In reading, a lonely quiet concert is given to our minds; all our mental faculties will be present in this symphonic exaltation.

Stéphane Mallarmé

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 30
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:25 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 81
ào Tháo liên tục đánh bại quân Hà Bắc, Viên Thiệu tính mệnh nguy cấp
Trận chiến Thương Đình
Tháng Tư năm Kiến An thứ sáu (năm 201 sau Công nguyên), bầu không khí khốc liệt bao trùm khắp một vùng bên bờ Hoàng Hà. Trời càng ngày càng nóng hơn, mặt trời giữa trưa tựa như một quả cầu lửa thiêu đốt mặt đất mênh mông, khiến mặt sông đang ào ào chảy về đông hắt lên những ánh vàng chói chang, lấp lánh.
Tại Thương Đình trên bờ bắc Hoàng Hà, hơn bảy vạn tướng sĩ đang nghiêm trận chờ đợi, lập thành ba lớp phòng tuyến trước sau, chuẩn bị chặn đánh quân Tào sắp vượt sông. Đại tướng quân Viên Thiệu dựng soái kỳ trên một gò đất cách bãi sông không xa, ông ta đã gầy đi nhiều, sắc diện cũng tái xanh hơn, nhưng trước sau vẫn chăm chú nhìn sang bờ đối diện, không nói một câu.
Chỉ có quân sư Thẩm Phối, tham quân Bàng Kỷ và Viên Đàm nhận ra, hôm nay Viên Thiệu không giống như trước nữa, mà đã giảm đi mấy phần uy phong của một hậu duệ danh môn bốn đời tam công. Tuy không nói, nhưng ông ta ngồi trên ghế lắc lư thở dốc, những thớ thịt trên mặt thi thoảng lại giật giật, tay nắm chặt chuôi gươm cũng run rẩy mãi - đó không phải vì căng thẳng mà là vì bị sỉ nhục!
Viên Thiệu dẫn mười vạn đại quân vượt sông xuống phía nam, hô to khẩu hiệu “Phụng Hán uy linh, chiết xung vũ trụ”,(*) kết quả lại thua trước Tào Tháo với binh lực chưa bằng một nửa mình, lương thảo khí giới tổn thất quá một vạn xe. Vì không có cách nào vượt sông rút lui nên hơn bảy vạn quân Hà Bắc đã phải chết thảm dưới lưỡi đao của quân Tào. Với một tướng quân kiêm danh sĩ cao quý, ngạo mạn như Viên Thiệu, thì đó là một sự sỉ nhục không sao nói hết được. Một trận thất bại mà thay đổi quá nhiều, quân sĩ chiêu mộ suốt mấy năm phải bỏ mạng, lương thảo vất vả tích lũy bị mất sạch, ái tướng từng là cánh tay phải đắc lực chạy theo giặc. Trong khi đó, nửa năm trước Tào Tháo vẫn còn suốt ngày lo sợ, bây giờ lại xuân phong đắc ý, diễu võ dương oai, sắp đánh tới tận Hà Bắc này rồi. Tình thế đã hoàn toàn đảo ngược.
Viên Đàm khoanh tay đứng bên cạnh Viên Thiệu, nhìn mồ hôi đang túa đầm đìa trên trán phụ thân, trong lòng y xuất hiện một linh cảm chẳng lành, bèn cúi mình nói nhỏ:
— Phụ thân, mấy ngày nay ngủ không yên giấc, hôm nay lại không ăn sáng, có lẽ phụ thân nên về trướng nghỉ ngơi chăng? Hơn nữa, Quách Đồ đã bố trí đâu vào đấy, việc theo dõi quân địch, chỉ huy trận địa hãy để con tạm thay cho.
Viên Thiệu không nói nửa lời, chỉ một mực lắc đầu. Dù có về trướng cũng chẳng thể chợp mắt được. Chỉ cần nhắm mắt lại, hình ảnh đêm bại trận ấy lại hiện lên trong đầu ông, dù có cao lương mỹ vị cũng không thể nuốt trôi, lục phủ ngũ tạng đã bị lửa hận lấp đầy cả rồi. Hơn nữa đời người, có thể nói Viên Thiệu luôn thuận buồm xuôi gió, Công Tôn Toản dũng mãnh hơn người, Trương Yên nhất hô bá ứng, nhưng đứng trước mặt ông chẳng phải kẻ thì chết, kẻ thì trốn chạy? Cho nên hắn suy nghĩ mãi mà không thể hiểu nổi vì sao mình lại hồ đồ thua dưới tay Tào Tháo? Mấy hôm trước Bàng Kỷ từ Nghiệp Thành(*) chạy đến báo cho biết, quan Trưởng sử Điền Phong - người trước trận chiến đã năm lần bảy lượt ngăn cản việc xuất binh và bị Viên Thiệu tống vào đại lao - gần đây lại ra sức buông lời chế nhạo rằng, bởi ông không chịu nghe lời can gián nên mới bại trận như vậy. Viên Thiệu chẳng nói chẳng rằng, liền sai người lôi Điền Phong ra chém luôn. Ông ta có thể đối mặt với mọi khó khăn thách thức nhưng không thể chịu được thất bại và sỉ nhục. Dù Hứa Du đã làm phản, Trương Cáp đã hàng, Thư Thụ đã chết, Điền Phong đã giết, nhưng lòng kiêu ngạo của ông tuyệt nhiên không dao động, chỉ cần còn một hơi thở, ông sẽ chiến đấu với Tào Tháo tới cùng, trận quyết đấu này một mất một còn.
Trong khi Viên Thiệu lòng như lửa đốt, đội thân binh chợt rẽ ra một lối, Đô đốc Quách Đồ vung roi đuổi ngựa tới dưới gò đất:
— Khải bẩm Đại tướng quân, quân Tào bờ bên kia đang rục rịch động binh, dường như muốn qua sông!
— Hừ! - Viên Thiệu cố ý cười nhạt một tiếng. - Binh pháp có nói, đợi quân địch đến giữa sông thì đánh. Hôm nay bản tướng quân nhất định sẽ rửa mối nhục lần trước!
Nét mặt cứng nhắc của Quách Đồ lộ rõ vẻ cố chấp:
— Chúa công an lòng, ba tuyến phòng ngự của chúng ta vững tựa thành đồng, Tào tặc không đến thì còn tốt cho chúng, chứ đến thì ta sẽ đánh cho chúng không còn mảnh giáp! -Bỏ lại mấy câu cứng cỏi, ông ta liền vung lệnh kỳ quay về trận tiền.
Viên Đàm rất thân thiết với Quách Đồ, thường ngày vẫn coi như bậc thầy, lúc này vẫn không quên khen ngợi:
— Gió to mới hay cỏ cứng, nước loạn mới biết trung thần! Những kẻ như Hứa Du đều là lũ vong ân bội nghĩa, người thực sự trung thành với phụ thân chính là Quách Công Tắc vậy!
Viên Thiệu dường như có được một chút an ủi, gật gật đầu theo thói quen.
Thẩm Phối, Bàng Kỷ lặng lẽ nhìn nhau, tuy không nói gì nhưng trong lòng hiểu rõ trận này chưa thể lạc quan. Trận thua ở Quan Độ mất gần tám vạn quân, lính tráng kẻ bỏ trốn, kẻ chạy theo địch. Bây giờ cố gắng gom lại được bảy vạn sĩ tốt, tuy nói rằng binh lực vẫn chiếm ưu thế so với đối thủ, nhưng đám quân này vừa là bại binh, vừa đã mệt mỏi, lại lẫn lộn trong đó nhiều dân thường, e là chỉ cần nhắc đến hai chữ “Tào Tháo” cũng đủ khiến chân chúng quay ngược lại đằng sau rồi. Ba vị công tử Viên Hi, Viên Thượng, Cao Cán vẫn đang tìm cách chiêu mộ thêm quân chi viện. Nhưng nước xa sao cứu được lửa gần, dựa vào thực lực trước mắt có thể giữ được bến Thương Đình đã là giỏi lắm rồi, chẳng dám mơ đến lập công, chỉ mong không có lỗi lầm mà thôi, còn đánh bại Tào Tháo đúng là không dám nghĩ tới. Lấy thành đồng vững chắc, chuyển công sang thủ có lẽ là thượng sách lúc này, nhưng Viên Thiệu đang phẫn uất đầy ruột, nhất định muốn liều mạng. Nhìn gương Điền Phong bị giết, còn ai dám khuyên ngăn nữa? Đáng cười là đại công tử Viên Đàm và Đô đốc Quách Đồ đến giờ vẫn còn mơ tưởng đến chuyện cuốn chiếu cả Trung Nguyên, ảo tưởng rằng có thể gom góp công trạng cho địa vị trong tương lai.
