Love is one long sweet dream, and marriage is the alarm clock.

Unknown

 
 
 
 
 
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Azazel123
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 70
Cập nhật: 2020-11-14 06:29:22 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần Thứ Nhất: Đường Vào Quảng Trị - Trên Đường Đi B (1)
hiều một ngày trung tuần tháng 8 chúng tôi lên đường. Đúng 13 giờ. Lúc sắp xuất phát có một việc lôi thôi nhỏ: A4 được phân công mang thùng đạn, tôi đưa cho Tỵ vì cậu ta không có súng, nhưng cậu ta không chịu.
Anh Bính phải quát tháo một hồi mới ổn. Mẹ tôi còn đứng nhìn theo chúng tôi đi mãi.
Chúng tôi tập trung toàn Tiểu đoàn, nghe Thượng tá Ngô Ngọc Dương nói chuyện, rồi đại biểu nhân dân thành phố tiễn đưa. Lệnh hành quân phát ra. Đoàn quân lỉnh kỉnh vũ khí, trang bị lên đường, nom như một con rắn xanh khổng lồ bò qua những con mương, bờ ruộng… Chúng tôi đi xuyên qua các làng mạc để xuống ga Thường Tín. Một em bé gái sơ tán đứng bên đường, chợt nhìn thấy tôi, em hỏi: “Anh Vinh ơi, anh Bình em đâu?”. Tôi đang nghĩ đến Lê Thanh Bình (bạn cùng lớp 10B) nên bảo em chạy lên phía trước. Tôi cũng không hiểu tại sao em biết tôi, và em hỏi Thanh Bình hay Xuân Bình (10C, đang đi phía sau). Tôi nhìn em chạy mà thương quá. Cứ đinh ninh là sẽ đi qua làng Nhị Khê, nơi chúng tôi sơ tán một dạo, tôi rất ngạc nhiên khi thấy ga Thường Tín đã ở trước mặt.
Có lệnh nghỉ giải lao. Người nhà của anh em đi theo đoàn quân đông quá, ngồi rải rác suốt cạnh đường. Tôi rút dao găm ra mài cho sáng, Lâm A6 thấy vậy cũng làm theo. Các thứ trên người thật lỉnh kỉnh: xanh-tuya đeo Bi-đông, mặt nạ, bao đạn, dao găm, lưỡi lê…nặng trĩu, vậy mà bọn tôi cảm thấy oai. Lính mới có khác. Bảy giờ tối, chúng tôi vào ga Thường Tín lên tàu. Thiếu tá E trưởng huấn luyện Lê Thành Nhân bắt tay từng người: “Các em đi khỏe nhé”. Tàu chuyển bánh, Thành “ma tịt” và Phái “con” khóc, tôi cũng rơm rớm: “Không biết bao giờ mình mới trở lại Thủ đô?”.
Màn đêm đã buông xuống từ lâu. Trong toa tầu chẳng có đèn đóm gì cả. Chúng tôi giở cơm nắm ra ăn với thịt kho. Trước lúc xuất phát, thấy chúng tôi bận chuẩn bị, mẹ tôi đã kho thịt giúp và nắm cho mỗi người một nắm cơm. Những tình cảm chia ly lưu luyến vẫn còn tràn ngập tâm hồn chúng tôi. Khát nước quá. Mấy cậu uống nước ở vòi nước trong toa, lại múc cả vào bi-đông nữa. Hôm sau trời sáng mới biết nước ấy rất bẩn, cặn đỏ lòm. C bộ thông báo có bán bia và nước chanh, nhưng đến khi tôi lên mua thì chỉ còn nước chanh. Tới 12 giờ đêm thì tàu phải tăng-bo. Chúng tôi xuống tàu đi bộ. Quãng đường nhựa có nhiều hố nhỏ và đá lổn nhổn, chắc là vết bom bi. Đi qua một thị trấn nào đó của Nam Hà (1) Nhiều ngôi nhà hai tầng đổ sập, các cửa sổ như những con mắt đen ngòm, đờ dại. Chúng tôi vượt qua một cái cầu, tới nhà ga mới và lại lên tàu đi tiếp. Đoàn tàu này tồi tàn hơn đoàn tàu ban nãy. Tôi cố ngủ mà không được. Thò cổ ra cửa sổ, từng cơn gió lạnh hất tóc bay ra phía sau, thoảng trong gió có những giọt nước phả ra từ đầu tàu. Trăng vàng đục khi ẩn khi hiện sau lớp mây mù. Khoảng 3 giờ rưỡi sáng chúng tôi xuống tầu: đường tàu đến đây là hết.
-----------
(1) Tỉnh Nam Hà thành lập ngày 21 tháng 4 năm 1965 trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Hà Nam và Nam Định. Ngày 27 tháng 12 năm 1975 nhập thêm Ninh Bình thành Hà Nam Ninh. Nay lại chia ra ba tỉnh như cũ (BT).
