Nguyên tác: I Am A Cat
Số lần đọc/download: 10057 / 432
Cập nhật: 2016-06-02 14:08:13 +0700
Chương 5
M
uốn ghi hết, đọc hết mọi việc xảy ra trong hai mươi tư tiếng đồng hồ thì ít nhất cũng mất thời gian là hai mươi tư tiếng đồng hồ. Dù là người ủng hộ phương pháp viết tả chân đến mấy, tôi cũng phải tự nhận rằng đó là một trò diễn mà kế hoạch của mèo đặt ra không thể với tới được. Do vậy, mặc dù ông chủ tôi đã biểu diễn những hành động, lời lẽ kỳ quặc, đáng phải miêu tả tỉ mỉ suốt cả ngày đêm ra sao, thì cũng vô cùng đáng tiếc là tôi không đủ năng lực và sự kiên nhẫn để thông báo tỉ mỉ đến độc giả được. Đáng tiếc thật đấy nhưng mà đành chịu thôi. Dù là mèo thì cũng cần phải nghỉ ngơi.
Sau khi ông Suzuki và ông Meitei về rồi, gió lạnh cũng ngừng thổi, tất cả trở nên lặng lẽ như đêm tuyết rơi dầm dề. Ông chủ lại chui vào phòng sách như mọi khi. Bọn trẻ con kê gối nằm cạnh nhau trong gian phòng sáu chiếu. Cách cánh cửa lùa một gian rưỡi, trong căn phòng hướng nam, bà chủ nằm cho bé Men ba tuổi bú. Mặt trời chiều âm u cũng mau lặn. Ngoài đường, tiếng guốc khua vọng vào trong phòng khách nghe rõ như trong tầm tay. Từ nhà trọ phường bên cạnh, tiếng sáo lúc vang lúc tắt, thỉnh thoảng lại đập vào những đôi tai đang buồn ngủ những âm thanh nặng nề. Ngoài trời chắc đã mờ tối. Bữa cơm tối có món canh mọc cá viên, tôi ăn hết những viên bào ngư nên cái bụng lúc này thấy cần được nghỉ.
Nghe nói trong thiên hạ có hiện tượng người ta thích thơ bài hài, và dùng “tình yêu của mèo” gì đó để chỉ mùa xuân, khi mà khắp mọi nơi trong phường, họ nhà mèo đi suốt đêm, quên cả ngủ. Thế nhưng với tôi thì lúc này vẫn chưa gặp được điều gì làm cho tâm trạng khác đi được. Vốn dĩ tình yêu là sức sống của toàn vũ trụ. Từ thần Jupiter trên trời cho đến giun dế trong lòng đất, bằng tình yêu người ta có thể làm thay đổi bản thân mình. Đó là tập quán chung của vạn vật. Vì vậy, họ nhà mèo chúng tôi nếu có tạo nên một cái mốt phong lưu, vui vẻ, làm náo nhiệt thiên hạ thì cũng không có gì là vô lý cả. Ngẫm ra, nói như vậy là tôi cũng có xốn xang trong lòng và nghĩ đến Tam Mao đấy. Ngay cả cô Tomiko, con gái nhà Kaneda, một mẫu mực điển hình của “chủ nghĩa sankaku” nghe nói cũng yêu anh Kangetsu cơ mà?! Vậy thì không có lý do gì để coi khinh, coi thường, cho là một sự băn khoăn phiền toái về việc những con mèo đực, mèo cái cứ vào tiết “chiều xuân ngàn vàng” lại điên cuồng chạy khắp mọi nơi, loạn cả lên như vậy cả. Nhưng tôi thì không thể nào có được tâm trạng đó nên đành chịu. Buồn ngủ như thế này thì không thể yêu được. Tôi lò dò tìm cách chui vào trong chăn của bọn trẻ con, ngủ rất khoan khoái.
Tôi bất chợt mở mắt nhìn thì thấy ông chủ đã rời phòng sách sang phòng ngủ từ bao giờ và nằm trong chăn đệm trải bên cạnh bà chủ. Ông chủ có thói quen khi ngủ bao giờ cũng mang theo những quyển sách viết ngang[1] vào trong phòng ngủ. Nhưng khi nằm xuống thì không bao giờ đọc tiếp đến dòng thứ hai, thậm chí có khi chỉ mang đến để cạnh gối, không thèm sờ tới. Không đọc thì cần gì phải mang vào như vậy? Nhưng đó là đặc tính của ông mà dẫu cho bà vợ có chế giễu hay gàn, ông cũng nhất quyết không nghe. Đêm nào cũng vất vả khuân sách vào phòng ngủ rồi chẳng đọc. Có khi còn nổi máu tham, vác cả ba, bốn quyển một lúc. Trước đây, hằng đêm ông ta còn vác cả cuốn từ điển lớn của Webster vào nữa cơ. Xem ra đây là một thứ bệnh của ông chủ. Giống như có người giàu có, xa hoa, đêm đêm mà không nghe tiếng nước sôi của cái ấm sắt Long văn Đường thì không thể ngủ được, có lẽ ông chủ này nếu không đặt sách dưới gối thì cũng không ngủ được chăng? Xem ra sách đối với ông chủ không phải là thứ để đọc mà là một dụng cụ để ru ngủ. Đó là một loại thuốc ngủ được in ấn.
Không biết tối nay có sách gì không nhỉ? Tôi thử nhìn thì thấy một quyển sách mỏng, bìa đỏ mở sẵn vứt lăn lóc cạnh bộ râu của ông. Ngón tay cái bên tay trái ông vẫn kẹp trong trang sách nên có lẽ hôm nay là trường hợp đặc biệt kỳ lạ, ông đã đọc được năm, sáu dòng rồi chăng? Cùng với quyển sách màu đỏ, chiếc đồng hồ Nickel bỏ túi nằm cạnh, toát lên một màu lạnh giá, chẳng hợp với mùa xuân chút nào.
Bà chủ vứt đứa con nhỏ đang bú mẹ ra xa chừng một thước, nằm há mồm ngáy, đầu trật khỏi gối. Có lẽ con người không có gì trông chán hơn là khi nằm ngủ, há miệng ra một cách khổ sở. Mèo thì suốt đời không bao giờ gây ra chuyện đáng xấu hổ này. Vốn dĩ mồm là để phát ra âm thanh, còn mũi thì để hít thở không khí. Đi ngược xa lên phía bắc thì con người trở nên vô tình, cố sức không mở miệng nên kết quả là có lúc gừ gừ như nói bằng mũi. Nhưng nếu mũi bị tắc, chỉ dùng miệng để thở phì phì thì còn khó chấp nhận hơn cả gừ gừ nữa. Trước hết là rất nguy hiểm, phân chuột từ trên trần nhà có thể rơi vào mồm.
Tôi nhìn sang những đứa trẻ thì tư thế nằm ngủ của chúng cũng không thua kém gì bà mẹ. Con chị Tonko dang rộng cánh tay phải, gác lên tai con em như muốn tuyên bố quyền làm chị là như thế này đây.
Con em Sunko, để trả thù lại, gác một chân lên bụng chị. Cả hai đều đã xoay 90 độ so với tư thế ngủ ban đầu. Tuy vậy cả hai đều ngủ rất say, không ai phàn nàn gì và cứ giữ mãi tư thế bất tự nhiên này.
Ánh đèn mùa xuân quả thật cũng có khác. Đằng sau cảnh tượng vừa ngây thơ vừa hết sức thiếu thanh lịch ấy, ánh đèn chiếu ngời ngợi, dịu dàng như luyến tiếc đêm đẹp. Không biết lúc này là mấy giờ rồi? Tôi nhìn quanh một lượt khắp phòng, tất cả đều im lặng như tờ, chỉ có tiếng đồng hồ treo trên tường, tiếng ngáy của bà chủ và phía xa hơn là tiếng nghiến răng của cô sen. Cô này, nếu có ai bảo cô là nghiến răng khi ngủ thì bao giờ cô cũng cãi không phải vậy. Cô ta cứ nhất định “từ bé đến giờ tôi chưa bao giờ nghiến răng cả” chứ không hứa là sẽ sửa hay nói “tội nghiệp quá”, chỉ một mực “không thể có chuyện đó”. Thì ra đó là nghệ thuật biểu diễn khi ngủ nên người ta không thể nhớ được. Nhưng sự thực thì dù không nhớ nó vẫn tồn tại, thế mới khổ. Trên đời này có nhiều người làm việc xấu nhưng bao giờ cũng nghĩ mình là người tốt. Cái này nếu vì tin là mình không có tội mà vô tư thì cũng được. Nhưng sự thật là người khác bị làm phiền thì không thể vô tư mà lờ đi được. Những nam thanh nữ tú kiểu này cũng thuộc loại cô sen này đây.
Đêm có vẻ đã khuya lắm.
Cửa chớp ở nhà bếp có tiếng gõ nhẹ bộp bộp hai lần. Quái lạ, chẳng lẽ có ai đến vào giờ này? Chắc lại bọn chuột mọi khi chăng? Chuột thì nhất định là tôi không bắt rồi, cứ tha hồ mà làm gì thì làm… Lại có tiếng va bộp bộp, có vẻ không phải chuột. Nếu là chuột thì đây là loại chuột biết giữ gìn ý tứ cẩn thận lắm. Chuột nhà ông chủ này cũng giống như bọn trò của trường ông, dù ban đêm hay ban ngày, chúng cũng say sưa đập phá, làm loạn cả lên, cứ như thiên chức của chúng là phải phá hoại, làm kinh hoàng giấc ngủ của ông chủ tội nghiệp vậy. Vì thế chúng không thể giữ gìn ý tứ kiểu này. Nhất định đây không phải là chuột. So với những con chuột hôm trước đã đột nhập vào phòng, ngoạm cả cái mũi không lấy gì làm cao lắm cùa ông chủ, rồi ung dung ca khúc khải hoàn, kéo nhau đi thì hành động này bạc nhược quá. Quyết không thể là chuột. Lần này có tiếng nâng cánh cửa chớp từ dưới lên trên nghe “két” một cái, đồng thời là tiếng đẩy cánh cửa lùa rất nhẹ. Đúng là không phải chuột rồi. Người. Giữa đêm khuya thế này, không có ai ra đón mà tự mở cửa lẻn vào thì nhất định không thể là thầy Meitei hay ông Suzuki được. Rất có thể là tay ẩn sĩ kẻ trộm nổi tiếng mà tôi vẫn được nghe nói đến tên cũng nên. Chà, chà, nếu là ẩn sĩ thì tôi muốn mau chóng được xem khuôn mặt đáng kính của ông ta ra sao?
Ẩn sĩ bước bàn chân to lớn đi cả giày lên thềm và tiến độ hai bước. Đến bước thứ ba thì vấp phải mảnh ván lát trồi lên, gây tiếng động đánh chát một cái, vang trong đêm. Lông tôi dựng ngược hết cả lên như bị chải ngược bằng bàn chải đánh giày. Trong khoảnh khắc, không nghe thấy tiếng bước chân. Tôi nhìn bà chủ thấy bà vẫn há hốc mồm, ra sức hít thở bầu không khí yên bình. Ông chủ thì có lẽ vẫn đang mơ là ngón tay bị kẹp trong quyển sách đỏ chăng. Một lúc sau, nghe có tiếng bật diêm trong bếp. Mặc dù là ẩn sĩ nhưng xem ra mắt cũng không nhìn được trong đêm tối như tôi. Chắc là không quen nên nhất định là bất tiện rồi.
