không bao giờ nghĩ đến.
Có khi tác giả lại viết một lối văn tư riêng của họ, nhất là những nhà tư tưởng triết học. Vậy ta phải biết cho thật rõ cái định nghĩa riêng của văn tự ấy. Tỉ như đọc sách của Montaigne mà thiếu bản tự vị về những danh từ dùng riêng của ông và ở thế hệ ông, thì không tài nào hiểu nổi ông. Đọc sách Lão, Trang mà cứ hiểu theo cái nghĩa văn tự bây giờ thì hiểu sai đến vạn dặm.
Chẳng những văn tự khá, mà cả đến văn pháp cũng khác nữa. Tìm lại được cái nguyên nghĩa của bài văn xưa dễ đúng gì.
Có khi tác giả lại dùng một lối văn “ẩn dụ” hay “bóng dáng”, hoặc “mỉa mai” hay “hài hước”. Nếu vô tình, ta lại tưởng đó là lời nói thật, thì lại càng bị sai lầm biết mấy.
Seignobos và Langlois nói: “Cái khuynh hướng tự nhiên, dù là những nhà viết văn làm việc theo phương pháp cũng vậy, khi đọc một bản văn nào là cốt tìm ngay tài liệu để tham khảo, chứ không chịu tìm hiểu coi ý tác giả nói gì trong đó. Lối làm việc có thể được đối với những tài liệu thuộc về thế kỷ thứ 19, do những kẻ cùng lối tư tưởng cùng một lối ngôn ngữ như ta. Trái lại, nếu gặp phải những lối văn chương tư tưởng không cùng thời với ta nữa, hoặc cái nghĩa của bài văn không được rõ ràng và không thể dị nghị được nữa thì thật là nguy hiểm. Kẻ nào đọc văn mà không lo tìm hiểu tác giả, cố nhiên là đọc nó theo cảm tưởng của mình; trong (bài văn dùng làm) tài liệu kia, họ chỉ để ý đến những câu hoặc những chữ nào thích ứng với quan niệm riêng của họ, hoặc hợp với ý kiến của họ đã có sẵn trước đối với sự vật, họ trích riêng ra những câu hoặc những chữ ấy mà họ đâu có dè, để làm thành một bản văn riêng theo trí tưởng tượng của họ và đem bản văn ấy mà thay vào bản chánh của tác giả”.
Nhà viết sử phải tự lập cho mình một quy luật nầy: “Phải tìm hiểu bài văn theo cái chân nghĩa của nó trước hết, rồi sau sẽ tự hỏi: nó có thể dùng được chỗ nào để làm tài liệu”. (17)
Vậy, ta có thể tóm lại trong một câu, quy tắc trọng yếu nầy của phép làm sử: “Một câu văn, nghĩa nó thay đổi, chẳng những tuỳ theo thời đại và tuỳ theo vị trí của đoạn văn ấy trong bài; ta chớ bao giờ tách một câu ra ngoài cái văn mạch của nó, nghĩa là ngoài cái bài mà nó chỉ là một câu hay một đoạn trích ra; và nếu giải thích, phải giải thích nó theo cái ý chánh và tổng quan bao trùm bài văn” (.17)
Thật vậy, trong một bài văn, luôn luôn tư tưởng nầy cùng với tư tưởng kia liên quan mật thiết nhau, nếu chỉ “tách” ra một đoạn hay một câu, thì tư tưởng chung của toàn bài văn, có khi có những nghĩa trái nghịch với tư tưởng chung của toàn bài cũng không chừng. Thường những nhà phê bình mà có ác ý, hoặc những người bút chiến, họ thích “chặt khúc” hoặc “trích” rời một đoạn văn trong một bài, một câu văn trong một đoạn, hoặc một chữ trong một câu, để thay đổi cái chánh nghĩa của nó đi và cố bắt bên địch phải nói những điều mà kẻ ấy không bao giờ có nói… “Cái thủ đoạn thô bỉ và vô liêm sỉ ấy rất được phần đông công chúng vô học thức hoan nghênh và tín nhiệm lắm, nhưng nó chỉ là một sự khiếp nhược mà thôi. Nhà phê bình thường cũng có thể vô tình sa vào cái lầm nầy nếu họ không chịu để ý đến văn mạch”.(4)
Trích sai hay trích thiếu một nguyên văn là không nên, huống hồ lại trích những đoạn văn trích của kẻ khác đã trích thì lại càng không nên nữa. Phải đọc ngay nguyên văn, do tay đầu tiên viết ra. Không nên bao giờ căn cứ nơi những sách do tay thứ hai chép lại. Những đoạn văn hoặc những câu văn của họ trích ra, ta cần phải xét xem lại thận trọng, không nên lấy đó dùng làm tài liệu: biết đâu họ không trích thiếu hay trích sai? Vậy, nếu muốn dùng nó, ta hãy đọ lại với chánh văn mà kiểm soát lại. Đọc sách nghiên cứu không nên trọn tin nơi những câu chứng dẫn của họ, trái lại, phải luôn luôn dò lại chánh văn. Bởi vậy, những nhà khảo cứu khi chứng dẫn cần phải chua xuất xứ mới đúng phép.
Nếu ta chỉ muốn biết tư tưởng của tác giả mà thôi thì công việc tìm hiểu bản ý của họ như thế là đủ rồi. Nhưng, nhiều khi chủ ý lại muốn tìm coi cái việc họ nói đó có thật không? Cho nên, chỉ giải thích nó mà thôi chưa đủ, cần phải phê bình thêm một bước nữa để tìm sự thành thực của tác giả và sự đích xác của tài liệu.
