Số lần đọc/download: 105 / 24
Cập nhật: 2020-06-17 09:38:34 +0700
Chương 6 - Lá Thư Định Mạng
T
rong khi đại tá Tze, yếu nhân của Quốc tế Tình báo Sở, chỉ huy tàu đánh cá Ngọc-Bích và kế hoạch Kim Cương của Bắc-kinh, đang cười oang oang một cách ngạo mạn giữa tiếng sóng gầm thì chiếc khoái đĩnh tối tân treo cờ đồng mình đã đưa Văn Bình và Triệu Dung về tới hàng không mẫu hạm ZZ.
Triệu Dung không cười vì bản tính cố hữu của chàng là nghiêm nghị và suy tư. Chàng lại càng yên lặng hơn bao giờ hết để gỡ mối bòng bong. Văn Bình là người vui tính, thích đùa bỡn vào những lúc trọng đại nhất, cũng không nói gì nữa.
Hai người vừa đặt chân lên boong thì hạm trưởng đã nói:
- Họ đang chờ mình trong ca-bin. Mời hai anh tới một vài phút. Tôi hy vọng là tìm được một vài dấu vết.
Văn Bình ngẩn đầu nhìn hạm trưởng:
- Chuyện Tim ấy à?
Hạm trưởng đáp:
- Phải. Chuyện Tim bị giết. Bị nhân viên của địch hạ sát... Dầu khôn ngoan đến đâu, địch cũng để lại đôi chút hớ hênh. Với tài quan sát và điều tra tài tình của hai anh, tôi tin là...
Văn Bình gạt đi:
- Thôi, tôi tưởng nhân viên anh ninh của mẫu hạm điều tra cũng đủ. Lát nữa, chúng mình sẽ nghiên cứu bản báo cáo của họ.
Hạm trưởng nhìn Văn Bình bằng cặp mắt vô cùng kinh ngạc:
- Thái độ của anh khác thường. Hay là...
Văn Bình nhún vai:
- Xin lỗi anh, tôi hơi mệt. Chắc anh còn nhớ là tôi bị thương. Tôi cần về phòng, nghỉ một lát.
Chàng định nói tiếp "Nhân tiện thăm sức khỏe Nguyệt Hằng". Song hạm trưởng không biết Nguyệt Hằng là ai, cũng không biết nàng là tình nhân éo le của Văn Bình. Hạm trưởng chỉ biết nàng cải trang đàn ông, thế thôi.
Ngoảnh lại, Văn Bình thấy Triệu Dung hơi nhíu lông mày. Càng đọc ngay được tư tưởng của bạn. Chàng bèn hỏi:
- Đi rồi hả?
Triệu Dung đáp:
- Rồi. Phi cơ của hai đứa mình vứa cất cánh thì phi cơ khác từ duyên hải tới chở nàng về.
- Quái... Nàng còn đau, về một mình sao được? Ai hộ tống nàng về Sàigòn?
- Lê Diệp.
- Tại sao Lê Diệp không nán lại một lát chờ bọn mình?
- Tôi cũng không hiểu. Người ta vừa nói cho tôi biết xong. Xưa nay, ônh Hoàng vẫn có thói quen làm việc úp úp mở mở như vậy. Tôi có cảm tưởng là ông Hoàng nắm được nhiều đầu mối quan trọng.
Văn Bình chật một tiếng ra vẻ chịu đựng rồi tiếp:
- Dĩ nhiên. Lần nào, giao công tác cho tôi, ông cụ cũng chẳng tiết lộ gì hết. Tôi bước vào công tác bí mật với hai mắt luôn luôn bị bịt kín.
Triệu Dung quay vế phía bạn:
- Còn Như Luyến, anh nghĩ sao?
Văn Bình định đáp, nhưng hạm trưởng đã tới gần. Hạm trưởng bắt tay chàng, giọng hơi mỏi mệt:
- Mời hai anh nghỉ một lát cho khỏe. Trong khi ấy, tôi sẽ cho tập hợp các nhà khoa học còn lại. Tôi hy vọng công cuộc thí nghiệm phi cơ có thể hoàn thành trong thời gian dự định.
- Theo dự liệu của anh thì phải mất hai tuần.
- Vì các nhà khoa học mất đúng hai tuần mới hoàn thành được cuộc thí nghiệm chiếc VTOL, thứ nhất. Họ đông người lại quen việc. Dầu sao, chỉ còn 6 chuyên viên mà thôi, 15 người đã thiệt mạng.
- Anh tin 15 ngươì đã thiệt mạng trong tai nạn vận tải hôm qua không?
Hạm trưởng đứng lặng một phút, vẻ mặt bâng khuâng:
- Bán tín, bán nghi, anh ạ. Tử thi nạn nhân, như anh đã thấy, đều nát bét, không thể nào nhận diện được, nên khó đoán được ai chết, ai còn sống. Chiếc VTOL được báo cáo là tan thành mảnh vụn, vậy mà còn lành lặn, không tróc một vết sơn, gần hồ Vệ thần... Có thể các chuyên viên của ta còn sống. Cũng có thể họ đã chết. Đầu óc tôi đang rối beng, tôi sắp mất trí rồi. Trăm sự, tôi trông cậy ở hai anh.
Văn Bình giã vờ che tay ngáp, rồi nằm dài xuống giường:
- Vâng, chúng tôi xin cố gắng giúp anh một tay. Nhưng anh cũng nên hiểu là...
Hạm trưởng ngắt lời:
- Tôi hiểu ý anh rồi. Lát nữa, nhân viên của tôi sẽ mang Uýt-ky vào ca-bin cho anh. Trên tàu nầy, cái gì cũng đầy đủ, Uýt-ky nguyên chất hảo hạng, thuốc Salem, sâm banh Pháp, caviar, đồ nhắm tuyệt trần, chỉ thiếu một điều, mong anh tha lỗi.
Văn Bình cười nụ với hạm trưởng, rồi quay vào tường thép. Nhưng hạm trưởng vừa ra khỏi căn phòng hẹp, Văn Bình đã nhảy vọt dậy. Chàng nhìn Triệu Dung bằng luồng mắt ranh mãnh. Triệu Dung vẫy tay bạn ra vẻ thích thú trong khi nằm rạp xuống sàn tàu, dán mắt vào từng phân vuông một.
Triệu Dung đã đoán được tư tưởng thầm kín của Văn Bình. Văn Bình ngồi dậy là để khám phá dụng cụ khả nghi trong ca-bin. Nếu địch còn nhiều tay sai trên pháo đài ZZ, thế tất ca-bin của hai người phải được gắn dụng cụ ghi âm lén lút.
Hoặc biết đâu vì thói quen nghề nghiệp, hạm trưởng cũng tìm cách nghe trộm, nhìn trộm hai người trong ca-bin?
Nhưng Văn Bình và Triệu Dung có thể an tâm. Trong phòng không có một bộ phận điện tử bí mật nào hết. Giờ đây, hai người có thể trò chuyện kín đáo với nhau.
Triệu Dung nhắt lại câu nói bỏ vở cách đây 10 phút:
- Trước khi chúng mình ngủ một lát, tôi muốn anh có một sự nhận định một cách dứt khoát. Nhận định dứt khoát về Như Luyến.
Nghe bạn nói, Văn Bình bàng hoàng. Triệu Dung quả không hổ danh là tinh hoa của Sở. Triệu Dung cũng nghĩ như nhàng.
Trong óc, Văn Bình nhớ lại quang cảnh đặc biệt cách đây không lâu: tời nắng như thiêu đốt, mấy ngọn nến trắng leo lét cháy trên tấm vải đen, phủ lên cái thùng sắt lớn. Theo lời hạm trưởng, thùng sắt gắn kín này chứa đựng những mảnh thân thể còn lại của nạn nhân bị nạn phi cơ trên boong mẫu hạm.
Và trong số nạn nhân có Như Luyến.
Văn Bình đã nghiêng mình trước cái thùng sắt. Con chó Tây-tạng thông minh chạy tới một bên chàng, ghé mõm lại gần, ngửi một hồi lâu rồi lùi ra phía sau. Nó không sủa gâu gâu như thường lệ. Khi ấy, Văn Bình không bỏ sót phản ứng nhỏ nhặt nào của con chow-chow.
Nó thân Như Luyến như hình với bóng. Tại sao nó ngửi thấy chủ biến thành than trong thùng sắt mà bộc lộ xúc động?
Có thể nào con chow-chow không ngửi thấy không? Văn Bình tin chắc là nó ngửi thấy. chow-chow là một trong các giống chó thính mũi nhất nhì thế-giới.
Nếu ngửi thấy, nó phải sủa vang. Song con chow-chow lại chẳng có cử chỉ nào đặc biệt.
Vi lẽ dễ hiểu là trong thùng sắt không có xuơng thịt của Như Luyến. Vì lẽ dễ hiểu là nàng chưa chết. Tất cả mọi việc xẩy ra chỉ là một tấn kịch được dàn cảnh một cách xảo quyệt.
Văn Bình đáp lời bạn:
- Tôi cũng nghĩ như anh.
Triệu Dung cười:
- Hôm nay, anh đã kết luận như vậy mà anh cố tình giấu tôi. Anh gớm thật!
Văn Bình nhói ở tim:
- Giấu anh khi nào?
Triệu Dung vẫn cười:
- Lúc mặc niệm trước thùng được xác chứ còn khi nào nữa! Tôi thấy anh đổi khác nên nhận ra liền. Sở dĩ tôi không hỏi anh vì thấy địch đang núp nhìn trộm.
- Nghĩa là anh đồng ý với tôi là Như Luyến chưa chết.
- Đồng ý trăm phần trăm. Ngay sau khi tai nạn vận tải cơ xẩy ra, tôi đã có linh tính là nàng còn sống.
- Tôi không dám coi thường giác quan thứ sáu của anh, nhưng dầu sao, đó cũng chỉ là phỏng đoán.
- Anh để tôi nói nốt. Linh tính ban đầu của tôi đã được bằng chứng cụ thể xác nhận. Hẳn anh còn nhớ văn phòng của Như Luyến trên pháo đài nổi ZZ được hòng vệ bằng nhiều dụng cụ an toàn vô cùng tinh vi và tân tiến, có lẽ văn phòng của ông Hoàng còn thua!
- Đúng. Nào khoá cửa bằng máy chụp hình điện tử, với súng bí mật bắn thốc mê ZBER và nhất là ca-bin của nàng được đạt trên bánh xe, bấm nút là rời khỏi thân tàu, văng xuống biển. À, anh đặt ra câu hỏi này làm gì vậy?
- Để xác nhận với anh rằng hàng không mẫu hạm là một pháo đài kiên cố.
- Tôi có phản đối đâu?
- Anh đến sau tôi nên không biết rõ hệ thống phòng vệ của mẫu hạm. Không riêng gì ca-bin của Như Luyến, ca-bin của các khoa học gia quan trọng khác cũng đều được trang bị máy móc kỳ lạ như vậy. Tôi nhắc lại là để anh lưu ý tới mối quan tâm hàng đầu về phương diện an ninh. Mỗi lần vận tải cơ Convair rời mẫu hạm đi Hoàng Sa, hoặc từ Hoàng Sa về mẫu hạm, mọi biện pháp an ninh đã được áp dụng.
- Vậy mà địch vẫn tìm cách phá hoại được... Trái bom cực mạnh gài ở bụng phi cơ làm khi đáp xuống bị nổ tan tành...
- Đó là chi tiết tôi muốn thảo luận lại với anh. Như anh đã biết, Như Luyến tới pháo đài ZZ với nhiệm vụ hoàn thành thí nghiệm hai chiến cụ đặc biệt, phi cơ VTOL và tiềm thủy đĩnh bỏ túi. Ngoài ra, nàng còn thí nghiệm một võ khí khác nữa, kích thước bé nhỏ, song tầm quan trọng rất lớn lao. Tôi muốn nói đến máy tìm bom.
- Máy tìm bom?
- Phải, máy tìm bom. Anh đừng bĩu môi vội. Từ nhiều năm nay, người ta đã chế ra máy tìm bom, song đó mới là những dụng cụ dó mìn tầm thường.
- Gần đầy, Hoa-Kỳ vừa chế tạo một dụng cụ tân tiến và nhạy cảm gấp chục lần. Trong hao hao như công-tơ tìm tia phóng xạ Geiger, nơi nào giấu bom, mìn, chỉ lia máy bên trên là kim đồng hồ chạy loạn xạ, và phát ra âm thanh rè rè...
- Đồng ý. Nhưng loại máy được chế tạo chưa đạt tới mức tinh vi. Máy tìm bom mà Như Luyến đang thí nghiệm không những nghe được tiếng tích tắc nhỏ của bộ phận đồng hồ gài trong bom, lại còn nhìn thấy được nó, anh nhớ chưa, nhìn thấy được bom và mìn xuyên qua gỗ, lát-tích, đất, đá hoặc kim khí bao bọc nữa.
- Trời ơi!
- À, bây giờ anh mới chịu ngạc nhiên. Anh ngạc nhiên là phải. Có thể nói chưa có dụng cụ nào lại tối tân bằng dụng cụ của Như Luyến. Tối tân vì nó nhạy cảm đã đành, nó còn tối tân ở điểm có thể bỏ gọn trong cái xắc tay phụ nữ nữa.
- Và Như Luyến đi đâu cũng cất trong xắc tay?
- Đúng. Giả sử nàng có mặt trên chuyến phi cơ Convair bị gài bom, nàng phải khám phá ra ngay. Trái bom ghê gớm có thể nằm yên từ đảo Hoàng sa vể đến mẫu hạm là vì Như Luyến không có mặt trên phi cơ.
- Tôi cũng nghĩ như anh. Nàng không có mặt. Nghĩa là nàng đã bị địch bắt tại đảo Hoàng sa. Tuy nhiên, theo báo cáo của ban An ninh thì cả thảy 15 nhà khoa học bị thiệt mạng tong tai nạn hôm qua, chưa kể phi hành đoàn. Chúng mình mới biết về Như Luyến. Còn số phận của 14 người khác?