Lúc này tôi vừa cuộn mình nằm phục xuống thềm vừa nghĩ ẩn sĩ sẽ vòng từ cửa bếp sang phòng nghỉ hay rẽ tay trái qua cửa hiên rồi vào phòng sách? Tiếng bước chân cùng với tiếng cửa lùa đi về phía thềm hành lang. Cuối cùng ẩn sĩ đã vào phòng sách, rồi im bặt không thấy động tĩnh gì nữa.
Trong thời gian này tôi đã nhận thấy là phải nhanh chóng đánh thức hai vợ chồng ông chủ dậy, nhưng làm thế nào để đánh thức đây? Mãi vẫn không nghĩ ra được cách, chỉ có ý nghĩ thì cứ quay cuồng trong đầu như cái guồng nước, không thể phân biệt được gì nữa. Hay là ngậm cái mép chăn mà kéo thử xem? Tôi nghĩ thế và làm thử hai ba lần nhưng vô hiệu quả. Tôi lại nghĩ hay là cọ cái mũi lạnh của mình vào má ông chủ và tôi đưa mũi đến trước mặt ông. Ông chủ vẫn cứ ngủ, chỉ đưa tay đẩy mũi tôi ra cách thô bạo, thật đáng ghét. Đối với mèo, mũi cũng là một chỗ nhạy cảm, rất đau. Không còn cách nào khác tôi phải kêu meo meo hai lần để đánh thức nhưng không hiểu sao chỉ riêng lúc này có cái gì vướng trong họng, không kêu thành tiếng như ý muốn được. Tôi lấy hết sức kêu cũng chỉ phát ra được tiếng rất nhỏ và trầm làm tôi ngạc nhiên.
Quan trọng nhất là ông chủ thì có vẻ chẳng thức dậy gì cả, trong khi đó thì đột nhiên lại nghe tiếng bước chân của ẩn sĩ. Tiếng bước chân truyền qua hành lang nghe xoẹt xoẹt, đang đến gần. Thế là đến rồi. Thế này thì hỏng rồi. Tôi đành phó mặc, nấp vào giữa cái rương và cánh cửa lùa, lắng nghe động tĩnh trong một lát.
Tiếng bước chân đi đến trước phòng ngủ thì im bặt. Tôi nín thở, cố nghe xem tiếp theo cái gì sẽ xảy ra? Sau này nghĩ lại mới thấy, khi rình bắt chuột có lẽ cũng không như thế này, cứ như là hồn vía sắp nhảy hết ra từ hai con mắt vậy. Thật là may mắn, nhờ có ẩn sĩ mà tôi đã được một lần giác ngộ, không bao giờ có thể lặp lại lần thứ hai nữa.
Bỗng dưng, cái khung ô cửa thứ ba, chỗ chính giữa, thay đổi màu, giống như bị nước mưa thấm ướt. Những thứ nhìn thấy qua ô cửa đó có màu hồng nhạt rồi sẫm dần. Sau đó giấy dán cửa bị rách từ lúc nào, qua lỗ thủng, nhìn rõ một cái lưỡi đỏ. Cái lưỡi nhanh chóng biến mất vào bóng đêm. Thay vào đó, từ bên kia lỗ thủng, xuất hiện một vật gì phát sáng dễ sợ. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là con mắt của ẩn sĩ. Cái kỳ lạ là tôi có cảm giác đôi mắt ấy không nhìn cái gì trong phòng mà chỉ chằm chằm nhìn vào mỗi tôi đang nấp sau cái rương đan bằng cành liễu. Chỉ chưa đến một phút, nhưng tôi cảm thấy bị nhìn thế này thì đến giảm tuổi thọ mất. Không thể chịu đựng nổi, tôi đang định nhảy ra khỏi chỗ nấp thì cánh cửa xoẹt mở, cái người ẩn sĩ mà tôi chờ đợi ấy đã ở ngay trước mắt tôi.
Tôi rất vinh dự sẽ giới thiệu với quý vị một cách trình tự về vị ẩn sĩ kẻ trộm, vị khách hiếm lạ bất ngờ này. Nhưng trước đó, tôi xin có một ý kiến nhỏ, làm phiền tới các bậc cao kiến.
Các vị thần cổ đại vẫn được tôn thờ như các đấng toàn trí toàn năng. Chúa Trời của Ki tô giáo, cho đến tận thế kỷ 20 này cũng vẫn mang bộ mặt toàn trí toàn năng này. Nhưng cái “toàn trí toàn năng” mà con người phàm tục vẫn nghĩ ấy, tùy từng lúc mà có thể hiểu đó là “vô trí vô năng” cũng được. Đây rõ ràng là một nghịch thuyết (Paradox). Tuy nhiên, từ thuở khai thiên lập địa đến nay, chỉ có mỗi mình tôi là kẻ đả phá cái nghịch thuyết này, cho nên tự bản thân mình, tôi cũng thấy trào lên một niềm tự hào “mình chả mèo chút nào cả”. Vì vậy, ở đây tôi muốn nêu ra lý do ấy để mà nhắc nhở cho loài người ngạo mạn biết rằng không thể coi thường chúng tôi được đâu, dù cho chúng tôi là mèo.
Người ta bảo Chúa làm ra tất cả trời đất, vạn vật. Từ đó suy ra, con người cũng là một sản phẩm của Chúa. Nghe đâu hiện nay trong kinh thánh vẫn ghi rõ ràng như vậy. Về cái “con người” này thì từ hàng nghìn năm nay họ tự quan sát mình, cho rằng ta rất lạ kỳ, huyền diệu và họ ngày càng nghiêng về thừa nhận sự toàn trí toàn năng của Chúa. Chính con người chứ không phải ai khác, mặc dù đông lúc nha lúc nhúc như vậy, nhưng trên đời này chẳng có một ai giống ai cả. Tất nhiên về cái dụng cụ gọi là mặt thì độ lớn tương đối giống nhau. Nói một cách khác thì tất cả họ đều được chế tạo bằng một thứ vật liệu như nhau. Họ đều hình thành từ một vật liệu như nhau nhưng kết quả thì không có một ai giống ai cả. Cứ nghĩ rằng chỉ bằng một thứ nguyên liệu đơn giản như vậy mà có thể nghĩ ra được bao nhiêu bộ mặt như thế thì không thể không khâm phục tài năng nhà sáng chế. Không có sức tưởng tượng độc đáo thì làm sao có thể có sự thay đổi biến hóa như thế được? Một họa sĩ suốt cuộc đời dốc hết tâm trí, sức lực để tìm tòi sự khác nhau thì cũng chỉ sáng tạo được mười hai, mười ba loại mặt là cùng. Từ đó mà suy ra thì không thể không khâm phục bàn tay của Chúa, bàn tay đã tự mình đảm nhận làm ra cả loài người, là một bàn tay đặc biệt được. Chí ít thì đó cũng là một tài năng không thể tìm ra trong xã hội loài người. Cho nên có cho đó là “toàn trí toàn năng” thì cũng được. Về điểm này, con người rất cảm phục Chúa và quả thật nếu theo sự quan sát của con người thì cũng đáng cảm phục thật.
Nhưng nếu theo lập trường của mèo thì cùng một sự việc có thể hiểu ngược lại rằng đó là bằng chứng nói lên sự vô năng của Chúa. Nếu như không phải là hoàn toàn vô năng thì cũng có thể khẳng định rằng Chúa không phải có năng lực hơn con người đâu. Chúa đã sáng chế ra bao nhiêu con người với bấy nhiêu bộ mặt. Nhưng phải chăng ngay từ đầu Chúa đã dự định và biết là như vậy? Hay chẳng qua Chúa định làm tất ráo trọi, mặt nào cũng giống mặt nào, nhưng làm hỏng, không làm được nên mới dẫn đến tình trạng hỗn tạp như thế? Việc tạo ra bộ mặt con người này được coi như sự ghi nhận thành công của Chúa, đồng thời cũng có thể hiểu đó là chứng tích về sự thất bại của Chúa. Có thể gọi là toàn năng hay đánh giá là vô năng cũng không sao cả.
Mắt của người gồm có hai cái, đứng cạnh nhau trên một mặt phẳng, nên không thể cùng một lúc nhìn cả hai phía phải trái. Cho nên con người thật đáng thương hại, bao giờ cũng chỉ nhìn thấy một nửa của sự vật. Nếu đứng ở một góc độ khác mà nhìn thì những sự thật đơn giản như thế này vẫn luôn xảy ra suốt ngày đêm trong xã hội của họ. Vậy mà họ tâng bốc Chúa, bị Chúa nuốt chửng mất nên mới không ngộ ra.
Nếu trong chế tạo, làm ra những cái khác nhau là khó, thì làm ra những cái giống hệt nhau từ đầu chí cuối cũng khó như vậy. Nếu yêu cầu Raphael vẽ hai bức chân dung Đức mẹ không được khác nhau một chút xíu nào cũng giống như bắt ông cho ra hai bức Madonna hoàn toàn khác nhau, thì đối với Raphael đây là một sự phiền toái. Biết đâu việc vẽ hai bức tranh khác nhau về cùng một vật, ngược lại, lại khó hơn cũng nên. Nếu yêu cầu Quảng Pháp đại sư[2] hãy viết lại đúng hệt như bút pháp của Không Hải, biết đâu còn làm cho ông khổ hơn là bảo ông hãy thay đổi kiểu chữ đi.
Tiếng mẹ đẻ mà con người vẫn dùng, được truyền dạy hoàn toàn theo chủ nghĩa bắt chước. Con người hàng ngày khi học nói từ mẹ đẻ, từ nhũ mẫu hay từ những người xung quanh, chỉ hoàn toàn là bắt chước, lặp lại như tai nghe được chứ không có một chủ ý nào cả. Nghĩa là chỉ bắt chước theo bản năng mà thôi. Cái thứ tiếng nói hình thành do bắt chước như vậy, qua 10, 20 năm thì tự nhiên phát âm cũng khác dần, điều đó chứng tỏ con người không có khả năng mô phỏng hoàn toàn. Việc mô phỏng thuần túy là một việc hết sức khó khăn như thế đó. Cho nên nếu Chúa làm ra được những con người ai cũng giống ai như cái mặt nạ Okame thì cũng có thể chứng minh được sự toàn năng của Chúa đấy. Còn khi mà Chúa tạo ra để chường dưới gầm trời những cái mặt khác nhau đến rối cả mắt như hiện nay, thì đó là chứng cớ cho phép ta suy ra sự vô năng của Chúa.