2. Tìm sự thành thực của tác giả.
Tác giả có thành thực không? Muốn trả lời câu hỏi nầy, ta hãy xét qua những nguyên nhân tâm lý đã khiến tác giả nói sai với sự thật:
Tác giả có phần vì tư lợi mà nói dối không? Quyền lợi họ buộc họ phải nói như thế vì nếu nói khác đi, họ sẽ bị thiệt. Hoặc vì địa vị họ cần phải giữ gìn. (Ở đây, các công văn, sử sách của nhà nước thường hay sa vào cái tệ ấy). Hoặc vì lý tưởng, vì tự kiêu mà họ buộc lòng bỏ qua hay thêm bớt sự thật đi, để đừng chạm đến tín ngưỡng và danh dự riêng của họ?
Tác giả có phải vì hoàn cảnh buộc lòng phải nói không đúng với sự thật để mưu sự an thân không? Những nhà văn ở các triều đại xưa, đâu có dám nói ngay sự thật, họ phải quanh co úp mở… Những nhà văn ở các nước độc tài, sống trong những chế độ văn hoá chỉ huy… cũng một thế.
Tác giả có những ưa ghét riêng, đối với một người nào hay một nhóm người nào?
Tác giả có phải vì muốn mỵ chúng nghĩa là chiều theo thị dục của quần chúng, hoặc vì muốn tránh sự đụng chạm hay xung đột với lòng tín ngưỡng của quần chúng mà nói sai với sự thật không?
Tác giả có phải vì thiên về một chủ nghĩa nào, thiên về một đảng phái chính trị hay tôn giáo nào, thiên về xứ sở quê hương mình, thiên về giai cấp xã hội mình mà nói sai với sự thật không?
Hoặc tác giả có phải vì quyền lợi chung của một hội đảng nào mà chính mình là phần tử quan trọng. Dĩ nhiên vì quyền lợi chung của hội hay đảng, tác giả buộc phải làm thinh hoặc không được nói ngay sự thật nào có hại cho hội hay đảng.
Tác giả có phải vì hiếu danh mà xướng xuất ra những điều không đúng với sự thật không?
Tác giả có phải vì chuộng mỹ thuật văn chương hơn sự thật, muốn cho câu chuyện được ly kỳ đẹp đẽ… mà thành ra nói không đúng với sự thật không?
Phần đông con người có tánh hay thuật lại một câu chuyện không phải y như nó đã xảy ra, mà là theo cái ý tưởng tượng muốn cho nó phải xảy ra như thế nào… Phần nhiều, những “tiếng nói lịch sử” là do toàn trí tưởng tượng của nhà viết sử tạo ra. Họ tiểu thuyết hoá hay thi vị hoá cả mọi sự mọi việc của họ nghe thấy.
3. Tìm sự đích xác của chứng cứ.
a. Chỉ tìm sự thành thực của tác giả mà thôi, không đủ. Vì người thành thực chưa đủ bảo đảm điều họ nói là đúng với sự thật: họ vẫn bị sai lầm như mọi người.
Vậy tìm sự thành thực của tác giả rồi, cần phải tìm coi điều họ nói có đúng với sự thật không? Tác giả rất có thể là người thành thực lắm, nhưng bị ở vào một trường hợp không thuận tiện cho sự quan sát nên sự nghe thật sai đi.
Bất kỳ ai đều không bao giờ chịu tin những lời nói của người điên. Là vì những điều họ nói đều do ảo giác mà ra, không sao có thể dùng làm bằng cứ được. Nhưng nếu không nên tin nơi ảo giác của người điên thì mình cũng phải coi chừng những “thành kiến” và “ảo tưởng” vì đó là những cái mà nhà triết học gọi là “bán ảo giác”.
Chúng ta thường xem sự vật trong đời theo lòng sở nguyện của ta muốn cho nó phải xảy ra như thế nào, hoặc, theo như ta quen thấy nó đã xảy ra. Nếu trái lại, nó xảy ra không chiều theo ý muốn của ta thì ta lại cưỡng ép nó chiều theo ta, nghĩa là ta sẽ giải thích nó theo thành kiến của ta. Hoặc nếu nó xảy không giống với những điều ta quen thấy thì ta cũng cố cưỡng giải thích nó theo những điều ta đã quen thấy, chứ không chịu thoát khỏi cái tâm lý eo hẹp của ta, để mà độ hiểu hành vi của kẻ khác. Bởi vậy, những câu chuyện của những nhà du lịch kể lại thường không bao giờ đúng với sự thật, hoặc vì, họ gặp phải tâm lý các dân tộc không giống với tâm lý họ, nên họ không thể hiểu được.
Tác giả sai lầm vì thấy sai, nghe sai, hoặc nhớ sai… vì quan sát không đúng, nhận thấy sự vật theo thành kiến của mình, và tưởng rằng mình nhớ trong khi mình chỉ có tưởng tượng thôi.
Tùy theo việc, nếu người thuật lại một câu chuyện mà mình biết chắc rằng người ấy là người chuyên môn và sành chuyện thì lẽ cố nhiên mình có thể tin người đó hơn. Tỉ như, nếu là một y sĩ mà thuật lại về việc bệnh hoạn, tự nhiên mình tin họ hơn tin một kẻ “tay ngang”. Vì chỉ có những nhà chuyên môn mới có thể thấy rành được những chi tiết trong món chuyên môn của mình, chứ những kẻ không biết gì cả trong đó, dù họ có mở trao tráo đôi mắt, cũng không làm gì thấy trong đó có những gì cho đúng được. Bởi vậy, sở dĩ tác giả thành thực nhưng lời họ thuật không đúng với sự thực là tại câu chuyện của họ thuật lại ở ngoài cái tầm hiểu biết của họ. Các y sĩ xem bệnh có bao giờ chịu tin theo những lời khai bệnh của bệnh nhân hay của người nhà người bệnh đâu. Là vì họ biết rằng những người ấy có hiểu gì được về bệnh chứng mà thấy rõ được nó như thế nào.