Binh pháp có câu: “Triều khí nhuệ, trú khí nọa, mộ khí quy”,(*) ban trưa là lúc binh sĩ khí thế trễ nải, nhưng dây cung trong đầu Viên Thiệu đã được kéo rất căng, mấy lần truyền lệnh căn dặn binh sĩ lấy lại tinh thần, không để cho quân Tào lợi dụng cơ hội. Quả nhiên, hai bên cầm cự đến giờ Mùi thì những chiến thuyền của Tào Tháo từ quận Hà Nội điều xuống từ thượng du đã xuôi dòng đến nơi, các cánh quân Tào tiên phong bắt đầu lên thuyền sang sông.
Tiếng tù và lanh lảnh xé toạc bầu không khí, phá tan sự tĩnh lặng trên bãi sông, một toán thuyền nhẹ của quân Tào cuộn trào sang bờ bắc như những ngọn sóng. Quách Đồ đã bố trí ổn thỏa từ trước, cây lệnh kỳ màu vàng trong tay vung lên, binh lính ở phòng tuyến đầu tiên lập tức xông ra từ các lớp rào chông, tên nào tên nấy cầm sẵn cung tên, bắn ra như mưa. Quân Tào trên thuyền lập tức giơ tấm khiên để bảo vệ, người chèo thuyền co lại trên ván thuyền, ra sức chèo nhanh hơn. Chỉ trong nháy mắt, bảy tám chiếc thuyền đã tới bờ bên kia, những chiếc phía sau cũng đội mưa tên lục tục cập bờ. Quân Tào vung trường mâu nhảy lên bờ, quân Hà Bắc vứt cung cầm thương ào lên chặn lại... Chớp mắt, tiếng hò hét long trời lở đất, đao kiếm người qua kẻ lại, nhưng đánh nhau trên bờ sông, bên phòng thủ vẫn chiếm lợi thế hơn. Đám quân Tào không bị giết tại bờ thì cũng bị đẩy lùi lại thuyền, trận thế của Quách Đồ dường như không thể chọc thủng.
Viên Thiệu ngồi trên gò cao, mắt chăm chú theo dõi trận chiến, miệng lẩm bẩm:
— Giết hay lắm... giết hết, giết không chừa một mống cho ta!
Nhưng ông ta không vui sướng được bao lâu, tiếng chém giết ngày càng kịch liệt, từng lớp từng lớp thuyền đổ lên bờ. Quân Tào không ngơi tay chèo, quân Viên không ngừng vãi tên. Ban đầu thuyền quân Tào vẫn giữ được đội hình, sau dạt cả ra mà tránh tên, lúc nhúc đầy mặt sông. Tiếng trống trận, tiếng hò hét, tiếng binh khí va nhau đinh tai nhức óc. Lính Tào trúng tên loạng choạng ngã xuống sóng nước cuồn cuộn, lính Viên bị đâm gục nắm chặt bùn đất trên bãi sông, kêu lên những tiếng thê thảm cuối cùng. Dòng sông cuồn cuộn tựa một nồi nước sôi, hai bên công thủ cùng rơi vào một cuộc ác đấu.
Trận đánh lớn thế này tuy dựa vào binh lực nhưng quan trọng hơn vẫn là sĩ khí. Quân Viên mới bị thua trận ở Quan Độ, hôm nay tuy chiếm được địa lợi nhưng không ít kẻ là bại binh lần trước, không còn khí thế nữa. Còn bên Tào Tháo sĩ khí đang hăng, chỉ cần một tiếng trống, lớp trước xông lên, lớp sau lao theo, mái chèo đua bơi, có những dũng sĩ bị tắc lại phía sau, sốt ruột nhảy cả sang thuyền phía trước, nóng lòng tham gia vào cuộc chiến. Qua nửa canh giờ kịch chiến, rào chắn bị hất đi thành những lối vào - phòng tuyến trên bãi sông đã bị công phá.
Viên Thiệu chứng kiến cảnh đó tức giận vỗ đùi đen đét. Lần đầu tiên Viên Đàm thấy phụ thân giận dữ như vậy, vội an ủi:
— Tào lão tặc chẳng qua chỉ đắc thế một lúc, bọn chúng đã bị thương rất nhiều, thế đã suy sức đã yếu, chắc chắn không thể xuyên thủng được phòng tuyến thứ hai.
Nhưng tình hình không đơn giản như Viên Đàm nghĩ, quân Tào xông lên được bãi sông khí thế càng mạnh, đặc biệt là các lộ tướng quân của Tào doanh cũng đi theo cướp bãi lên bờ, tinh kỳ phấp phới, giáp trụ sáng lòa, riêng điều ấy cũng đã đủ để uy hiếp tinh thần. Quân Viên đang bò lết bên các chiến hào, trông thấy kẻ địch uy vũ như vậy, bất giác nhớ tới trận thảm bại Quan Độ, nhớ tới bảy vạn huynh đệ bị chôn thây, nhớ tới những đồng bọn bị cắt tai cắt mũi ở Ô Sào khi xưa... lập tức có kẻ kinh hãi vứt binh khí bỏ chạy!
Quách Đồ ngồi trấn giữa đại trận, trông thấy quân của mình lâm trận bỏ chạy, vội vàng vung lệnh kỳ trấn áp:
— Quay lại! Kẻ nào đào thoát sẽ bị trừng trị!
Tướng lĩnh các bộ dẫn theo thân binh xông xáo ngược xuôi, hò hét hồi lâu mới xua được quân lính quay lại chiến hào. Lúc này quân Tào đã đánh tới nơi, kẻ tấn công hò hét như mãnh hổ, người phòng thủ nhân địa lợi hiểm trở chống cự lại, một trận chiến kịch liệt lại bắt đầu.
Viên Thiệu chăm chú nhìn chiến trường đang giằng co, cố nén lửa giận trong lòng. Từ nhỏ ông ta đã chịu sự giáo dục nghiêm khắc của nhà công hầu thế gia, hiểu rõ rằng dù Thái Sơn có sụp ngay trước mắt cũng không được biến sắc, nhưng chìm trong sự nghiêm khắc suốt hơn năm mươi năm, hôm nay làm sao có thể kìm chế nổi bản thân? Thực ra chiến trường vẫn chưa phân thắng bại, giữ được Thương Đình thì vẫn có cơ sở vững chắc, huống hồ viện binh có thể đến bất cứ lúc nào, không biết chừng còn có thể tiêu diệt được hết quân Tào ở Hà Bắc. Nhưng Viên Thiệu vẫn không thể giữ vững được tinh thần, hai tay run lên bần bật theo tiếng trống trận thùng thùng, đến chuôi gươm cũng không nắm chắc được. Nhìn quân Tào đang liều chết xông lên, nhìn quân mình đang cố gắng giữ vững chiến hào, nhìn cây lệnh kỳ trong tay Quách Đồ múa như bánh xe quay tít, lại còn vầng mặt trời chói chang ở trên đầu... Viên Thiệu càng run rẩy mạnh hơn, tựa hồ có ma quỷ đang chui vào trong người. Ông ta cố gắng chế ngự tinh thần, nhưng lại chợt thấy hai tấm đại kỳ xuất hiện ngay giữa trận doanh bên địch - một tấm viết chữ “Trương” lớn bằng cái đấu, còn tấm kia là chữ “Cao” sắc tía rực rỡ.
Trương Cáp và Cao Lãm?! Đại tướng năm xưa còn là thuộc hạ của mình, giờ đây lại trở giáo làm tiên phong cho Tào Tháo. Đường đường bậc bá chủ bốn đời tam công ở Hà Bắc làm sao lại rơi vào thế bị động thế này? Nhân tâm ở đâu? Thiên lý còn không? Viên Thiệu không thể khống chế nổi mình nữa, nào là danh phận Đại tướng quân, nào là uy nghiêm công hầu gia thế, đều biến đâu mất cả! Ông ta đứng vụt dậy, muốn nguyền rủa, muốn thóa mạ, muốn gào hét, muốn đập tan cái vỏ nghiêm túc trong cả cuộc đời của mình, nhưng chưa kịp nói câu gì thì từ trong miệng đã phun ra một dòng máu tươi!