Tôi cũng quên mất tại sao tôi lại cần đưa ra ý kiến tranh luận này. Quên một cái cơ bản gốc rễ cũng là cái thường xảy ra ở con người. Vì vậy mong quý vi hãy nhìn đại khái, coi đó là đương nhiên đối với mèo thôi. Chỉ biết là, khi mèo nhìn thấy người ẩn sĩ kẻ trộm mở cửa phòng ngủ, lù lù hiện ra trước mắt mình thì ý nghĩ này tự nhiên trào lên trong ngực, thế thôi. Trào lên ư? Tại sao? Nếu có ai hỏi như vậy thì bây giờ tôi phải nghĩ lại và lý do nó là thế này:
Khi tôi nhìn thấy bộ mặt tên kẻ trộm hiên ngang xuất hiện trước mặt mình thì đó là một cái mặt có đặc điểm rất đủ để đánh tan những nghi ngờ thường ngày đối với kết quả tốt đẹp của sự sáng chế hay là sự vô năng của Chúa. Nó có đặc điểm là nhìn thoáng qua một lần thì không thể nào quên được. Cái đặc điểm ấy thật ra không có gì khác là nó giống hệt anh Mizushima Kangetsu của chúng ta như hai giọt nước. Tất nhiên tôi không có nhiều bạn bè tri kỷ là kẻ trộm, nhưng qua những hành vi thô bạo của chúng, thì không phải là tôi không tưởng tượng ra và vẽ trong tâm trí mình nét mặt của chúng. Tôi tự cho cái mặt của chúng chỉ nhỏ bằng đồng kẽm một chinh, cái đầu thì nhất định phải là lơ quả gáo. Nhưng giữa cái nhìn thấy và cái tưởng tượng ra lại khác nhau một trời một vực. Sự tưởng tượng chẳng hề dồi dào phong phú chút nào cả. Ẩn sĩ này lưng thẳng tắp, lông mày nét ngang đen nhạt, một tay kẻ trộm thực thụ về chí khí. Hắn độ chừng hai lăm, hai sáu tuổi. Về điểm này cũng sao nguyên như của Kangetsu. Nếu Chúa cũng có khả năng tạo ra được hai cái mặt giống nhau như thế này thì không thể coi là vô năng được. Thực ra mà nói, giống đến mức tôi đã nghĩ hay là anh Kangetsu bị điên, nên đang đêm khuya khoắt mà cũng nhảy đến đây chăng? Chỉ có điều, dưới mũi hắn không để bộ râu đen nhạt nên tôi biết đó là người khác.
Anh Kangetsu là một chàng trai thông minh lanh lợi, một tạo vật được chế tạo cẩn thận đến mức dễ dàng cuốn hút tiểu thư Kaneda Tomiko, người được Meitei mệnh danh là một cái tem nhỏ biết đi. Nhưng ẩn sĩ này nhìn tướng người mà xét thì cũng không chịu thua anh Kangetsu, dù chỉ một bước, về mặt hấp dẫn đối vói phụ nữ đâu. Nếu như tiểu thư Kaneda say mê bờ môi khóe mắt của anh Kangetsu mà lại không bị anh kẻ trộm này hút hồn với cùng một độ say đắm thì không hợp nghĩa lý nhân tình. Nhân tình là thứ vốn không hợp với luân lý. Một người có tài năng như thế, có tố chất có thể hiểu ngay bất cứ cái gì như thế, thì một việc thế này, dù cho không có ai mách bảo cũng nhất định sẽ hiểu được thôi. Từ đó mà suy ra, nếu đem tay kẻ trộm này thay thế anh Kangetsu thì nhất định cũng sẽ được yêu hết mình và tạo nên một cuộc duyên ưa phận đẹp chứ không sai đâu. Nếu như trước những lời thuyết pháp của Meitei mà anh Kangetsu bị dao động, làm cho mối lương duyên thiên cổ này bị tan vỡ thì một khi vẫn còn có những người như ẩn sĩ đây, không có gì đáng phải lo ngại cả. Nghĩ trước về diễn biến của sự kiện trong tương lai, tôi thấy yên tâm về tiểu thư Kaneda. Anh kẻ trộm này tồn tại trong thế gian là một sự cần thiết rất lớn để đảm bảo hạnh phúc cho cuộc đời cua tiểu thư Tomiko.
Ẩn sĩ cắp một cái gì ở bên nách. Nhìn kỹ hóa ra là cái chăn cũ mà ông chủ vứt vào phòng sách trước. Hẳn mặc một cái áo hanten[3] vải, thắt bằng cái dây đai quần áo ngủ. Bắp chân từ đầu gối trở xuống để trần và một chân vừa đặt lên sàn chiếu. Ông chủ từ nãy đến giờ vẫn đang mơ ngón tay bị kẹp trong quyển sách, lúc này bỗng trở mình đánh rầm môt cái miệng kêu “Kangetsu”. Ẩn sĩ giật mình, làm rơi chiếc chăn, bàn chân vừa thò lên chiếu vội vã rụt lại. Bóng hai cái cẳng chân thon dài đứng nguyên và hơi run run phía sau tấm cửa giấy. Ông chủ làu bàu cái gì đó, hất quyển sách ra, gãi soàn soạt cái cánh tay đen thui như thể người bị hắc lào. Sau đó lại tiếp tục ngủ im, đầu trật ra khỏi gối. Tiếng gọi “Kanketsu” có vẻ hoàn toàn chỉ là tiếng nói mê mà bản thân ông không hề hay biết.
Ẩn sĩ đứng yên ngoài hành lang, quan sát động tĩnh một lúc, biết vợ chồng ông chủ đang ngủ say, lại bước một chân lên sàn chiếu. Lần này không nghe tiếng gọi Kangetsu nữa. Thế là hắn cho nốt chân kia lên. Gian phòng rộng 6 chiếu được ngọn đèn mùa xuân rọi sáng khắp cả, bị cái bóng của ẩn sĩ cắt nghiến ra làm hai phần rạch ròi, một nửa tường, từ chỗ cái rương đến chỗ qua đầu tôi, tối đen. Tôi quay lại nhìn thì vừa đúng lúc bóng cái mặt của ân sĩ đang lờ mờ ngọ ngoạy ở chỗ chiều cao 2/3 bức tường. Dù là bóng của người đẹp trai, nhìn hình thù vẫn kỳ dị như quỷ tám đầu.
Ẩn sĩ nhìn từ trên cao xuống mặt bà chủ đang ngủ rồi không hiểu sao tủm tỉm cười. Tôi thật ngạc nhiên, ngay đến kiểu cười cũng là mô phỏng của anh Kangetsu. Cạnh gối của bà chủ có đặt một cái hòm gỗ đóng đanh, mỗi chiều chừng 1 thước rưỡi, thước sáu (khoảng 45,50 cm), trông có vẻ rất quý giá. Đây là hòm khoai mỡ mà anh Tatara Sanpei, công dân phố Karatsu, xứ Hizen[4] hôm trước về quê mang lên làm quà. Bày biện khoai làm vật trang trí trong phòng ngủ là một chuyện rất hiếm thấy và kỳ lạ. Nhưng bà chủ đây thuộc loại người rất nghèo nàn về quan niệm, nếu như phải cân nhắc xem để đường nguyên liệu kho nấu vào trong tủ đồ dùng tùy thân thì có thích hợp hay không. Có lẽ vì thế đối vói bà, khoai chứ dẫu có là củ cải muối thì để trong phòng ngủ vẫn cứ là bình thường. Nhưng ẩn sĩ này không phải là Chúa nên không thể hiểu được đây là người đàn bà như thế, và không phải là không có lý khi cho rằng cái thứ được để trân trọng bên người thế này, quyết phải là thứ của quý. Ấn sĩ nâng thử hòm khoai lên và có vẻ rất mãn nguyện vì thấy nó nặng đúng như mong muốn.
Ái chà, định ăn trộm khoai à? Tôi nghĩ và tự nhiên thấy buồn cười, một anh chàng đẹp trai như thế này mà lại đi ăn trộm khoai ư? Nhưng nếu lên tiếng thì nguy hiểm nên tôi đành im lặng nín chịu. Cuối cùng ẩn sĩ bắt đầu cung kính gói khoai vào cái chăn len cũ. Hắn nhìn quanh xem có cái dây gì để buộc không thì may có cái dây thắt lưng vải mà khi ngủ ông chủ tháo ra, vứt cạnh đó. Ấn sĩ dùng dây lưng này buộc chặt chỗ gói khoai rồi khoác lên lưng chẳng mấy khó khăn. Một hình ảnh mà phái nữ chẳng ưa thích lắm!
Sau đó hắn lấy hai cái áo khoác của trẻ con nhét vào trong cái quần lót dệt kim của ông chủ, làm cho phần đùi ống quần phồng lên như con rắn hổ mang nuốt con ếch. Hay nói cho dễ hình dung hơn là trông giống như con rắn bụng chửa to sắp đến tháng đẻ. Tóm lại là một hình thù rất kỳ quặc. Nếu có ai không tin, bảo là tôi nói dối thì cứ làm thử mà xem. Ẩn sĩ quấn chiếc quần dệt kim đó lên cổ. Sau đó tưởng hắn làm gì thì hắn trải cái áo bằng sợi xe của ông chủ ra như một tấm vải gói lớn, gói vào trong đó cái tấm đai lưng của bà chủ, quần và áo khoác haori của ông chủ cùng tất cả các thứ vặt vãnh khác. Cách làm thành thạo và khéo léo của hắn hơi đáng phục. Sau đó hắn nối cái dây nâng đai lưng và ruột thắt lưng của bà chủ lại, buộc cái gói này và xách ở tay. Hắn nhìn quanh xem còn gì có thể lấy được nữa không thì thấy gói thuốc lá Asahi ở cạnh đầu ông chủ, liền nhặt ném vào ống tay áo. Sau đó lại rút một điếu thuốc từ trong gói, chìa vào đèn châm lửa, hít mạnh một hơi thật sâu, hút vẻ ngon lành. Khói thuốc màu trắng đục như sữa, quyện quanh bóng đèn, còn chưa tan hết thì tiếng bước chân ẩn sĩ đã xa dần ngoài hành lang và không còn nghe thấy nữa. Vợ chồng ông bà chủ vẫn ngủ say. Không ngờ con người lại lơ đãng đên như vậy.
Tôi cũng lại cần phải nghỉ một chút. Nếu cứ tường trình mãi thì cơ thể không cầm cự nổi. Tôi ngủ say tít và mở mắt ra thì trời tháng ba đã sáng bảnh. Lúc đó ở cửa bếp, ông bà chủ đang nói chuyện với cảnh sát:
– Vậy nó vào từ cửa này và vòng sang phòng phải không? Lúc đó ông bà đang ngủ và không hay biết gì, có đúng không?
– Vâng. – Ông chủ trả lời có vẻ không dứt khoát lắm.
– Vậy thì bị mất trộm vào khoảng lúc mấy giờ?
Người cảnh sát tuần tra hỏi một câu hỏi rất vô lý làm sao mà trả lời được. Nếu đã biết được là mấy giờ thì làm gì còn bị mất trộm? Vậy mà ông bà chủ cũng không hiểu được điều đó, cứ hăng hái bàn bạc đế tra lời câu hỏi này.
– Mấy giờ nhỉ?
– Ồ, mấy giờ nhỉ?
Bà chủ suy nghĩ. Có lẽ bà tưởng là cứ suy nghĩ thì sẽ biết được chăng?
– Đêm qua mình đi ngủ lúc mấy giờ?
– Tôi đi nằm sau 12 giờ đêm.
– Vâng, còn em thì đi ngủ trước mình.
– Ông bà thức dậy vào lúc mấy giờ?
– Lúc 7 rưỡi.
– Vậy thì kẻ trộm vào nhà lúc khoảng mấy giờ?
– Nhất định là vào trong đêm.
– Vào trong đêm thì biết rồi, nhưng muốn biết là lúc mấy giờ kia.