Những tài liệu, nếu không phải là những tài liệu “sốt dẻo” chép lại liền sau khi quan sát hay mục kích, mà chép lại sau một thời gian lâu, tất nhiên phải thận trọng. Ta nên biết rằng: trí nhớ của ta không sao tin cậy được, dù mình nhớ dai đến bực nào. Những thiên hồi ký trong đó tác giả thuật lại những việc làm lúc nhỏ, không thể trọn tin được. Đó là chưa kể cái lòng tự đắc, thiên vị của tác giả thường có thói “che cái dở, đỡ cái hay” của mình.
Tác giả vì phận sự của nghề nghiệp buộc phải biên chép những điều không quan hệ gì đến mình cả. Hoặc như trả lời cho một bản điều tra của nhà chức trách, hoặc làm phóng viên cho nhà báo, tác giả chỉ biên lại những lời nói của kẻ khác mà tác giả đã nghe “lỏm” đó đây chứ không phải tự mình quan sát.
Nếu là một anh thuộc viên thuật lại cho ta nghe câu chuyện trong một hội nghị cơ mật thì anh ấy làm gì thuật lại đúng với sự thật? Chẳng qua anh ấy nghe lóm một vài mẩu của câu chuyện rồi thì chỗ nào thiếu sót, anh dùng trí tưởng tượng mà bổ khuyết vào cho câu chuyện có đầu đuôi. Đó là anh nhận lầm sự giải thích của anh làm thực sự, thành ra trong câu chuyện của anh, ta không biết chỗ nào là thực sự, chỗ nào là câu chuyện tưởng tượng.
Thường những việc xảy ra trước mắt ta, dễ nhận thấy hơn là những việc xảy ra trong tâm giới. Cho nên, mỗi khi có người quả quyết một việc thuộc về tâm lý… ta phải biết cho đó chỉ là một ức đoán chứ không phải là một thực sự. Ở trong trường hợp nầy ta phải tự hỏi: người ấy có đủ điều kiện cần thiết để ức đoán như thế không? Người ấy có biết cách áp dụng những điều kiện cần thiết ấy để quyết đoán đúng đắn không?
Có người thuật lại cho ta nghe một việc, nhưng là một việc do kẻ khác thuật lại cho họ: đó là thứ tài liệu của một kẻ thứ hai, hoặc của một kẻ thứ ba hay thứ tư thuật lại cũng không chừng. Từ “tài liệu do tay đầu tiên” thuật lại cho ta hôm nay đã trải qua không biết bao nhiêu lần nghe đi nói lại, thì sự sai lạc lại càng to tát là chừng nào.
Lại nữa, những câu chuyện xưa khởi đầu bằng câu: “Xưa kia, có tích rằng…” hay “Có kẻ nói rằng…” đều là không thể tin là thực sự được. Những câu chuyện do thiên hạ đồn, nhưng không biết đích xác là của ai, đều là những câu chuyện không nên tin vội…
°
°
4. – So sánh tài liệu
Như ta đã thấy, nguyên nhân sai lầm rất nhiều, nên đối với một việc xảy ra mà chỉ có một người chứng thì chứng cứ ấy không đáng kể. Muốn biết sự thực, cần phải có chứng cứ của nhiều người để so sánh mới có thể tin được.
Nhưng các chứng cứ cần phải được khác nhau, chứ nếu người nầy chỉ chép lại chuyện người kia thì không thể gọi đó là hai chứng cứ, mà phải kể là có một thôi. Dù có cả trăm người thuật lại, cũng chỉ nên kể là có một chứng cứ thôi.
Tóm lại, nếu hai chứng cứ mà giống hệt nhau, ta không quyền xem đó như có hai chứng cứ. Thật vậy, dù hai người cùng đứng trước một việc, khi thuật lại họ sẽ không bao giờ thuật lại giống nhau từng chi tiết. Trước tòa nếu có hai người chứng thuật lại một câu chuyện giống nhau từng chi tiết, từng lời ăn tiếng nói như trả một bài học thuộc lòng, quan tòa dĩ nhiên sẽ không thể không nghi ngờ rằng đây là một sự a ý của người chứng. Vậy ta có thể kết luận rằng: Những tài liệu so sánh với nhau, được nhận là đúng nhau khi nào nó giống tương tự nhau thôi, chứ không giống như khuôn.
Tuy nhiên, lắm khi ta cũng gặp được nhiều chứng cứ giống hệt nhau về một việc. Đó là điều may mắn lạ thường. Nhưng ta cũng phải thận trọng: con người mà chum nhum cho thật đông thường hay bị ảo giác chung mà đồng thấy giống nhau nhưng sai với sự thật. Ảo giác ấy có thể do ám thị của một người thấy sai đầu tiên, rồi thì càng đông người sự truyền nhiễm tư tưởng và cảm giác càng mạnh, người ta bị sai sử theo một ám thị sai lầm không dè.
Trái lại, nếu nhiều người không cùng một phái đảng, không cùng một lý tưởng… lại đồng thanh chứng nhận một việc thì dĩ nhiên việc đó rất đáng tin hơn hết, vì vô lý cả thiên hạ một thế hệ đều a ý để lừa gạt mình.
°
°
Muốn biết một việc là có thật không, người ta hay lấy những sự hiểu biết hiện thời để đối chiếu. Nếu là một việc quả quyết là có thật, nhưng trái với lẽ thường, trái với khoa học thì ta cũng không nên tin liều là có được.
Tuy vậy, ở đời cũng có không biết bao nhiêu chuyện có thật mà rất vô lý, lại cũng có không biết bao nhiêu chuyện rất hợp lý lại không có thật. Khoa học chưa phải đã đạt đến mục đích cuối cùng của nó: nó còn đang dò dẫm, tìm kiếm bơi móc những huyền vi của tạo hóa. Cho nên, biết đâu theo quan niệm hiện thời của khoa học, chuyện ấy là vô lý mà vài ba chục năm sau nầy, chứ đừng nói nửa thế kỷ sau nầy, khoa học tiến bộ sẽ lại cho đó là hợp lý. Cách vài trăm năm nay nói đến những luồng điện giết người cách ngoài ngàn dặm người ta sẽ cho là vô lý, mà ngày nay chuyện ấy đâu còn là vô lý nữa. Ta lại cũng nên để ý câu nầy của Diêm thiết Luận: “Vì không trông thấy mà cứ không tin thì cũng như con ve sầu không biết tuyết”.