Mắt cứ ríu lại. Bước chân khấp khểnh trên con đường đất hai bên trồng cây phi lao. Cái hòm đạn thật sự vướng víu cho tiểu đội, vì không ai muốn khiêng cả. cuối cùng chúng tôi phân công từng đôi khiêng đạn theo giờ. Vào tới làng, tất cả mệt phờ. Tôi nhận chỗ ở của A, phân công nhà cho các tổ, rồi về ở cùng với tổ 2. Gia đình bác chủ rất tốt, nhường cho 4 chúng tôi cái giường to, phủ màn trắng, còn ấm hơi người. Mới đầu chúng tôi cũng thấy ngại, nhưng rồi mệt quá, đành chui vào đánh một giấc quên chết.
Tôi dậy đầu tiên, trời sáng đã lâu. Anh Đạm B phó gọi các A đi lĩnh thực phẩm. Tôi sang gọi Duy Minh mang quang gánh cùng đi lĩnh với tôi. Xe ô-tô của binh trạm chở tới gạo, thịt, bí, miến… để phân phát. Tôi gặp Phổ Thọ, hai đứa nói chuyện, tôi mua bánh tai voi mời nhưng Thọ không ăn.
A phó Duy Minh đảm nhiệm việc chia thực phẩm cho các tổ. Tôi lấy giấy bút viết bức thư đầu tiên về nhà. Buổi trưa còn thừa ít gạo hôm trước, Minh đem bán để mua miến chiều nấu với thịt. Anh Bính tập hợp B, sau một hồi kiểm điểm, tới mục đề nghị, tôi xin phát biểu về vấn đề mang đạn. Thùng đạn 12kg, như vậy A tôi phải mang nặng hơn các A khác nhiều (mỗi A khác chỉ phải mang một khẩu B40). Vì A tôi có nhiều người nhỏ yếu, tôi đề nghị mỗi A thay phiên nhau mang đạn một ngày. Anh Bính không tán thành. Tôi bèn phân công luôn cho Phái “con”, Đường “cóc” khiêng thùng đạn, nhưng hai cậu này không chịu. Kết quả, buổi chiều khi chúng tôi đi, hòm đạn vẫn nằm trỏng trơ ở góc sân. Ra đến chỗ tập hợp Đại đội, anh Đạm mới lễ mễ bê đạn chạy theo. Rốt cục anh Bính và C bộ phải đồng ý mỗi A vác đạn một ngày, nếu đi bộ thì mỗi A vác 3 tiếng thay phiên.
Từ 4 giờ chiều chúng tôi bắt đầu hành quân bộ. Trời xám xịt. Tôi cảm thấy khoảng cách ra đường cái rất gần, mà đêm qua sao nó xa thế.
Trên đường đi, Chính con và Đường cóc hay đùa nghịch, có khi chạy ra khỏi hàng quân, đuổi nhau rơi cả xuống hố. Tỵ đi cạnh tôi, luôn mồm kể chuyện tiếu lâm. Tới nửa đêm thì tới một bến phà. Ngồi đợi phà mà bụng ai cũng lo vì phà này hay bị đánh phá. Chắc đây thuộc địa phận Ninh Bình hay Thanh Hóa rồi. Xe, người lộn xộn xuống bến. Anh Mạnh C trưởng có lúc phải rút súng ngắn để ngăn xe lại cho lính của mình lên phà. Sàn phà có nhiều lỗ thủng, thấy nói là vết đạn. Đông quá, đứng chen chúc, tôi cố gắng hết sức để tập trung tiểu đội vào một chỗ. Ca-nô dìu phà từ từ qua sông. Ánh đèn gầm của xe trên bến cũ le lói, xa dần. Thấy mờ mờ mấy khung sắt của cây cầu gãy nhịp. Bóng đen của quả núi trước mặt như muốn đổ sập lên vai, gây cho mọi người cảm giác rờn rợn. Từ phà lên bờ thật nhốn nháo. Tiếng ai đó hô vận động nhanh, vì đây là khu trọng điểm đánh phá, lại trống trải. Tất cả cắm đầu chạy, không còn biết đâu là B, là C mình nữa. Cái xoong của cậu nào đó gõ cành cạch liên hồi. Thỉnh thoảng tôi lại gọi Duy Minh, người chạy cuối cùng của tiểu đội, Minh vẫn trả lời đều đặn. Chúng tôi dần dần giảm tốc độ, rồi gặp anh Bính. Sau khi tập hợp được đơn vị, tất cả được lệnh nghỉ giải lao. Chúng tôi nằm ngả ngốn hai bên đường nhựa, thậm chí nằm cả trên mặt đường, xe ô-tô đến rất gần mới thèm bò dậy. Mặc dù có lệnh cấm hút thuốc lá, khắp nơi vẫn lập lòe đốm đỏ. Sau đó lại đi tiếp, đến 3 giờ sáng mới tới làng trú quân. Chúng tôi lăn ra ngủ li bì.