- Theo tôi, có lẻ họ đều bị bắt cùng với Như Luyến.
- Phỏng đoán hay bằng cớ?
- Tuy là phỏng đoán nhưng cũng gần chắc chắn như bằng cớ. Vì ngoài Như Luyến ra, một chuyên viên khác đã có máy tìm bom. Nếu chỉ Như Luyến bị bắt, họ được trở về mẫu hạm thì dọc đường, họ phải khám phá ra trái bom, hoặc ít ra đã liên lạc với hạm trưởng để báo cáo tình hình. Đằng nầy, họ hoàn toàn im lặng.
- Còn phi hành đoàn?
- Phi hành đoàn thì đúng là nhân viên mẫu hạm. Song tôi có cảm nghĩ phi hành đoàn bị cưỡng bách lái máy bay từ Hoàng sa về, chở theo một số nhân viên của địch. Những nhân viên này cũng như phi hành đoàn, không biết máy bay bị gài bom. Họ đã bị địch hy sinh một cách ngon lành và tàn nhẫn.
- Nói tóm lại, Như Luyến và 14 nhân viên của ta còn sống?
- Còn sống, nhưng địch phải bó tay.Vì chiếc VTOL đã chìm dưới nước. Họ có thể đưa người nhái tới trục lên, nhưng sợ lộ. Vả lại, hạm trưởng đã huy động một lực lượng hùng hậu bao vây chạt chẽ khu vực chiếc VTOL lâm nạn, chờ toán người nhái của mẫu hạm tới mò lên.
-Vậy theo anh, địch sẽ làm gì?
- Tôi tin rằng kẻ cầm đầu chiếc tàu đánh cá trá hình là một thủ lãnh cừ khôi. Nghĩa là ít ra, hắn phải như anh và tôi. Nghĩa là hắn có một óc tưởng tượng khá phong phú. Hắn phải tìm mọi cách để đoạt chiếc VTOL...
- Chiếc VTOL đang được cất trên mẫu hạm?
- Phải.
- Đoạt bằng cách nào?
- Chưa biết. Theo tôi dự đoán, địch biết là chúng ta phải tiếp tục công việc thí nghiệm và trong hai tuần sẽ thành công. Chắc giờ nầy, địch đã khám phá ra hành tung của anh và tôi. Anh là hoa tiêu chuyên nghiệp, chắc sẽ lãnh phần lái chiếc VTOL thí nghiệm...
- Ồ, anh và tôi đều nghĩ giống nhau. May mà chúng ta đều chung một chiến tuyến. Vâng, tôi tin rằng địch đang tìm cách đoạt chiếc VTOL... đoạt bằng võ lực rất khó khăn, thế tất họ phải dùnh mưu mẹo. Và mưu mẹo thích hợp nhất trong lúc này là...
Văn Bình nín bặt, giương cặp mắt rí rỏm nhìn bạn. Triệu Dung chắt lưỡi:
- Anh lại muốn tôi viết vào lòng bàn tay chứ gì? Ừ, phong cảnh hôm nay cũng giống như hồi nào trên Địa-Trung hải. Lần ấy, tôi đoán trúng ý anh. Song lần nầy...
Triệu Dung vừa gợi lại một kỷ niệm xa xăm, nhưng chứa đầy thân mật. Hồi đó, hai người phục vụ trong hàng ngũ tình báo đồng mình, tung hoành khắp Âu châu trong đại chiến thứ hai. Một buổi trưa đầy nắng, hai người lênh đênh trên tuần dương hạm Mỹ tại Địa-Trung hải, sửa soạn đổ bộ lén lút vào Ý để vào Trung Âu, gia nhập chiến khu kháng Đức.
Đối với Văn Bình cũng như Triệu Dung, Ý là một quốc gia gợi cảm, vì bà vợ thứ nhất (cũng là cuối cùng) của ông Hoàng, tổng giám đốc, đã sinh tại Ý. Ý còn là nơi có nhiều món ăn ngon, nhiều cô gái đẹp, ngoan ngoãn và trung thành.
Nhìn về phương bắc, Văn Bình hỏi Triệu Dung:
- Đố anh, tôi đang nghĩ gì?
Triệu Dung cười;
- Đố thì phải có tiền. Anh đặt bao nhiêu?
Văn Bình chuyên môn không có tiền mặc dầu chàng kiếm tiền như nước. Dường như đời chàng là cánh đồng trống mênh mông, bạc giấy chất thành đống cũng bị gió mạnh cuốn bay trong chớp mắt.
Chàng bèn đề nghị:
- Thú thật với anh, tôi chẳng còn xu nào cả. Nếu anh muốn, tôi xin giới thiệu anh một cô nàng xinh như mộng.
Cám ơn, tôi không thích đàn bà, nhất là đàn bà chưa đến 20, suốt ngày õng ẹo, đòi ăn bột và đòi bú sữa.
- Buồn ghê! Nếu anh nhận lời, thì nhất định là thua. Trong đời, tôi ít khi thua cuộc.
- Hừ, anh lại khích tôi. Anh đáo để thật! Thôi được, anh không có tiền, tôi cũng sẵn sàng đánh cuộc. Giờ đây, anh và tôi, mỗi người viết vào lòng bàn tay. Chẳng hạn, anh đang nghĩ tới cô gái xinh như mộng thì viết chữ "gái". Nếu tôi cũng viết chữ "gái" là đúng. À, xin anh nhớ cho điều nầy: Đừng nghĩ một đàng mà viết một nẻo nghe...
- Đời nào, xin anh tin tôi.
Hai người che tay lại, lúi húi viết. Văn Bình xòe bàn tay ra trước:
- Tôi viết chữ "cơm". Anh viết chữ gì?
Triệu Dung xòe theo. Văn Bình giật mình, kinh phục. Giữa bàn tay, chữ R bằn mực đỏ nằm nghên ngang. R tức là Risotto, tiếng Ý gọi là gạo, nghĩa là cơm, món ăn quốc hồn, quốc túy của người Việt. Sống trong nước, ít người Việt nào để ý tới món ăn hằng ngày, nhưnng đến khi tha hương mới hiểu được tính chất thiêng liêng của dĩa cơm bốc khói nghi ngút.
Văn Bình và Triệu Dung lang thang ở Âu châu, nhiều lần nhớ cơm phát điên. Vì gạo không phải là món hiếm, nhưng người Âu không thổi cơm như người Việt, và dầu đôi khi thổi giống như ngươì Việt thì thiếu thốn hương vị khó tả, hương vị quê nhà.
Trên đất Pháp có nhiều món ăn ta song chiến tranh và tình trạng chiếm đóng không cho phép hai người thưởng thức đàng hoàng. Thời gian ở chiến khu, họ phải làm quen với hai món cơm độc đáo của Pháp, cơm nấu với cà chua, cũ nghệ, hành và đồ biển[53] và cơm với cà chua, ớt[54].
Tới Đan Mạch cũng tìm thấy cơm, nhưng đó là cơm riêng: một thứ cháo bằng gạo nuốt không trôi vào dạ dày[55] và một thứ bánh bột gạo chiên[56] ăn vào chỉ tăng thêm một mối sầu lữ thứ.
Dân chúng Hòa Lan có nhiều món cơm hơn, nhưng chung quy cũng là bánh bột gạo[57] chán phèo. Ăn được may ra là món cơm trộn với gan và cà chua[58]. Nhưng đến khi ăn bánh bột gạo ngọt mật với trái cây thì kẻ hay quên nhất cũng phải nhớ nhà[59].
Ở Na uy, niềm nhớ còn dâng cao hơn nữa vì gạo ở đây đã được dùng một cách ngược đời. Đó là dùng gạo làm bánh tráng miệng[60], cũng như ở Thụy điển[61].
Vì vậy, Văn Bình và Triệu Dung thèm được quay laị Ý đại lợi để được gần quê hương vì thực đơn Ý ít nhất là gồm 20 món nấu với gạo. Đôi bạn giang hồ mê nhất món cơm gan gà[62], cơm tôm[63] và cơm nấm[64]. Món cơm bất hủ này trở thành bất hủ hơn nữa dưới bàn tay gia chánh khéo léo của một thiếu nữ đôi mươi thân thiết với Văn Bình.
Trưa hôm ấy, trên Địa-Trung hải, hai người đều viết chữ risotto quen thuộc trên lòng bàn tay. Kỷ niệm êm đềm ấy bừng sống lại làm cả Văn Bình và Triệu Dung xúc động. Tuy hoạt động nhiều, tim óc rắn lại, họ vẫn là những người giàu tình cảm, dễ bồi hồi vì kỷ niệm xa xưa hơn ai hết.
Văn Bình đặt tay lên vai bạn:
- Lần trước, tôi thua anh. Lần nầy, cuộc thách đố hoàn toàn đổi khác. Tuy nhiên, tôi vẫn có linh tính là sẽ tiếp tục thua anh.
Triệu Dung lẵng lặng viết chữ S vào gan bàn tay rồi chìa ra cho Văn Bình xem.
Văn Bình ồ lên một tiếng. Chàng cũng viết như vậy. S là săng-ta. Đối phương sẽ dùng thủ đoạn săng-ta để bắt chàng trao chiếc VTOL còn nguyên cho họ.
Hai người như hiểu lòng nhau bỗng ôm lấy nhau cười vang.
Mặt biển đang quang đãng bỗng tối sầm, dường như báo hiệu một trận bão lớn.
Thật ra, một trận bão lớn ửa soạn xẩy ra giữa sở điệp báo của ông Hoàng và Quốc Tế Tình báo Sở ngoài khơi Nam Việt.
° °
°
Trận bão rất khốc liệt nhưng lại đến từ từ. Biết trước tình hình nên Văn Bình không nóng lòng. Từ sáng đến tối, chàng ở trong phòng thí nghiệm với Triệu Dung, đôn đốc toán chuyên viên ráp nốt những bộ phận cuối cùng của chiếc VTOL kỳ lạ.
Sáng hôm ấy - đúng ba ngày sau chuyến bay Hoàng sa đầy biến chuyển khẩn trương - mọi công việc đã được hoàn thành. Văn Bình trèo lên phòng phi hành, chuẩn bị bay thử. Lái máy bay thí nghiệm đối với chàng là chuyện thông thường, vì trong dĩ vãng, chàng đã phục vụ trong cơ quan không gian của Hoa-kỳ, chuyện thí nghiệm nhiều loại phi cơ đặc biệt bay thật nhanh và thật cao.
Tuy nhiên, từ lâu, chàng không rờ tới cần lái. Cuộc thí nghiệm VTOL lại diễn ra trong hoàn cảnh độc đáo. Chàng có thể thiệt mạng bất cứ lúc nào. Một cái ốc vặn lỏng, một mối hàn sơ sài cũng đủ gây ra tai nạn ghê gớm.
Ấy là chưa kể tới phản ứng bất ngờ của địch.
Theo dự đoán, địch có thể sẽ dùng Như Luyến làm món hành săng-ta. Nhưng cũng có thể địch thay đổi ý kiến nếu khám phá ra một số chi tiết mà ông Hoàng cố tình che giấu.
Song Văn Bình không được quyền rụt rè. Chàng phải tiếo tục lao đầu vào nguy hiểm. Sau những ngày vùng vẫy trên mây xanh với chiếc VTOL bách chiến, bách thắng, Văn Bình cảm thấy tâm hồn đổi khác hoàn toàn. Sự tàn nhẫn cố hữu của nghề điệp báo bắt rễ trong lòng chàng đã biến mất, nhường chỗ cho những tình cảm ủy mị và thơ mộng không tên.
Dần dà, chàng hiểu tại sao đồng mình và ông Hoàng mất bao tiền bạc và cơ mưu để chế tạo chiếc phi cơ lên thẳng sơn bạc, bề ngoài mảnh mai và tầm thường nầy. Chưa kể các ống kính nhiếp ảnh tối mật và nòng đại bác bắn đạn hóa chất tê liệt xuyên mặt đất, riêng tốc lực siêu việt của nó đã đủ kích thích lòng thèm muốn của mọi cơ quan gián điệp thù cũng như bạn trên thế giới.
Bay là là trên mặt dất, nó có thể vượt tốc độ Mach 2, nghĩa là tòm tèm 2.500 cây số, nhanh nhất. Trên tầng cao, nó lại bay tới Mach 3. Nghĩa là mỗi khi chạm trán phi cơ thượng thặng của địch, nó thừa sức để làm thiên hạ ngửi bụi.
Đặc điểm của nó là có thể bay rất thấp, tránh được con mắt thông thiên vô hình của radar. Và khi bay lên cao, thuộc tầm nhìn của radar nó lại được trang bị dụng cụ riêng để đánh lạc hướng tìm kiếm của radar.
Như thường lệ, chàng bay một mạch tới đảo Hoàng sa, phía sau có đội khu trục hộ tống. Các biện pháp an ninh được tăng cường tối đa, chiếc VTOL bay tới đâu, đội khu trục cơ bám tho tới đấy, sẵn sàng đối phó với mọi bất ngờ.
Tuy nhiên, khu trục cơ tối tân nhất chỉ bay được gần hai ngàn cây số một giờ nên Văn Bình chỉ bàn bạc riêng với người bạn chí thân, Triệu Dung.
Hạm trưởng chở Văn Bình ngay sau khi chiếc VTOL đáp xuống an toàn trên sàn mẫu hạm. Câu hỏi quen thuộc của hạm trưởng vẫn là:
- Có gì trục trặc không.
Văn Bình lắc đầu:
- Không.
Rồi tiếo theo:
- Tôi không ngờ công cuộc thí nghiệm lại được tiến hành nhanh chóng như vậy. Nếu không gặp trở ngại bất ngờ thì chậm nhất một tuần nữa, mọi việc sẽ được hoàn thành.