Nhà làm sử cũng như nhà phê bình, thường cho những điều gì hạp với lý thuyết mình, hạp với điều mình ưa thích là có thể đặng mà thôi, trái lại là không thể có, vì mình không muốn cho nó có, mặc dù nó có thật.
Tóm lại, phương pháp phê bình sử học mà tôi lược thuật đại cương trên đây, không chỉ để dùng trong việc nghiên cứu sử mà thôi. Một vị thẩm phán muốn tìm thủ phạm cũng dùng phương pháp phê bình sử học. Thường những sai lầm của công lý là do sự thiếu óc phê bình mà ra. Trong đời sống hằng ngày, bất luận là một tin gì kẻ khác mang lại cho ta, ta phải thận trọng phê bình gắt gao mới được, nhứt là những câu chuyện thiên hạ đồn đãi, hoặc là những tin tức báo chí đưa đến cho ta. Báo chí, thường là một cơ sở buôn bán ở dưới quyền điều khiển của tiền bạc hoặc là những cơ quan tranh đấu chánh trị, thường dễ bị dục vọng chánh trị chi phối và lôi cuốn. Đối với họ, ta phải hết sức dè dặt cho lắm mới đặng. Bằng không, vô tình ta sẽ là cái mồi thơm của họ rất dễ dàng, và nhân thế tự mình làm giảm nhân phẩm của mình để biến thành một con vật hi sinh vô ý thức.
°
°
3. ĐỌC BÁO
Ở đây tôi không nói chung đến sự ích lợi của báo chí mà chỉ bàn riêng về sự lợi ích của nó trong vấn đề học vấn.
Người không thích đọc sách cũng thường ưa đọc báo. Có kẻ mỗi ngày đọc năm bảy tờ báo, đọc từ cái in vặt đến mớ quảng cáo thầy bói nha khoa. Người ta đọc báo tùy nhu cầu: có kẻ đọc báo để săn tin, có kẻ đọc báo để theo dõi những tin thể thao hay tin tòa án và án mạng, có kẻ đọc báo để theo dõi những thiên tiểu thuyết tình tứ ly kỳ hay trinh thám nghĩa hiệp, có kẻ đọc báo để theo dõi kịch trường hay những cuộc giải trí khác… Nhưng, báo có giúp ích gì cho ta về văn hóa chăng, đó là một vấn đề khác.
Tôi chắc chắn rằng báo chí không giúp được gì bao nhiêu cho người tự học, tìm cho mình một cơ sở văn hóa vững chắc. Tôi biết có nhiều tờ báo (phần nhiều là tạp chí văn hóa) rất đứng đắn, vì báo cũng có nhiều dường báo. Nhiều tờ báo đăng nhiều bài nghiên cứu về văn học, khoa học, kinh tế, chính trị rất hay, nhưng chỉ có những bậc túc học, bác học, học giả mới đọc mà thôi…Kỳ dư những kẻ học thức tầm thường không thu rút được lợi ích là bao: họ cần phải có một sự dìu dẫn từ bước ban đầu. Vì vậy, báo chí đăng những bài nghiên cứu chỉ giúp tài liệu cho những nhà có một cơ sở văn hóa cao và vững vàng, chứ không phải viết cho “tay ngang”, vì vậy ít người đọc được và đọc có hiệu quả. Đọc một bài nghiên cứu về kinh tế, hay chánh trị… người ta đinh ninh rằng người đọc bài ấy ít ra phải có một số vốn học thức kha khá về đại cương. Bởi vậy đối với dạng học giả ít học hoặc chưa có một cơ sở học vấn khá, cần phải được người ta chỉ dẫn vào bước đầu, một cách nhẫn nại và tuần tự, có phương pháp. Họ muốn cho ta cầm lấy tay họ mà dắt đi từng bước một chứ đâu có muốn cho ta mỗi ngày mỗi thay đổi và theo con đường mới. Báo chí chỉ là cơ hội để cho họ tiêu tán và tản mác tinh thần thôi, chứ thực ra không giúp gì cho họ bồi đắp cơ sở học vấn của họ là bao. Hôm nay báo chí bàn với họ về vấn đề Dương Tử, câu chuyện chưa ngã ngũ là ngày mai họ đã bàn về những bức thư tình của Hàn Mặc Tử. Đề tài hốn tạp làm cho họ biến thành như con bướm giỡn hoa: cái gì cũng “nếm” phớt qua mà không có một cái gì là thật biết rõ. Sự thu thập học vấn cần phải có một sự cố gắng hướng về một chiều sâu và khéo nhất trí hơn, chứ bắt họ chứng kiến mãi những cuộc bàn cãi về sử học, về văn học, về những tác phẩm mà họ chưa từng biết đến hoặc biết một cách mơ hồ về những lý thuyết mới về khoa học mà cái này chống bang cái kia, hoặc chữa sửa cái kia, những lý thuyết mà họ “mù tịt” không rõ đầu đuôi gì cả. Các bạn hẳn cũng đã được đọc qua những bài phê bình sách của một vài tạp chí mà dụng tâm của nhà phê bình không phải cố ý trình bày một cách khách quan những quyển sách mình phê bình, mà trái lại họ phê bình với tánh cách hằn học, thù ghét và vu cáo để cốt dìm kẻ khác đặng nâng cao mình lên, trong khi tự mình cũng chưa biết cách đọc sách là gì cả. Họ đã lầm lẫn công kích với phê bình. Có khi họ không đọc hết tác phẩm, chỉ đọc “mớ nhắm”, “cắt xén văn mạch” rồi “vơ đũa cả nắm”, phê bình và lên án liều lĩnh vô cùng, xuyên tạc, vu khống, bắt tác giả nói những gì họ không nói. Độc giả thiếu học thức tin lời và bị họ gạt gẫm. Cũng có nhiều nhà phê bình có óc bè đảng, đề cao và khen tặng quá lời những tác phẩm của bè bạn, bất chấp liêm sỉ của nhà phê bình chân chính. Tuy nhiên cũng có được một số những nhà phê bình đúng đắn, liêm sỉ giúp cho ta rất nhiều trong việc chọn lựa sách đọc. Nhưng phần ấy thật rất ít. Dù sao mình cũng không nên quá tin và để cho kẻ khác, dầu họ là nhà túc học, đa văn quảng kiến bực nào, thay thế ta mà phán đoán suy nghĩ thế cho ta. Đọc sách mà tự mình làm giảm óc phán đoán và suy nghĩ của mình là một điều tai hại vô cùng cho tinh thần độc lập và tự do của mình. Đừng để cho ai “che cái ánh mặt trời của mình” như Diogène đã bảo với Alexander đại đế.