— Đại tướng quân!
— Phụ thân đại nhân!
May có Viên Đàm, Bàng Kỷ kịp thời đỡ lấy, Viên Thiệu mới không bị ngã gục. Tay ông ta không còn run rẩy nữa, mà chỉ yếu ớt lau vệt máu bên khóe miệng, rất lâu sau mới nói:
— Ta không sao...
Tâm phúc thấy ông ta sắc mặt nhợt nhạt, hai môi tím tái, toàn thân vô lực, mồ hôi trán chảy ròng ròng - Thế mà còn không sao ư? Bàng Kỷ đưa mắt nhìn một lượt cảnh tượng hỗn chiến:
— Chúa công, chúng ta tạm rút trước đi!
Viên Thiệu chậm rãi nở một nụ cười buồn thảm, ngửa mặt lên thở dài một tiếng. Ông có rất nhiều điều muốn nói, nhưng vì chóng mặt nên cổ họng nghẹn lại, điều ấy dường như giúp Viên Thiệu giữ được sự trầm lặng vốn có, vậy là rốt cuộc ông ta vẫn không thể thoát khỏi bản tính của mình. Trước khi xuất binh ở Quan Độ, Viên Thiệu đã cảm thấy sức khỏe không tốt, nhưng vẫn cắn răng chịu đựng đến nay. Điền Phong, Thư Thụ đều khuyên Viên Thiệu không nên nam tiến, phải nuôi dưỡng binh lực đợi thêm mấy năm nữa, bọn họ phân tích đúng là có lý, nhưng lại quên mất một điểm, đó là tuổi tác. Năm tháng chẳng đợi người, Viên Thiệu đã hơn năm mươi tuổi, thời gian để dựng gây sự nghiệp ngày càng ít đi, đời người ai chẳng muốn hoàn thành hoành đồ đại nghiệp? Há chẳng nóng lòng ư? Sức khỏe của Viên Thiệu cuối cùng cũng suy sụp, nhưng nếu muốn tích lũy thực lực rồi mới đánh Tào Tháo thì không biết còn phải đợi bao nhiêu năm. Lần thổ huyết này khiến Viên Thiệu tỉnh ngộ, cuộc đời ông đã sắp đến cuối con đường rồi, mong ước dẹp yên thiên hạ chỉ có thể đặt vào tay con cháu đời sau mà thôi.
Bàng Kỷ dù là kẻ siểm nịnh, nhưng dẫu sao vẫn là người theo Viên Thiệu vào sinh ra tử từ khi còn ở Lạc Dương đến nay. Thấy dáng vẻ Viên Thiệu như vậy, đã hiểu được đến tám chín phần, vội vàng khuyên bảo:
— Đại tướng quân chớ nên cả nghĩ, đây chỉ là mệt mỏi lâu ngày gây ra chút triệu chứng vậy thôi, nghỉ ngơi vài ngày sẽ ổn. Thuộc hạ gọi thân binh đưa ngài về Nghiệp Thành, việc chiến sự không phải lo lắng gì cả.
Viên Thiệu phản ứng một cách yếu ớt, dường như không muốn đi. Viên Đàm đưa tay ông ta cho Thẩm Phối, quay người quỳ xuống:
— Phụ thân cứ an tâm về nghỉ ngơi, hài nhi sẽ ở đây chỉ huy thay người, nhất định sẽ chặn đứng quân Tào ở phía nam Hoàng Hà.
Viên Thiệu cảm thấy sắp thổ huyết lần hai, vội mím chặt miệng, lắc đầu cười khó nhọc:
— Tiểu tử ngốc, con hữu dũng vô mưu, sao có thể đấu nổi Tào Tháo đây...
Quân sư Thẩm Phối lo lắng vô cùng:
— Bẩm chúa công, dù Thương Đình thất thủ, Tào tặc cũng đừng hòng lay chuyển được nửa phân đất Hà Bắc chúng ta. Tịnh Châu, U Châu, Thanh Châu đều có quân. Quân tử báo thù mười năm chưa muộn, sau khi quay về chúng ta sẽ hạ lệnh cho các thành phòng thủ kỹ lưỡng, dọn sạch đồng ruộng, rồi điều binh mã phá giặc cũng chưa muộn! Mau đi thôi! - Nói xong không đợi Viên Thiệu phản ứng, liền gọi thân binh đỡ ông ta xuống núi.
Quách Đồ vẫn đang chỉ huy trong trận, liên tiếp đánh lui ba đợt tấn công của quân Tào. Đang hy vọng có cơ chuyển thắng, bỗng thấy sau lưng náo loạn. Quay đầu lại nhìn, thấy quân sĩ lớp phòng tuyến cuối cùng đang rúng động, hình như có ý hoảng sợ rút lui. Ngẩng đầu nhìn lên, trên đỉnh đồi nơi đại tướng quân ngồi trấn, cờ tiết mao, lưỡi phủ việt vẫn dựng nguyên, nhưng chỗ ngồi của chủ soái đã trống không.
Binh pháp có câu: “Kỳ tật như phong, kỳ từ như lâm, xâm lược như hỏa, bất động như sơn.”(*) Chủ soái giống như một ngọn núi trấn trong quân, kỵ nhất là tùy tiện di động. Quân Viên vốn đã hơi khiếp địch, giờ không thấy chủ soái đâu thì còn ai tiếp tục liều mạng nữa? Hậu quân rời khỏi chiến trường đầu tiên, trung quân đang liều mạng chiến đấu cũng hốt hoảng nháo nhác. Quân Tào nhân cơ hội ấy ra sức chém giết, nhanh chóng đột phá lớp phòng tuyến thứ hai.
Quách Đồ mồ hôi đầm đìa, tay vung cờ lệnh miệng hò hét:
— Đứng lại! Kẻ nào lâm trận bỏ trốn chém ngay! Quay lại hết cho ta!...
Đến lúc này tất cả đều tháo chạy, còn ai nghe lời ông ta nữa? Vị Đô đốc bản tính cố chấp ấy liền vứt cờ lệnh, thuận tay rút ngay bội kiếm ra:
— Kẻ nào không sợ chết? Là đại trượng phu thì theo ta xông lên! - Tiếng hét của ông ta không nhỏ, nhưng chẳng mấy ai hưởng ứng.
Quân Tào giết sạch những tên lính Viên còn chống cự, những mũi tên đã nhằm hướng Quách Đồ bắn tới, nhưng ông ta không tránh cũng không bỏ chạy, quyết tâm ở lại liều chết. Viên Đàm dẫn một đội thân binh xông tới, thúc ngựa chạy lên phía trước kéo Quách Đồ lại:
— Quách Công Tắc! Phụ thân ta đột nhiên phát bệnh đã đưa về Nghiệp Thành. Chúng ta rút mau! Rút mau!
— Ta không đi! - Quách Đồ thân là Đô đốc phải chịu liền hai trận thua, lúc này gần như phát điên, - Quan Độ chiến bại, Thương Đình há có thể bại nữa? Quách mỗ ta nhất định sẽ chặn đứng Tào tặc! Ta làm Đô đốc há lại thua Thư Thụ? Ta cũng có thể đánh thắng trận!...
Mấy mũi tên bay thẳng đến đoạt mạng một tên thân binh. Viên Đàm không dám chậm trễ, cướp lấy dây cương của Quách Đồ:
— Chớ cố chấp! Đừng quên ông đã nhận lời giúp ta mưu giành đại vị đấy! - Rồi không đợi phân bua, cướp lấy dây cương của Quách Đồ, lôi ông ta cùng chạy.
Phía sau lưng họ, quân Tào đã xông pha ngang dọc không còn e dè gì nữa, chưa đến giờ Sửu, tất cả đã sang sông hết, hạ được trọng trấn bến Thương Đình, một lần nữa chiếm được doanh trại của Viên Thiệu.
Qua hai trận ác chiến Quan Độ và Thương Đình, cục thế bắc cường nam nhược hai bên bờ Hoàng Hà có sự xoay chuyển căn bản. Cuối cùng Tào Tháo đã trở thành một bá chủ đích thực ở Trung Nguyên, còn quân Yên Triệu của Viên Thiệu thì đã không còn hùng phong trước đây nữa...