Hạm trưởng xoa tay thở phào:
- Hừ, tôi đếm từng ngày, từng giờ một... Mong anh hoàn thành để tôi trút bỏ được gánh nặng. Lát nữa, tôi sẽ phúc trình về Trung ương, anh cần thêm bớt gì không?
Văn Bình nói ngay:
- Xin báo cáo là tôi cần ở 5 ngày, đúng 5 ngày nữa. Sau khi chu toàn cuộc thí nghiệm, tôi sẽ đích thân lái chiếc VTOL về Đà nẵng, rồi từ đó vế Sàigòn. Phiền anh liên lạc với Trung ương để bố trí an ninh dọc đường.
Mục đích của chàng không phải là đưa phi cơ về Đà nẵng và Sàigòn. Chẳng qua chàng muốn nhiều người trên mẫu hạm biết là công cuộc thí nghiệm sắp đạt kết quả mỷ mãn. Nhân viên cũa địch là ai, chàng chưa khám phá ra, nhưng đã biết chắc chắn nội vụ sắp đến màn chót.
Chàng lẩm bẩm một mình:
- Màn chót... Đế rồi xem ai thắng, ai bại...
Một giọng nói quen thuộc vang lên sau lưng:
- Dĩ nhiên là chúng mình sẽ thắng.
Văn Bình giật mình quay lại. Triệu Dung dán mắt vào ống viễn kính nhìn ra khơi.Văn Bình trách bạn:
- Gớm, anh làm tôi hết hồn!
Triệu Dung chép miệng:
- Anh mà cũng hết hồn ư?
- Dĩ nhiên, mấy hôm nay, lúc nào tôi cũng sống trong tình trạng căng thẳng. Chúng mình đoán sai thì hỏng bét.
- Tôi không tin là đoán sai. Có lẽ chỉ đêm nay hay mai là địch sẽ phải xuất đầu lộ diện.
À, giản dị lắm. Tôi đã rêu rao cho nhiều người trên pháo đài này biết rằng nội trong 5 ngày nữa, công cuộc thí nghiệm VTOL sẽ hoàn tất. Theo chương trình dự liệu thì mai hoặc mốt, tôi phải bay chuyến thí nghiệm cuối cùng ở đảo Hoàng sa.
Hai người về tới ca-bin.
Căn phòng của Như Luyến vẫn sạch bóng, và không đổi khác. Hành lang bên ngoài vẫn đỏm đáng, kền sáng quắc, không dính một hột bụi, người gác cao lớn rập chân chào như thường lệ.
Cửa ca-bin đã quen thuộc với chủ mới nên mở ra ngay. Tấm ảnh thằng Lập rí rỏm vẫn chểm chệ giũa phòng và trên bàn giấy kê gần góc chân dung bán thân của Như Luyến vẫn nhìn Văn Bình bằng cặp mắt ươn ướt, chứa chan tình cảm mến yêu.
Văn Bình ngồi phịch xuống cái ghế sắt sơn xanh. Như người máy, chàng đánh diêm châm điếu Salem tri kỷ rồi ngữa cổ thả khói lên trần ca-bin.
Bỗng Triệu Dung véo tay bạn.
Văn Bình nhìn vào ô kéo vừa được mở. Một phong thư màu trắng vuông vắn nằm gọn trên khẩu Luger cũ kỹ đã lên nước của Văn Bình.
Bên ngoài vẻn vẹn một hàng chữ đánh máy tươm tất:
Kính gởi đại tá Văn Bình Z.28.
Văn Bình hơi khựng người một giây. Trên mẫu hạm, có lẽ ngoài hạm trưởng ra không ai biết chàng là Z.28. Đây không phải là thư của hạm trưởng. Chàng vừa gặp hạm trưởng xong. Giữa hai người không có chuyện phải viết thư.
Đây chắc chắn không phải là thư của ông Hoàng. Ông Tổng giám đốc không có thói quen rườm rà, kiểu cách của một số lãnh tụ điệp báo quan liêu, ưa ra lịnh cho cộng sự viên bằng văn thư chính thức. Vả lại, mệnh lịnh của ông Hoàng ít khi - đúng ra là không bao giờ - lại được gởi tới bắng đường lối gián tiếp.; Nếu có thư riêng thì thư ấy phải gởi cho Triệu Dung, nhờ trao tận tay chàng.
Một giây đồng hồ suy dẫn đã cho chàng biết đây là thư của địch.
Triệu Dung lẳng lặng cầm lá thư lên, bóc ra. Thư được đánh máy đàng hoàng. Ở góc trái, phía trên là giòng chữ như sau:
"Thư của đại tá Tze, thuộc Quốc Tế Tình báo Sở, Trung Quốc, kính gởi đại tá Tống Văn Bình, Z.28, Nam Việt, trên hàng không mẫu hạm ZZ, ngoài khơi Nam Việt."
Thưa đại tá,
Nếu người nhận thư này không phải là Z.28 thì chắc đại tá sẽ vô cùng ngạc nhiên. Vì trong nghề tình báo, không ai lại xưng họ tên như giới lục lâm ngày xưa và đặc biệt là không biện luận dài dòng vô ích.
Vậy mà tôi tự xưng là đại tá Tze của Quốc Tế Tình bao Sở. Sở này là gì, đại tá đã biết, tôi không cần giải thích thêm nữa. Nghề tình báo chỉ quen với hành động lén lút, không ưa thanh thiên, bạch nhật, vậy mà lần nầy, tôi viết thư chính thức, với một số đề nghị rõ rệt.
Hẳn đại tá hiểu vì sao.
Vì tôi đã nắm được đầu cán. Tôi chắc chắn thành công. Nhân danh Tình báo Sở, tôi thành thật khen ngợi đại tá đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Như thường lệ, đại tá được thần May mắn chiếu cố nên thoát chết tại ngoài khơi đảo Hoàng sa.
Nhưng, thưa đại tá, tài nghệ của đại tá còn thua tôi nhiều. Thiên hạ đồn rằng điệp viên Z.28 xuất quỷ nhập thần, có một không hai ở Đông Nam Á, giờ đây, tôi chỉ cảm thấy buồn cười. Dầu đại tá mất lòng, tôi cũng cứ nói. Đại tá Z.28 ơi, đại tá cần cắp sách đi học 5, 7 năm nữa, may ra mới có hy vọng đối đầu với bậc đàn anh lăn lộn trong nghề là đại tá Tze.
Đại tá không tin ư? Thì đại tá hãy đến gặp tôi... Tôi sẵn sàng thù tiếp đại tá. Chúng ta sẽ đấu trí hoặc đấu quyền với nhau. Tuy nhiên, tôi sợ đại tá sẽ thua sát ván.
Trên thực tế, đại tá đã thua sát ván rồi. Vì Như Luyến, tình nhân thắm thiết của đại tá đang nằm ở trong tay tôi. Hơn ai hết, đại tá dã khám phá ra là Như Luyến còn sống bằng xương, băng thịt.
Đại tá muốn gặp nàng không?
Trên phương diện nghề nghiệp tàn nhẫn, đại tá phải trả lời "không". Công việc trên hết, xá gì một người đàn bà, phải không đại tá? Người đàn bà này chết thì cón người đàn bà khác, phải không đại tá?
Dầu sao, quyền quyết định là của đại tá và đại tá đang còn đủ thời giờ để quyết định.Trong trường hợp đại tá đáp "không", tôi sẽ gởi hầu đại tá cặp mắt của nàng.
Chà! Như Luyến có cặp mắt đẹp ghê! Tôi có nhiều kinh nghiệm song chưa hề thấy ai có cặp mắt gợi cảm như nàng. Đại tá quả có diễm phúc được nàng ghi lòng, tạc dạ.
Nếu đại tá còn rung động về nàng, tôi sẽ giúp đại tá có cơ hội tái ngộ. Gặp Như Luyến là chuyện rất dễ: Sau khi đọc thư nầy, đại tá hãy bỏ vào túi áo trên một cái khăn mù-soa đỏ, lòi mép ra ngoài. Trong những giờ sắp tới, đại tá sẽ nhận được chỉ thị đặc biệt về cuộc tái ngộ.
Giả sử nhân viên của tôi không thấy đại tá giắt mù-soa đỏ, trong vòng 72 giờ đồng hồ, đại tá sẽ có đôi mắt bất hủ của nàng. À, chỗ thân tình, tôi xin dặn đại tá điều nầy: Muốn giữ cho mắt nàng khỏi hư thối, đại tá nên chuẩn bị trước một cái bình thủy tinh đựng nước phọt-môn. Sở dĩ dùng bình thủy tinh là để đại tá nhìn cho dễ.
Thân ái,
Bạn và thù của đại tá,
Tze.
Văn Bình mỉm cười buông lá thư xuống bàn. Triệu Dung hỏi bạn:
- Anh nghĩ sao?
Văn Bình đứng dậy:
- Tôi sẽ đi gặp hắn.
- Gặp Tze?
- Phải, đại tá Tze. Tôi đã nghe nói nhiều tới hắn. Và tôi tin tưởng sẽ đạt tới thỏa thuận.
- Bây giờ chúng mình làm gì?
- Làm gì hả? Thứ nhất, anh cho tôi một chai Úyt-ky hạng khá. Loại Úyt-ky của lão hạm trưởng uống nhạt phèo như nước ốc. Tôi thèm tượu một cách kinh khủng. Uống hết chai Úyt-ky, tôi muốn được anh cho nằm nghỉ một giấc.
- Anh định thức trắng đêm ư?
- Không. Tôi sẽ ngủ từ giờ đến tối. Thức dậy, ăn xong, tôi sẽ uống rượu nữa và ngủ nữa. Nếu anh không phản đối, tôi sẽ ngủ luôn đến sáng hôm sau.
- Hừ, anh là con người kỳ khôi. Tuy vậy, chưa bao giờ anh lại kỳ khôi như bây giờ.
Không đáp, Văn Bình cởi áo ném xuống đất, rồi nằm dài trên giường. Triệu Dung chưa kịp ra khỏi phòng, Văn Bình đã ngáy o o.
°
Tối hôm ấy, ngoài khơi Nam Việt...
Lệ thường, hàng không mẫu hạm ZZ tắt đèn tối om ban đêm. Nhưng hôm nay, đèn trên boong lại sáng như sao sa.
Văn Bình đã sửa soạn xong cho chuyến bay cuối cùng. Chuyến bay thí nghiệm cuối cùng của phi cơ lên thẳng VTOL với những dụng cụ tân tiến khả dĩ chấm dứt chiến tranh trong thời gian kỷ lục.
Trước giờ lên boong, đặt chân lên chiếc máy bay VTOL sơn bạc xinh xắn, phóng nhanh hơn tốc độ âm thanh, Văn Bình khóa cửa ca-bin, ngồi trầm ngâm trước hình của Như Luyến.
Đứng bên, Triệu Dung hỏi:
- Anh còn dặn gì nữa không?
Văn Bình lắt đầu:
- Không.
Chàng rút trong túi ra bức thư ngắn ngủi, đọc lại. Đó là thư của đại tá Tze, gửi đến cho Văn Bình sau khi chàng giắt mù-soa đỏ vào túi áo trên.
Nội dung bức thư như sau:
Thưa đại tá,
Thành thật khen ngợi đại tá lần nũa. Chưa biết đại tá nhận lời một cách nghiêm chỉnh hay xảo quyệt, tuy nhiên, tôi xin khuyên đại tá giữ đúng lời hứa, vì dầu sao, đại tá nắm đàng lưỡi, còn tôi nằm đàng cán.
Tôi xin cảnh cáo là mọi biện pháp an ninh chặt chẽ đã được áp dụng, đề phòng sự tráo trở. Đại tá phải tuân tho những chỉ thị sau đây:
1 - Sau khi cất cánh, đại tá phải bay thẳng về đảo Hoàng sa, khi tới gần hồ Vệ thần sẽ nhận được lịnh đặc biệt, trên tần số 1863 mêga chu kỳ.
2 - Đại tá sẽ đáp xuóng một vị trí chọn sau và sẽ lên trực thăng cùng với Như Luyến.
3 - Đại tá phải giũ kín việc nầy, không được phép cho hạm trưởng hoặc bất cứ ai trên pháo đài ZZ biết. Nếu kế hoạch bị thất bại, đại tá phải chịu hậu quả.
4 - Dĩ nhiên, đại tá chỉ tuân theo chỉ thị mà không được đòi hỏi nào cả. Tuy nhiên, nhân danh Quốc Tế Tình báo Sở, tôi, đại tá Tze, xin long trọng cam kết thực hiện đúng lời hứa. Vả lại, lịch sử hoạt động từ nhiều năm nay của Tình báo Sở đã chứng tỏ là chúng tôi chưa hề bội hứa lần nào. Nhưng nếu đại tá còn chưa yên tâm thì đúng 7 giớ tối liên lạc với chúng tôi bằng máy talkie-walkie đặc biệt gửi kèm đây.
Máy này chỉ liên lạc được trong đường kính 100 mét, vì vậy, nó chỉ nhỏ bằng cái quẹt máy và được giấu trong cái quẹt máy Ronson-Comète. Nhân viên của tôi túc trực trên hàng không mẫu hạm sẽ làm trung gian tiếp vận cuộc nói chuyện giữa tôi và đại tá.
Mặc dầu thể thức điện đàm này khá an toàn, bất trắc cũng có thể xảy ra. Vạn nhất, hạm trưởng khám phá ra, tôi đành phải đình hoãn thực hiện kế hoạch đã định. Ở vào địa vị của đại tá, tôi sẽ hoàn toàn tin cậy, không đặt điều kiện cương quyết, khiến nhân viên tôi phải hy sinh một cách vô ích.
Thân ái,
Tze
Văn Bình không liên lạc bằng talkie-walkie với đại tá Tze. Chàng muốn đối phương biết chàng sẵn sàng đặt tin tưởng vào kẻ chưa quen, cho dù kẻ chưa quen là kẻ thù bất cộng đái thiên.