Có lệnh cử người đi lĩnh thêm quân trang: Tăng, ni-lông và võng bạt, tất cả đều mới cứng, hàng của Trung Quốc. Chúng tôi ở lại làng này nghỉ một ngày. Hôm sau anh Bính cử tôi ra gác ở cổng làng, không cho lính đi ra chợ. Lúc về thấy trong nhà có bác bố của Lâm Thành đến thăm, đang nói chuyện. Bác là Trung tá, Phó Chính ủy một trường quân đội nào đó. Bọn tôi trước đây vẫn nghĩ rằng chắc Lâm Thành không phải đi B, ai ngờ cậu ta vẫn đi. Bác đã đạp xe đuổi theo con tới tận đây mới gặp. Bác xem những khẩu AK kiểu mới, nói rằng quân ngụy gọi AK là trung liên cá nhân. Rồi bác bảo Lâm Thành mang ba-lô ra, tự tay sắp xếp lại cho gọn, lại còn nhờ anh em chú ý giúp đỡ, vì cậu ta rất luộm thuộm.
Buổi tối chúng tôi ra xe. Cậu nào cũng tranh ngồi gần cabin. Tôi lên trước sắp xếp ba-lô, ưu tiên cho các cậu mang nồi. Phái “con” và Thành “ma-tịt” thường trèo ngang thùng vào xe để chiếm chỗ. Cả trung đội hơn 40 người nhồi vào một thùng xe tải nên chật chội quá. Tới 10 giờ đêm thì phải xuống đi bộ để chuyển sang xe khác. Được nghỉ ngơi một lúc, tất cả giở cơm nắm ra ăn. Sau đó lại cuốc bộ trên con đường đất đỏ bùn loãng ngập đến mắt cá chân. Đến khi có xe, lính ta cứ chân cẳng bết bùn leo lên thùng, ngồi bệt xuống ba lô. Xe phóng nhanh kinh khủng, lại xóc nữa, nhiều lúc phải gào vào ca-bin bảo đi chậm lại. Cậu Quý “tiết” A trưởng A5 ngồi cạnh ngủ gật, thỉnh thoảng lại đè cả thân hình hộ pháp của hắn vào tôi, làm tôi nhiều lúc nghẹt thở. Vốn không ưa Quý, tôi dựng khẩu AK lên, quay quy-lát về phía hắn. Mỗi lần hắn nghiêng sang, thì cái quy-lát lại đâm sâu vào sườn, làm hắn tỉnh ngủ và không dám đè sang nữa. Xe qua một thị xã, hình như Thanh Hóa thì phải. Xe vẫn chạy điên cuồng. Đêm khuya lắm chúng tôi mới xuống xe, đi bộ vào nơi trú quân. Đi mãi mà không tới nơi, ai cũng mệt và buồn ngủ. Cứ mỗi lần nhìn thấy một vệt sẫm trước mặt, lại tự nhủ “Cố lên, làng kia rồi…”, nhưng lại không phải. Mưa. Mưa nặng hạt, chúng tôi lấy ny-lông ra choàng. Tất cả đã đi lên phía trước, chỉ còn Chính con và Lâm Thành khiêng thùng đạn lẹt bẹt ở phía sau. Cả hai cậu đều nhỏ yếu, mặc dù tôi đã mang hộ hai khẩu súng, nhưng cũng không đi nhanh hơn được. Lội lõm bõm vào tới rìa làng, tôi thoáng nghe: “… B1 rẽ phải!”. Thế là tôi đưa cả hai cậu vào theo luôn. Tìm mãi không thấy B2, ba chúng tôi quyết định ngủ lại một nhà nào đó, mai tìm sau. Chúng tôi gõ cửa một nhà. Một ông cụ ra mở cửa từ chối, nói là trong nhà có bộ đội ngủ rồi. Chúng tôi định quay ra thì từ cái nhà ngang, 1 bà cụ gọi chúng tôi vào nằm tạm. Tôi rút bật lửa châm đèn, thì ra là một cái bếp. Cả ba đứa rút rơm trải ra sàn rồi lăn vào ngủ mê mệt. Sáng hôm sau, để Lâm Thành và Chính nấu cơm, tôi ra khỏi bếp đi tìm đơn vị. Lên tới đầu làng, thấy B1 nằm trong một cái đình, họ cũng bị lạc. Đi xuống cuối làng cũng không tìm thấy, chỉ toàn lính D60. Quay về nhà, thấy Chính đang cãi nhau với một anh bộ đội ở nhà trên. Mấy anh đó đều lớn tuổi hơn bọn tôi nhiều. Chính gân cổ quát: “Anh bộ đội ở nhờ, tôi cũng bộ đội ở nhờ, anh bảo tôi đi đâu?”. Sau được biết đó là anh Chính trị viên phó D60, còn nhà trên là Ban chỉ huy Tiểu đoàn 60, chúng tôi mới sang nhà khác. Ở đây đã có hai cậu liên lạc D60 ở, tôi làm quen với cậu da ngăm đen, vui tính. Cậu ta dạy tôi cách mắc võng với cọc phụ. Rồi những người bị lạc lục tục kéo đến. Tôi gặp C trưởng Mạnh, anh dặn cứ chờ ở đây. Rồi anh Bính dẫn B2 tới, tôi gặp lại tiểu đội. Thực ra Phái, Đường, Thành ma-tịt lạc gần đó mà tôi không biết. Các cậu ấy đã kịp mua con vịt chén rồi. A4 chuyển sang ở hai nhà mới. Tổ 1 gồm Quang, Thành, Phái ở nhà gạch. Còn lại ở một nhà lá. Chúng tôi mua hai con vịt ăn chung cả tiểu đội. Tôi được gọi đi họp cán bộ. Khi về, tôi quyết định củng cố lại tổ chức của tiểu đội, đề ra phương án phân công mỗi ngày một tổ nấu cơm, một tổ mang nồi, một tổ đi lĩnh thực phẩm. Tất cả nhất trí, tôi nhân đà chỉ định luôn Phái con và Thành ma-tịt hôm sau đi lĩnh thực phẩm, vì các cậu này vốn rất lười. Hai cậu cứng lưỡi, đành phải phục tùng. Nhà Tổ 1 ở mới có tang, bàn thờ còn phủ sô trắng với đôi câu đối rất ai oán. Mấy cậu Tổ 1 thấy rờn rợn, cứ gạ tôi xin sang nhà lá ở.