Cháu con hiển quý
Tin báo tiệp liên tục truyền đến Hứa Đô, trên đến thiên tử, dưới đến quần thần, ai cũng vui mừng, triều đình cuối cùng đã tránh được mối họa diệt vong. Nhưng chẳng được bao lâu, mọi người lại bắt đầu lo lắng, thắng trận Quan Độ cũng có nghĩa là quyền thế của Tào Tháo càng thêm vững chắc, mọi người vẫn phải tiếp tục cụp đuôi giữ mình dưới tay đại nhân vật đã lập được công lao cái thế này.
Một năm lẫn lộn trong chiến loạn thực sự quá dài. Rất nhiều người già yếu, bệnh tật không thể sống qua nổi. Sau khi hoàng tử Nam Dương Vương Lưu Phùng bị bệnh qua đời, một vị chư hầu khác là Đông Hải Vương Lưu Kỳ cũng bệnh chết. Tông thân trong hoàng thất nối nhau qua đời, rõ là điểm không lành đối với vương triều đại Hán. Ngoại triều lại có các lão thần Thị trung Dương Kỳ, Đại hồng lư Trần Kỷ, Đãng khấu Tướng quân Triệu Dung qua đời. Những nhân vật đại danh lừng lẫy trước kia nay lại qua đời lặng lẽ như một chiếc lá rơi, tất cả đã bị tiếng hoan hô của chiến thắng che lấp, lớp mới thay thế lớp cũ, triều đình hiện nay đã thay đổi hoàn toàn!
Thượng thư lệnh Tuân Úc vẫn bận rộn như xưa, sáng tinh mơ đã vào cung xử lý công vụ. Trước hết là chiếu mệnh cho Khổng Dung chủ trì việc tế tự hai vương Nam Dương và Đông Hải vừa qua đời, thỉnh linh vị tới phối thờ ở tông miếu. Bàn nghị công lao hộ giá trước đây của Dương Kỳ, phong cho con trai ông ta là Dương Lượng làm Đình hầu. Lại chuẩn cho Trần Quần về quê cử tang phụ thân là Trần Kỷ. Đãng khấu Tướng quân Triệu Dung từng làm Tây viên hiệu úy cho Tào Tháo, luận công luận tư đều nên vỗ về ưu ái. Tuân Úc ngoài mặt thì bận rộn, nhưng thực ra đều là xử lý công văn giấy tờ, chớp mắt đã đến chính ngọ, vấn an thiên tử xong bèn lên xe về phủ.
Tuân Úc đã quen với cuộc sống đi đi lại lại như thế, có những việc trong cung, có những việc ở phủ đệ. Ở triều đình chỉ là sự vụ bề ngoài, nói trắng ra là làm cho người ngoài thấy. Còn công vụ thực sự quan trọng vẫn phải xử lý ở phủ đệ mới an toàn. Đặc biệt là khi Tào Tháo, Tuân Du không có mặt, gánh nặng trên vai ông càng nặng nề hơn, thường thường bận đến không kịp ăn. Hôm nay ngay trong khi ngồi xe về phủ, đầu óc Tuân Úc cũng không được nghỉ ngơi, liên tục nghĩ đến việc xảy ra ở quận Lư Giang.
Lư Giang nguyên là địa bàn của Lưu Huân, từng thuộc ngụy đế Viên Thuật. Sau khi Viên Thuật chết, Tôn Sách đột kích Lưu Huân cướp lấy thành trì, nhận mệnh cho một người là Lý Thuật làm Thái thú Lư Giang. Bộ hạ của Lưu Huân lưu tán không chốn nương thân, dựa vào quan hệ cũ chạy theo Tào Tháo, nhưng không lâu sau Tôn Sách cũng bị hành thích bỏ mạng, Lý Thuật lại lật mặt với họ Tôn, trở thành một thế lực cát cứ độc lập ở Giang Bắc. Tào Tháo từ lâu đã muốn nhúng tay vào Lư Giang, nhưng ở chiến trường không có cách nào phân thân được, liền sai Nghiêm Tượng - người trước đây từng được sai làm Thứ sử Dương Châu đến Hoàn Thành liên hệ với Lý Thuật, ý muốn lôi kéo Lý Thuật để thu lấy địa bàn.
Thứ sử Dương Châu Nghiêm Tượng tự Văn Tắc, là nhân sĩ ở Kinh Triệu, là người được Tuân Úc tiến cử nhận chức. Trước đây, Thứ sử tiền nhiệm là Lưu Diêu bị bệnh chết, Tào Tháo sai ông ta tiếp quản bộ thuộc còn lại của Lưu Diêu. Nhưng cùng với sự trỗi dậy của họ Tôn, người mà Nghiêm Tượng dựa vào là Trần Vũ chiến bại bỏ trốn, Tôn Sách lại lợi dụng con trai của Lưu Diêu là Lưu Cơ, lấy mất không ít binh tướng, khiến cho Nghiêm Tượng trở thành một Thứ sử bù nhìn, không có thực quyền. Ông ta thân ở Dương Châu nhưng chẳng làm được việc gì, chỉ có thể gió chiều nào che chiều ấy giữa hai thế lực Tôn, Tào. Do vậy khi nhận được mệnh lệnh của triều đình điều đến Lư Giang, ông ta thở phào một tiếng, nghĩ rằng không còn phải chịu ấm ức nữa, đâu biết bản thân đã bước lên con đường không có ngả quay về. Tên thổ bá vương Lý Thuật chẳng những không quỵ lụy họ Tôn mà cũng không coi Tào Tháo ra gì, đã sai quân chặn giết Nghiêm Tượng ở ngang đường.
Sự việc này khiến cả thiên hạ phải xôn xao. Từ khi triều đình Hứa Đô được dựng lên đến nay, tuy đã gặp không ít kháng cự, nhưng chưa từng có ai dám công nhiên sát hại mệnh quan triều đình phái đi. Tào Tháo và Tuân Úc tất nhiên không thể tha cho tên hung thủ Lý Thuật, càng không thể bỏ qua địa bàn Lư Giang, nhưng trong lúc họ thư từ bàn bạc với nhau, đã có người ra tay trước - đó là Tôn Quyền, kẻ mới mười tám tuổi, vừa kế thừa cơ nghiệp Giang Đông.
Tôn Quyền dâng biểu lên triều đình, lấy cớ “Lý Thuật hung ác, khinh phạm luật lệ nhà Hán, tàn hại quan lại ở châu, hoành hành vô đạo, phải nhanh chóng diệt trừ để răn đe kẻ xấu. Nay muốn được thảo phạt, trước là để quét sạch kình ngạc cho triều đình, sau là để báo phục oán cừu cho các tướng. Đó là đại nghĩa của thiên hạ, là tâm nguyện từ trước nay.” Ngoài mặt thì ra vẻ sẵn lòng nghe theo mệnh lệnh, nhưng thực tế thì không đợi Tào Tháo trả lời đã đưa quân lên phía bắc, sấm nổ chớp giật đoạt lấy Lư Giang, tiêu diệt Lý Thuật.
Lần đầu tiên Tôn Quyền thi triển thân thủ mà đã gọn gàng sắc bén như vậy, chẳng khác nào muốn tuyên cáo với thiên hạ, sự nghiệp tranh đoạt thiên hạ của Tôn gia vẫn được kế tục! Tuân Úc nghe tin kinh hãi mãi, nhận thấy rằng triều đình phải có một sự dứt khoát với họ Tôn, nhược bằng luôn có một con hổ rình sau lưng mình, chắc chắn ảnh hưởng đến chiến cục thống nhất phương bắc. Phải nghĩ cách để đè nén thế phục hưng của họ Tôn...
Tuân Úc đang suy tính xem nên báo cáo việc này với Tào Tháo ra sao thì đã về đến cửa phủ lúc nào không hay. Người bộc tòng vén rèm xe lên, ông còn chưa bước chân ra đã trông thấy Tư không Tế tửu Trương Kinh đứng trước đầu xe, cung kính thi lễ:
— Lệnh quân đã về tới, hạ quan đã đợi ngài từ lâu.
— Có công vụ gì sao?
Trương Kinh lại gần đỡ Tuân Úc xuống xe, cười nói:
— Có mấy quan viên nhận chức ngày mai phải rời kinh, ngài phải gặp mặt một chút! Ngoài ra... - Ông ta rút từ trong tay áo ra một mảnh thư lụa gấp kỹ:
— Tào công có mật thư cho ngài.
— Được rồi! - Tuân Úc không xem, chỉ đút ngay vào trong áo.