Chàng thừ người với điếu Salem cháy dở, không nói nửa lời. Đại tá Tze đã thu thập được khá nhiều chi tiết về tính tình và cuộc đời chàng. Hắn biết chành có trái tim sắt đá, luôn luôn coi công tác làm trọng, nhưng trong một vài trường hợp đặc biệt - mà Như Luyến là một - nghĩ đến tình yêu phụ nữ.
Nhìn đồng hồ lân tinh, Văn Bình giật mình. Đọc được ý nghĩ của bạn, Triệu Dung nói:
- Anh lại tiếc rồi. Hoài của, giá đêm nay anh được ở Sàigòn thì sung sướng biết bao.
Văn Bình thờ dài:
- Quả anh là con ma xó. Cái gì cũng biết... Đúng vậy anh ạ, nhờ đồng hồ, nếu không, tôi đã quên bẵng hôm nay là thứ bảy. Phiêu dạt khắp nơi, tôi nhận thấy tối thứ bảy trên thế giới thường là tối thần tiên nhất trong tuần, nhưng chưa ở đâu tối thứ bảy lại thần tiên bằng Sàigòn.
- Dĩ nhìên, vì Sàigòn là quê hương.
Văn Bình chặt lưỡi:
- Chưa hoàn toàn đúng. Tối thứ bảy ở Sàigòn đối với ngoại kiều cũng đượm vẻ thần tiên, chứ không riêng đối với tôi. Vì Sàigòn là nơi tập trung nhiều đàn bà đẹp nhất, ngoan ngoãn nhất trên trái đất.
Hạm trưởng đã tới sau lưng hai người không biết lúc nào. Văn Bình nghe động đậy, quay lại nói đùa:
- Đại tá Tze đang nghe trộm.
Hạm trưởng cười ròn tan:
- Chắc hai anh lại tán gẫu về đàn bà... À, anh vứa nói đến đại tá Tze. Đại tá Tze là ai nhỉ?
Triệu Dung đáp:
- Là yếu nhân của Quốc Tế Tình báo Sở, người phụ trách kế hoạch đánh cắp chiếc VTOL của chúng mình.
Hạm trưởng đáp:
- Ồ, các anh có tin tức mới mà không cho tôi biết. Các anh biết nhiều về hắn không?
- Không.
Văn Bình nín thinh. Hạm trưởng mù tịt về hai lá thư của Tình báo Sở. Lẽ ra, chàng phải giải thích thêm, song lại im lặng. Trong bóng tối mờ mờ, chàng thấy rõ luồng mắt sáng quắc của Triệu Dung ngầm bảo chàng kín miệng.
Hạm trưởng nhìn trời, nhìn biển rồi nói:
- Khí tượng vừa báo cáo xong... Hiện thời, trời rất tốt, nhưng trong vòng một giờ nữa sẽ xấu và có thể rất xấu. Tôi sợ chuyến bay của anh không được an toàn.
Văn Bình lắt đầu:
- Thú thật với anh, từ chiều đến giờ tôi luôn luôn vái Trời thay đổi thời tiết. Vì trong thời gian qua, tôi toàn thí nghiệm những khi trời tốt, chưa có hoàn cảnh sử dụng hệ thống radar và phi hành đặc biệt của chiếc VTOL. Theo kế hoạch, ưu điểm của chiếc VTOL này là bay khi thời tiết xấu và nhất là bay ban đêm. Vả lại, dầu chiếc VTOL không được trang bị dụng cụ đặc biệt, tôi cũng không thể đình hoãn nữa. Vì Trung ương đã được thông báo... và đây là chuyến bay cối cùng.
Hạm trưởng nhăn mặt:
- Anh đừng nói gỡ. Giới phi hành thường kiêng kị những danh từ bất lợi.
Văn Bình chữa lại:
- Ý tôi muốn nói đây là chuyến bay thí nghiệm cuối cùng trước khi hoàn tất.
Hạm trưởng vẫn không vui vẻ như thường lệ:
- Tôi có linh tính lạ lùng... Không hiểu sao, tôi lại tin là bất trắc sẽ xẩy ra. Anh có thể hoãn đến mai được không?
Văn Bình khoát tay:
- Không. Tôi có hẹn với một người đàn bà. Đúng hơn, một giai nhân tuyệt thế. Nàng nằm một mình nhiều đêm buốt xương, tôi không dằn lòng nổi, anh ạ.
Tưởng Văn Bình bông đùa để tỏ thái độ cương quyết, hạm trưởng thở dài:
- Vâng, anh khăng khăng một mực, tôi cũng phải chịu. Dầu sao, chúng ta đều thuộc tổ chức khác nhau, anh lại không phải là nhân viên dưới quyền. Tuy nhiên, nếu anh nhất quyết lên đường thì bắt buộc tôi phải tăng cường biện pháp bảo vệ an ninh.
- Anh cho thêm phi cơ hộ tống ư?
- Vâng, đó mới là một trong nhiều biện pháp. Đêm nay, tôi sẽ cho 6 chiếc cùng bay với anh. Hai phi đợi bay thường trực trên không phận nếu vạn nhất xảy ra tai nạn sẽ can thiệp kịp thời... Tình trạng báo động được ban hành trên mặt biển, trong khu vực tuần tiễu của các đơn vị thuộc Đệ Thất hạm đội... Song le, tôi nhận thấy như vậy vẫn chưa đủ... Yếu tố quyết định tùy thuộc nơi anh...
- Tùy thuộc nơi tôi?
- Phải. Hoàn toàn tùy thuộc nơi anh, như chiếc Cobra 7 lít so sánh với chiếc tắc-xi 4 ngựa cà rịch, cà tang của Pháp. Phi đội của tôi chỉ bảo vệ được hữu hiệu nếu anh áp dụng đúng kế hoạch thí nghiệm. Nghĩa là giai đoạn thí nghiệm tốc độ đã qua, giờ đây, trong bất cứ trường hợp nào, anh cũng không được quyền vượt qua Mach 1.
- Hừ, nghe anh nó, tôi có cảm tưởng là anh ngờ tôi đêm nay, lái phi cơ nạp cho địch...
- Tôi đâu dám nghĩ như vậy. Có lẽ anh thích nói đùa thì phải... Chẳng qua thượng cấp ra lịnh cho tôi. Hẳn anh đã biết tôi không phải hạm trưởng chính cống, mà là hạm trưởng tạm bợ, dưới sự sai phái của tình báo Mỹ...
- Vâng, tôi xin nghe anh. Thôi, sắp đến giờ khởi hành rồi, anh còn dặn dò gì nữa không?
- Không. Tôi chỉ chúc anh vạn sự như ý.
- Tôi cũng vậy. Tôi cũng chúc anh vạn sự như ý.
Hạm trưởng sửng sốt:
- Tôi ở nhà, anh bay trên trời, tại sao lại chúc tôi? Hay là...
Triệu Dung đỡ lời:
- Ồ, anh bạn trẻ của tôi luôn luôn có tính đùa bỡn khó chịu, anh đừng chấp nhất.
Văn Bình cười nửa miệng:
- Tôi chúc thật đấy, không đùa đâu... Đây nầy, tôi xin cắt nghĩa thêm... Giả sử sau khi tôi cất cánh, trời nổi cơn bão lớn, lôi mẫu hạm xuống đáy biển thì sao?
Hạm trưởng phản đối:
- Điều này không bao giờ xẩy ra. Mẫu hạm là loại tàu không bao giờ chìm được. Bị bắn nát, thân tàu vẫn nổi như thường, phương chi chỉ có gió và sóng...
Văn Bình nói tiếp, vẻ mặt thản nhiên:
- Thì đại tá Tze cũng có thể bắn phi đạn vào mẫu hạm. Anh đừng quên tiềm thủy đĩnh của Tình báo Sở đang lảng vảng ngoài hải phận quốc tế. Hẳn anh đã biết từ một năm nay, tàu ngầm địch được trang bị hỏa tiễn thủy địa mạnh như hỏa tiễn Pôlarít. Hàng không mẫu hạm được bảo vệ chặt chẽ thật đấy, song tôi không tin có thể tránh nổi một vài tên đạn bất ngờ...
Hạm trưởng tái mặt. Song chỉ một giây đồng hồ sau đã lấy lại vẻ lầm lì của người đi biển.
Văn Bình vỗ vai hạm trưởng rồi thoăng thoắt tiến về phía chiếc VTOL đang nằm phơi dưới những ngọn đèn pha sáng trưng.
Trong khoảnh khắc, chiếc VTOL huyền diệu từ tư rời khỏi boong tàu bay lên không trung. Văn Bình giơ tay vẫy Triệu Dung đang tựa vào lan can mẫu hạm, bề ngoài như thể nhàn du. Hơn ai hết, Văn Bình biết bạn đang suy nghĩ.
Suy nghĩ... Vì đêm nay, nhiều chuyện bất thường chắc chắn sẽ xẫy ra.
Lùm sáng của pháo đài ZZ đã biến mất phía dưới. Văn Bình có cảm tưởng bay đụng những vì sao lấp lánh. Mọi ưu tư dằn vặt chàng từ nhiều ngày nay bỗng nhiên tan hết, lòng chàng trở nên thơ thới và ngập đầy tin tưởng.
Văn Bình đảo một lượt quanh táp-lô phi cơ. Mọi bộ phận trong chiếc VTOL đều hoạt động an toàn.
15 phút sau khi rời khỏi mẫu hạm, Văn Bình gọi vô tuyến cho phòng kiểm soát:
- Alô ZZ, alô Zz,.. đây là "Sao chổi ".
"Sao chổi" là bí danh do chàng tự đặt cho chiếc VTOL. Hạm trưởng chê danh tư "Sao chổi" là không hên, song Văn Bình nằng nặc đòi giữ lại cho bằng được. Chàng thích danh từ "Sao chổi" vì đêm nay sẽ bắt chước "Sao chổi" bay vù trong không gian mù mịt.
- Alô ZZ nghe đây. Sao chổi nói đi.
Văn Bình giọng từ tốn và rõ ràng:
- A lô... Sao chổi xin nói... Tôi đang ở độ cao một ngàn sáu trăm bảy chục... đường bay hai-bốn-ba, phía đông ZZ. Theo chương trình dự định, từ phút nầy, tôi bắt đầu thí nghiệm dụng cụ phá-tuyến.
Dụng cụ phá-tuyến là một loại máy tối tân nhằm bao bọc phi cơ một vỏ hơi điện đặc biệt, khiến cho radar của địch không thể "nhìn" thấy. Nhờ dụng cụ phá tuyến, chiếc VTOL sẽ có thể nghênh ngang bay vào đất địch, nghênh ngang hoàn thành phi vụ thám thính hoặc tấn công, rồi nghênh ngang trở về căn cứ, radar và súng phòng không của địch sẽ hoàn toàn mù, điếc và câm.
Phòng kiểm soát của mẫu‚ hạm cất tiếng:
- Đài kiểm soát ZZ đây... đã nghe rõ... yêu cầu Sao chổi bay sát mặt biển.
- Độ cao tối đa là bao nhiêu?
- Độ cao tối đa 785...
- Nghe rõ...
- Sau khi xuống tới 785, yêu cầu Sao chổi báo cáo.
Văn Bình mím môi, chút mũi VTOL xuống. Mấy phút sau, chiếc VTOL đã xà xuống mặt biển nhấp nhô.
Giây phút trọng đại đã tới với chàng. Chàng phải cấp tốc thi hành kế hoạch đã định trước với Triệu Dung. Từ phút nầy, phòng radar ở pháo đài nổi ZZ bắt đầu mất hút chàng.
Đúng ra, chàng phải phútc trình về đài song chàng lại nín lặng. Đúng ra, chàng phải bay theo hướng đã định, song chàng lại xả hết tốc độ về phía Hoàng sa.
6 chiếc khu trục hộ tống bị bỏ rơi dễ dàng. Ban ngày, không trung quang đãng, tìm ra chiếc VTOL đã khó khăn. Ban đêm trên mặt biển mênh mang, nhất là trời đang trở gió dữ dội như đêm nay, phi đội hộ tống chỉ còn nước kêu trời với đài kiểm soát.
Ngay khi ấy, bầu không khí trở nên khó thở trong phòng kiểm soát của pháo đài ZZ.
Bồ hôi ướt đầm, phụ tá số 2 của hạm trưởng cúi xuống màn radar:
- Thế nào, tìm ra Sao chổi chưa?
Nhân viên phụ trách radar đáp, giọng run run:
- Chưa... lạ thật.
- Hỏi phi đội hộ tống xem?
- Thưa, đã hỏi rồi. Họ vừa lạc mất. Cách đây 30 giây, trường phi đội vừa gọi về, xin chỉ thị.
- Liên lạc với các khoái đĩnh ở dọc đường. Theo chương trình, Sao chổi phải báo cáo với họ.
- Thưa, các khoái đĩnh 1, 2, 3 đã liên lạc về, nói là họ vẫn chờ Sao chổi.
- Còn 4 và 5 thì sao?
- Thưa, họ chưa báo cáo.
- Vậy liên lạc ngay với họ. Nhanh lên.
Nhân viên phụ trách viễn thông thi hành khẩu lịnh. Nhưng chỉ hai phút sau, hắn ngẩng đầu lên, mặt ngơ ngác:
- Thưa, cũng như cũ.
- Như cũ là như thế nào?
- Chiếc VTOL vẫn tuyệt vô âm tín.
- Chết rồi.
Phụ tá hạm trưởng ngồi phịch xuống, nắm lấy máu vi âm, giọng hớt hơ hớt hải:
- Alô, đây phòng kiểm soát ZZ... gọi Sao chổi... Yêu cầu cho biết ngay độ cao, đường bay và vị trí.
Vẫn im lặng.
Phụ tá hạm trưởng thét lên:
- Thưa hạm trưởng...
Nhưng một giọng nói đã nổi lên sau lưng:
- Hạm trưởng vừa ngất đi... có lẽ vì bịnh tim. Yêu cầu ông thay mặt hạm trưởng điều hành công cuộc tìm kiếm.