Tôi có biết một vài người suốt đời không bao giờ chịu đọc một quyển sách gì cho kỹ… họ toàn đọc mớ nhắm một vài bài báo tạp chí như Nam Phong, Trung Bắc chủ nhật, Tao Đàn… rồi cũng tự tin là đã có sẵn một học vấn “uyên thâm” cho phép họ được “mục hạ vô nhân” và xem người bằng nửa con mắt. Còn nói gì có nhiều người có chút tây học chuyên môn đọc báo ngoại quốc, và đọc ròng những bài báo phê bình văn học, chánh trị v.v… rồi tha hồ mà dìu dắt quần chúng, dẫn đạo dư luận… Kẻ nào muốn có một cơ sở học vấn chắc chắn không nên phiêu lưu theo dõi sự dìu dắt của những nhà “dẫn đạo” ấy. Tôi có biết nhiều nhà “học thức” bàn bạc về Malraux, Jean Paul, Camus, André Gide, Romain Rolland v.v… hễ đụng đến họ là họ kể cho nghe những thuyết phân tâm học, siêu nhiên học, hiện thực học, hoặc Phật học v.v… mà thực ra, trong đời họ, họ chưa từng đọc kỹ một tác phẩm nào của Malraux, Jean Paul, Camus, André Gide, Romain Rolland, của Freud hay một quyển kinh Phật nào cả… Họ sở dĩ biết được tên những người ấy là nhờ đọc ba bài báo phẩm bình tác phẩm, lịch sử của những nhà văn ấy trên tạp chí hay trong những quyển văn học sử.
Những bài nghiên cứu đứng đắn ở các báo chí trang nghiêm thật ra không dùng gì được cho những kẻ thiếu căn bản học vấn. Những bài báo ấy chỉ có ích lợi cho những nhà chuyên môn hay học giả mà thôi, để họ theo dõi tình hình hiện tại của khoa học hay văn học trên thế giới. Những báo chí có cao vọng đào luyện học vấn cho quần chúng bằng một cái học truyền bá phổ thông kể ra thật là mỏng manh, vì tự nó muốn đào tạo văn hóa mà miễn phải dùng đến sự cố gắng tinh thần, lại chỉ đi tìm những con đường tắt thì đó cũng đã là sai rất xa với nguyên tắc đầu tiên của văn hóa rồi. Cho nên phần nhiều cái vốn học vấn tìm thấy trong báo chí không có là bao.
Tóm lại những báo chí nghiên cứu đứng đắn thường viết ra cho những người đã có một học vấn khá cao. Báo chí văn học và khoa học chỉ là những món ăn bổ túc, chứ không phải là những món ăn căn bản. Muốn có được một món ăn căn bản và xây dựng, phải dùng đến những phương tiện khác, tôi muốn nói đến “sách”. Báo chí chỉ đem lại cho ta những cái có thừa, nhưng lại để cho ta thiếu những cái gì cần thiết”.
°
°
Ở thời buổi nầy, báo chí là hình thức văn học được truyền bá rộng nhất: dù là người dốt cũng như người có học, người giàu cũng như người nghèo đều không sao thoát khỏi ít nhiều ảnh hưởng của nó. Những bài xã thuyết của mỗi tờ báo thường khác nhau, nhưng tựu trung đều đưa ra một tài liệu chung, cốt ý “nhồi nắn” dư luận theo một chiều nào.
Bời vậy, dù báo chí có cố gắng trình bày sự việc xảy ra hằng ngày một cách hết sức khách quan, thực sự bên trong bao giờ cũng có những ý kiến chủ quan, những phê phán đại cương để tỏ ra những “thái độ” hơn là những “chân lý”. Báo chí là tiêu biểu lý tưởng hoặc nhhu cầu của một hạng độc giả nào. Ngoài ra báo chí cũng không còn có sứ mạng nào khác hơn được nữa, nghĩa là không làm sao vô tư khách quan được.
Bởi vậy các sự việc xảy ra đều được họ trình bày theo những khía cạnh thuận lợi cho quyền lợi và chánh kiến của họ, còn những gì không lợi cho họ, họ giả lờ bỏ qua, hay chỉ nói phớt qua cho có. Như thế, đọc báo mà chỉ đọc “chết” một tờ chì dù có thiện chí đến bực nào, óc sáng suốt cũng sẽ có ngày mờ tối, óc phê bình cũng sẽ có ngày lệch lạc.
Muốn thấy đặng sự thật, phải đọc báo như đọc sử, nghĩa là phải biết phê bình như người ta phê bình sử liệu.