Tuy rằng Tào Tháo đã đốt hết những thư từ ngầm thông đồng với Viên Thiệu của các quan viên, nhưng một số huyện lệnh hành sự lộ liễu thì không được may mắn như vậy, bị bãi miễn hay điều chuyển là điều khó tránh. Những tân quan được bổ nhiệm đại đa số đều là những người từng được Tào Tháo trưng dụng, có người từng làm Tư không duyện thuộc, có người được Tào Tháo điểm danh trưng vời, ngoài ra lại lấy thêm một vài danh sĩ để làm đẹp cho triều đường cũng tốt. Những người này trước khi đến gặp Tuân Úc, đã được sàng lọc qua một lượt ở chỗ Tư không Đông tào(*) duyện Mao Giới, cần trung thành với ai, phải nghe lời ai đều đã được nhắc nhở thông suốt rõ ràng. Trương Kinh lại đưa bọn họ đến đây, chẳng qua là để Tuân Úc dặn dò thêm mấy câu, mang tính hình thức mà thôi.
Tuân Úc bước vào cửa phủ đưa mắt nhìn quanh, số quan lại điều đi nhận chức đứng đầy một sân, kẻ già thì đã quá tuổi bất hoặc(*), người trẻ thì vừa qua tuổi nhược quán(*), tất cả đều mặc áo vải sắc đen, giản dị không xa hoa, không hề có vẻ vui mừng của tân quan mới nhận chức. Trong lòng Tuân Úc không khỏi cười thầm: “Mao Giới chọn quan ưa tiết kiệm giản dị, những người này dù có quần áo đẹp cũng không dám mặc”. Xét lớn nhỏ tụ hội cả, ông cũng không dẫn bọn họ vào chính đường để bảo ban mà chỉ mời sang gác bên ngồi trò chuyện.
Trương Kinh vội vàng đưa danh sách lên, Tuân Úc xem qua một lượt, không có ai phải chú ý nhiều, chỉ thấy hàng cuối có một cái tên bị mực đen xóa đi, nhìn kỹ thì nhận ra là ba chữ “Tư Mã Ý”.
— Tư Mã Ý này phạm phải việc gì, làm sao lại xóa đi?
Trương Kinh nói:
— Người này từ chối trưng vời, không chịu lên kinh.
— Không đến sao lại viết vào đây?
— Tư Mã Ý là con thứ hai của Tư Mã Kiến Công, Tào công vốn muốn ban cho quan chức, nhưng đột ngột ngã bệnh không đến được.
Trương Kinh không tiện nói rõ trước mặt mọi người. Năm xưa, khi Tào Tháo được xét hiếu liêm, phụ thân của Tư Mã Ý là Tư Mã Phòng khi ấy làm chức Thượng thư hữu thừa đã cự tuyệt không cho Tào Tháo làm Huyện lệnh Lạc Dương như thỉnh cầu, do vậy Tào Tháo cố ý muốn sai phái con cháu nhà Tư Mã phải dốc sức vì mình, coi như giải mối hận năm xưa. Sau khi thu phục quận Hà Nội, Tư Mã Phòng được vời về triều nhận chức, con trai trưởng của ông ta là Tư Mã Lãng đã làm quan trước khi Đổng Trác về kinh, hiện nay cũng làm Tư không duyện thuộc. Nhưng Tư Mã Phòng sợ Tào Tháo trao cho cha con mình chức quan nhỏ, không bằng lòng để con thứ cũng lội vào vũng bùn, do vậy lấy cớ mắc bệnh để từ chối, giữ Tư Mã Ý ở lại quê nhà.
Tuân Úc nghĩ bây giờ vẫn có người dám công nhiên cự tuyệt lời mời của Tào Tháo thì quả là có gan. Ông bỏ tờ danh sách xuống bàn, lần lượt quan sát từng người một, lúc này mới nhận ra một số duyện thuộc trong mạc phủ Hà Quỳ, Lưu Phức, Lương Mậu, Trịnh Hồn cũng đều có mặt, ngay cả Vương Tư - người bị nhiều dị nghị cũng ở trong số đó.
— Vương hiền đệ, ông cũng được cho ra ngoài nhận chức à?
Vương Tư quá quen thuộc với Tuân Úc, nên nói chuyện rất thoải mái:
— Bẩm lệnh quân, khi xưa tôi với Tiết Đễ, Mãn Sủng cùng đi theo chúa công, nay mọi người đều ở ngôi quận thú cả rồi, mà tôi vẫn ngày này qua ngày khác tối mắt với công văn giấy tờ, lấy làm hổ thẹn! Khó khăn lắm mới có cơ hội này, coi như cũng có ngày được mở mày mở mặt!
Tuân Úc mỉm cười nói:
— Tào công không cho ông ra ngoài là muốn rèn giũa tính cách cho ông. Sau này làm quan phụ mẫu rồi, phải nhẫn nại, chớ nóng vội. Không được lại...
— Vâng, tôi biết rồi! Tôi nhất định sẽ sửa chữa. -Vương Tư biết Tuân Úc định nói gì, vội cắt lời nói.
Xét về tài trí Vương Tư không hề thua kém ai, kinh nghiệm từng trải càng không ai sánh bằng, chỉ là rất kém nhẫn nại. Có bận ông ta soạn công văn, có con nhặng xanh cứ vo ve trước mắt, ông ta liền bỏ bút đi đánh nhặng, đánh không được, tức giận hất tung cả thẻ tre cùng thư án, dẫm nát cả bút trên nền nhà. Chuyện này lan truyền trong phủ ngoài phủ chẳng ai không biết, đến nay vẫn là một chuyện cười cho thiên hạ. Ngay cả một người xốc nổi, nóng nảy, tính khí kỳ quặc như Vương Tư cũng cho ra ngoài nhận chức, có thể thấy Tào Tháo đã có ý để cho những tâm phúc của mình từng bước tiếp quản chính sự ở các địa phương.
Tuân Úc thấy ông ta có vẻ ngượng ngùng thì mỉm cười không nói thêm nữa. Lại thấy trong đám đông có một khuôn mặt non nớt lẫn giữa đám râu dài trông nổi bật hẳn lên, ông liền hỏi:
— Ngươi là người ở đâu? Lần này được trao chức gì?
Người trẻ tuổi cất giọng rất văn nhã, ôn hòa:
— Tại hạ là Ôn Khôi ở huyện Kỳ, Thái Nguyên, nhận chức Huyện lệnh Lẫm Khâu.
— Họ Ôn ở huyện Kỳ... - Tuân Úc nghĩ ngợi, - Thái thú Trác Quận Ôn Thứ lừng lẫy tiên triều, là đồng tộc của cậu hẳn?
Ôn Khôi đứng dậy chắp tay:
— Chính là gia phụ.
— Hóa ra là hậu duệ của bậc danh thần, thật đắc tội rồi... - Tuân Úc cũng cúi mình chắp tay, - Hiền danh của lệnh tôn vang lừng Hà Bắc, tiếc rằng đã mất nhiều năm. Mong rằng các hạ nối tiếp đức hạnh của tiên phụ, toàn tâm dốc sức vì triều đình. - Tuân Úc lại nhận thấy một ý vị khác, Ôn Khôi dù có năng lực, nhưng rốt cuộc còn ít từng trải, cái mà Tào Tháo nhắm đến ấy là thanh danh của phụ thân cậu ta. Khi Ôn Thứ nhận chức Thái thú Trác Quận rất được sĩ nhân ở Hà Bắc ca ngợi, bây giờ đưa con trai ông ta ra làm quan, rõ ràng là muốn tranh thủ tình cảm của sĩ nhân Hà Bắc.
— Tại hạ nhất định nhớ kỹ lời chỉ dạy của Lệnh quân, không phụ sự ủy thác của triều đình cũng như mong mỏi của Tào công! - Lời nói của quan viên bây giờ, nếu câu đầu tiên biểu thị lòng trung thành với triều đình, câu sau tất phải nhắc tới Tào Tháo. Ôn Khôi tuy tuổi còn trẻ nhưng cũng đã học được cách nói như vậy.