Đó là giọng nói của Triệu Dung. Viên phụ tá hạm trưởng nắm chặt mép bàn để khỏi run:
- Trời ơi, ông ấy việc gì không?
Triệu Dung đáp:
- Không sao cả, ông đừng ngại. Hạm trưởng đang nằm trong bịnh xá.
Sau một phút đồng hồ bàng hoàng, viên phụ tá ấn cái nút đỏ trước mặt:
- Ra lịnh báo động trên toàn khu vực. Sử dụng mọi phương tiện để tìm kiếm chiếc VTOL.
Khi ấy, chiếc VTOL đang ở vào tình trạng nguy nan. Thật vậy, Văn Bình đã vượt qua ràng rào kiểm soát đầu tiên gồm 3 khoái đĩnh, dàn thành hàng dài, được trang bị máy móc tân tiến, khả dĩ nhìn thấy, nghe thấy mọi vật khả nghi trong đường kính trăm cây số, lên tận không gian cao vòi vọi.
Còn hai khoái đĩnh sau cùng, Văn Bình đinh ninh là tránh né dễ dàng. Chàng không ngờ...
Một phát hỏa châu được bắn lên, lóe sáng một vùng rộng lớn. Phát đạn báo này chứng tỏ là nhân viên kiểm soát bên dưới đã nhận ra chiếc VTOL lạc lõng.
Thật vậy, trước đó một phút, đội kiểm soát túc trực trên chòi canh khám phá ra chiếc VTOL nhờ dụng cụ hồng ngoại tuyến. Đang phì phèo thuốc lá - hút để khỏi ngủ gà ngủ gật sau nhiều đêm làm bạn với trời nước buồn thiu - đội trưởng ném vội xuống biển, và dõng dạc ra lịnh:
- Báo cáo ngay với phòng chỉ huy.
Tức thời nội vụ được chuyển ngay tới phòng chỉ huy:
- Alô, alô, một phi cơ lạ bay rất thấp, gần sát mặt biển, không đèn hiệu...
Câu nói ngắn ngủi như trái lựu đạn nổ trong ca-bin làm toàn thể giật bắn người. Đại uý chỉ huy khoái đĩnh tuần tiễu nhắc lại, giọng chứa đầy kinh ngạc xen lẫn sợ hãi:
- Phi cơ lạ ư? Vậy hả? Gọi ngay về Trung ương.
Rồi hỏi thuộc viên:
- Biết rõ vị trí chưa?
- Thưa rồi. Độ cao dêrô. Hướng bay 60. Tốc độ có lẽ trên Mach 2.
- Trên Mach 2?
- Vâng.
- Đúng rồi. Đó là chiếc VTOL cất cánh từ mẫu hạm. Trung ương vừa cho biết chiếc VTOL rời khỏi đường bay đã định và bay mất tích. Không thể tin là phi cơ địch cưỡng bách nó phải đi theo, vì bên mình nó luôn luôn có 6 khu trục cơ hộ tống, được võ trang vô cùng hùng hậu. Vả lại, phi cơ địch khó thể bay kịp nó. Trừ phi...
- Nếu nó phản bội thì nguy... Vì tìm một chiếc phi cơ trên trời ban đêm khác nào mò kim đáy biển, nhất là trời đang chuyển bão. Vả lại, riêng tốc độ trên Mach 2 đã giúp phi công trốn thoát dễ dàng.
Những phát đạn hỏa châu sáng rực tiếp tục được bắn lên không trung tối đen như phết bằng hắc ín. Đại uý chỉ huy khoái đĩnh thét trong máy vi âm:
- Nó đâu rồi? Tìm được nó chưa?
"Nó" là chiếc VTOL xuất quỷ nhập thần của điệp viên Văn Bình. Chàng nghe rõ mồn một mệnh lệnh bên dưới. Dầu tin tưởng, chàng vẫn lo ngại, vì một sự trục trặc bé nhỏ cũng đủ làm kế hoạch của chàng thất bại.
Chàng hy vọng vào bố trí của Triệu Dung, nhưng biết đâu... biết đâu một thủy thủ khôn ngoan của Đệ Thất hạm đội tìm ra chàng, và bộ máy đối phó bắt đầu chuyển động, chiếc VTOL sẽ bị vây kín như con cá tham ăn chui vào rọ. Hơn ai hết, Văn Bình đã biết rõ gía trị của màn lưới phòng thủ kiên cố do Đệ Thất hạm đội Hoa-Kỳ bủa trên mặt biển, chung quanh hàng không mẫu hạm ZZ.
Nhưng dầu sao, chàng vẫn không thể thay đổi ý định... Giờ đây, chàng đành tin vào định mạng, định mạng éo le...
Lịnh của pháo đài chuyển tới mọi đơn vị bố phòng kêu vang trong mũ nghe vô tuyến:
- Alô... Trung ương ZZ ra lịnh cho toàn thể đơn vị trực thuộc... Alô... Trung ương ra lịnh cho toàn thể đơn vị trực thuộc... Chiếc VTOL thí nghiệm đang rời đường bay đã định. Bằng bất cứ phương tiện nào, phải ngăn cản, bắt phi công về. Nếu không, được toàn quyền bắn hạ. Nếu không, được toàn quyến bắn hạ bằng hỏa tiễn... Tôi nhắc lại...
Văn Bình lạnh toát xương sống.
Lịnh của Trung ương đã rõ như ban ngày. Đoàn phi cơ tuần tiễu và khu trục sẽ dùng đại liên bắn chặn đuờng, bắt chàng quay mũi. Nếu chàng bất tuân - và dĩ nhiên là chàng bất tuân - họ sẽ phóng hỏa tiễn. Hôm đâù, tới gần pháo đéi ZZ, Văn Bình thoát khỏi hỏa tiễn, phần vì tỉnh táo, phần khác vì may mắn, vô cùng may mắn. Chàng vẫn tiếp tục tỉnh táo, song không tin là thần May mắn tiếp tục độ trí cho chàng nữa. Vì chàng có thể lừa được một hỏa tiễn, nhưng không thể lừa được cùng một lúc nhiều hỏa tiễn kinhkhủang cùng được bắn ra, tự động tìm mục phiêu bằng sóng điện tử bí mật và hồng ngoại tuyến.
Tuy nhiên, Văn Bình vừa tìm được một đồng minh đắc lực: sóng gió ban đêm.
Với trời giông tố hãi hùng như đêm nay, không gian tối đui như mực tàu, hàng ngàn, hàng vạn đợt sóng khổng lồ kêu thét, đoàn phi cơ rượt bắt chỉ có rất ít hy vọng tìm ra chàng. Chàng lại được lới điểm bay nhanh và bay sát mặt nước.
Song niềm vui chỉ thoáng qua trong lòng chàng. Trong máy vô tuyến, một giọng nói lạ, chắc nịch vừa cất lên:
- Alô, quan sát viên radar báo cáo với đài kiểm soát. Tôi vứa tìm thấy nó, hướng bay 305 độ, độ cao phỏng chừng 300 mét, tốc đồ 1.500 cây số giờ...
Tiếp theo là tiếng "Ồ", rồi:
- Đúng rồi. Đúng nó rồi. Hãy tiếp tục theo dõi từng giây, từng phút. Tôi sẽ báo động cấp thời với phi đội khu trục đang tuần tiễu trên không phận...
Im lặng một phút.
Một phút đồng hồ dài giắng dặc khiến Văn Bình toát mồ hôi, tưởng như một giờ.
Một tiếng nói khác tràn ngập phòng phi hành:
- Alô, đây là phi cơ tuần tiễu radar... Cần liên lạc gấp với phi cơ hướng bay 305 độ, độ cao 300 mét, tốc độ 1.500 cây số giờ... Yêu cầu trả lời ngay. Yêu cầu trả lời ngay.
Văn Bình vẫn nín thinh.
Nhưng tiến nói tiếp theo làm chàng rợn tóc gáy:
- Phi cơ tuần tiễu radar yêu cầu phi cơ thí nghiệm VTOL chú ý... Với tốc độ 1.500 cây số giờ không thể tiếp tục bay độ cao 300 mét được... Yêu cầu phi công bay cao hơn nữa kẻo gặp tai nạn...
Văn Bình có cảm giác như vừa ra khỏi giấc mộng ghê gớm.Thật vậy, chiếc VTOL là phi cơ thứ nhất trong lịch sử hàng không bay thật nhanh ở độ cao thật thấp, song chưa bao giờ xuống đến 300 mét. Trong vài phút nữa, phi cơ mất sức đẩy của không khì sẽ rớt xuống biển như một tảng đá lớn.
Văn Bình phải bay sát mặt biển để tránh luống mắt radar vô hình. Giờ đây, chàng không cần giữ kẽ nữa. Dầu sao, phi đội tuần tiễu đã khám phá ra. Chàng đành tẩu thoát bằng cách bay thật cao, với một tốc độ kinh hồn.
Phi công VTOL được mặc bộ quần áo riêng, gần giống của phi hành gia không gian, đủ sức chống lại thay đổi áp lực không khí. Đầu tiên là đồ lót bằng len nhân tạo, rồi đến một lớp quần áo mỏng có tác dụng hút chất nóng từ cơ thể toát ra, sau đến quần áo may liền với nhau bằng cao su ni lông, nhiều chỗ được bơm hơi như trái banh, bảo vệ cho phi công khỏi bị thương tích. Ngoài cao su ni lông là một lớp vải dầy và sau cùng là một lớp nhom ni lông óng ánh bạc.
Trong khi bay, bộ đồ phi hàng được chất a-dốt (đạm) giữ cho khỏi nóng. Một bình dưỡng khí đặc biệt được gắn liền, trong trường hợp phi công phải bấm nút cho ghế bay ra ngoài, dưỡng khí này sẽ bảo đảm cho phi công khỏi ngạt thở cho đến lúc dù chấm đất.
Như thường lệ, trước giờ khởi hành, Văn Bình đã kiểm soát kỹ lưỡng bộ đồ phi hàng. Một ca-bin lớn ở đuôi hàng không mẫu hạm được biến thành phòng thử quần áo không gian. Với sự giúp đở của Triệu Dung, chàng đã dúng tay chân vào một cái thùng riêng để xem có chỗ nào hở. Chàng nỗi tiếng là mặc quần áo nhanh như đua xe hơi - Thắt nơ hoặc cà-vạt đúp chỉ mất 5 giây đồng hồ phù du - vậy mà phải đứng yên như phỗng đá, bồ hôi chảy ròng ròng khắp châu thân trong vòng 25 phút, phải, đúng 25 phút, thời gian cần thiết tối thiểu để mặc 5 lớp y phục phi hành đặc biệt.
Trong chớp nắt, Văn Bình đã vượt tới Mach 2, quá 2.000 cây số giờ.
Chiếc VTOL độc nhất vô nhị này được chế tạo bằng một hợp kim riêng, gần giống chất Inconel X của phi cơ thí nghiệm cách mạng X-15 của Hoa-Kỳ. Hợp kim Inconel X do kền mà ra và có khả năng chịu đựng sức nóng ghê gớm mà không bị mềm hoặc chảy như đồng, sắt và thép.
Văn Bình lên cao nữa, cao hơn nữa. Tốc độ mỗi phút một gia tăng. Lòng chàng trở nên lăng lăng như gột hết bụi trần. Chàng lững lơ bay vào không gian mênh mông, trong khoảnh khắc quên bẵng mọi nguy hiểm đang rình rập tứ phía. Cảm giác thoải mái lạ lùng này thường xẫy ra cho phi công bay trên độ cao bất thường, như phi cơ X-15.
Trong quá khứ, đã có lần Văn Bình ngồi trên X-15 vời tốc độ 6.000 cây số giờ và bay khỏi mặt đất 94 cây số[65]. Trên X-15, thời gian dường như không còn nữa, mà chỉ còn không gian vô tận và bất diệt. Chiếc máy bay mũi nhọn được sơn một lớp sơn riêng, thay đổi màu sắc tùy theo nhiệt độ bên ngoài. Từ thượng tầng vũ trụ trở lại bầu không khí bao quanh trái đất, phi cơ bị không khí cọ sát mạnh mẽ, nhiệt luợng tăng thêm 370 độ, màu lục của phi cơ trở thành màu xanh, rồi sang màu vàng, màu đen, trước khi chuyễn qua màu nâu sẫm.
Tuy nhiên, thực tế phũ phàng không cho phép Văn Bình mơ mộng, bâng khuân nữa. Phi đội tuần tiễu trang bị vỗ khí tối tân - tối tân đến nỗi có người nói rằng một con chim bay trong không gian cũng không thoát khỏi hàng rào đạn lửa - đã dàn thành hàng ngang phía trước. Tối như hũ nút, phi đội tuần tiễu xung trận bằng radar.
Rồi tiếng nói quái ác - tiếng mà Văn Bình không thích nghe, nhất là trong lúc này - cất lên trong máy ghi âm:
- Yêu cầu phi cơ VTOL chú ý, yêu cầu phi cơ VTOL chú ý... Bạn đang bị vây chặt. 4 hướng đông, tây, nam bắc đều có phi đội khu trục. Chúng tôi được lịnh rõ rệt là khai hỏa vào bạn. Loại súng của chúng tôi hoạt động bằng hồng ngoại tuyến, nghĩa là bắn không cần nhắm, không cần biết mục phiêu gần hay xa, nghĩa là hễ bắn là trúng đích. Ngoài đại bác đặc biệt ra, phi đội khu trục còn được trang bị hỏa tiễn không không. Chỉ cần một phát hỏa tiễn đủ làm phi cơ VTOL của bạn tan xác... Alô, phi công VTOL hãy nghe lời chúng tôi... alô... Hãy tuân lịnh trở về căn cứ... Alô...Alô...