– Chính xác là lúc nào thì phải suy nghĩ kỹ mới biết được.
Bà chủ lại định suy nghĩ nữa.
Người cảnh sát chẳng qua chỉ hỏi lấy lệ chứ có quan tâm gì đến mấy giờ mấy phút đâu. Tôi nghĩ cứ nói bịa hay nói đại khái thế nào mà chả được. Thế mà ông bà chủ cứ trả lời ấm a ấm ớ, nghe mà sốt cả ruột. Khi người cảnh sát bảo “Vậy thì thời điểm mất trộm là không rõ, được không?” thì bà chủ vẫn giọng như cũ, trả lời:
– Vâng, có lẽ vậy.
Người cảnh sát cũng chẳng cười, bảo:
– Vậy thì ông bà hãy viết một tờ giấy ghi rõ ngày… tháng… năm Minh Trị 38[5], khi chúng tôi đóng cửa, đang ngủ thì kẻ trộm đã mở cửa nào, chỗ nào, lẻn vào phòng nào, phòng nào, lấy đi những thứ mà chúng tôi tố cáo như sau… Nhớ đây là tố cáo chứ không phải trình báo, và không ghi tên thì tốt hơn.
– Phải viết rõ từng thứ đồ vật à?
– Vâng, phải ghi rõ như là mấy cái áo khoác, trị giá bao nhiêu… Thôi, bây giờ tôi có vào xem xét cũng chả để làm gì. Đằng nào thì cũng đã bị lấy rồi.
Người cảnh sát thản nhiên nói như vậy rồi về. Ông chủ mang bút mực ra giữa phòng nghỉ, gọi bà vợ đến trước mặt, rồi với một giọng như bắt đầu cãi nhau, bảo:
– Bây giờ tôi bắt đầu viết tờ trình mất trộm đây, cô hãy nói từng cái bị mất là cái gì đi, nào, nói đi.
– Không nói. Kiểu đâu ra lệnh như thánh tướng “nào, nói đi, nói đi” như vậy thì ai mà thèm nói.
Bà chủ nói và ngồi phịch xuống, lưng vẫn quấn chiếc dây đai mỏng.
– Ăn mặc kiểu gì thế? Trông cứ như những cô hầu phòng trong lầu xanh ấy. Sao không thắt cái đai lưng cho nó tử tế?
– Nếu dây này không được thì mua cho tôi cái khác đi. Lầu xanh hay lầu gì thì cũng bị mất trộm rồi, làm thế nào được?
– Lấy trộm cả cái đai lưng à? Thật quá đáng. Thế thì bắt đầu ghi từ cái đai lưng vậy. Cái đai là thuộc loại đai nào?
– Loại đai nào? Làm gì mà có lắm loại thế. Cái đai bằng sa tanh đen pha đũi ấy.
– Đai lưng sa tanh đen pha đũi, một chiếc. Giá bao nhiêu?
– Khoảng 6 yên.
– Láo thật, dám dùng cái đai lưng đắt như vậy. Từ nay cô chỉ được dùng loại 1 yên rưỡi thôi.
– Làm gì có loại đai như vậy. Cho nên mình đúng là người tệ bạc, vợ có ăn mặc rách rưới bẩn thỉu thế nào cũng chẳng bận tâm.
– Thôi, được rồi. Tiếp theo là cái gì?
– Áo khoác Haori lụa. Đó là di vật của bác Kono để lại, tuy cùng là lụa gấm nhưng giá trị khác với lụa gấm bây giờ.
– Không phải giải thích nhiều như vậy, giá là bao nhiêu?
– 15 yên.
– Mặc cái áo khoác 15 yên thì không hợp với địa vị của cô đâu.
– Mặc kệ tôi, có phải là của mình mua cho tôi đâu.
– Tiếp theo là gì nữa?
– Một đôi tất màu đen.
– Của cô à?
– Của mình đấy. Giá 27 sen.
– Cái gì nữa?
– Một thùng khoai mỡ.
– Lấy cả thùng khoai à? Nó định luộc lên hay là mài ra ăn sống nhỉ?
– Định làm gì thì ai mà biết, mình đi mà hỏi nó.
– Bao nhiêu tiền?
– Tôi không biết giá khoai.
– Vậy thì cứ cho là 12 yên 50 sen đi.
– Dở hơi à? Dù có là khoai mang từ Karatsu đến thì cũng làm gì có khoai tới 12 yên rưỡi như vậy được.
– Nhưng cô chả bảo là không biết giá là gì?
– Vâng, tôi không biết. Không biết nhưng mà cái giá 12 yên 50 sen thì không chấp nhận được.
– Không biết giá nhưng lại biết là 12 yên rưỡi thì không được, thật chả logic tí nào cả. Vậy cho nên cô mới là ngài O-tan-chin pa-re-o-ro-ga-su[6] mà.
– Cái gì?
– Là otanchin peorogasu.
– Cái gì? Cái otanchin peorogasu ấy là cái gì?
– Là gì cũng được. Tiếp theo là cái gì? Còn áo Kimono của tôi vẫn chưa ghi vào đây nhỉ?
– Tiếp theo là cái gì cũng được nhưng hãy cho tôi biết otanchin peorogasu có nghĩa là thế nào?
– Chẳng có nghĩa gì cả.
– Vậy thì sao không cho tôi biết? Mình là chúa coi thường tôi đấy, chắc là nghĩ người ta không biết tiếng Anh nên nói xấu cái gì đó chứ gì?
– Đừng có nói vớ vẩn nữa, nhanh lên, để nói sau cũng được. Không đi trình báo sớm thì không lấy lại được đồ mất trộm đâu.
– Đằng nào thì bây giờ có đi báo cũng chẳng kịp nữa rồi. Hãy nói cho tôi biết otanchin pereorogasu nghĩa là cái gì còn quan trọng hơn đi trình báo.
– Cô này lắm chuyện nhỉ. Đã bảo là không có nghĩa gì cả mà.
– Thế thì đồ vật cũng chẳng còn gì nữa cả.
– Ngoan cố nhỉ. Vậy thì mặc xác cô, tôi không viết giấy trình báo cho cô nữa.
– Tôi cũng chẳng nói cho mình biết số lượng những cái bị mất trộm nữa. Giấy trình báo là tự mình mình làm lấy, mình không viết thì tôi cũng chả việc gì.
– Vậy thì thôi.
Ông chủ lại như mọi khi giận dỗi đứng lên, bỏ vào phòng sách. Bà chủ thì bỏ ra phòng khách, ngồi xuống trước giỏ khâu. Cả hai cùng yên lặng, bất động nhìn cánh cửa trong khoảng 10 phút.
Vừa lúc đó có tiếng mở cửa rất mạnh, anh Tatara Sanpei, người gửi tặng khoai mỡ, bước vào. Anh Tatara Sanpei vốn là học trò ở đây, bây giờ đã tốt nghiệp đại học luật, làm việc ở phòng khoáng sản của công ty. Đây cũng là một nhà doanh nghiệp tương lai, hậu sinh của ông Suzuki Tojuro. Vì mối quan hệ cũ, anh Sanpei thỉnh thoảng vẫn ghé thăm mái lều nhà thầy cũ, có hôm chủ nhật ở chơi cả ngày rồi ngủ lại, là người thân quen với gia đình.
– Chào cô ạ. Ôi, trời đẹp quá!
Anh ta cúi chào trước mặt bà chủ với cái giọng nhà quê Karatsu.
– A, anh Tatara.
– Thầy đi đâu rồi ạ?
– Không, ở trong phòng sách ấy.
– Thưa cô, thầy cứ học hành nghiên cứu thế thì hại lắm. Thỉnh thoảng mới có một ngày chủ nhật, cô ạ!
– Anh nói với tôi thì cũng chẳng được gì, anh hãy nói như vậy cho thầy của anh nghe đi.
– Thế nhưng mà…
Anh Sanpei nói rồi nhìn đảo quanh phòng, hỏi:
– Hôm nay các em cũng không ở nhà nhỉ?
Vừa nói chưa dứt lời thì Tonko và Sunko đã từ phòng bên cạnh chạy sang:
– Anh Tatara, hôm nay anh có mang sushi đến không?
Con chị Tonko nhớ lời hẹn hôm trước, vừa nhìn thấy mặt Sanpei đã hỏi. Tatara gãi đầu gãi tai thú lỗi:
– Nhớ kỹ thế nhỉ! Lần sau nhất định anh sẽ mang đến, hôm nay anh quên mất.
– Chán quá!
Con chị vừa nói xong con em cũng bắt chước:
– Chán quá!
Bà chủ đã nguôi ngoai, mặt hơi tươi tỉnh lại.
– Không có sushi nhưng mà có khoai mỡ đấy, các em đã ăn chưa?
– Khoai mỡ là cái gì?
Con chị hỏi và con em lại bắt chước hỏi Sanpei “khoai mỡ là cái gì?”.
– Vẫn chưa ăn à? Nhanh lên, bảo mẹ luộc cho ăn đi. Khoai mỡ của Karatsu ngon lắm, không như khoai của Tokyo đâu.
Sanpei tự hào khoe khoai quê mình làm bà chủ nhớ ra, cảm ơn:
– Anh Tatara, hôm trước anh cho nhiều khoai thế, cảm ơn anh chu đáo quá.
– Thế nào? Đã ăn thử chưa ạ? Khoai đã được lèn chặt trong thùng để khỏi bị gãy, chắc là vẫn còn nguyên củ dài chứ ạ?
– Nhưng… Chẳng mấy khi được cho khoai quý như vậy mà đêm qua bị kẻ trộm lấy mất rồi.
– Kẻ trộm à? Đồ mất dạy hỗn láo quá. Sao lại có cái thằng thích khoai mỡ đến thế nhỉ?
Sampei nói với vẻ thán phục. Con chị hỏi:
– Mẹ ơi, đêm qua kẻ trộm vào nhà mình à?
Bà chủ khẽ trả lời “ừ”.
– Kẻ trộm vào nhà, kẻ trộm vào nhà, thế kẻ trộm trông mặt thế nào hả mẹ?
Lần này là con em hỏi. Với câu hỏi hiếm lạ như vậy, bà chủ không biết trả lời thế nào nên bảo:
– Trông sợ lắm.
Rồi bà quay nhìn anh Tatara.
– Trông sợ thế thì giống mặt anh Tatara à?
Con chị hỏi lại một cách không khoan nhượng.
– Mày nói cái gì hỗn thế hả?
– Ha ha… mặt tôi trông đáng sợ thế kia hả, gay quá nhỉ?
Tatara nói, tay vò đầu. Phía sau đầu Tatara có một đám hói đường kính khoảng một tấc (3,03 cm). Đám hói xuất hiện từ cách đây khoảng một tháng, đã đi khám bác sĩ nhưng xem chừng khó chữa được. Người đầu tiên nhìn thấy đám hói này là con chị Tonko, nó reo:
– Ôi, đầu anh Tatara sáng bóng, giống đầu mẹ.
– Đã bảo không được nói hỗn mà!
Con em hỏi:
Mẹ ơi, đầu thằng kẻ trộm đêm qua cũng sáng loáng à?
Cả bà chủ lẫn anh Tatara đều bất chợt phì cười, song vì phiền quá nên chẳng nói chuyện được. Cuối cùng bà chủ đuổi:
– Thôi, chủng mày ra ngoài sân chơi đi. Đi đi rồi mẹ cho kẹo ngon.