Tuân Úc tất nhiên không thể nói không đúng, nhưng luôn cảm thấy hơi khó chịu, bèn không hỏi thăm lần lượt tất cả mọi người nữa, chỉ nói chung lại mấy câu, dặn dò bọn họ phải trung thành với thiên tử, lo chính sự ở địa phương, phải lấy việc dân làm đầu, không được chỉ nghĩ đến việc nhanh chóng thăng quan tiến chức. Ông nói mấy câu nghiêm nghị, ngẫu nhiên đưa mắt nhìn lên, chợt thấy tấm rèm cửa bằng lụa xanh được vén lên, ba thiếu niên mặc áo gấm thêu thủng thẳng đi vào. Người đi đầu là con trai Tào Tháo - Tào Phi, theo sau là nghĩa tử của Tào Tháo - Tào Chân và cháu Hạ Hầu Uyên - Hạ Hầu Thượng.
Ba vị công tử này đến thật không đúng lúc, khiến cho người ta có một ấn tượng là con cháu Tào gia có thể tùy tiện can dự vào chính sự. Tuân Úc hơi chau mày, có ý giận tên bộc tòng canh cửa không thông báo, nhưng lại suy nghĩ, nhi tử của Tào Tháo, ai dám ngăn cản? Bèn ra vẻ bề trên, vuốt râu cười:
— Là các công tử ư? Ta đang nói chuyện với chư đại nhân, các công tử nếu có việc gì, xin hãy lên chính đường đợi ta.
Ba người trẻ tuổi cung kính thi lễ, Tào Chân, Hạ Hầu Thượng rất ý tứ lui ra, Tào Phi thì nâng rèm cửa giải thích nói:
— Kỳ thực cháu cũng không có việc gì, chỉ là tìm Trưởng Thiến hiền đệ trò chuyện thôi. Không nghĩ rằng đại nhân lại làm việc ở gác bên... Thật đắc tội! - Trưởng Thiến là Tuân Uẩn, con trai Tuân Úc.
Trong lòng Tuân Úc chỉ bực Tào Phi không đi ra nhanh, xua tay nói:
— Mấy vị đại nhân đều sắp đi nhận chức, ta còn có những việc khẩn cấp dặn dò. Các công tử muốn tìm Uẩn nhi thì cứ xuống nhà sau đi.
Tào Phi nghe nói những người này sắp đi nhận chức, một chân đã bước ra ngoài cửa lại thu trở lại, vái chào khắp một vòng, cười ha hả nói:
— Tiểu đệ thất lễ, khiến các đại nhân chê cười rồi. Chư vị dốc sức cho triều đình, bôn ba vì việc nước, vãn sinh trong lòng bội phục, hôm nay được gặp thấy thật vinh hạnh. Ngày sau nếu như vãn sinh có rời kinh ra ngoài, nhất định bái vọng liệt vị... - Tào Phi tướng mạo hơn người, nói năng nho nhã, lúc nói chuyện trên mặt luôn nở một nụ cười chan hòa, lại cố ý nâng cao tay áo lộ vẻ phóng khoáng. Những người ở đó có kẻ biết thân phận của Tào Phi, muốn đứng dậy đáp lễ, nhưng lại e người bên cạnh nói mình siểm nịnh. Cũng có người không biết, ngồi yên tại chỗ vẻ mặt khó hiểu, cảm thấy tên tiểu tử này hoa chân múa tay khiến người ta phát ghét.
Tuân Úc vẻ mặt khó xử, cảm thấy vị đại công tử này nhiều lời quá, không hợp quy củ, mà lại khiến người ta cho là thích làm trò, vội hắng giọng mấy tiếng, cắt ngang lời Tào Phi. Trương Kinh thấy vậy vội đứng dậy cười nói:
— Lệnh quân cũng đã căn dặn nhiều rồi. Thực ra các vị đây cũng đều đã qua mấy vòng tuyển lựa, phải làm việc thế nào trong lòng cũng đã có tính toán. Công việc đã gấp, mọi người ngày mai phải lên đường nhận chức rồi. Tại hạ thấy chúng ta cũng nên kết thúc ở đây, để mọi người có thời gian gặp gỡ từ biệt bằng hữu, hôm sau lên đường được thảnh thơi, ý đại nhân thế nào? Mấy ngày nay ngài vất vả quá rồi, cũng nên giữ gìn sức khỏe.
— Được rồi. - Tuân Úc thở dài, thuận theo ý mọi người. - Chỉ mong chư vị sau khi nhận chức không phụ ủy thác của triều đình, khuyến khích nông tang, bảo ban bách tính. Trận Quan Độ đã thắng rồi, nhưng tiền lương vẫn còn thiếu thốn, phải bổ sung khẩn cấp. Triều đình cũng đã đưa ra cách tính thuế khóa mới giúp cho các vị rồi, vậy cứ thế nhé!
— Dạ. - Mọi người đứng dậy cáo lui, nối đuôi nhau theo Trương Kinh đi ra.
Ra đến ngoài cửa, tất cả đều vái chào Tào Phi.
Tào Phi vẻ mặt tươi cười, lần lượt đáp lễ tận đến khi tất cả mọi người đã ra hết, mới tiến đến trước mặt Tuân Úc:
— Lệnh quân gần đây gầy đi nhiều, phải giữ gìn sức khỏe cho tốt mới được!
— Để hiền điệt phải lo lắng rồi. - Tuân Úc trong lòng thừa hiểu, tên tiểu tử này miệng nói đến tìm con trai mình, nhưng lại không vội xuống nhà sau, cứ một mực nói những câu khách sáo, chắc hẳn muốn xin xỏ việc gì đây. Dù có là con trai của Tào Tháo, nhưng dẫu sao cũng vẫn là kẻ bạch thân(*), Tuân Úc xưa nay vốn ghét việc xin xỏ, với thân phận Tào Phi lại càng phải tránh né, bèn cố ý nói sang chuyện khác:
— Kỳ thực ngồi giữ kinh sư cũng không có gì gọi là vất vả, lệnh tôn dụng binh ở ngoài mới thực sự khó nhọc. Gần đây công tử có viết thư thăm hỏi không? Chứng bệnh đau đầu của Tào công thực khiến người ta phải lo lắng...
— Trong thư nhà gia phụ cũng có nói, từ sau trận thắng ở Quan Độ, chưa bị đau lại. Đó cũng là người gặp chuyện vui tinh thần sảng khoái vậy. Chiến trận ở Hà Bắc còn đang tiếp diễn, vương sư có về tới chí ít cũng phải mất vài tháng. Có thể thuận lợi lấy được Nghiệp Thành hay không cũng còn chưa rõ, cháu cũng rất nhớ phụ thân ạ. - Tuy nói như vậy, nhưng vẻ mặt Tào Phi không có vẻ gì là tha thiết nhớ nhung. Thấy Tuân Úc dường như không quan tâm gì tới việc mình tới đây, Tào Phi lại kiếm cớ khác nói, - Đúng rồi... Lần này vương sư đắc thắng, khi trở về có cần làm nghi thức gì không? Liệu cháu có giúp được gì chăng?
— Không cần. Lệnh tôn lập được công lao lớn, khi ấy thánh thượng tự khắc sắp đặt, nếu lại chủ động xin làm việc ấy, há chẳng phải là giành mất ân đức của thánh thượng? Đó không phải là đạo của kẻ thần tử... Thêm nữa, hiền điệt còn bạch thân, không được tùy tiện ra vào phủ của triều thần, chuyện ấy sẽ làm ảnh hưởng không tốt cho lệnh tôn. - Tuân Úc nói mấy câu nghiêm khắc, rồi tiện tay cầm một bản công văn giả vờ đọc, kỳ thực là tỏ ý muốn Tào Phi nhanh chóng rời khỏi chỗ này.
Nào ngờ Tào Phi chẳng những không đi, mà lại thêm Tào Chân, Hạ Hầu Thượng bước vào, ba tên tiểu tử đều sán đến trước án nói chuyện. Tuân Úc thấy vậy, biết rằng bọn chúng muốn ăn vạ ở đây, đành bỏ công văn xuống:
— Các ngươi rốt cuộc có chuyện gì?
Tào Chân từ tốn thưa:
— Nghe nói Khổng Dung phụng chiếu tế tự hai vương Nam Dương, Đông Hải, văn chương của ông ta nức tiếng. Không biết văn tế đã viết xong chưa, có thể cho chúng cháu được xem trước một chút không? - Tào Chân đã mười bảy tuổi, thân hình cao lớn, khuôn mặt rám vàng, mũi sư tử, mắt hổ, miệng rộng, lông mày như lưỡi kiếm.