Văn Bình ở vào tình trạng nan giải: xuống thấp, sát mặt biển, chàng sẽ tránh được radar, song lại không bay được với tốc độ siêu thanh; lên thật cao, chàng sẽ bỏ rơi được đội khu trục song lại không thoát khỏi màn lưới radar và nhất là hỏa tiễn không-không, loại tên đặn độc nhất vô nhị có thể tiêu diệt mọi mục phiêu ở tầng cao.
Ngay khi ấy, nhiều mẩu nói chuyện giữa các phi công tuần tiễu lọt vào tai Văn Bình:
- Alô, Thiên Thai 35 gọi Thiên Thai chỉ huy, tôi đã nhìn thấy nó trên màn radar.
- Đúng không?
- Đúng. Nó vẫn bay theo đường cũ, độ cao hơi đổi khác và tốc độ gia tăng.
- Khổ quá! Nó co thể bay tới Mach 3. Phi cơ của chúng mình tối tân thật đấy, nhưng đối với nó thì chỉ là mô-by-lét với xe hơi.
- Alô, Thiên Thai 35 gọi chỉ huy... Tôi nhìn được nó rồi. Có lẽ nó không nhìn thấy tôi vì trời tối và bão... Qua ống kính hồng ngoại, tôi nhìn được nó rất rõ. Alô, xin chỉ huy cho chỉ thị.
- Còn chỉ thị cóc khô gì nữa! Anh đang ở gần nó thì thét mấy tiếng vào lỗ tai nó. Nếu nó không nghe thì tuôn ra vài tràng đại bác.
- Alô, Thiên Thai 35 gọi chỉ huy... Tôi có cảm tưởng là thằng cha phi công này lì lắm. Đạn đại bác không làm cho hắn thay đổi ý kiến đâu.
- Thì hỏa tiễn. Tự do phóng hỏa tiễn.
Điện đàm giữa các phi công tuần tiễu tạm ngưng. Văn Bình tủm tỉm cười một mình. Chàng vẫn có thói quen - đúng hơn, có tính xấu - cười ngạo mạn giữa thời khắc nguy hiểm nhất.
Sở dĩ chàng cười là vì nhắc đến con số 35. Số 35 được coi là số loạn tình của đàn ông. Song đối với Văn Bình lại là con số hên vào bậc nhất.
Nhiều lần hoạt động ở hải ngoại, chàng gặp may mắn vì ở trọ trong phòng số 35. Tuy nhiên, đáng nhớ hơn là câu chuyện mới xẩy ra cách đây hai tuần lễ, trước ngày chàng dấn thân vào công tác VTOL nhức óc.
Hôm ấy, chàng gọi dây nói cho một viên chức. Oái oăm cho chàng, viên chức này mang số điện thoại 35. Qua cô gái phụ trách tổng đài, Văn Bình nói nhanh (đúng ra, vì chàng bận bịu muốn đơn giản hóa công việc chứ không phải vì ẩn ý):
- Alô, xin cô ông 35.
Cô gái hỏi lại:
- Số mấy, thưa ông?
Văn Bình đáp hồn nhiên:
- 35 cô.
Thiếu nữ cười ròn rã:
- Ông ghê gớm thật! Ông đòi ông có máu 35 chưa đủ, ông còn đòi thêm 35 cô nữa. Ông có biết như vậy là làm phụ nữ phật lòng không?
Văn Bình đành nuốt nước miếng, đấu dịu:
- Vâng, tôi lỡ lời. Xin lỗi bà.
Thiếu nữ gắt um trong điện thoại:
- Ông ác thật... Người ta mới ra trường một vài năm mà gọi là bà...
- Khổ quá... Tôi thành thật xin lỗi cô.
- Tôi quyết không tha ông.
- Vậy tôi biết làm cách nào để chuộc tội, thưa cô? Lần đầu tiên, tôi ăn nói ngu muội với phái yếu.Thôi, tôi xin lỗi cô lần nữa, bây giờ cô cho tôi số 35, rồi lát nữa, cô bắt tôi quỳ xuống xin lỗi, tôi cũng sẵn sàng tuân lịnh.
Văn Bình được thảnh thơi trò chuyện với bạn. Xong xuôi, chàng sửa soạn cúp thì giọng nói trong trẻo và nhí nhảnh của cô gái vang lên trong ống nghe:
- Chào ông.
Văn Bình giật bắn người.
Cô gái cười ngặt nghẽo:
- Chào ông Văn Bình, Z.28.
Chết rồi cô bé đã nghe trộm điện thoại... Văn Bình chỉ còn cách xuống nước năn nỉ:
- Vâng, tôi là Văn Bình, xin lỗi cô.
- Ông xin lỗi bằng điện thoại đúng 5 lần rồi. Bây giờ, tôi muốn ông thực hiện đúng lời hứa. Ông quỳ xuống xin lỗi, tôi mới bằng lòng.
Văn Bình rên rỉ:
- Trời đất ơi!
Thiếu nữ nghiêm giọng:
- Nhất ngôn phát xuất...
- Vâng. Tứ mã nan truy...Tôi đã hứa, xin giữ lời.
- Đúng thế. Quân tử bao giờ cũng phải giữ lời, phương chi quân tử lại là Văn Bình, Z.28, nổi tiếng hào hoa phong nhã.
- Tôi già rồi, cô ạ.
- Ồ, tôi cũng già như ông.
- Bao nhiêu?
- 24.
- 24 mà là già ư? Theo tôi, con gái 24 là ở độ hoa nở của cuộc đời. Tôi yêu nhất con gái 24.
- Ông bao nhiêu?
- 40. Tóc đã lấm chấm bạc.
- 40 là tuổi bắt đầu vào đời của nam giới. Phương ngôn Tây phương nói rằng đới đàn ông chỉ thật sự bắt đầu từ tuổi 40. Bọn con gái chúng tôi ngày nay ghét cay, ghét đắng bọn thanh niên cùng tuổi.
- Tại sao?
- Để phải mua dầu thơm chải đầu tém cho họ à? Chán lắm, ông ơi! Thanh niên có tài thì đi lính soành soạch, ở lại Sàigòn toàn là mấy cậu "yếu" quá... Nên bọn tôi chỉ thích đàn ông 40. Ông ở tuổi 40, ông lại là thanh niên chưa vợ.
- Cô lầm rồi. Tôi đã có gia đình hẳn hoi.
- Vậy tôi lầm cũng được. Nhưng đối với con gái ngày nay thì đàn ông có vợ không phải là pháo lũy bất khả xâm phạm.
- Nghe cô nói, tôi có cảm tình đặc biệt ngay.
Cô gái tấn công sát sạt:
- Con gái ngày nay rất ghét loại đàn ông cảm tình xuông.
Từ lâu, Văn Bình khét tiếng là tán tỉnh phụ nữ. Ít khi chàng "bị" phụ nữ tán tỉnh. Chàng không thể bõ lỡ cơ hội ngàn năm một thuở nầy. Nửa giờ sau cuộc điện đàm hi hữu, chàng đậu xe ngoài đường chờ nàng.
Nàng trẻ măng, chưa nếm mùi đời mặc dầu có một ngôn ngữ từng trải. Nàng lại ngoan và đẹp nữa. Tối hôm ấy, nàng đưa chàng vào Thiên Thai. Thiên Thai ở đây có nghĩa hai nghĩa: nghĩa đen, là một nhà hàng nấu ngon tuyệt trần, chàng được tự do biểu diễn nghệ thuật uống Úyt-ky với giai nhân; và nghĩa bóng mà nhiều người đàn ông hào hoa đều biết.
Trên mặt biển tối thui đêm nay, Văn Bình vừa nghe tiếng Thiên Thai và 35, nhưng tiếc rằng giây phút thần tiên đó đã qua và không trở lại nữa...
- Alô, Thiên Thai 35 gọi Chỉ huy...
- Alô, Chỉ huy gọi Thiên Thai 35...
- Alô, Chỉ huy gọi tất cả Thiên Thai trong khu vực... Alô...
Cuộc săn bắt rùng rợn bắt đầu. Văn Bình bình tỉnh tống ga xăng, chiếc VTOL bay vút lên không gian bao la, nhẹ như chiếc lá.
Chỉ nửa phút sau, Thiên Thai 35 đã báo cáo:
- Alô, Thiên Thai 35 báo cáo. Chiếc VTOL đã nhìn thấy tôi và đang tìm đường lẩn trốn. Alô... nó đang bay lên cao với tốc độ nhanh kinh khủng.
- Rượt theo, còn chần chờ gì nữa?
- Tôi đang rượt theo, nhưng sớm muộn cũng bị nó bỏ rơi.
- Không, anh không cần rượt theo nhứ bóng với hình. Anh chỉ cần rượt theo một thời gian để khi nó nằm trong tầm oanh kích thì phóng hỏa tiễn.
- Tuân lịnh.
Văn Bình cho phi cơ lên cao, lên cao hơn nữa và càng lên cao, càng gia tăng tốc độ. Bề cao và vận tốc là hai đồng minh của chàng. Chàng phải trốn thật nhanh, nếu không sẽ tan xác dưới sức công phá vô tiền khoáng hậu của hỏa tiễn không-không.
Chiếc VTOL đã lên tới thượng tầng không khí. Văn Bình biết chắc đội khu trục đang thở hổn hển trèo theo. Tuy nhiên, chàng không lên cao nữa. Nửa chừng, chàng chút mũi, lao xuống mặt biển. Thiếu sự nhanh nhẹn và uyển chuyển, đội khu trục sẽ bị lạc lõng trong sương mù, mây đen và đêm tối.
Trong chớp mắt, tới gần mặt biển, Văn Bình bay là là. Một lần nữa, chàng đã lánh được ra ngoài tầm mắt của radar. Đội khu trục bị chàng bỏ rơi một cách thảm thương. Họ đinh ninh chàng bay lên phía bắc, ngờ đâu chàng lại lướt sóng tới đảo Hoàng Sa.
Trời tối vẫn không che giấu được hết vẽ đẹp của hòn đảo nên thơ nầy. Văn Bình tiến vào không phận của đảo, mở máy vô tuyến vào mêga chu kỳ 186,3, chờ điện đàm của đại tá Tze.
Hồ Vệ thần lấp lánh phía dưới.
Suýt nữa, Văn Bình kêu lên một tiếng sững sốt. Giờ đây chàng mới hiểu rõ tại sao hồ này được gọi là hồ Vệ thần. Ban đêm, nó giống người đàn bà khỏa thân lạ lùng. Hồ nằm nghiêng, dường như người đàn bà xõa tóc, phô bày bộ ngực căng cứng, trong cử chỉ mời mọc ngây dại tình nhân xa xuống.
Ngẫu nhiên, Văn Bình nhớ đến cô gái nhí nhảnh ở tổng đài điện thoại. 35, Thiên Thai... nành cũng xỏa tóc, cũng phô bài bộ ngực căng cứng, trong cử chỉ mời mọc ngây dại và đêm ấy, chàng đã xà xuống. Miệng chàng, da thịt chàng dường như vẫn còn quyện hương thơm kỳ diệu của nàng.
Tuy nhiên, một hương thơm kỳ diệu khác lại dâng lên, dâng lên mãi...
Chàng rùng mình...
Trên không phận đão Hoàng Sa, bay qua hồ Vệ thần, chàng cảm thấy gần gũi Như Luyến hơn bao giờ hết.
Công việc thành bại hoàn toàn tùy thuộc vào tài nghệ của chàng và hên sui của số mạng. Dầu sao, Triệu Dung ở lại trên hàng không mẫu hạm cũng có thể giúp chàng được nhiều.
Đại tá Tze không phải là thủ lãnh điệp báo tầm thường... Trước khi tiến hành công tác, hắn đã hội đủ yếu tố chiến thắng.
Văn Bình chép miệng, lái phi cơ vượt khỏi đỉnh rừng kè rồi bay vòng tròn trên miệng hồ Vệ thần.
Chàng ghé miệng vào ống ghi âm:
- Alô, đây là Văn Bình, đây là Văn Bình. Yêu cầu được tiếp xúc với đại tá Tze.
Bên dưới có tiếng trả lời tức khắc:
- Đại tá Tze nghe rồi... Thành thật khen ngợi... Yêu cầu anh theo hướng bay 340 độ. Khi anh nhìn thấy những dấu hiệu màu vàng đặt thành hình tam giác, anh sẽ hạ cánh xuống chính giữa. Cẩn thận ấy... Anh sẽ hạ cánh xuống hồ Vệ thần.
- Đồng ý.
- Đồng ý cũng chưa đủ. Tôi trân trọng yêu cầu anh giữ đúng lời cam kết. Hoàn toàn đến đây với thiện chí hợp tác và không có hành động nào khả nghi.
- Dĩ nhiên. Tôi đến đây với thiện chí hợp tác, phiền anh tốp hộ bài diễn văn nhức óc.
- Sẵn sàng... Sợ anh quên, nên chúng tôi nhắc lại. Nào, mời anh sửa soạn. Anh đã thấy ba đốm lửa vàng chưa?
Văn Bình đáp:
- Rồi.
Ba tia đèn pha vàng lấp lánh giữa bóng tối dầy đặc. Giảm tốc độ và hạ xuống, Văn Bình có cảm tưởng đang xuống địa ngục chức đầy bất trắc và chết chóc.
Đột nhiên, chàng lo sợ.
Bình sinh, ít khi chàng lo sợ. Mỗi khi lao đầu vào nguy hiểm,chàng đều tính toán. Lần nầy, chàng cũng tính toán, song phần lớn đều là phỏng định và phiêu lưu.
Biết đâu chàng và cả Triệu Dung đều sai. Nếu sai, chàng phải chết... Và tất nhiên là Như Luyến cũng sẽ ra người thiên cổ...
Máy vô tuyến vẫn phát ra những khẩu hiệu gay gắt:
- Xuống đi, xuống ngay đi. Phi đội khu trục có thể bắt được tần số nầy... Trì hoãn có thể nguy hiểm.