Khoảng 3 rưỡi chiều chúng tôi ra đường cái đợi xe. Các ông xe thồ mang dừa, chanh đến bán cho chúng tôi với giá cắt cổ. Chợt gặp mấy chiếc xe chở lính bị thương từ chiến trường ra. Gặp nhau reo hò. Thấy mấy cậu chạy theo xe để gửi thư, tôi cũng chạy và dúi thư vào tay một anh ngồi ở góc thùng. Hầu như đến trạm nghỉ nào tôi cũng viết thư về nhà.
Mưa lâm thâm, chờ sốt cả ruột mới thấy xe tới. Lại vẫn cảnh ngồi như lèn cá mòi trong thùng xe. Đường trơn, xe đi rất chậm. Bầu trời xám xịt. Những chiếc xe 3 cầu đầy lính nặng nề phun bùn loãng sang 2 bên đường. Không hiểu đây là Đường 15 hay Đường 22? Thật là những con đường gian khổ, hết lên dốc lại xuống đèo. Suốt đêm, xe đi rất thận trọng. Chúng tôi sửng sốt khi thấy trời đã sáng. Hình như đây là dốc Bò Lăn thì phải, vì hai bên đường thấy nhiều xe lật nghiêng ngả. Đã 6 giờ sáng, chúng tôi đành rẽ vào những cánh rừng cao-su gần đấy, giấu xe chờ đến tối.
Lần đầu tiên tôi vào rừng cao-su và nhìn thấy cây cao-su. Tôi ngạc nhiên vì đó là một khu rừng rất sạch sẽ; cây cao-su to bằng thân người, trồng rất thẳng hàng, cách nhau đều đặn. Mặt đất rất sạch, không hề có một ngọn cỏ. Lá cao-su trông như lá sắn, nhưng to hơn và một bản chỉ có 3 phiến lá như 3 ngón tay; ngắt lá là nhựa trắng chảy ra ngay. Thân mỗi cây đều có vết khía như rắn cuốn, ở cuối vết khía gần gốc có gắn cái bát đựng nhựa. Quả là khu rừng đóng quân lý tưởng, mắc võng thuận tiện, củi tốt và dễ kiếm…Chỉ gay nếu bị đánh bom cháy thôi. Buổi sáng, máy bay địch cũng rà qua mấy lần, bay rất thấp. Buổi chiều trời mù nên chúng tôi khởi hành sớm. Hai bên con đường đất đỏ là những nông trường cà-phê và chè bát ngát. Trời bắt đầu mưa. Nhìn chiếc xe đằng trước tôi mới hình dung được đường trơn thế nào. Bánh xe của chiếc Hồng Hà 3 cầu quay tít mà xe vẫn đi rất chậm. Đến chỗ ngoặt thì đít xe hết dệ sang bên này lại trượt sang bên kia, dường như tay lái vô tác dụng. Bên vệ đường mấy chiếc xe Gaz đã nằm chết dí trong vũng lầy. Thật là những con đường gian nan và quả cảm.
Đêm đã khuya chúng tôi mới đến Trạm. Tất cả xuống xe, đi qua một bãi ngổn ngang những cây gỗ rất to. Vào một khu rừng già tối đen, gọi nhau í ới. Tôi nhanh chóng bố trí cho anh em căng tăng mắc võng, rồi ngả người đánh một giấc thẳng cẳng.
Trời vừa sáng, các A đã được báo thức. Việc đầu tiên là tất cả phải đi kiếm củi để nấu ăn. Đây là khu rừng khách đông người, nên việc kiếm củi không dễ. Hôm nay nấu cơm Trung đội, do chưa quen nên nhóm lửa mãi không được. Anh Bính phồng mang trợn mắt, chảy cả nước mắt để thổi mà cũng không ăn thua. Phải đốt rất nhiều giấy và giẻ dầu lau súng mới nhóm được lửa. Người thông khói và quạt. Người ra suối lấy nước túm vào ni-lông vác về. Nói là suối, thực ra chỉ là lạch nước nhỏ nhiều bùn và bẩn. Cuối cùng thì cũng nấu được cơm chia cho các tiểu đội. Khu rừng khách này quả là rộng, chứa được cả Tiểu đoàn 58 của tôi cùng mấy đoàn lính Thái Bình nữa. Mặt đất dưới vòm cây cao khá quang đãng. Cọc phụ, dây song buộc cọc lô nhô khắp nơi. Vỏ đồ hộp màu xanh lá cây vứt đủ mọi chỗ. Nhiều bếp Hoàng Cầm hỏng, trơ cành cây lát đen sì.