Bà quay sang hỏi rất nghiêm túc:
– Đầu anh Tatara bị làm sao vậy?
– Bị hói rồi, không thể chữa được. Cô cũng bị à?
– Không, không phải bị hói mà là vì chỗ búi tóc thì phụ nữ ai cũng bị như thế một chút thôi.
– Hói là do nấm khuẩn (bacteria) đấy.
– Đầu tôi không phải là do nấm.
– Thế thì cô là người rất cứng rắn đấy.
– Không phải cái gì cũng là bacteria đâu. Thế “hói” tiếng Anh là gì?
– Là “bald” gì đó.
– Không, không phải thế, có tên gì dài hơn kia, phải không?
– Hỏi thầy thì sẽ biết ngay mà.
– Thầy anh nhất định không nói cho nên tôi mới phải hỏi anh đấy.
– Em chỉ biết mỗi từ “bald” thôi. Từ dài hơn là từ như thế nào?
– Là otanchin pereorogasu. Có phải otanchin là hói, còn pereorogasu là đầu, phải không?
– Có thể là như vậy, để em đi vào phòng sách của thầy em sẽ tra từ điển Webster cho cô. Nhưng thầy cũng lạ quá nhỉ, trời đẹp thế này mà cứ ở lì trong nhà. Cô ạ! Cứ như thế này thì bệnh dạ dày không thể khỏi được đâu. Cô phải khuyên thầy đi Ueno mà xem hoa một tí đi.
– Anh dẫn ông ấy đi đi. Phụ nữ nói ông ấy không bao giờ nghe cả.
– Dạo này thầy vẫn ăn mứt kem à cô?
– Vâng, vẫn thế.
– Hôm trước thầy có thổ lộ là “vợ mình kêu mình ăn mứt kem rất dữ, gay thật. Mình nghĩ mình đâu có ăn nhiều như vậy”. Thầy bảo là chắc có sự nhầm lẫn gì đấy chăng? Vậy thì chắc là cả cô và các em cũng ăn, phải không?
– Ôi, cái anh Tatara này, sao anh lại nói thế.
– Nhưng trông cô thì đúng là người đã ăn mứt kem đấy!
– Sao nhìn mặt mà lại biết được?
– Không biết được, nhưng mà cô cũng có ăn một tí chút chứ?
– Ừ, thì cũng có ăn một chút. Ăn cũng được chứ sao, của nhà mình chứ có phải của ai đâu?
– Ha ha… đúng thế. Nhưng cái vụ kẻ trộm thì đúng là tai bay vạ gió nhỉ. Nó chỉ lấy có khoai mỡ thôi à?
– Nếu chỉ có khoai không thì không đến nỗi. Nó lấy tất cả quần áo mặc hàng ngày.
– Trước mắt là gay rồi nhỉ? Thế có lại phải vay nợ nữa không? Giá mà con mèo này là chó thì có phải tốt không, thật chán quá! Cô ạ, nhất định phải nuôi lấy một con chó thật to vào. Mèo chả được cái tích sự gì cả, chỉ ăn thôi… Thế có bắt được con chuột nào không?
– Chưa bao giờ bắt được một con chuột nào, thật là một con mèo trơ tráo, lười biếng.
– Trời, thế thì không thể được, phải vứt ngay đi thôi. Hay là cho em, em mang về làm thịt ăn vậy.
– Ôi, anh Tatara ăn thịt mèo à?
– Ăn chứ! Thịt mèo ngon lắm.
– Thật là hảo hán nhỉ.
Tôi đã từng nghe nói trong đám học trò hạ đẳng có những kẻ man di mọi rợ ăn thịt mèo, nhưng cả cái thằng Tatara mà hàng ngày tôi không ngần ngại quý mến này mà cũng ở trong bọn đó thì quả là từ xưa đến nay, dù trong mơ tôi cũng chưa hề nghĩ tới. Hơn nữa nó không phải là học trò mà là một cử nhân luật, mặc dù mới tốt nghiệp ra trường, là một người cán bộ trong công ty sản xuất Mitsui nữa, nên sự kinh ngạc của tôi lại càng không bình thường. “Nhìn người hãy nghĩ đó là kẻ trộm” đó là câu cách ngôn được rút ra qua kiểm chứng hành vi của Kangetsu đệ nhị. Còn “nhìn người hãy nghĩ đó là kẻ ăn thịt mèo” là chân lý tôi cảm nhận được nhờ cái anh Tatara này. Càng sống ở trên đời càng thêm nhiều hiểu biết. Hiểu biết thêm thì vui đấy nhưng ngày càng thấy nguy hiểm, càng thấy không thể lơ là được. Người ta trở nên khôn ngoan, xảo quyệt hay ti tiện bỉ ổi, người ta mặc tấm áo phòng hộ “hai mặt” cũng do kết quả của việc hiểu biết sự đời mà ra. Hiểu biết sự đời là tội lỗi của người già, của những năm tháng ta đã sống. Trong những người già không có kẻ nào tử tế là chính từ logic này mà ra. Có lẽ tôi cũng mau mau cùng với hành tây mà hóa Phật trong cái chảo của Tatara là đắc sách chăng? Tôi đang co rúm người trong góc nhà mà suy nghĩ như vậy thì ông chủ lúc nãy vừa cãi nhau với vợ, bỏ vào phòng sách, nghe thấy tiếng anh Tatara đã lò dò đi ra phòng khách.
– Thưa thầy, nghe nói thầy bị mất trộm phải không ạ? Dở quá đi mất thôi!
Đó là câu mào đầu.
– Cái thằng kẻ trộm ấy thật là đồ ngu (mất dạy, dở hơi).
Ông chủ bao giờ cũng tự nhận mình là hiền nhân như vậy.
– Kẻ ăn trộm là đồ ngu nhưng người bị mất trộm thì hình như cũng không khôn mấy đâu ạ!
– Không bị ăn trộm gì như anh Tatara là khôn nhất đấy. – Lần này bà chủ bênh vực chồng.
– Nhưng ngu nhất là con mèo này. Thật không thể hiểu được. Chuột cũng không bắt, kẻ trộm vào nhà cũng làm ngơ. Thầy ơi, cho em con mèo này đi, để nó cũng chả có tác dụng gì cả.
– Cho cũng được, nhưng anh lấy để làm gì?
– Em ăn thịt.
Nghe lời tuyên bố khủng khiếp này, ông chủ nhoẻn một nụ cười méo mó vốn dĩ do bệnh dạ dày, không nói gì. Tatara cũng không nhất quyết đòi ăn cho bằng được, nên tôi gặp phúc ngoài sự chờ đợi. Ông chủ nói sang chuyện khác.
– Chuyện mèo thì mặc kệ nó, nhưng bị lấy hết quần áo bây giờ mới gay, rét không chịu nổi.
Ông nói có vẻ rất thảm hại. Thì ra thế, rét mà. Cho đến ngày hôm qua vẫn mặc hai lần áo nhồi bông mà hôm nay chỉ có mỗi cái áo có vải lót với một manh áo khoác cộc tay, lại chỉ ngồi yên một chỗ không vận động gì, có một chút máu thì dồn cho dạ dạy nên chân tay lạnh vì không có máu.
– Thầy làm giáo viên thì không ổn rồi, mới bị ăn trộm một tí là khốn đốn ngay. Tốt nhất là từ nay thầy thay đổi suy nghĩ đi, phải kinh doanh hay làm cái gì đó…
– Thầy anh không thích kinh doanh đâu, anh đừng nói thế.
Bà chủ ngồi bên cạnh, trả lời Tatara. Tất nhiên bà rất muốn ông trở thành nhà kinh doanh.
– Thầy ra trường được bao nhiêu năm rồi nhỉ?
– Năm nay là chín năm rồi đấy.
Bà chủ hồi tưởng lại về ông chủ, còn ông thì không hề nói là “ừ, đúng thế” hay “không, không phải như vậy”.
– “Chín năm trôi qua cũng chẳng được lên lương. Học hành bao nhiêu cũng chẳng được ai khen. Lang quân một mình buồn lặng lẽ”.
Ông đọc cho vợ nghe câu thơ mà mình đã thuộc từ hồi học trung học. Bà nghe có vẻ không hiểu mấy nên yên lặng, không nói gì.
– Nghề giáo viên tất nhiên là tôi ghét nhưng nghề kinh doanh lại càng ghét hơn.
Dường như ông chủ đang lật tìm ở phía sau lòng mình xem thực ra ông thích làm nghề gì vậy.
– Thầy anh nghề nào cũng ghét, nên…
– Chỉ có mỗi cô là thầy không ghét thôi, phải không ạ? – Tatara nói đùa chẳng phù hợp với anh ta lắm.
– Ghét nhất thì có!
Ông chủ trả lời rất rành rọt. Bà chủ tỉnh bơ, quay mặt đi chỗ khác rồi lại quay sang ông chủ, công kích:
– Kể cả việc sống cũng ghét chứ gì?
– Cũng chả thích gì!
Ông chủ điềm nhiên trả lời ngoài sự tưởng tượng. Thế này thì trời cũng chịu!
– Thầy mà không năng nổ, đi dạo để vận động cơ thể thì hại sức khỏe lắm. Mà thầy nên làm kinh doanh đi, tự nhiên sẽ kiếm dược nhiều tiền thôi.
– Bản thân mình chả kiếm được tiền mà cũng…
– Chưa kiếm được thôi, thầy ạ. Vì em mới vào công ty năm ngoái mà. Vậy mà cũng có tiền để dành được nhiều hơn thầy đấy.
Bà chủ sốt sắng hỏi:
-Anh để dành được bao nhiêu rồi?
– Được 50 yên rồi.
– Thế lương anh một tháng được bao nhiêu?
– Được 30 yên. Trong đó, mỗi tháng để lại trong công ty 5 yên để tích lũy phòng khi có bất trắc xảy ra. Cô ạ, nếu cô có tiền thì mua cổ phiếu Sotoborisen đi, mua bây giờ thì sau ba, bốn tháng sẽ thành gấp đôi đấy. Chỉ cần có chút vốn là trở thành gấp đôi, gấp ba ngay.
– Nếu có tiền như vậy thì có bị kẻ trộm vào nhà ăn trộm cũng không đến nỗi khốn khổ.
– Cho nên chỉ có làm kinh doanh là hơn. Giá mà thầy cũng học luật rồi đi làm công ty hay ngân hàng thì bây giờ thu nhập tháng ba bốn trăm yên rồi, thật tiếc quá. Thầy biết cái ông cử nhân công nghệ tên là Suzuki Tojuro chứ ạ?
– Ừ, mới vừa gặp hôm qua.
– Thế à? Hôm trước, em gặp ông ấy trong một bữa tiệc, chúng em nói đến thầy thì ông ta bảo “Thế à, anh cũng học cậu Kushami à? Ngày xưa tôi đã từng ở cùng nhà trọ với cậu ấy trong chùa ở Koshikawa đấy. Khi nào gặp cậu ấy cho tôi gửi lời hỏi thăm nhé, bảo là hôm nào tôi sẽ ghé thăm đấy”.
– Nghe nói gần đây cậu ta chuyển về Tokyo rồi, phải không?