Văn Bình xuống tới gần mặt hồ:
- Gần đến nơi rồi. Sau khi đáp xuống mặt nước, tôi sẽ còn phải làm gì nữa?
- Được. Đến nơi, anh hãy lái chiếc VTOL sang bên trái, được độ 100 mét thì thắng lại. Đợi lịnh sau.
Văn Bình dề môi:
- Hừ, đợi lịnh sau... Anh làm như tôi là nhân viên hạng bét của anh... Đại tá Tze ơi, đừng làm tàng...
Tiếng bên dưới:
- Tôi chỉ là phụ tá của đại tá Tze. Anh để dành những lời nói kiêu căng ấy đến khi gặp đại tá Tze.
- Đại tá Tze đang ở đâu?
- Cứ đáp xuống đi, anh không có quyền hạch hỏi.
Văn Bình cảm thấy đau nhói khắp châu thân. Chàng muốn bay lên cũng không kịp nữa. Vả lại, chàng quyết định đi tới cùng.
- Tốt lắm, tốt lắm. Chiếc VTOL đậu thẳng ro, anh quẹo sang trái đi. Tôi theo dõi anh... Được rồi, anh thắng đi thì vừa... Hoàn toàn rồi đó.
- Bây giờ còn cực hình nào nữa?
- Tái ngộ người yêu mà là cực hình ư, ông bạn Z.28? Bây giờ anh hãy ra khỏi phi cơ.
- Anh muốn tôi chết đuối hả?
- Hà hà, chết đuối sao được... Anh chỉ phải nhảy xuống, bơi 100 mét là đến nơi. Tôi nghe nói anh là quán quân bơi lội... Giá anh không biết bơi cũng không sao, mực nước không lấy gì làm sâu. Chỗ sâu lắm chỉ có một thước ba... mà anh lại cao thước bảy.
Văn Bình chột dạ. Đối phương đã biết rõ những chi tiết thầm kín của đời chàng. Chàng bèn nói đùa:
- Thú thât với anh,tôi không thích vọc nước ban đêm. Trời lạnh như thế nầy, tắm đêm nhất định là phải bị cảm. Yêu cầu anh trình lên đại tá Tze để thay đổi chương trình.
Giọng nói trong máy trở nên cau có, gắt gỏng:
- Anh cần biết rõ là chương trình đã được định sẵn, không cách nào thay đổi được nữa. Anh thích hay không thích vọc nước ban đêm kệ anh, anh bị cảm cũng kệ anh.
Văn Bình cười nhạt:
- Đã vậy thì thôi. Tôi ở lì ở đây, chẳng đi đâu cả.
- Anh đừng nên song tàng. Nếu anh không chịu đi, anh sẽ thiệt hại nặng nề. Thứ nhất, anh mất chiếc VTOL, Thứ hai, anh mất người đẹp. Tôi khuyên anh nhúng nhường hơn chút nữa.
Dĩ nhiên là Văn Bình sẵn sàng nhúng nhường. Gặp hoàn cảnh, chàng trở thành chúa sơn lâm, thét ra lửa, nhưng nếu sa cơ chàng vẫn sẵn sàng hóa ra con giun đất. Chẳng qua chàng rền ràng là vì ngụ ý. Chàng cố tình bắt chuyện để xét đoán chân giá trị của đối phương. Giờ đây, chàng không cần rền ràng nữa.
Chàng bèn mở cửa phi cơ:
- Tắt máy đây... Tôi nhảy xuống nước được chưa?
Giọng người lạ cất lên:
- Thong thả. Trước khi tắt máy, anh phải thuộc lòng chỉ thị. Thứ nhất, không được nhảy ùm xuống, mà là bám vào thân phi cơ, tuột từ từ xuống nước. Xuống tới mặt hồ, anh sẽ nhận ra một tia đèn bấm màu đỏ, cách nơi phi cơ hạ thủy một trăm mét. Phiền anh bơi lại.
- Khẩu hiệu nhận diện?
Có tiếng cười ngạo nghễ,rồi tiếng nói:
- Hừ, ở đây chỉ có tôi và anh, còn ai nữa đâu mà cần trao đổi khẩu hiệu nhận diện. Thôi, cúp máy đi. Mấy phút nữa, chúng mình gặp nhau. Tôi đã sẵn cho anh một chai rượu mạnh. Uống rượu, anh sẽ hết lạnh. Chào anh.
Văn Bình nhoài người ra bên ngoài.
Mặt hồ Vệ thần như tráng một lượt lân tinh, ban đêm ngời sáng, tạo cho quang cảnh rừng kè trên đảo Hoàng Sa một sắc thái thần tiên. Những con đom đóm lớn bằng chim xẻ bay vù từ dưới nước lên trời, trông như những trái hỏa châu xanh lè, nhỏ bé. Không hiểu sao Văn Bình cảm thấy hồi hộp.
Hồi hộp vì lát nữa, chàng sẽ gặp lại Như Luyến sau bao tháng ngày xa cách và chắc chắn nàng sẽ ngả vào lòng chàng, ngửa mặt chờ nụ hôn đắm đuối. Tuy nhiên, chàng cũng hồi hộp vì không ngờ kế hoạch của chàng lại có nhiều triển vọng thành công như vậy. Trước giờ lên đường, chàng đã bàn bạc chi tiết với Triệu Dung. Điều hai người lo ngại nhất là trên đảo Hoàng Sa có đông đảo nhân viên của địch.
Đằng nầy, địch chỉ vỏn vẹn một người. Có thể địch đánh lừa chàng, nhưng cũng có thể là sự thật.
Chậc, một người hay nhiều người, Văn Bình cũng không cần nữa. Bộ đồ phi hành gồm năm lớp vải, ni-lông và kim khí của chàng đè nặng lên vai và khớp xương làm chàng vướn víu.
Ánh đèn vành lập loè ở bờ bên trái. Tứ bề chìm vào yên lặng. Thốt nhiên, tiếng cú mèo nổi lên.
Văn Bình vung mình bơi. Chốc lát, chàng đã đến gần tới ngọn đèn vàng.
Kẻ đứng đợi chàng là một bóng đen cao lớn. Tuy chàng chỉ cách hằn một xải tay, chàng vẫn không nhận rõ mặt vì bóng đêm dày dặc. Hắn đứng dưới cây cổ thụ cành lá rườm rà nên bóng đêm càng dày đặc thêm.
Văn Bình chưa kịp lên tiếng thì tia đèn bấm sáng quắc rọi vào giữa mặt. Rồi đến tiếng nói hách dịch:
- Đứng lại!
Văn Bình phản đối:
- Tôi đây mà, anh điên ư?
- Đúng lại! Cấm cử động!
- Hừ, hết bắt đứng lại, còn bắt cấm cử động nữa. Sao anh không bắt tôi im miệng luôn thể.
- Im miệng!
- Vâng, tôi xin im miệng.
- Giơ tay lên!
- Ha, ha, anh còn lịnh nào nữa, ban ra để tôi tuân theo?
- Từ phút nầy, anh phải đặt mình dưới quyền điều động của tôi, không được phản đối cũng như thắc mắc.
- Vâng... Nhưng xin anh hiểu cho rằng tôi bó gối từ nãy dến giờ trên phi cơ, tay chân đã bị tê bại, tôi không thể nào tuân lịnh anh mãi. Phiền anh làm gì thì làm nhanh cho, để tôi còn bỏ tay xuống.
- Tôi bắt anh giơ tay để kiểm soát xem anh có đem vũ khí theo không.
- Họa là điên hay sao mà tôi mang theo khí giới.
- Anh nói đúng. Dầu sao, anh muốn gặp lại người yêu, anh sẽ không có cử động nào làm chúng tôi phật ý.
- Anh khám xét xong rồi, giờ đây tôi xin phép được hút một điếu thuốc lá.
- Không được. Phi cơ của mẫu hạm đang bay bay rần rần trên đầu. Máy hồng ngoại tuyến của họ có thể nhìn thấy một mẩu thuốc cháy đỏ trong rừng rậm.
- Vậy đại tá đâu?
- Tôi sẽ đưa anh đến. Đại tá nhờ tôi nói lại với anh rằng lẽ ra đối với một yếu nhân như anh phải cử một phái đoàn đông đảo đủ cờ xí và bát âm tiếp đón mới đúng nghi lễ. Nhưng vì đây là công tác gấp rút. Xin anh bỏ lỗi.
- Văn Bình mừng thầm. Một lần nữa, địch thú nhận là chỉ có một mình trên hòn đảo vắng vẻ. Chàng bèn hỏi:
- Đại tá đang ngồi trong đài kiểm soát phi trường, phải không?
Bóng đen lực lưỡng đáp:
- Không. Đừng hỏi vớ vẩn nữa. Anh muốn người yêu của anh còn nguyên vẹn xương thịt thì hãy bớt tò mò và tốp dùm cái miệng lại. Đại tá rất ghét những kẻ ba hoa.
Văn Bình dề môi:
- Đại tá của anh, không phải của tôi.
Bóng đen lực lưỡng dậm chân, quắc mắt, định tặng Văn Bình một bài học song phải bớt giận làm lành. Vì một tia đèn bấm màu đỏ vừa mới nháy tắt phía sau bụi vây um tùm.
Văn Bình toát mồ hôi; té ra chung quanh đang còn nhân viên khác của đại tá Tze rình rập. Bóng đen lực lưỡng nói dối ư? Văn Bình không tin. Có lẽ bọn họ gồm hai tên. Tên chờ chàng trên mặt hồ Vệ thần. Tên núp trong bụi kè.
Chàng bèn dò la:
- Ờ, ủy ban tiếp đón của đại tá đã rầm rộ tới... Đông như vậy càng vui.
Bóng đen hừ một tiếng rồi nói:
- Anh lầm to. Chẳng có ủy ban nào cả, tôi đã giải thích, anh quên rồi sao? Ngoài tôi ra, chỉ có một hoa tiêu nữa. Chúng tôi đến đây bằng phi cơ nhẹ.
Văn Bình giả bộ sửng sốt:
- Vậy đại tá Tze không có ở đây?
Bóng đen cười hềnh hệch:
- Hòn đảo này do Đệ Thất hạm đội kiểm soát. Dọn tổng hành dinh lên đây để mà toi mạng à? Đại tá không ở xa lắm đâu. Chỉ bay một lát là tới.
Rồi cất tiếng gọi:
- Tsan?
Từ bụi râm, có tiếng đáp:
- Tôi đây. Chờ một chút.
Bàn tay của Văn Bình vung ra như chớp xẹt. Chàng tấn công nhanh đến nỗi miếng đòn thân sầu trúng mục phiêu rồi, nạn nhân mới biết.
Nhưng biết thì đã muộn.
Phát atémi của Văn Bình được tính toán kỹ lưỡng: chàng không nhắm vào huyệt chết, mà chỉ đánh giữa cằm, chàng cũng không dùng nhiều sức lực, mà chí phớt qua nhẹ nhàng, êm ái và từ tốn. Bản tâm của chàng là xuất kỳ bất ý tấn công, loại đối phương ra khỏi vòng chiến trong vòn năm giây đồng hồ.
Chàng đánh ngọt đến nỗi chỉ một tiếng gió khô khan cất lên, rồi tiếng cây thịt nặng nề gieo xuống nền cỏ ướt. Không một tiếng động khả nghi nào... vì nên cỏ ướt êm như đệm cao su mút. Văn Bình lại hoành tay ra đỡ đối phương, trước khi hất xuống.
- Tsan ơi, Tsan.
Văn Bình bắt chước tiếng kêu khèn khẹt của nạn nhân. Chàng muốn Tsan lên tiếng vì đèn bấm đạ tắt, trời tối như trong hũ mút, chàng không nhìn thấy hắn ở đâu, tuy mắt chàng có biệt tài xuyên thủng màn đêm dày dặc.
Tsan đáp:
- Tôi ở đây.
Hắn ở bên trái chàng và chỉ cách chàng có hai thước. Văn Bình chưa kịp phản ứng thì Tsan lại tiếp:
- Anh ở đâu, sao không bấm đèn lên? Tối quá, đụng phải rắn lục thì không khỏi mất mạng.
Nói nhiều vẫn là bất lợi từ xưa đến nay. Nhờ tiếng nói, Văn Bình đã phăng ra vị trí của Tsan một cách dễ dàng. Nghe tiếng lách cách, chàng biết hắn đang thủ khẩu tiểu liên. Nếu chàng phản ứng chậm chạp, một loạt đạn 9 li sẽ bay ra tua tủa trong chớp mắt.
Văn Bình phóng bàn chân trái về phía Tsan.
Chàng nghe "hự " một tiếng. Nạn nhân bị khuất phục trong vòng một phần mười giây đồng hồ. Chàng tiến lại, điểm huyệt mê ở gần nách.
Thế là xong.
Giờ đây, chàng bắt đầu thực hiện giai đoạn 2 của chương trình. Chàng bấm đèn vào mặt tên bị thịt, dựng hắn dậy và tát vô hồi kỳ trận vào hai má.
Cái tát đầu tiên đã làm hắn long óc. Hắn chưa kịp lên tiếng thì cái tát thứ hai, thứ ba, thứ tư vèo tới. Chờ hắn thấm đòn, Văn Bình mới gằn giọng:
- Mày bị thua rồi... Mày phải nghe tao, nếu không, tao sẽ vứt xuống biển cho cá mập ăn thịt.
Hắn lồm cồm bò dậy, giọng ai oán:
- Đồ xỏ...
Văn Bình tát trái, khiến hắn lộn nhào xuống cỏ. Chàng nghiêm mặt:
- Không được hỗn. Nếu còn xấc xược nữa, tao sẽ đánh gãy luôn hai hàm răng, suốt đời không ăn cơm được nữa. Đại tá Tze của mầy ở đâu?
Gã bị thịt nghiến răng để ngăn tiếng thở đau đớn. Dưới ánh đèn, Văn Bình thấy mắt hắn đỏ ngầu. Nếu có tài chuyển bại thành thắng, hắn sẽ ăn tươi nuốt sống chàng.