Chúng tôi lĩnh quân trang bổ sung: quần áo dài vải phin 1 bộ, quần áo lót cộc tay 2 bộ, 2 gói ruốc thịt, 1 hộp đường, 1 kg sữa bột, 1 gói mì chính, rồi mũ mềm, tất, hộp thuốc cá nhân, ruột tượng gạo, túi cơm nắm… Ba-lô bây giờ đầy có ngọn, không còn hở chỗ nào nữa.
Có lệnh tập hợp toàn tiểu đoàn. Tiểu đoàn trưởng huấn thị, sau đó y tá tiểu đoàn hướng dẫn cách phòng chống sốt rét và cách sử dụng hộp thuốc cá nhân. Chúng tôi đứng xa nên chả nghe thấy gì mấy.
Được lĩnh đồ mới, các đồ cũ lính ta đem cho lung tung cả. Người xin chủ yếu là dân chúng quanh vùng, thuộc địa phận Nghĩa Đàn, Nghệ An. Mai Quý Cường đưa cho một chú bé cái mũ cứng của mình, mặc dù chú ta đã ôm trên tay tới 4-5 cái rồi. Nhiều người dân vào khu rừng bộ đội ở để hốt cơm thừa, nhặt cơm nắm và nhiều thứ linh tinh khác.
Lại có lệnh lên đường. Hành quân bằng xe Giải phóng, lốp to nên chạy khá êm. Trời mới sẩm tối, đoàn xe chạy trên con đường đất đỏ hai bên mọc đầy cây sim. Nhiều sim quá, cây nào cũng đầy quả chín mọng, khiến cho ta có cảm tưởng hai bên đường và các sườn đồi được phủ một lớp thảm mầu tím sẫm (rất lâu sau này tôi mới biết có bài thơ Mầu tím hoa sim). Trời tối đã khá lâu. Ngồi trước mặt tôi, sát ca-bin, là cậu Chính “cá gỗ” liên lạc Đại đội, lúc nãy xe vừa chạy qua đường cái dẫn về quê cậu ta. Giờ đây cậu ta đang ngủ gật, và bị Chính “con” nhẹ nhàng đánh tráo con dao găm, vì dao găm của Chính “con” bị sứt cán. Tôi nhìn thấy hết nhưng không nói gì, vì đang buồn ngủ quá. Chợt chiếc xe dừng lại. Hình như phía trước có bom nổ chậm. Nhưng rồi đoàn xe lại tiếp tục chuyển bánh, các chiến sĩ lái xe đã quyết định đưa xe vượt qua bên cạnh quả bom. Gió đêm mát rượi lùa vào thùng xe. Tới những chỗ ngoặt, nhìn ánh đèn pha le lói của những chiếc xe ra tiền tuyến thật đẹp. Rồi xe chợt giảm tốc độ, chúng tôi không hiểu có chuyện gì xảy ra. Thì ra phía trước đoàn xe là một đoàn chiến xa đang ra trận. Các ông bạn này to lớn kềnh càng, lại chạy chậm. Tôi ngó ra phía trước, thấy một chiếc T54 kếch xù đang án ngữ con đường, đèn đỏ sau đít chói lên dưới ánh sáng đèn pha xe tôi. Thấy còi thúc đít ghê quá, chiếc Tank gầm lên dữ dội, khói ma-dút phả ra mù mịt, rồi chồm lên phía trước lao nhanh như một mũi tên. Trong chốc lát chiếc Tank đã bỏ xa xe tôi khiến chúng tôi rất ngạc nhiên. Nhưng rồi đoàn Tank dừng lại, nhường đường cho đoàn xe chở lính. Mỗi lần vượt qua 1 chiếc Tank chúng tôi lại hò hét inh ỏi, vẫy tay chào các cậu lính Tank đang nhô đầu lên. Một vài cậu lính Tank mặc quần đùi áo lót vừa chui ra khỏi xe đang sửa cái gì đó, điện trong thùng xe Tank sáng xanh.
Tôi lại ngủ gà ngủ gật. Chiếc xe ngoặt mấy lần. Chợt ai đó nói: “Hình như đây có một thị trấn”. Tôi mở mắt nhìn xuống, chợt thấy tòa nhà quét vôi trắng quen quen, và nhận ra đó là Cửa hàng Ăn uống Đô Lương, bên cạnh có hiệu sách. Chiếc xe rẽ ngoặt xuống đường đi Phố Mới. Tôi kể cho đồng đội nghe đây là nơi ông bà ngoại tôi ở. Tới Phố Mới, tôi nhìn vào nhà bà Ba còn thấy đèn sáng ở quán nước trước nhà, và chỉ kịp thét lên “Bà Ba ơi” thì chiếc xe đã vụt qua. Tiếc quá, giá xe dừng lại nghỉ giải lao thì hay biết mấy.