°
°
4. – ĐỌC NHỮNG SÁCH VỀ THIÊN VĂN VÀ ĐỊA LÝ
– Con người trong Vũ trụ
Như ta đã biết, người có cao vọng xây đắp cho mình một cơ sở học vấn đứng đắn, không thể không khởi sự bằng nghiên cứu học hỏi về mình trước hết. Biết mình là cái học đầu tiên của người trí thức.
Con người không phải là một sinh vật độc lập trong hoàn vũ, mà là một sinh vật sống trong hoàn vũ. Người học thức không thể giam mình trong “lũy tre xanh”, mà phải có một sự hiểu biết về những cái gì xa xăm trong không gian và thời gian mới được. Không có được sự hiểu biết ấy thì có khác nào kẻ sống trong một thung lũng, không bao giờ vượt ra khỏi những dãy núi chung quanh, suốt đời giam mình trong một vòng chân trời eo hẹp… Họ cần phải biết vượt thời gian và không gian để mà nhìn cao và nhìn rộng, biết rõ được hoàn cảnh xã hội của mình đang sống, biết đặt hoàn cảnh xã hội ấy trong một khung cảnh rộng hơn và bao bọc nó, đem dân tộc mình sánh với dân tộc khác, biết đem nhân loại đặt trong một khung cảnh rộng hơn là vạn vật trong vũ trụ… Muốn được vậy thì cần phải nhờ đến khoa thiên văn để mở rộng nhãn quan của ta ra ngoài vũ trụ.
Thiên văn học là một ngành rất cần thiết để cho ta nhận thấy cái địa vị con người trong vũ trụ là như thế nào. Địa vị của thiên văn học phải có một chỗ ngồi xứng đáng và quan trọng trong cái học về con người.
Có bao giờ các bạn ngồi trước mặt bể bao la, nhìn thấy cái mênh mông của những lượn sóng trùng dương mịt mù trước mắt, bạn có những cảm tưởng như thế nào? Có bao giờ bạn nằm ngoài bãi cỏ hay trên núi cao, mắt nhìn bầu trời bao la với hàng triệu ức ngôi sao lấp lánh và khi bạn biết rằng mỗi vì sao lấp lánh ấy có thể là mỗi một vầng thái dương to lớn mấy trăm ngàn lần thái dương hệ của ta đang ở, khi mà bạn biết rằng ánh sáng của nhiều vì sao, như vì sao Bắc Đẩu, phải để 36 năm trời mới đến hành tinh ta, mà ánh sáng thì đi nhanh đến mức 300.000 cây số một giây đồng hồ… Đó là chưa nói đến những tinh vân mà mắt ta thấy được, như tinh vân Andromède, ánh sáng từ đó đến ta phải để cả triệu năm mới tới… Thế thì không gian quả là vô tận mà thời gian lại cũng vô cùng. Tấm than nhỏ bé của con người với trăm năm là hạn, ví với cái không gian vô tận, với cái thời gian vô cùng của Vũ Trụ thì không thể còn so sánh được nữa, không thể nói rằng ta đối với Vũ Trụ chỉ là một hột cát trong bãi sa mạc, một giọt nước ở Thái Bình Dương… Cảm tưởng bạn như thế nào ở giữa cảnh vô biên vô tận của trời đất? Pascal đã nói: “Sự lặng thinh của những khoảng không gian vô tận nầy làm cho tôi kinh khủng!” Nó là mối phát sanh những tư tưởng thanh thoát đưa con người ra khỏi những cảm tưởng nhỏ nhen ti tiện và chật vật của cuộc đời vật chất… và gây cho mình có nhiều tư tưởng thâm trầm về ý nghĩa của nhân sinh.
Nói thế không phải bảo ta phải đọc sách và nghiên cứu khoa thiên văn như những nhà bác học thiên văn. Khoa học nầy đòi hỏi nơi ta nhiều năng khiếu đặc biệt và học vấn sâu rộng mà không phải ai ai cũng làm được. Ta chỉ cần học nơi khoa thiên văn học trước hết hai điều thôi:
- Nhận chân rằng, có một trật tự thiên nhiên vĩnh cửu trong trời đất vạn vật và bất di bất dịch mà người ta gọi chung là luật của tạo hóa: không một vật nào trong Vũ trụ mà thoát khỏi định luật tự nhiên ấy, từ một cái cực tiểu đến cái cực đại của trời đất.
- Quả địa cầu ta ở đối với vũ trụ thì nhỏ bé không thể nói, cũng không phải là trung tâm của vũ trụ như ngày xưa người ta đã tin. Không biết rằng vũ trụ mênh mông vô tận, cho rằng những con đường di chuyển của mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao mà ta thấy đây là những con đường di chuyển thật, đó là nhìn sai cả sự thật.
Muốn có được một ý niệm tổng quát và rõ ràng về vị trí của quả địa cầu ta ở đối với các vì hành tinh, tinh tú trên không gian vô tận, một quyển sách về thiên văn học đại cương đủ rồi. Sách Việt tôi chưa thấy quyển nào đáng kể. Về sách Pháp, nên đọc các quyển Initia-tion Astonomique của Camille Flammarion, Le ciel et l’Atmosphère của L.Houllevigne,… Quyển Le Ciel của Alphonse Berget (Larousse) là một quyển phổ thông rất hay, đã rất dễ đọc lại đọc một cách say sưa cho bất cứ một ai có một cái học ngoại ngữ cỡ cử nhân ngày nay, cỡ trung học đệ nhất cấp ngày xưa thời Pháp thuộc.