Tuân Úc biết Tào Chân nói năng dứt khoát, bèn ậm ừ nói:
— Sáng nay mới chính thức truyền chiếu xuống, làm sao có thể viết dược nhanh như vậy? Đợi khi tế tự xong chẳng phải cũng biết ư?
— Cháu không thể đợi được. - Hạ Hầu Thượng cười tinh quái cướp lời. Tên tiểu tử này trên má trái có mấy nốt mụn cơm, thường tự khoe khoang rằng đó là mụn cơm thông minh, rất nhiều trò quỷ quái. - Mấy ngày trước cháu có đọc ba bài thơ của Khổng Văn Cử viết cho Tào công, thật sự là lạ lùng! Trong đó có mấy câu như: “Từ Lạc đến Hứa xa ngút; Tào công phụ quốc vô tư; Giảm bớt chi dùng xa xỉ; Quần liêu nườm nượp theo đi”. Đại nhân nghe xem, thơ lục ngôn này có lạ lùng không?
Tuân Úc lại không lấy gì làm lạ:
— Thơ lục ngôn đã phổ biến, đâu có hiếm hoi gì. Trong Quy Điền Phú của Trương Hành có câu: “Dạo thành ấp đã lâu lắm; Chẳng tài lược mà giúp đời; Đến bên sông thường thích cá; Nơi dòng trong hẹn chửa xuôi.” Đó chẳng phải cũng là lục ngôn ư?
— Cái này không giống như vậy. Của Khổng Dung đây không phải là tản cú, không có nhiều “chi hồ giả dã” như vậy, đây mới thực sự là thơ đúng nghĩa! - Hạ Hầu Thượng lắc lư đầu, lại cất giọng ngâm nga, tựa hồ như rất say sưa, - Quách Lý phấn loạn tranh li; Dời đô Trường An muốn về; Trông mãi đông kinh thảm buồn; Mong Tào công trở lại luôn...
— Chỉ cần thơ viết cho hay, thì lục ngôn có gì là không được? - Tuân Úc vuốt râu cảm thán, - Từ sau khi Sái Ung chết đi, vẻ văn nhã phong lưu của sĩ nhân không còn nữa, những bậc tài hoa như Khổng Văn Cử ngày càng ít đi. Đáng tiếc thay, đáng tiếc thay...
Hạ Hầu Thượng thầm cười lão tiên sinh đã bước vào con đường mà cậu ta mở ra, quay sang phía Tào Phi nháy nháy mắt. Tào Phi hiểu ý, vội rút từ trong tay áo ra một mảnh lụa, cười nói:
— Lệnh quân tinh tường thơ văn, sáng lòng sáng mắt, xin hãy xem bài thơ này viết thế nào?
Tuân Úc miễn cưỡng cầm lấy xem, thấy trên mảnh lụa viết:
Gà trống lông sặc sỡ;
Đôi cựa sắc như dao.
Nguyện tỏ tài uy vũ;
Hội chiến giữa sân trào.
Móng sắc bấu thềm ngọc;
Mắt giận quắc lửa thiêu.
Cánh dài tung gió nổi;
Lông cứng chính vươn cao.
Mỏ nhẹ vươn móc sắc;
Vụt mổ xong lượn nhào.
— Thơ này viết về gà chọi đây! - Tuân Úc không ngăn được bật cười. - Xem câu “Nguyện tỏ tài uy vũ; Hội chiến giữa sân trào” cũng rất có tinh thần thượng võ, có thể coi là giai tác đấy!
Hạ Hầu Thượng cười hỏi:
— Ngài có biết đây là tác phẩm của ai không ạ?
— Chẳng lẽ là thơ của hiền điệt làm? - Tuân Úc hoài nghi nhìn Tào Phi.
Hạ Hầu Thượng xua tay:
— Không phải, không phải. Người viết thơ này là Lưu Trinh, tự Công Cán, là con cháu trong tôn thất. Tổ phụ của người này chính là Lưu Mạn Sơn(*), văn sĩ tiên triều - người từng viết Biện hòa đồng chi luận.
Tào Phi ghé đến bên tai Tuân Úc khen ngợi:
— Lưu Công Cán này cháu cũng đã từng gặp, thực là một bậc nhân tài, nay mới hai mươi bảy tuổi, thủ hiếu mãn tang cha nay mới lại về kinh. Giờ là lúc triều đình đang cần dùng người, trong phủ chúng ta lại đưa rất nhiều duyện thuộc ra ngoài nhận chức, nên chăng...
Tuân Úc đã hiểu lý do bọn họ đến đây hôm nay, bèn cầm mảnh lụa dúi lại vào tay Tào Phi, cầm công văn lên, lạnh lùng nói:
— Việc dùng người của triều đình, không phải là việc các công tử có thể can dự được!
Tào Phi vẫn không nản:
— Cháu với Lưu Trinh kia không hề có tình riêng, đây hoàn toàn là vì nước mà tiến cử hiền tài thôi. Hơn nữa, nếu như Lệnh quân e ngại việc Qua điển lỹ hạ(*), không muốn can dự, thì chỉ cần nói một tiếng với Mao Hiếu Tiên để vời đến mạc phủ làm duyện thuộc thì có gì mà không được?
— Nếu đơn giản như vậy, các công tử trực tiếp đi xin với Mao Giới lại chẳng được ư? - Tuân Úc nói một câu làm cả ba người cứng họng, nhìn bọn họ có vẻ khó xử, ông biết ngay bọn họ đã bị Mao Giới từ chối nên mới chạy đến đây đánh đòn vu hồi này.
Ba công tử người nọ nhìn người kia, đứng ngây hồi lâu, Tào Phi mới lại cất lời, lần này không gọi là “lệnh quân” nữa mà gọi là “thúc phụ”:
— Tuân thúc phụ, cháu xin nói thực, cây cung cứng Mao Hiếu Tiên ấy nếu như có thể kéo nổi thì chúng cháu đã không làm phiền đến thúc phụ. Ông ấy chọn quan như thế nào thúc phụ đâu phải không biết, phàm cứ là danh môn tôn thất thì không bao giờ lọt nổi vào mắt ông ta...
— Này! Không được tùy tiện bàn luận người khác như thế. - Tuân Úc sợ Tào Phi nói bừa gây chuyện thị phi, - Chỗ ta công việc như núi, không có thời gian lo được chuyện khác đâu. Hơn nữa chuyện này cũng không hợp quy củ, các công tử đi đi.
Hạ Hầu Thượng đánh bạo giữ lấy công văn trong tay Tuân Úc, tươi cười nói:
— Nói thì như vậy, nhưng ngài lại nhẫn tâm nhìn nhân tài bị chôn vùi ư? Ngài cũng công nhận rằng thơ viết rất hay mà.
Tuân Úc vẻ mặt sắt đá:
— Ta đã nói thế, nhưng trị lý thiên hạ không thể chỉ dựa vào mấy bài thơ. Hơn nữa đây là thơ gì? Chọi gà dong chó chỉ là chuyện vặt của tử tôn nhà quý tộc, có thể bước vào nơi đại nhã ư? Các công tử hãy thử đọc kỹ sách sử xem, thời Xuân Thu, nước Lỗ từng vì việc chọi gà mà sinh ra nội loạn(*), chơi bời thoái chí là mầm họa quốc vậy!
Tào Chân liền nói:
— Thúc phụ nặng lời rồi. Làm được việc nhỏ rồi mới có thể làm được việc lớn, Lưu Trinh cũng có văn chương nghiêm túc, để điệt nhi mang tới cho thúc phụ xem qua!
— Thôi khỏi! Ta không có thời gian xem văn chương.
Tào Phi kéo tay Tuân Úc năn nỉ:
— Thúc phụ hà cớ cự tuyệt dứt khoát thế? Thúc phụ thử nghĩ xem, người này vừa là hậu duệ nhà danh môn, lại thuộc dòng tôn thất họ Lưu, dùng được chẳng tốt hay sao? Đó cũng là làm tăng thêm vẻ vang cho triều đình vậy!
Tào Chân cũng thuận thế kéo tay trái Tuân Úc, Hạ Hầu Thượng thì nắm lấy chòm râu của ông ta. Ba tên tiểu tử đem cách vòi vĩnh xin kẹo ra dùng, kẻ co người kéo, bên trái một câu “thúc phụ”, bên phải một tiếng “lệnh quân”, nghe ngọt hơn cả mật.