Chúng tôi chạy thẳng về hướng Vinh, nhưng đến Nam Đàn thì đoàn xe dừng lại. Được lệnh xuống xe hành quân vào làng có binh trạm. Vì quân chưa tới đủ, anh Y Đại đội phó ra lệnh tạt vào một cái sân kho nghỉ để đợi. Sân lát gạch rộng mênh mông, chúng tôi giở cơm nắm ra ăn. Đêm rất khuya, đại đội mới tới chỗ nghỉ. Cô giao liên dẫn đường chỉ cho tiểu đội tôi hai nhà. Tôi bố trí Tổ 1 và Đệ ở một nhà, còn lại ở nhà thứ hai. Nhà hơi chật nên tôi mắc võng ra hè ngủ. Hôm sau Duy Minh đi lĩnh trứng muối, thịt tươi, bí, rau, miến về nấu cơm cho tiểu đội. Binh trạm này nói chung hậu cần khá. Đây là xã Nam Hòa, cách Nam Liên quê Bác khoảng 4-5 km và cách Nam Hùng, nơi hồi bé tí tôi đã ở, khoảng 3-4 km. Ở đây có chợ sơ tán, nghe nói có phở, cà-phê, nước chanh. Lính ta nhiều người đem bán quần áo, mũ, mì chính để lấy tiền ăn uống, và cũng để ba-lô nhẹ bớt. Tôi cũng bán cái mũ cứng và một cái áo lót cùng với Quang “xỉu”, rồi vào quán ở ven chợ ăn miến, uống nước chanh. Sau đó hai đứa đi lên đê chơi. Dòng sông Lam ánh lên chói mắt dưới nắng trưa, bầu trời xanh ngắt. Chúng tôi theo dõi những chiếc máy bay A6A của Mỹ đang nghênh ngang và hùng hổ bổ nhào đánh phá rú Đụn bên kia sông. Không thấy có tiếng súng bắn trả. Tôi nhìn những quả núi lô nhô, và tự hỏi không biết quả nào là rú Chung, rú Thành như trong các sách tả cảnh quê Bác đã nói tới. Và tôi cũng rất muốn đến thăm quê Bác một lần.
Hai giờ chiều, anh Bính báo cho các A nấu cơm nắm và ăn cơm để 4 giờ hành quân. Chúng tôi gấp rút chuẩn bị. Cũng may quần áo tắm giặt đã khô. Còn thừa một quả bí chẳng ai chịu mang, đành biếu gia đình chủ nhà. May mà hòm đạn đã phá ra chia mỗi người mang một ít, không cũng chết dở. Ra đến bến sông thì trời đã tối. Tất cả lên sà-lan ngồi, chiếc ca-nô đi kèm nổ máy phành phạch. Hơn trăm con người ngồi lọt thỏm dưới lòng tàu, một số cậu trèo lên thành đứng. Hình như sà-lan đi ngược dòng sông Lam thì phải. Tôi dựa vào thành tàu ngủ gật, thỉnh thoảng vài giọt nước từ ngoài mạn lại tóe vào lành lạnh. Hơn một giờ sau, chúng tôi lên bờ. Cái cầu tầu nhỏ quá, trời lại tối đen như mực. Tôi gào thét trong đám hỗn độn để tập hợp tiểu đội và tìm trung đội của mình. Chúng tôi như đi trên một con đê rộng, mặt lát đá, hai bên vệ đê là nhà cửa. Một số bà bưng bánh chưng ra bán cho bộ đội, hình như họ làm cái việc bán hàng ban đêm này thường xuyên lắm rồi. Tôi cũng mua một chiếc. Các rổ bánh loáng cái đã hết. Cả đại đội ngồi bên vệ đường nghỉ giải lao. Tôi ngồi ăn cơm nắm với Tỵ, Quang, Thành “ma tịt”, Phái. Kiểm điểm lại quân số, thấy còn thiếu Minh, Đường, Chính. Gay quá, tôi báo cáo anh Bính, rồi chạy ngược chạy xuôi tất tả tìm. Xuống mãi tới cuối Tiểu đoàn mà cũng không thấy. Lúc chạy qua C50 tôi gặp Phổ Thọ, tranh thủ nói với nhau được mấy câu. Tới khi về lại Trung đội thì nghe nói hình như các cậu ấy đã đi lên trước rồi. Đêm đã khuya lắm mà con đường phi lao giữa cánh đồng vẫn như bất tận. Đã nghỉ giải lao tới 2-3 lần. Càng về khuya, lính ta càng mệt mỏi, buồn ngủ, lại mang nặng, nên chỉ đi được khoảng 2 km đã phải nghỉ. Chúng tôi nằm vật xuống vệ cỏ. Lác đác gặp những người đi chợ sớm, gồng gánh nặng trĩu. Khi đã mệt rũ thì có lệnh phía trên truyền xuống: dừng lại nghỉ để đợi dẫn vào nhà dân. Các B khác đã được dẫn đi hết, riêng B tôi phải ngồi đợi tới sốt cả ruột. Gặp lại Chính, Đường, Minh: các cậu đó yếu, lại đau bụng, nên phải đi lên trước theo sát ngay sau cô giao liên. Kinh nghiệm cho thấy: người đi đầu hàng quân sướng nhất, người đi cuối hàng quân thì thật khổ. Trong khi người đi đầu bước rất thong dong, thì người đi cuối luôn phải chạy gằn, nhiều lúc phải chạy hộc cơm ra mới đuổi kịp.