– Vâng, trước ở dưới mỏ than Kyushu, bây giờ thì sống ở Tokyo rồi. Ông ấy là người rất giỏi. Với em, ông ấy cũng nói chuyện như bạn bè. Thầy có biết lương ông ấy bao nhiêu không?
– Không biết.
– Lương tháng là 250 yên, ngoài ra còn tiền thưởng, tiền lãi, bình quân cứ là bốn, năm trăm yên một tháng đấy. Người như thế mà thu nhập như thế, còn thầy thì học một ngành hàng đầu mà “10 năm khoác một tấm da cáo” thì thật là dở hơi.
Đúng là dở hơi thật. Một người siêu nhiên như ông chủ thì về quan niệm tiền bạc cũng chẳng khác chi người thường. Thậm chí, vì túng thiếu, biết đâu ông còn cần tiền gấp đôi người khác nữa cũng nên.
Quảng bá đầy đủ về cái lợi của nhà doanh nghiệp xong rồi, không còn chuyện gì nữa, Tatara liền quay sang hỏi bà chủ:
– Thưa cô, cái anh tên là Mizushima Kangetsu có hay đến thăm thầy không ạ?
– Vâng, hay đến lắm.
– Anh ta là người như thế nào cơ?
– Nghe nói là người học vấn rất cao.
– Có nam nhi, hấp dẫn không?
– Ha… cũng cỡ như anh Tatara vậy.
– Vậy à? Cũng cỡ như em thôi à?
Tatara nói rất nghiêm chỉnh. Ông chủ hỏi:
– Sao cậu biết tên cậu Kangetsu?
– Hôm trước có người nhờ em hỏi. Té ra giá trị cái để hỏi chỉ là một nhân vật thế thôi à? Trước khi nghe, em đã chuẩn bị tinh thần về một anh Kangetsu hơn thế cơ.
– Cậu ta hơn hẳn cậu đấy.
– Thế à? Hơn hẳn em à?
Tatara không cười, cũng không phật ý. Đây là đặc tính của anh ta.
– Sắp tới anh ta sẽ thành tiến sĩ, phải không ạ?
– Nghe nói là đang viết luận văn.
– Cũng là đồ dở hơi rồi! Viết luận vân tiến sĩ à? Tưởng là người cũng đáng nói một chút chứ!
Bà chủ cười, nói:
– Vẫn là một kiến thức vĩ đại nhỉ.
– Nghe nói là nếu thành tiến sĩ thì sẽ được ai đó gả con gái cho hay gì ấy. Lại có cái đồ hâm như vậy nữa hay sao? Trở thành tiến sĩ để được gả con gái cho à? Em đã bảo là nếu có con gái để gả cho cái đồ như vậy thì thà gả quách cho em còn hơn.
– Bảo với ai?
– Với cái người nhờ em đi hỏi về anh Mizushima ấy.
– Tay Suzuki chứ gì?
– Không, với người đó thì không thể nói hết như vậy được. Ông ta là người to đầu (ông lớn, kẻ mạnh) mà.
– Anh Tatara đúng là Kage Benkei[7] (chỉ mạnh xó bếp thôi) nhỉ? Đến nhà tôi thì rất oai vệ nhưng trước mặt những ông như Suzuki thì lại khúm núm nhỉ?
– Vâng, nếu không như vậy thì sẽ nguy hiểm.
– Tatara, ta đi dạo một chút chăng?
Đột nhiên, ông chủ rủ khách. Từ nãy đến giờ ông mặc mỗi chiếc áo mỏng nên thấy lạnh. Chắc là ông nghĩ phải cử động một chút cho người ấm lên chăng nên mới nêu ra sáng kiến như vậy. Anh Tatara chẳng có chủ định gì cho nên tất nhiên là nhận lời ngay.
– Vâng, đi đi. Đi Ueno nhé. Hay đi Imosaka ăn bánh trôi đi. Thầy đã ăn bánh trôi ở đó bao giờ chưa? Cô cũng đi ăn thử một lần mà xem, bánh dẻo mà rẻ lắm. Ở đó cũng có thể uống rượu được.
Cũng như mọi bận, trong khi anh ta còn đang ba hoa luyên thuyên thì ông chủ đã đội mũ, đi ra chỗ để giày.
Tôi lại cần nghỉ ngơi một chút. Ông chủ và anh Tatara làm gì ở công viên Ueno? Ăn mấy đĩa bánh trôi ở Imosaka? Những chuyện như vậy tôi không cần theo dõi mà tôi cũng chẳng đủ can đảm đi theo họ. Cho nên tôi tranh thủ lúc này để nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi là một quyền lợi mà vạn vật có quyền đòi hỏi thượng đế ban cho. Tất cả những kẻ nào sống và cử động trên thế gian này đều phải được nghỉ ngơi để làm tròn cái nghĩa vụ sinh sống đó. Neu có Chúa mà Chúa bảo rằng mày sinh ra để làm việc chứ không phải để ngủ, thì tôi sẽ trả lời rằng “vâng, tôi sinh ra để làm việc đúng như lời dạy của Ngài. Chính vì vậy mà tôi xin nghỉ ngơi để mà làm việc đấy.” Đến ngay cái đồ vô dụng, đi ca cẩm vói cả đồ vật như ông chủ nhà này, mà ngoài ngày chủ nhật ra, thỉnh thoảng cũng vẫn tự tìm cơ hội để nghỉ ngơi đấy thôi? Một kẻ đa tình, đa hận, ngày đêm lao tâm khổ não như tôi đây, thì dẫu là mèo, đương nhiên cũng cần được nghỉ ngơi nhiều hơn ông. Có điều tôi cảm thấy hơi buồn phiền là khi nãy, anh Tatara nhìn tôi mà lăng mạ rằng tôi lười nhác, chỉ biết nghỉ ngơi mà không làm được gì. Tất cả những bọn phàm phu tục tử, những kẻ bị vật thể sai khiến, chỉ là những đồ tệ hại, không biết cảm nhận gì ngoài năm giác quan. Đánh giá người khác chỉ biết nhìn hình thức bề ngoài, cái gì chúng cũng nghĩ giản tiện, cứ thấy không đổ mồ hôi là chúng nghĩ người ta không làm việc. Nghe nói Đức Đạt Ma đã ngồi thiền mà tu đến thối cả chân. Giả sử lúc đó có một cây Tsuta (cây thường xuân) từ trong khe nứt của tường bò ra, leo lên che kín cả mắt mũi mà Ngài vẫn không nhúc nhích, thì không phải là Ngài đang ngủ hay đã chết rồi đâu. Lúc đó, đầu óc Ngài vẫn đang làm việc. Ngài đang suy ngẫm về những lý lẽ “quách nhiên vô thánh”[8] gì gì đấy chứ. Nghe nói các nhà Nho cũng có phương pháp tọa Thiền. Đây không phải là một cách tu hành an nhàn hay là một cách ngồi lê trong một căn phòng kín. Ngược lại đó là cách bắt đầu óc làm việc gấp đôi người khác. Có điều, nhìn bề ngoài thì thấy tư thế của họ vô cùng thanh thản, điềm tĩnh, cho nên những con mắt phàm tục ở đời lại tưởng các vị đại trí thức bậc thầy này là những người thường hay ngủ say, giả chết, và cất lời phỉ báng họ rằng đó không phải là đại nhân hay chỉ là “túi cơm giá áo” gì gì đó.
Những con mắt phàm tục này vốn dĩ là những kẻ sinh ra chỉ biết dùng thị giác khiếm khuyết để chỉ nhìn người chứ không nhìn tấm lòng người khác. Cái anh Tatara này là loại số một trong cái bọn đó, chỉ nhìn bề ngoài mà không biết bên trong, cho nên nhìn thấy tôi anh ta tưởng chỉ đáng giá ngang với “cái que dính phân khô” thì cũng đúng thôi. Đáng hận hơn là ngay cả dến ông chủ, là người có học, đã từng đọc sách kim cổ, có thể hiểu biết đúng sự đời, vậy mà cũng cứ nhất nhất đồng tình vói cái anh Sanpei nông cạn kia, không hề có một ý kiến khác nào về cái chuyện nồi lẩu mèo kia cả!
Nhưng nếu bình tĩnh mà nghĩ lại thì cái việc từ trước tới nay bọn họ coi thường tôi, cũng không phải hoàn toàn là vô lý. “Tiếng to[9] không lọt tai thiên hạ”! Từ xưa người ta đã ví rằng “thơ Dương Xuân Bạch Tuyết ít có người xướng họa” mà lại. Bắt những kẻ chỉ có thể nhìn thấy vật thể, phải nhìn thấy cái hồn bên trong, thì có khác nào bắt nhà sư phải búi tóc hay bảo tôi đi diễn thuyết cho bọn cá ngừ chúng nó nghe? Làm việc đó khác nào yêu cầu tàu điện phải chạy trật đường ray, bắt ông chủ phải bỏ nghề đang làm hay bảo Sanpei hãy thôi đừng nghĩ tới tiền nữa. Suy cho cùng, đó là những yêu cầu quá mức, không thể thực hiện được.
Tuy nhiên mèo cũng là một động vật trong xã hội. Chừng nào là một động vật của xã hội thì dù đặt mình ở địa vị cao đến đâu, ở mức độ nào đấy, cũng cần phải giữ sự cân bằng với xã hội. Về chuyện cái bọn ông chủ, bà chủ, chị bếp hay Tatara đánh giá không đúng về tôi thì đáng tiếc không thể khác được, đành phải chịu thôi. Nhưng cái khủng khiếp lớn hơn là biết đâu một ngày nào đó, họ lột da tôi đem bán cho nhà hàng Samisen, băm thịt tôi ra bày lên mâm cho Tatara kia. Tôi là một con mèo xưa nay chưa hề có, sinh ra trong bể khổ này với sứ mệnh làm việc bằng cái đầu của mình, cho nên thân thể tôi rất quan trọng. Người xưa đã có câu “của quý chớ để hớ hênh”, nếu cứ “thấy người sang bắt quàng làm họ”, đùa bỡn mà để nguy hiểm đến tính mệnh của mình thì không chỉ tai hại cho một mình ta mà còn là sự trái ý trời rất nghiêm trọng. Mãnh hổ mà sa vào vườn thú thì cũng phải nằm cạnh bọn lợn dính đầy phân. Hồng nhạn mà bị nhốt vào lồng thì có ngày cùng nằm trên thớt với gà con. Để hòa hợp với lũ phàm nhân thì đành phải nhượng bộ mà biến thành phàm mèo thôi. Không phải là phàm mèo thì mới không cần phải bắt chuột. Cuối cùng tôi đã quyết định là mình phải bắt chuột.
Suốt từ dạo gần đây, nghe nói Nhật tranh với Nga. Tôi là mèo Nhật Bản nên tất nhiên là đứng về phe Nhật. Thậm chí tôi còn muốn nếu được thì tổ chức một đội quân “Lữ đoàn mèo hỗn hợp” để cào cấu quân Nga nữa kia. Một kẻ vương trượng, mạnh mẽ như tôi đây, nếu có ý định thì việc bắt một hai con chuột, chỉ cần nằm không cũng bắt được. Nghe nói, ngày xưa có người hỏi một Thiền sư nổi tiếng đương thời rằng “Làm thế nào để tu cho có thành quả?”, Thiền sư trả lời là “hãy làm như mèo rình chuột ấy!” Làm như mèo bắt chuột, có nghĩa là cứ làm như thế là không sai. Tục ngữ có câu “đàn bà khôn cũng…”[10] nhưng chưa có câu “mèo khôn cũng bắt hụt chuột”. Xem ra như vậy thì dù là khôn ngoan như tôi cũng không có kẻ nào là không bắt chuột cả. Không những bắt mà còn không bao giờ bắt trượt nữa. Từ trước tới nay tôi không bắt chẳng qua chỉ là không muốn bắt thôi.