Tuân Úc thực sự không có cách nào chịu nổi bọn chúng, đám tiểu tử cứ quấy nhiễu thế này chẳng làm lỡ bao nhiêu việc hay sao. Lại nghĩ lại, mời một kẻ con cháu tôn thất, sĩ nhân văn chương cũng không có gì là thiệt, đành thở dài nói:
— Mau buông tay! Để ta xem, hãy bảo Lưu Trinh viết một bản lý lịch đem đến chỗ ta, có cơ hội ta sẽ đề đạt với Mao Hiếu Tiên.
Tào Phi quá đỗi vui mừng, vội rút trong người ra một mảnh trúc ghi tên đặt lên mặt án:
— Cháu đã chuẩn bị sẵn rồi đây, thúc phụ đã hứa với chúng cháu, xin người chớ quên!
— Chỉ lần này thôi đấy, lần sau không có ngoại lệ đâu! - Tuân Úc nghiêm khắc nhắc nhở.
— Cháu biết, sau này tuyệt đối không làm phiền thêm thúc phụ nữa. - Tào Phi chắp tay liên tục.
— Nhị công tử, tam công tử sao không đi cùng các cậu?
Tào Phi đáp:
— Thực nhi đến Đinh gia chơi với Đinh Nghi, còn Chương nhi thì dẫn đám gia đồng ra ngoài thành săn bắn. - Tào Thực rất thân thiết với Đinh Nghi - con trai Đinh Xung, còn Tào Chương tuổi tác tuy còn nhỏ nhưng rất hiếu võ, huynh đệ ba người tính cách rất khác nhau.
— Đi săn? - Tuân Úc đứng bật dậy, - Ai đồng ý cho tiểu công tử ra ngoài thành? Chiến trận tuy đã lắng, nhưng xung quanh vẫn còn chưa yên đâu! Tiểu công tử mới ngần ấy tuổi! Công tử làm anh thế nào vậy? Tào công bảo Trần Quần đôn đốc huynh đệ công tử học hành, ông ấy mới về chịu tang nửa ngày mà các công tử đã làm loạn hết cả như vậy. Mau sai người tìm Chương nhi về ngay, từ sau chưa được sự đồng ý của ta, không được tùy tiện ra khỏi thành! - Trọng trách của Tuân Úc quá nặng nề, hết việc trong triều ngoài triều, nay lại phải thay Tào Tháo quản giáo các con nữa.
— Dạ, vậy cháu đi đây. - Tào Phi tuy vâng lời nhưng vẫn cười không ngậm được miệng, khoác vai Hạ Hầu Thượng, Tào Chân đủng đỉnh đi ra, lại còn liên mồm nói, - Có Lưu Công Cán, sau này có thể bàn luận văn chương tiêu khiển rồi...
Ba người ra đến ngoài cửa, tấm rèm bích sa chợt vén lên, vẫn còn hai vị tân quan chưa chịu về, mà đứng đợi ngoài cửa ân cần vén rèm cho bọn họ. Tuân Úc đã trông thấy cả, định bụng gọi hai người họ vào mắng cho một trận, nhưng lễ nghi tầm thường cũng không tìm được lỗi gì lớn cả. Cha làm quan lớn, đừng nói là con, ngay cả chó trong nhà cũng có người xu phụ. Vì việc này mà mắng mỏ, chẳng những không có tác dụng, trái lại còn khiến bọn họ hận mình ngăn cản tiền đồ của họ.
Tuân Úc đứng sau rèm lặng lẽ nhìn theo bóng Tào Phi. Vị đại công tử này đã mười lăm tuổi, lớn thì chưa lớn, nhưng cũng không còn nhỏ nữa. Tuổi này đã có nhiều bằng hữu rồi, ngày sau đó sẽ là một nhóm nhỏ vậy. Tào Chương mười một tuổi, Tào Thực cũng mười tuổi, lại còn một công tử được yêu mến nhất là Tào Xung, qua mấy năm nữa những tiểu tử này mỗi người sẽ có một nhóm những kẻ cùng trang lứa vây quanh, đến khi ấy... Nghĩ đến việc ba con một cháu của Viên Thiệu mỗi kẻ nắm giữ một châu, Tuân Úc không khỏi toát mồ hôi lạnh, hôm nay ông mới ý thức đến chuyện Tào Ngang tử chiến ở Uyển Thành nghiêm trọng thế nào.
Thuận dòng suy tư, Tuân Úc càng trăn trở càng sợ hãi, vội quay về chỗ ngồi tiếp tục xử lý công văn để có thể hóa giải nhanh nhất nỗi bất an ấy. Lơ đễnh đọc hồi lâu, ông mới nhớ ra phong mật thư Tào Tháo gửi cho vẫn chưa đọc.
Hóa ra chiến sự ở Hà Bắc không được thuận lợi như dự kiến. Tuy trận Thương Đình khiến cho quan viên ở một số quận huyện dao động nhưng Viên Thiệu lại tập trung binh mã dẹp loạn kịp thời, quyết tâm không cho Tào Tháo cướp được một tòa thành trì nào. Nếu thế cục như vậy vẫn tiếp diễn thì rõ ràng sẽ không thể nhanh chóng thu phục Hà Bắc. Lại thêm Lưu Bị vẫn còn gây họa ở Nhữ Nam, nên đành nhanh chóng thu quân kết thúc cuộc chiến. Cùng với thư còn có bản kê tên các tướng có công trong trận Quan Độ, đòi Tuân Úc làm biểu tấu, tất cả hơn hai mươi người, người đứng đầu danh sách là Trương Tú còn có thêm yêu cầu ban cho phong ấp một ngàn hộ.
Tuân Úc hơi chần chừ, ban cho võ tướng đãi ngộ cao như vậy phải chăng là quá coi thường các quan trong triều? Bởi trong số các lão thần có công trạng, rất nhiều người không được phong ấp. Nhưng từ khi cử binh ở Trần Lưu đến nay, Tào Tháo chưa hề có ý thăng thưởng tướng có công nào, nhân cơ hội này ban đãi ngộ cao cho họ dường như cũng không có gì quá. Tuân Úc đang ở vị trí chẳng những không thể phản bác Tào Tháo, mà cũng không thể thúc ép hoàng đế, hơn nữa không thể để người ngoài nói ra nói vào, thực sự nan giải. Ông nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng vẫn quyết định làm theo lời Tào Tháo, mở tấm lụa ra viết thư trả lời, nhân tiện báo cáo cả chuyện Tôn Quyền tập kích Lý Thuật. Nhưng vừa nhấc bút, ngẩng lên nhìn, ông lại trông thấy tấm danh thiếp của Lưu Trinh.
Tuân Úc bắt đầu hối hận vì đã bằng lòng chuyện này với Tào Phi, nó sẽ tạo ra một tiền lệ không hay. Nghĩ lại mấy hôm trước, hoàng đế Lưu Hiệp cũng oán trách ông không dùng người theo ý của ngài, đường đường thiên tử mà còn không bằng mấy vị công tử Tào gia. Quyền thế của Tào Tháo đang mở rộng mạnh mẽ, đã vươn tới tất cả các ngóc ngách của triều đình, tuy nhiên xét ở mức độ cụ thể, đây chỉ là vô tình tạo ra, nhưng rốt cuộc nó vẫn nảy sinh sự chia rẽ trong dự tính ban đầu khi phục hưng nhà Hán. Vậy mà những quyền thế quá đáng ấy vẫn tiếp tục được mở rộng, thậm chí đã vươn tới con cháu thân quyến của Tào Tháo. Cứ tiếp tục như vậy, thiên hạ sẽ bị dẫn dắt về đâu? Tuân Úc là một bậc quân tử khiêm nhường, cũng từng tin tưởng sâu sắc vào việc phục hưng Hán thất là nguyện vọng bình sinh của Tào Tháo, cho nên mỗi khi gặp kẻ nào bàn ra tán vào sau lưng Tào Tháo, ông đều nghiêm khắc trách mắng biện minh cho Tào công. Nhưng đến hôm nay, ngay cả ông cũng bắt đầu hoài nghi, do dự, thậm chí sợ hãi... Năm xưa, Quang Vũ Đế Lưu Tú cũng chỉ muốn được làm một chức Chấp kim ngô bảo vệ kinh thành, nhưng cuối cùng đã thành bậc chí tôn cửu ngũ. Xét cho cùng, lòng người trên thế gian này vẫn luôn thay đổi theo cảnh ngộ gặp phải.
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 6 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 6 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 6