Nhận nhà xong, tôi sang ngủ cùng Tổ 2. Tôi hay đi với Tổ 2, vì Tổ trưởng Lâm Thành còn non nớt quá, và tôi cũng thích tổ này. Hôm sau Tổ 3 của Minh mua vịt về không biết làm sao lại dỗi với nhau, làm lông rồi chẳng ai nấu cả. Hình như Chính “con” và Đường “cóc” cãi nhau về việc cắt tiết: Chính áp dụng “phương pháp mới”, cắt tiết ở sườn bên dưới cánh. Kết quả là chả có tý tiết nào mà con vịt chết ngoẻo. Thế là sinh chuyện, tôi phải dàn xếp mãi.
Tôi và Tỵ đi ra giếng tắm. Đây là cái giếng đất có cắm bảng Cấm tắm gần nên tôi và Tỵ phải thay nhau xách nước cho nhau tắm. Vùng này hình như vẫn thuộc địa phận Nam Đàn nhưng xa xa đã thấy núi non làng mạc thuộc Hà Tĩnh. Buổi chiều chúng tôi ngồi nhìn những chiếc máy bay Mỹ vòng lượn rồi bổ nhào về phía Phà Linh Cảm và cầu Thọ Tường. Không gặp hỏa lực bắn trả nào, chúng bay một cách thản nhiên và ngông nghênh như bầu trời là của chúng. Tôi lộn tiết nghĩ: “Nếu chúng mày mà bay chậm như vậy ở ngoài kia thì đã bị bắn tan xác rồi”. Vừa lúc ấy có một đoàn thương binh đi ngược về phía chúng tôi. Một anh hỏi: “Có lính Hà Nội không?”. Chúng tôi đáp: “Toàn lính Hà Nội thôi” rồi xúm lại quanh anh nhờ gửi thư và hỏi chuyện. Lúc nào trong túi tôi cũng có một lá thư đã viết sẵn nên có dịp là gửi được ngay. Hôm qua tôi cũng gặp một đoàn thương binh đi ra, quần áo xộc xệch lem luốc, băng quấn trên đầu, trên tay.
Tuy vẫn mệt nhưng đến chiều tối chúng tôi lại lên đường. Đoàn quân vượt qua một cánh đồng và bắt đầu đi giữa những làng mạc của Hà Tĩnh. Anh Bính hỏi: “Quê cậu ở đây phải không?”. Tôi nói: “Đây là Đức Thọ, quê của bà nội tôi. Còn quê của ông nội thì ở chỗ những dãy núi trọc, thấp, nhấp nhô kia kìa, đó là Hương Sơn”. Chúng tôi nghỉ giải lao trên đê. Tôi nói chuyện với Bùi Ngọc Toàn A12, nhắc lại những kỷ niệm ở Trường PTCN Hai Bà Trưng, nơi tôi là Đội trưởng Cờ đỏ, còn Toàn là đội viên. Tới một xóm nhỏ, chúng tôi ngồi đợi đến lượt qua phà Linh Cảm. Lúc xuống bến tôi rất ngạc nhiên khi thấy đó là một đoàn 4-5 toa như toa xe lửa, ở đầu có một cái ca-nô kéo. Qua khỏi phà khoảng 3 km, đơn vị được lệnh dừng ăn tối bên đường, cơm nắm với ruốc thịt. Mấy cái xe xích chạy qua ầm ầm, nghiến đường ken két, khói bốc mù mịt. Đêm đã khuya lắm, chúng tôi vẫn tiếp tục đi, có đoạn qua làng, có đoạn đi giữa sự mông quạnh dưới ánh trăng mờ. Một số cậu tách khỏi hàng chạy ra cái biển ở ngã ba đường xem chỉ đi đâu. Biết bao lần tự đặt mục tiêu là cái làng trước mặt để phấn đấu, nhưng mãi mà không tới. Chẳng ai buồn nói câu nào. Đoàn quân đi rời rạc, đội hình cách quãng. Thỉnh thoảng một chiếc xe tải chạy vụt qua, để lại phía sau cả khối bụi khổng lồ. Đoàn quân cứ xuyên bụi mà đi. Rồi chúng tôi bỏ đường cái, xuống con đường dốc thoai thoải dẫn vào làng. Hai bên đường có nhiều xe tải ẩn nấp. Lính ta nhiều anh chẳng còn biết A mình, B mình ở đâu nữa, được nghỉ là quảng ba-lô nằm lăn ra vệ đường. Chúng tôi tập kết ở một bãi cỏ, đợi những người đi sau lục tục kéo đến. Rồi lại đi tiếp. Quanh co một hồi trong làng, đi xuyên qua sân và vườn mấy nhà, cuối cùng cũng đến nơi ở. Quá mệt, tôi trải ni-lông ra sàn, làm một giấc li bì.