Mặt trời mùa xuân lại sắp lặn như ngày hôm qua. Những cánh hoa trông như tuyết, bay theo gió, qua lỗ thủng ở cửa sổ bay vào tận trong bếp. Dưới ánh sáng mờ mờ của chiếc đèn dầu chuyên dụng trong nhà bếp, tôi nhìn thấy những cái bóng trăng trắng nổi trong bồn bệ rửa bát. Tôi định hôm nay sẽ ra tay, làm cho cả nhà phải kinh ngạc nên cần quan sát kỹ trận địa, nắm vững địa hình trước. Chiến trường tất nhiên không phải là rộng lắm, tính ra chỉ khoảng độ 4 chiếu. Trong đó khoảng một chiếu ngăn ra làm đôi, một nửa là bệ rửa còn một nửa là chỗ để rau cỏ, mắm muối, rượu bia khi người bán hàng mang tới. Trên bếp lò rất sang, không tương xứng với gian bếp nghèo nàn, có một cái bình đun nước bằng đồng đỏ, sáng bóng. Phía sau đó, khoảng 2 thước để trông là phòng lát ván, chính là phòng ăn của tôi. Gần với phòng khách khoảng 6 thước là nơi kê thành kệ để bát đĩa, làm cho gian bếp vốn chật lại càng chật hơn. Cái kệ này cao ngang tầm với cái xích đông đóng chìa ra. Dưới kệ có một cái cối để ngửa, trong cối có một cái gáo nhỏ chĩa đuôi về phía tôi. Những cái bào, cái nạo xếp cạnh nhau, bên cạnh có một bình chữa cháy đờ đẫn đứng chờ. Giữa chỗ giao nhau của xà nhà đã đen kịt, thòng xuống một chiếc móc treo, trên đó treo một cái rổ to bẹt long. Cái rổ thỉnh thoảng bị gió thổi lại đong đưa rất ung dung, đủng đỉnh. Lúc mới đến nhà này, tôi không hiểu cái rổ này treo ở đây để làm gì? Nhưng từ khi tôi biết người ta cố tình để thức ăn vào đấy vì mèo không thể với tới được, thì tôi đã thấm thía được sự đáng ghét của con người.
Bây giờ tôi bắt đầu lập kế hoạch tác chiến. Đánh nhau với chuột ở chỗ nào? Tất nhiên là ở chỗ nào mà chuột xuất hiện. Dù cho địa hình có thuận lợi đến đâu mà cứ chờ cho kẻ địch đến đó mới chiến đấu thì không có chiến tranh. Như vậy, cần nghiên cứu những lỗ mà chuột vẫn chui ra. Tôi đứng giữa bếp, quan sát bốn xung quanh xem chuột sẽ chui ra từ phía nào? Tâm trạng tôi lúc đó giống như Đại tướng Togo[11] vậy. Cô sen lúc nãy vừa đi tắm về. Bọn trẻ con thì đã ngủ cả. Ông chủ đi ăn bánh trôi ở Imosaka về, lại chui vào phòng sách và cố thủ trong đó. Còn bà chủ, bà ta đang làm gì, tôi không biết. Chắc là đang ngủ gật và mơ đến những củ khoai mỡ chăng?
Trước cửa nhà, thỉnh thoảng có tiếng xe kéo tay chạy qua. Xe đi khỏi, tất cả lại trở nên lặng ngắt. Quyết tâm của tôi, ý chí của tôi, quang cảnh trong gian bếp, sự tĩnh mịch xung quanh, tất cả mọi thứ đều toát lên cảm giác rất bi tráng. Dẫu sao cũng không thể không nghĩ rằng đây chính là đại tướng Đông Hương của loài mèo. Bước vào ranh giới này, bất kỳ ai cũng đều cảm thấy một cảm giác cực kỳ thú vị. Với tôi, trong tận đáy sâu xa của nỗi khoái cảm này, tôi lại phát hiện ra một nỗi lo lớn đang hiển hiện. Chiến đấu với chuột là điều tôi đã xác định rõ, dẫu cho có mấy con chuột cùng xuất hiện một lúc tôi cũng không sợ. Song, điều bất tiện là không biết rõ chúng sẽ chui ra từ chỗ nào? Nhìn lại toàn bộ tài liệu đã thu được qua điều tra cẩn mật thì bọn thử tặc thường “đột xuất” theo ba con đường:
Nếu là bọn chuột cống rãnh thì nhất định chúng sẽ mò theo cống nước, từ bệ rửa chui lên rồi vòng ra sau bếp lò. Lúc đó tôi sẽ nấp sau bình cứu hỏa, chặn đường về của chúng. Hoặc có thể chúng từ lỗ thoát nước trong nhà tắm vòng ra, bất ngờ nhảy vào nhà bếp cũng chưa biết chừng. Lúc đó tôi sẽ ngồi trên vung nồi giữ thế, khi chúng đến trước mắt, tôi sẽ từ trên cao nhảy xuống, tóm gọn. Và còn một đường nữa. Khi tôi quan sát xung quanh thì thấy góc bên phải cửa chạn bị cắn rách một lỗ hình bán nguyệt, tôi nghĩ đây là chỗ ra vào của chúng. Tôi đưa mũi hít thử thì thấy có mùi chuột. Nếu chúng hét lên mà nhảy ra từ chỗ này thì tôi sẽ dùng cột nhà làm lá chắn, để cho chúng vượt lên, rồi từ bên cạnh tôi thò móng ra.
Nếu chúng xuất hiện từ trên trần nhà, nơi mà đứng dưới nhìn lên trông giống như phía sau của địa ngục đã được lộn trái, treo lơ lửng, vói những vết muội đen ngòm, phản chiếu ánh đèn lấp lóa? Chỗ này thì tay tôi với lên cũng không tới, với xuống cũng không được. Chắc là chúng chẳng bao giờ xuất hiện từ trên cao thế đâu, nên riêng phía này tôi không cần phải cảnh giác. Mặc dù vậy tôi vẫn cảm thấy một nỗi lo bị tấn công từ ba phía. Nếu chỉ có một cửa thì nửa mắt tôi cũng dẹp xong. Hai cửa thì cũng tự tin là thế nào rồi cũng dẹp được. Nhưng ba cửa thì dẫu cho là kẻ được trông chờ có “bản năng là bắt chuột” như tôi đây cũng có vẻ khó mà với tới được. Mặc dù vậy chẳng lẽ lại đi nhờ mèo Đen nhà hàng xe giúp sức thì còn gì là thể diện của tôi. Làm thế nào bây giờ nhỉ?
Khi mà ta cứ băn khoăn lo lắng “làm thế nào bây giờ nhỉ” mà mãi vẫn không nảy ra được trí tuệ gì, thị cách nhanh nhất làm cho ta an tâm hoàn toàn là không cần lo chuyện đó xảy ra nữa. Vả lại, những kẻ không tìm ra phương kế là những kẻ thích nghĩ rằng không có chuyện xảy ra. Hãy cứ nhìn đời mà thủng ra. Người vợ vừa mới cưới hôm qua, biết đâu hôm nay chết ngoẻo cũng chưa biết chừng. Mặc dù vậy các ông chồng vẫn vui mừng hớn hở, có ai lo lắng gì đâu?! Không lo lắng không phải vì sự lo lắng là vô ích, mà bởi vì có lo cũng chẳng tìm ra cách giải quyết. Trong trường hợp của tôi, không có cơ sở lý luận thích đáng nào để khẳng định rằng dứt khoát không có sự tấn công từ ba phía. Nhưng coi như không có là cách tốt nhất để được yên tâm. Yên tâm là cái cần thiết cho mọi sự, mọi vật. Tôi cũng muốn được yên tâm. Vì vậy tôi quyết định là không xảy ra trường hợp tấn công từ ba phía.
Mặc dù vậy tôi vẫn chưa an tâm. Tại sao lại thế nhỉ? Tôi suy nghĩ và dần dần hiểu ra rằng đó là vì tôi rất khó khăn trong việc phải tìm ra câu trả lời dứt khoát cho việc phải chọn sách lược nào trong cả ba sách lược đã dự tính? Chính điều này làm tôi phiền não. Nếu chúng chui ra từ trong chạn thì tôi đã có cách đối phó. Nếu chúng xuất hiện từ nhà tắm thì cũng đã có kế rồi. Và nếu chúng chui lên từ cống bệ rửa trong nhà bếp thì tôi cũng đã tính toán cách ứng phó. Nhưng tôi rất hoang mang khi phải chọn quyết định một trong ba cái đó.
Nghe nói đại tướng Đông Hương cũng đã từng băn khoăn lo lắng rất nhiều về việc hạm đội Baltic sẽ đi qua eo biển Tsushima hay tiến về eo biển Tsugaru, hay vòng sang tận eo biển Soya? Bây giờ, từ cảnh ngộ của mình suy ra, tôi đã tưởng tượng và thấu hiểu đươc hết nỗi gian nan vất vả của ông ấy. Tôi với đại tướng Đông Hương không chỉ hoàn toàn giống nhau về hoàn cảnh mà cả về địa vị và nỗi khổ tâm cũng hệt như nhau.
Trong lúc tôi đang vùi đầu vào tính toán mưu lược như vậy thì tấm cửa lùa rách đột nhiên mở ra, cô hầu gái ló mặt vào. Chỉ nhìn thấy mỗi cái mặt cô ấy. Không phải vì cô ấy không có chân tay mà bởi vì trời tối nên chẳng nhìn thấy gì, chỉ có mỗi cái mặt là có màu rõ ràng như từ đâu rơi xuống. Cô sen từ nhà tắm về, má đỏ hơn ngày thường, chắc là vì cái vụ tối qua nên vội vàng đóng cửa bếp sớm. Từ trong phòng sách nghe tiếng ông chủ bảo “để cái gậy dưới đầu giường cho tôi”. Tại sao phải trang trí cái gậy ở đầu giường như thế nhỉ? Tôi không thể hiểu nổi. Kiểu này chắc ông ta tưởng mình là tráng sĩ Dịch Thủy muốn say sưa nghe tiếng (sáo) lưu minh chăng? Hôm qua là khoai mỡ, hôm nay là cái gậy, không biết ngày mai sẽ là cái gì?
Đêm vẫn chưa khuya, vẫn chưa thấy chuột ra. Trước một cuộc chiến đấu lớn, tôi cần phải nghỉ ngơi cái đã.
Trong bếp nhà ông chủ không có cửa kéo thông hơi[12]. Nếu là trong phòng nghỉ thì có một chỗ gọi là ranma[13] thì ở đây chỉ là một khoảng trống, chiều rộng khoảng một thước, để ngăn cách thay cho cửa sổ, suốt mùa đông lẫn mùa hè. Một làn gió thổi, cuốn theo những cánh hoa anh đào rơi lả tả, làm tôi giật tỉnh dậy. Từ lúc nào, ánh trăng lờ mờ đã rọi vào làm cho cái bếp lò đổ bóng nghiêng nghiêng trên bệ gỗ. Hai ba lần tôi vẫy tai, nghe ngóng động tĩnh trong nhà xem mọi người có ngủ kỹ quá không, nhưng tất đều lặng ngắt, chỉ nghe thấy tiếng chiếc đồng hồ treo tường như đêm hôm qua. Đã đên giờ bọn chuột chui ra rồi đây. Chúng sẽ chui ra từ đâu?