Trước khi chấm dứt chương nầy, tôi xin trích dẫn lời nói sau đây của Alphonse Berget, để gọi là tạm kết luận:
“Khi bàn đến khoa thiên văn học người ta đã bảo rất đúng rằng đó là “khoa đẹp nhất”. Thật vậy, chỉ nhờ có nó mà thôi; nhờ chiêm vọng bầu Trời mà tinh thần ta được nâng cao trên những quan niệm cao cả nhất; trong khi nó giúp ta quen thuộc với những ý niệm về sự vô cùng của không gian và sự vô tận của thời gian, nó chỉ cho ta thấy rõ cái nhỏ bé không đáng kể của ta trong Vũ trụ, nhưng đồng thời cũng chứng minh rằng đầu óc con người “to rộng” là bực nào mới có thể hiểu biết được nổi những kỳ diệu ấy.
Học được bấy nhiêu thôi cũng đã là đầy đủ lắm rồi. Người học thức mà thiếu sự hiểu biết ấy là một thiếu sót rất quan trọng vậy”.
b. – Con người trong thời gian
Sau khi đặt địa vị con người trong Vũ trụ, ta cũng cần đem cái đời sống ta mà đặt vào một khung cảnh co hẹp hơn, là nhân loại. Vậy, ta phải tìm trở lại trong thời gian cái nguồn gốc nhân loại, tức là tìm mà hiểu biết sự phát sinh đầu tiên của con người trên mặt đất và sự tiến bộ của nhân loại trong từng giai đoạn của nó trong lịch sử. Đặt nhân loại vào hoàn cảnh tự nhiên của thuở ban đầu, đâu phải chỉ để thỏa mãn óc hiếu kỳ của một đầu óc biết nhìn lại quá khứ mà là một điều cần thiết cho sự hiểu biết thâm sâu cái đường lối tiến bộ của con người trong thời gian và không gian.
Tôi xin giới thiệu các bạn quyển La Terre avant l’histoire của Edmond Perrier. Quyển nầy là một cái thang nối lại lịch sử và những khoa vật lý. Mục sách tham khảo rất đầy đủ để cho ai muốn đi sâu vào vấn đề có thể tìm kiếm được dề dàng. Quyển La Vie et la Mort của Dastre ( Flammarion) rất hay và rất dễ hiểu. Đọc xong nó, ta có thể có được một mớ kiến thức căn bản để đọc tiếp những quyển sâu sắc và khó khăn hơn như La Genèse des espèces animals ( Alcan), l’Adaptation ( Doin) của Lucien Cuénot, hoặc những quyển như Le Transformisme et l’Expérience (Alcan), l’Hérédité (Colin), l’E1volution et l’Adaptation (Chiron) của Etienne Rabaud, nhất là quyển Eléments de biologie générale (Alcen) cùng một tác giả.
Nhờ đọc những quyển trên đây, ta có thể đi từ tinh vân đến sự phát sinh con người trên quả địa cầu.
°
°
Muốn truy tìm đến nguồn gốc của nhân loại, chúng ta cần phải quay về tiền sử. Trước hết chúng ta là người Đông Phương, tiền sử các nước láng giềng như Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản không thể bỏ qua. Cổ học Trung Hoa lại rất gần với ta, phải được quyền ưu tiên chọn lựa. (1) Một cái vốn hán học để đọc nổi cổ văn là tối cần cho bất cứ người nào muốn có một nên học vấn vững chắc. Kế đó phải để ý đến các nước Tây Phương, nhất là về lịch sử thời trung cổ Âu châu. Nhưng cái học cổ điển Tây Phương, cũng như cái học cổ điển Đông Phương đều là những cái học rất khó khăn và phải tốn nhiều công phu. Đọc nổi một bài văn cổ đâu phải dễ. Người học thức Việt Nam ngày nay không thể là một người chỉ biết có một thứ tiếng mẹ đẻ mà thôi. Ít ra cũng phải có một cơ sở về sinh ngữ tối thiểu về Hán văn, Pháp văn hay là Anh văn. Những dân tộc hậu tiến là những dân tộc cần phải biết được nhiều ngoại ngữ chừng nào hay chừng nấy – mới mong theo kịp các nước tiên tiến – mơi có thể gọi là “đa văn quảng kiến”.
°
°
b) Con người trong không gian:
Muốn rõ được vị trí con người trong không gian, tức là muốn biết thế giới chung quanh ta, phải cần đến những sách về địa lí, du kí.
Nên đọc quyển Ce monde où nous vivons của Lincoln Barnet ( Hachette). Hình ảnh rất đẹp và bài vở chọn lựa, cách trình bày hấp dẫn, thật là một quyển sách quí.
Các sách giáo khoa về Địa lí, nhất là quyển Geographie Générale Illustrée ( Quillet xuất bản) dưới quyền giám đốc của Maurice Allain với sự cộng tác của các ông Elicio Collin, Hardy, Vallaux và Weulersse cần phải có trong tủ sách. Phải có một quyển địa đồ đầy đủ. Hiện thời các nhà xuất bản Quillet, Hachette, Colin có cho in ra nhiều quyển địa đồ rất đầy đủ, quyển nào cũng dùng được cả.
Cũng cần đọc những quyển du kí và những quyển sách bàn về tâm hồn của từng dân tộc. Muốn biết về dân tộc Tây Ban Nha thì nên đọc những quyển Essence de l’Espagne của Miguel de Unamuno (bản dịch tiếng Pháp của Marcel Bataillon, Plon, 1923), quyển l’Espagne moderne vue par vue ses e1crivains của Henri Guerlin ( Perrin, 1924);- về dân tộc Anh thì nên đọc quyển Histoire de la literature anglaise của Taine ( Hachette, 5 quyển), Quyển Nauvelles Etudes anglaises (1910), quyển l’Angleterre et la guerre (1916) của André Chevrillon (Hachette),quyển l’Angleterre moderne, son évolution của Louis Cazamian ( Flammarion, 1911); - về nước Đức thì nên đọc quyển l’Allemagne moderne, son évolution (Flammarion) của Henri Lichtenberger, quyển Panorama de la literature allemande contemporaine của Félix Bertaux (Kra, 1928); - vế nước Nhật thì nên đọc Société japonaise ( Plon), quyển Nauveau Japon (Perrin) của Bellesort, quyển Japon của Emile Hovelaque (Flammarion). Không nên bỏ qua quyển du kí Journal d ‘um Philosphe của Hermann de Keyserling ( Stock).