Hôm sau tôi đi lấy thực phẩm cho tiểu đội. Từ bãi cỏ hôm qua phải đi men theo làng một quãng khá xa mới tới Binh trạm. Tôi ngồi chờ dưới tán những cây cọ non thấp lè tè, xem mấy người phục vụ Binh trạm đang dựng một khung nhà tre. Rồi chúng tôi vào nhận củi và gạo, tiếp đó đi nhận thực phẩm ở chỗ khác. Dọc đường tôi mua bánh chưng và bưởi ăn vì đang đói. Phải lấy thanh củi làm đòn gánh, dò dẫm qua một cái cầu lát ván hở hoác, chỗ có chỗ không, lạc loanh quanh mãi đến dừ vai mới về được nhà.
Binh trạm này đóng ở xã Đức Lạc, Đức Thọ. Ở đây, chúng tôi khoái nhất đi tắm sông. Thật là một con sông tuyệt đẹp, có cái tên giản dị mà ấn tượng: Sông Ngàn Sâu. Ngàn Sâu từ Hương Khê và Ngàn Phố từ Hương Sơn họp thành con Sông La thơ mộng của Hà Tĩnh. Ngàn Sâu không rộng lắm, nước trong xanh êm đềm, ở dưới toàn cát, lội xuống không một chút vẩn. Sáng có thể lội qua sông một cách dễ dàng. Nhưng đến chiều thì không thể lội qua được vì thủy triều lên. Lâm Thành và Chính suốt ngày lặn hụp, mặc dù trời nắng chang chang. Chúng tôi mang dao găm ra cắm phầm phập xuống cát và lấy cát đánh cho tới khi sáng loáng. Các cậu B3, B4 cởi trần truồng như nhộng, cả bầy tồng ngồng la hét đùa nghịch, lặn hụp, lấy cát vùi nhau chỉ còn thò cổ lên. Anh Hồng Chính trị viên Đại đội ra thấy thế phải giơ tay la trời, hạ lệnh cấm tắm. Tuy vậy chúng tôi vẫn trốn đi một cách kín đáo.
Quang và Tỵ rủ nhau đi chợ, tôi và Minh cũng đi. Chợ khá nghèo nàn: rau, cá, một vài thứ hàng xén, bánh gói, bánh đa… Chúng tôi dừng lại chọn bưởi, mít. Bưởi ở đây rất to, tép cũng rất to, có thể bốc từng nắm bỏ vào mồm ăn như cơm vậy.
Buổi tối, tôi kể chuyện “Hầm bí mật bên bờ sông En-bơ”, cả tiểu đội há hốc mồm ra nghe. Đêm đã khuya và tôi cũng thấm mệt, nhưng bọn Thành, Phái cứ nhất định bắt kể hết mới được yên thân. Chủ nhà chúng tôi ở là một người đàn ông cụt tay tới bả vai. Tuy vậy ông vẫn dùng tay còn lại sử dụng cái vồ đập đất một cách thành thạo. Ông là người thẳng tính, ăn to nói lớn. Còn bà vợ thì lại khó tính và hay cảu nhảu...
Chúng tôi ở đây đến ngày thứ 3 mà vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Chợt chiều hôm đó có lệnh tập hợp, nghe anh Mạnh - C trưởng, rồi anh Hồng nói chuyện. Máy bay Mỹ đang gào rít trên đầu. Chúng tôi vẫn bình chân như vại, ngồi ngắm những chiếc phản lực bổ nhào xuống ném bom vào một vùng cách khoảng 4-5 km. Từng đụn khói trắng vàng cuộn lên từ từ. Đạn cao-xạ vun vút đi sạt qua những chiếc máy bay, nhưng không chiếc nào trúng đạn. Thật là một cuộc chiến đấu ác liệt mà cũng giống như một trò chơi.
Tới tối mịt vẫn chưa ra xe. Hình như hôm nay chỉ có C50 và C51 đi thôi. Được lệnh trở lại nhà cũ, chúng tôi hơi ngượng vì đã chào từ biệt gia đình lúc chiều.
Tôi đang đứng tập phi dao găm vào mấy cây cọ thì Chí Thành đến. Thành phàn nàn với tôi là A5 đối xử với cậu ta rất tệ, Thành gần như bị cô lập. Tôi rất thương Thành, bèn bàn với cậu ta thử xin anh Bính cho chuyển sang A tôi xem sao. Lúc sau có Long “cồ” sang gọi đi lĩnh thịt và đường cho tiểu đội. Lâm A6 đã chia phần sẵn, chỉ việc lấy. Lâm nói tôi đi qua A5 nhắn Quý A trưởng đến nhận, nhưng Quý lại phân công Châm “thối tai” đi, mặc dù Châm phản đối ầm ĩ.
Về đến nhà thấy lính ta đang xôn xao bàn chuyện cậu Tụy B3. Cậu này gây chuyện đáng xấu hổ với dân, bị ông chủ nhà tóm được. Cậu ta còn đâm mấy cậu cùng tiểu đội, rồi bỏ trốn. Đại đội đang cử người truy tìm, cậu này dễ tự tử lắm.
Quảng Trị 1972 Quảng Trị 1972 - Nguyễn Quang Vinh Quảng Trị 1972