Trong chạn nghe có tiếng lục sục, lục sục. Chắc bọn chúng đang lấy chân kẹp cái đĩa, rồi lục lọi trong đĩa đây. Chúng sẽ chui ra từ chỗ này đây. Tôi nghĩ vậy và thu mình bên cạnh lỗ thủng, chờ đợi. Mãi vẫn không thấy chúng ra. Tiếng đĩa đã im bặt. Lần này là tiếng bát hay gì đó, thỉnh thoảng có tiếng lạch cạch nghe nặng hơn. Nhưng tiếng động phát ra từ phía bên kia cửa, theo mũi tôi thì khoảng cách không quá 3 tấc. Thỉnh thoảng lại có tiếng chân thủng thẳng đến tận sát miệng lỗ thủng, nhưng rồi lại xa dần. Không thấy có con nào ló mặt ra cả. Chỉ cách một tấm cửa, lúc này, phía bên kia bọn địch đang hoành hành, mà tôi thì phải nín thở chờ đợi bên cạnh cái lỗ cửa, thật là kiên trì nhẫn nại. Bọn chuột đang mở tiệc tưng bừng, nhảy múa trong cái wan Lữ Thuận[14]. Chỉ cần cô sen để hé cửa cho tôi có thể vào được thì hay biết bao. Thế mà… Đúng là cái đồ người rừng, ngớ ngẩn!
Lần này, dưới bóng cái bếp lò, đĩa ăn bằng vỏ bào ngư của tôi kêu “kịch”. Bọn địch đã tràn tới vùng này rồi ư? Tôi rón rén, lặng lẽ tiến đến gần thì chỉ nhìn thấy một cái đuôi lấp ló trong cái chậu con, rồi biển mất sau bệ rửa. Một lúc sau, trong nhà tắm có tiếng cốc đánh răng va vào cái chậu sắt. Lần này từ phía sau à? Tôi vừa quay lại thì cách tôi độ 5 tấc có một con to bự đang kéo đổ hộp thuốc đánh răng, rồi chạy xuống gầm sàn nhà. Ta mà lại để cho mày thoát ư? Tôi nhảy xuống theo, nhưng cả con chuột lẫn bóng dáng của nó đã biến mất. Việc bắt chuột hóa ra khó hơn là ta tưởng! Có lẽ tôi không có cái khả năng bắt chuột bẩm sinh chăng?
Tôi trở lại phòng tắm thì lũ chuột từ trong chạn chạy ra. Tôi canh chừng trong chạn thì bọn chuột nhảy từ bệ rửa lên. Tôi cố gắng giữ vị trí giữa bếp thì đồng thời cả ba phía dần dần náo động. Bọn này thuộc loại hèn mạt hay bỉ ổi chứ không phải loại giặc quân tử. Tôi đã chạy đôn chạy đáo hết bên này sang bên kia đến 15, 16 lần rồi, rất hao tâm tổn sức mà chưa một lần nào thành công. Thật chán quá! Nhưng nếu phải đánh nhau với bọn địch tiểu nhân như thế này, thì dẫu là đại tướng Đông Hương cũng hết phương sách. Lúc đầu thì tràn đầy dũng khí và lòng căm thù, thậm chí cả cảm giác bi tráng cao quý nữa, nhưng cuối cùng chỉ còn lại cảm giác phiền toái, thấy mình sao mà ngu ngốc. Mệt mỏi và buồn ngủ, tôi lặng lẽ ngồi bất động giữa bếp. Mặc dù ngồi bất động, tôi vẫn quan sát hết sức chặt chẽ khắp bốn phía, nhưng bọn địch vốn tiểu nhân nên không làm gì được chúng. Cái bọn mà mình chọn làm kẻ thù này, không ngờ lại là một lũ tiểu nhân keo kiệt, ngoài dự tính, thành ra cái cảm giác vinh quang của chiến tranh biến đi đâu mất, chỉ còn lại mỗi cảm giác căm ghét. Cảm giác này xuyên suốt ý nghĩ của tôi, làm tôi tiêu tan chí khí, trở nên đờ đẫn. Sau thẫn thờ một lúc, tôi mặc xác chúng, cái bọn không thể trị được ấy. Tôi khinh bỉ chúng đến cực kỳ buồn… ngủ. Theo trình tự như vậy cuối cùng tôi đã ngủ béng. Tôi ngủ. Sự nghỉ ngơi, dù là đang lúc ở giữa quân địch, cũng rất cần thiết.
Từ cửa lùa, then cài bị xoay ngang, mở ra, một nắm tuyết cánh hoa ném vào, khiến tôi cảm thấy một luồng gió rất mạnh phả vào mình. Vừa lúc đó, từ cửa chạn một cái gì nhảy phốc ra như một viên đạn. Tôi không kịp tránh nên viên đạn cắt gió, ngoạm vào tai trái tôi. Tiếp theo, tôi tưởng cái bóng đen này sẽ vòng lại phía sau, thì lập tức nó bám vào đuôi tôi. Sự việc xảy ra trong nháy mắt. Tôi nhảy dựng lên theo phản xạ, dồn tất cả sức lực vào các lỗ chân lông để giãy cái vật này ra. Cái vật bám ở tai tôi mất trọng tâm, bám lủng lẳng vào ngay mặt tôi. Cái đuôi của nó mềm như cao su, bất ngờ thọc vào miệng tôi. Lâm vào bước đường cùng, tôi ngoạm lấy cái đuôi đó định cắn cho nát ra và tôi vung người sang hai bên thì chỉ có cái đuôi dính lại trong răng cửa, thân mình nó bập vào bức tường dán giấy báo cũ, rồi bật trở lại, rơi xuống bệ gỗ. Tôi lập tức lao tới chộp giữa lúc nó đang định gượng dậy thì nó sượt qua mũi tôi như đá quả cầu, rồi đứng thu chân trên bệ xích đông. Từ trên bệ đó, nó nhìn xuống tôi. Tôi nhìn lên nó từ kẽ sàn gỗ. Hai bên cách nhau khoảng 5 thước. Giữa khoảng cách đó là ánh trăng chênh chếch chiếu vào, trông như một tấm vải ai đó trải ra trong không gian.
Tôi dồn tất cả sức lực vào chân trước, định nhảy lên kệ. Nhưng chỉ có hai chân trước bám được vào kệ, hai chân sau lơ lửng trong không. Ở đuôi tôi, cái vật lúc nãy vẫn bám chắc, dẫu có chết cũng không chịu rời ra. Tôi bị nguy rồi. Tôi đổi chân trước, định bám chắc hơn nữa vào kệ. Nhưng do sức nặng từ phía đuôi, mỗi lần đổi chân thì chân cứ rời dần ra, chỉ trượt hai ba lần là sẽ rơi xuống mất. Càng ngày tôi càng nguy. Móng chân tôi cào xoẹt xoẹt vào kệ. Thế này không ổn rồi. Nhân khi đổi chân trước bên trái, bị trượt móng tôi chỉ còn bám mỗi một chân bên phải vào kệ. Sức nặng của bản thân cộng với cái vật bám ở đuôi làm cho thân mình tôi xoay lủng lẳng.
Con quái vật trên kệ từ nãy đến giờ im lặng theo dõi, chẩn đoán số mệnh của tôi, dán mất vào trán tôi, rồi nhảy phụt từ trên kệ xuống như người ta ném một hòn đá. Móng chân tôi mất nốt chút níu bám cuối cùng, cả ba khối đen cùng cắt dọc ánh trăng rơi xuống. Cái cối, rồi cái gáo gỗ để trong đó cùng với cái hộp đựng mứt rỗng để dưới tầng kệ cuối cùng, tất cả hợp thành một khối, kéo theo chiếc bình cứu hỏa phía dưới, một nửa rơi vào vại nước, một nửa lăn trên sàn gỗ, tạo thành một tiếng động bất thường trong đêm khuya, làm lạnh cả gan một vật vô tích sự đang điên tiết là tôi.
“Kẻ trộm!”
Ông chủ kêu ré lên, rồi chạy từ phòng ngủ sang. Tôi nhìn thấy ông một tay xách đèn, một tay cầm gậy. Từ đôi mắt ngái ngủ của ông tóe ra một luồng sáng quắc, rất tương xứng với bổn phận của ông lúc ấy. Tôi lặng lẽ nằm cuộn mình bên cạnh cái đĩa ăn bằng vỏ bào ngư. Hai con quái vật thì trốn trong chạn.
Ông chủ một mình quát hỏi thịnh nộ “làm cái gì thế hả? ai? ai mà làm ầm lên thế?”, mặc dù chẳng có ai cả.
Trăng đã ngả về phía tây. Dải ánh sáng trăng đã nhỏ lại chỉ còn bằng cuộn giấy chăng ra.
Chú thích
[1] Ý nói sách tiếng nước ngoài, không phải tiếng Nhật viết dọc.
[2] Quảng Pháp đại sư Không Hai (774-835), một cao tăng thời đại Hei An, người đã đưa Phật phái Chân ngôn tông vào Nhật, một trong ba nhà thư pháp xuất sắc nhất thời Hei An.
[3] Một loại áo khoác giống haori nhưng đơn giản và rẻ tiền, dùng cho người nghèo và người lao động.
[4] Tức tỉnh Saga hiện nay.
[5] tức năm 1905.
[6] Ô-tan-chin âm tiếng Nhật có nghĩa là đoảng vị, ngớ ngẩn, nghe hơi giống âm Constantin trong tên C. Palaeologus, vị hoàng đế cuối cùng của đế quốc Đông La mã Constantin 11 (tại vị 1448-1453) nên tác giả ghép vào chơi chữ, có thể hiểu là “Ngài Palaeologus ngớ ngẩn”.
[7] Biện Khánh, là nhân vật tượng trưng cho sức mạnh, Kage Benkei nghĩa đen là “Biên Khánh trong bóng tối”.
[8] Lời của Đạt ma trong “Bích nghiêm lục”, Phật thư đời Tống, có nghãi là “Ý nghãi sâu xa của Thiền rất trong sáng và bao la, ở đó không có khoảng cách giữa thánh nhân với người phàm”.
[9] Việc lớn, điều khó hiểu.
[10] Câu tục ngữ hoàn chỉnh là “đàn bà khôn cũng bán bò hớ” ý nghĩa như “khôn ngoan cũng thể đàn bà”.
[11] Đông Hương Bình Bát Lang (1847-1934), Đại tướng hải quân, tư lệnh trưởng hạm đội liên quân, trong chiến tranh Nhật Nga 1904-1905.
[12] Hikimado, cửa sổ trên mái.
[13] Bức hoành gỗ bên trên cửa kính, thường có điêu khắc, vừa là nơi trang trí vừa để thông khí.
[14] Trong tiếng Nhật, “vịnh” và “cái bát” đều phát âm là “oan”, ở đây có thể hiểu cả hai nghĩa.