Lại còn có một cách khác để hiểu biết tâm hồn của một dân tộc là đi sâu vào sự nghiên cứu những tác phẩm trứ danh của mỗi dân tộc, nghĩa là nghiên cứu văn học của dân tộc đó.
Muốn biết về tâm hồn dân tộc Anh thì nên đọc sách và dịch của Shakespeare, nhất là những quyển Hamlet (Fasquelle, bản dịch của E. Morand và Schwob, hoặc của Guy de Pourtales (Gallimard), quyển Antoine et Cleopatre (bản dịch của A. Gide), quyển Romeo et Juliette (bản dịch của Koszul), Macbeth và Othello (bản dịch của Derocquigny), Jules Cesar (bản dịch của Ch. M. Garnier), La Temptete (bản dịch của Aynard).
Tiểu thuyết của Dickens thì nên đọc David Copperfield (Hachette), Moel Flanders của Daniel de Foe (bản dịch của Marcel Schowob).
°
°
Muốn hiểu về tâm hồn nước Đức thì nên đọc sách của Goethe như Faust, Werther, Les Affinites Electives, Les Annees d’Apprentissage và Les Annees de voyage de Withelm Meister, Verite et Poesie (bản dịch của Porchat do Hachette xuất bản), quyển Correspondance avec Schiller (Plon) bản dịch của Lucien Herr, quyển Conversations avec Eckermann (Charpentier) bản dịch của Emile Delerot.
Đọc sách của văn hào Heine, thì nên đọc những quyển De l’Allemagne, Lutece, (Calman Levy). Đọc Hoffmann thì đọc Contes fantastiques, bản dịch của X. marmier (Fasquelle). Đọc Schopenhauer thì nên đọc Qphorismes, sur la sagesse dans la vie, và nếu có một căn bản học vấn khá cao thì nên xem cả bộ Le Monde Comme Representation (bản dịch của Burdeau). Về nhà văn Nietzche, thì tất cả sách của ông đọc quyển nào cũng được cả.
°
°
Muốn nghiên cứu hiểu biết về tâm hồn nước Ý thì nên đọc trước hết nhà văn hóa Dante, quyển Ladivine comedie (bản dịch của Laminnais [Didier] là hay nhất. Cũng nên đọc tác phẩm Memoires của Benvenutto Cellini (bản dịch của Leclanche). Sách của Annunzio thì đọc những quyển L’enfant de volupte, Le Fue, Le Triomphe de la Mort, Les Vierges aux Roches (Calmann- Levy).
Về Tây Ban Nha, nên đọc Don Quichotte của nhà đại văn hào Cervantes. Bản dịch hay nhất của Viardot hoặc của Xavier de Cardaillac và Jean Labarthe (Toulouse, Edouard Privat 1927).
Về văn hào Lope de Vega thì đọc Theatre (bản dịch của Damas Hinard). Đọc của Sainte Therese quyển Vie ecrite patell Meme (Beauchesne, 6 quyển).
°
°
Về Nga, thì nên đọc sách của Tolstoi, nhất là những quyển La Guerre et la Paix và Anna Karenine (Hachette). Đọc sách của Dostoiewki thì nên đọc Crime et Chatiment bản dịch của Derely (Calmann Levy), Freres Karamazou bản dịch H. Mongault và Leval (Bossard), Confession de Stravroguine, bản dịch của Chuzeville (Bossare), L’Idiot (Plon), Humilies et Offenses (Plon)- Về nhà văn hóa Kropotkine thì nên đọc Autour d’une vie (bản dịch của Martin và Leray, Stock).
°
°
Đấy là sơ lược những sách mà ta cần phải đọc để có một ý niệm về văn tài cũng như về tâm hồn các dân tộc khác ta. Dù sao ta nên biết rằng trên đây chỉ nói về những tác phẩm được dịch ra tiếng Pháp là tiếng ngoại ngữ mà người việt được biết nhiều nhất. Những ai không đọc được tiếng Pháp hay tiếng Anh thì đọc qua một vài tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt.
°
°
Ta cũng cần phải quan tâm nghiên cứu đến ảnh hưởng của địa lí đối với đời sống vật chất lẫn tinh thần của con người. Ảnh hưởng của thời tiết, của khí hậu, của đất đai phong thổ, của cảnh vật thiên nhiên đối với sức khỏe, tính tình, tư tưởng của con người rất là quan trọng.
Vấn đề này nên đọc quyển Geopsyche của bác sĩ Willy Hellpach (bản dịch chữ Pháp của bác sĩ F. Gidon – Payot) trong đó trình bày một cách tinh tường ảnh hưởng của địa lí đối với tâm hồn con người. Cũng nên đọc La Geographie Humaine của Maurier Le Lannou ( Flammarion), L’Homme et le Sol của Henri Prat (Gallimard), Geographie psychologique (Gallimard) của Georges Hrdy, L’Homme et la Cote (Gallimare) của Pierre Deffontaines, L’Homme et le Vent ( Gallimard) của E. Aubert de la Rue, Geographie des frotieres (Gallimard) của Jacques Ancel và Esquisse de Geopolitique của Ernest H. Short (Payot).
Người xưa khuyên người trí thức phải có một cái học “thượng tri thiên văn, hạ tri địa lí, trung tri nhân sự” thật là chu đáo. Phải chăng đó cũng là cao vọng của tất cả mọi người hiếu học, mong mỏi có được một vốn học vấn rộng rãi vững vàng.
Tôi tự học Tôi tự học - Thu Giang - Nguyễn Duy Cần Tôi tự học