Chàng đánh nhẹ vào khớp xương vai:
- Mày định lừng khừng hả? Coi nầy...
Miếng atémi đặt đúng huyệt làm toàn thân hắn co rúm lại như người mắc bịnh sài uốn ván. Lối đánh khoa học này đã từng khuất phục nhiếu tay anh chị gan lì nhất hoàn vũ. Dầu hắn là gan cóc tía và chịu đau giỏi, cũng chỉ ngậm miệng được một vài phút là cùng.
Hắn ngóc đầu dậy, lí nhí:
- Đau tôi quá, anh ơi!
Văn Bình điểm huyệt tiếp:
- Nếu muốn khỏi đau thì nói đi. Nói ngay đi. Đại tá Tze đang chờ mầy ở đâu?
Hắn thở dài đau đớn:
- Đại tá giết tôi mất, anh ơi. Anh thương dùm tôi một chút.
Văn Bình dỗ dành:
- Đại tá không biết được đâu. Nói ngay đi... Tôi vốn có tính nóng nãy. Tôi nặng tay thêm chút nữa thì thân thể anh sẽ bẹp rúm.
Khối thịt mềm nhũng lại run lẩy bẩy:
- Xin anh tha cho tôi. Đại tá đang chờ trên đảo san hô, cách Hoàng sa 350 hải lý về phía đông nam. Họa đồ đang ở trong túi áo tôi.
- Trên đảo hay trên tàu đánh cá?
- Trên đảo. Vì đảo này rất nhỏ. Đảo toàn rừng là rừng. Chính giữa có một khu nhà gổ.
- Còn tàu đánh cá?
- Thưa, đậu khuất trong một cái eo ở bờ tây nam, ngụy trang bằng lá, ban ngày đáp phi cơ qua cũng không nhìn thấy. Tuy nhiên, đại tá sẽ trở về bằng tiềm thủy đĩnh.
- Đậu ở đâu?
- Tôi không biết. Nhưng chắc chắn là sát bờ biển. Bờ biển có hai phía, toàn bãi cát và phía toàn núi đá san hô. Chắc chắn có đậu phía núi đá san hô..
- Mầy nói dối.
- Tôi có nói dối cho trời tru đất diệt tôi đi. Anh hỏi thằn Tsan thì sẽ biết tôi hoàn toàn thành thật. Tôi mới đi theo đại tá Tze. Thằng Tsan đã ở trên đảo này từ lâu.
- Từ lâu nghĩa là mấy tháng?
- Sáu tháng.
Văn Bình nín lặng suy nghĩ. Phái đoàn bác học mà Như Luyến tham dự mới hoạt động được trong vòng mấy tuần lễ, vậy mà Quốc Tế Tình báo Sở đã đặt căn cứ trên hòn đảo trơ trọi này từ sáu tháng trước, nghĩa là ngay sau khi kế hoạch thí nghiệm vừa được các cơ quan điệp báo đồng minh chấp thuận.
Nghĩa là...
Nghĩa là sự phản bội bắt nghuồn từ cấp cao nhất.
Văn Bình thở phào khoan khoái. Triệu Dung và chàng đã đoán đúng phần nào. Sự phản bội đã bắt nguồn từ cấp cao nhất. Chàng bắt đầu khám phá ra rõ rệt cấp cao nhất này là ai.
Văn Bình vung bàn tay ra. Gã bị thịt kêu ái một tiếng nhỏ rồi lộn đầu xuống cỏ ướt.
Giờ đây, chàng hạch hỏi tên thứ nhì, có cái tên khả ái là Tsan. Hắn còn thiêm thiếp thì Văn Bình đã dựng dậy, đánh nổ đom đóm mắt và thét vào tai:
- Đại tá Tze đang chờ mầy ở đâu?
Văn Bình khỏi phải trổ tài tra tấn nữa. Vì tiếng quát của chàng đã làm hắn co quắm tay chân, lưỡi rụt lại trong sự sợ hãi vô biên.
Chàng gật đầu có vẻ hài lòng vì hắn khai giống bạn hắn, không sai một li. Có thể bọn chúng được đại tá Tze bắt học thuộc lòng, đề phòng bị tra khảo. Song le Văn Bình không tin. Hai tên thuộc viên này chỉ là phường giá áo túi cơm, không đủ bản lãnh man trá, phỉnh gạt nổi chàng.
Vả lại, đây là một canh xì phé. Muốn thắng, phải đoán tẩy giỏi hơn đối phương, ngoài ra, còn cần may mắn hơn nữa.
Văn Bình nán lại đúng 5 phút. Thời gian cần thiết để chàng tặng hai phát atémi ngọt ngào. Hai thuộc hạ của đại tá Tze phải ngủ thiếp mấy giờ đồng hồ nữa. Sau khi chàng hoàn thành công tác, chúng thức dậy cũng chưa muộn.
Chiếc phi cơ chở chúng tới đang nằm chềnh ềnh trên phi đạo, đối diện dãy nhà lớn được dùng làm đài kiểm soát. Trên kế hoạch của đại tá Tze, Văn Bình sẽ phải lái chiếc VTOL theo phi cơ của hai tên thuộc hạ.
Giờ đây, Văn Bình phải đi một mình.
Chàng hơi sửng sốt một giây khi nhận ra chiếc Temco TT-I Pinto, loại máy bay hải quân, bay khá nhanh, thường được dùng để huấn luyện. Quốc Tế Tình báo Sở do Bắc Kinh điểu khiển mà lại dùng toàn chiến cụ Hoa-Kỳ.
Động cơ còn nóng nên con chim sắt rời sân bay hoàn toàn êm ái và dễ dàng. Phi cơ từ từ bay lên cao.
Đêm càng về khuya, càng tối thêm. Văn Bình có cảm tưởng như vũ trụ là một thùng hắc ín khổng lồ.
Hòn đảo san hô mà đại tá Tze đặt tổng hành dinh tạm thời là một dẻo đất nhỏ, trong hàng chục dẻo đất nhỏ được bồi lên sau những biến động ở đại dương. Nó nằm trên hải phận quốc tế, không thuộc quyền nước nào, song trên thực tế do Đệ Thất hạm đội Mỹ kiểm soát.
Văn Bình lẩm bẩm:
- Gớm thật!
Đại tá Tze quả là lãnh tụ tình báo liều mạng. Đảo Hoàng sa là của Mỹ mà hắn dám chọn làm nơi hò hẹn nghề nghiệp. Rồi tới đảo san hô nhỏ bé kia nữa...
Trên họa đồ, đảo này mang con số 196, đảo 196...
Chiếc Temco rời không phận Hoàng sa được chừng 5 phút, Văn Bình liên lạc vô tuyến với Triệu Dung. Hai người đã quy định trước một tần số riêng để thông tin cho nhau. Dĩ nhiên đại tá Tze cũng như đài kiểm soát của pháo đài ZZ đều nghe, nhưng họ chỉ nghe mà không hiểu. Vì nội dung toàn bằng mật ngữ.
Văn Bình cố tình đổi khác giọng nói để những vành tai tò mò khó thể nhận ra. Thay vì nói tiếng Anh hoặc tiếng Việt, chàng lại dùng tiếng Pháp:
- Alô, alô, Paris gọi Rouen... Alô, Paris gọi Rouen...
Triệu Dung đáp ngay:
- Rouen đây, Paris nói đi.
Văn Bình nói một hơi:
- Alô... Kế hoạch Bordeaux đã hoàn tất phần đầu. Nghe rõ chưa: kế hoạch Bordeaux đã hoàn tất phần đầu. Đang tiến hành pần thứ hai... Hàng hóa đang chờ ở Marseilles... Hàng hóa đang chờ ở Marseilles. Cẩn thận, hành động ngay ở Dieppe... Hành động ngay ở Dieppe.
Trừ Triệu Dung ra, không ai hiểu được ý nghĩa của những phượng danh như Paris, Rouen, Bordeaux, Marseilles và Dieppe...
Thế là tạm xong. Giai đoạn đấu trí đã qua. Dầu muốn dầu không, Văn Bình phải dấn vào giai đoạn thi thố tài nghệ.
Một giờ đồng hồ sau, chiếc Temco xinh xắn đã ra khỏi vùng bão và bắt đầu lượn trên những đảo san hô xếp hàng thành hình bán nguyệt bên dưới.
Văn Bình cúi đầu xuống họa đồ rồi nói một mình:
- Đúng đảo này rồi, vì bờ biển hình lục lăng, ngang dọc bằng nhau, khoảng một cây số.
Chàng giảm ga xăng, xuống thấp trước khi lượn một vòng quanh đảo. Trời trăng hạ tuần, giát một màu sữa loãng trên cảnh vật đêm khuya. Tuy đảo san hô cách Hoàng sa mấy trăm cây số, Văn Bình có cảm tưởng là rất xa. Vì ở Hoàng sa tối om và bí mật bao nhiêu thì ở đây cảnh vật lại sáng sủa và thơ mộng bấy nhiêu.
Bên dưới, tiếng nói vẳng lên qua máy vô tuyến:
- Alô, đại tá đây, đại tá đây.
Dĩ nhiên là Văn Bình nghe rõ mồn một. Té ra đại tá thân yêu của Quốc Tế Tình báo Sở đang chực sẵng gần phi đạo.Văn Bình không thể trả lời dầu bằng một vài tiếng ngắn ngủi vì chàng sợ đại tá Tze dùng mật ngữ. Tze là con cáo già tình báo, không ngờ nghệch để có thể dùng những tiếng nói thông thường với thuộc viên, vì, hơn ai hết, hắn phải biết là bất cứ ai cũng nghe được các điện đàm vô tuyền tản mát trong không gian.
Vẫn giọng hách dịch của đại tá mật vụ Trung cộng:
- Đại tá đây, đại tá đây. 439 nghe rõ chưa? Nếu nghe rõ thì trả lời ngay.
Văn Bình hú vía! May chàng còn ngậm miệng, nếu hấp tấp lên tiếng thì đã bại lộ. Đại tá Tze quả đã dùng mật ngữ. Không nghe thuộc viên trả lời, hắn phải nhắc đến con số 439. "Nếu nghe rõ thì trả lời ngay " chắc là mật ngữ, nội dung là "kế hoạch thành công hoàn toàn không?" hoặc "chiếc VTOL đang bay theo phi cơ Temco về đảo san hô phải không?"
Văn Bình không trả lời vì sợ đại tá Tze nhận ra giọng nói khác lạ, mặt khác, muốn tạo cho đối phương ấn tượng sai lầm là phi cơ Temco bị trục trặc máy móc.
Giọng đại tá Tze đượm vẻ lo lắng đặc biệt:
- 439 nghe rõ chưa. Nếu nghe rõ thì trả lời ngay.
Văn Bình xà xuống, nhưng lại tăng thêm tốc lực. Trong chớp mắt, chàng đã vượt qua sân bay nhỏ xíu trên đảo san hô. Phi cơ của chàng bị khuất sau những đỉnh cây cao vòi vọi.
Văn Bình nhảy vọt ra ngoài.
Giãy nhà tôn tọa lạc dọc phi đạo đang tối thui bỗng mở đèn sáng trưng. Đại tá Tze vẫn bó người trong bộ kaki tím bạc màu, ủi sắc cạnh, tưởng đụng vào có thể đứt tay. Tze chỉ mất bìn tỉnh trong phút chốc rồi quay sang phía thuộc viên đang nín thở trước máy vô tuyến:
- Phải là phi cơ của mình không?
- Thưa, phải.
Khi phi cơ bay vụt qua mà không hạ thấp để đáp xuống, đại tá Tze nhăn mặt:
- Phi công điên hả?
Rồi đổi giọng gắt gỏng:
- Có lẽ anh dặn nó không kỷ.
Gã thuộc viên ngẩn đầu:
- Thưa đại tá, như thường lệ, tôi ra lịnh cho phi công học thuộc chỉ thị rồi đọc lại cho tôi nghe.
Đại tá Tze lẩm bẩm:
- Không khéo...
Gã thuộc viên nhanh nhẩu.
- Thưa, việc phản phé không thể nào xẩy ra được. Các nhân viên phục vụ trong kế hoạch Kim cương đều được tuyển chọn chu đáo về mọi phương diện trung thành. Hơn thế nữa, Trung Ương còn áp dụng phương pháp kiểm soát gia đình. Toàn thể nhân viên thuộc kế hoạch Kim cương đều còn gi -đình tại Lục địa... Họ lại hoạt động từng cặp một... Thưa đại tá, hai nhân viên được lịnh tới Hoàng sa đêm nay rất được tín cẩn. Vả lại, trước khi cắt cử, tôi đã tới trình đại tá và đại tá đã chấp thuận.
Đại tá Tze nhăn mặt:
- Đồ ngu! Không phải phản phé... Từ xưa đến nay, chưa nhân viên nào dưới quyền tôi phản phé bao giờ. Chẳng qua, tôi lo ngại chuyện khác. Nếu đúng thì nguy hiểm hơn nhiều.
Gã thuộc viên nhìn thượng cấp bằng cặp mắt tròn xoe, biểu lộ kinh ngạc:
- Thưa, chuyện khác, chuyện khác là...
Đại tá Tze khoát tay:
- Tôi rất ghét những câu hỏi lôi thôi, mất thì giờ. Anh cò đợi gì mà chưa liên lạc với phi cơ VTOL?
Sực nhớ ra, gã thuộc viên à một tiếng rồi cúi xuống máy vô tuyến. Nhưng hắn chưa kịp bấm nút liên lạc thì một tiếng ầm long trời lở đất nổi lên. Rồi một loạt tiếng ầm khác tiếp theo.
Văn Bình vừa nhảy ra ngoài thì chiếc Temco trúc mũi xuống, phóng với tốc độ kinh hoàng. Trong chớp mắt, phi cơ đâm nhào xuống rừng cây san sát.
Ầm, ầm, ầm, ầm...
Theo đúng sách vỡ, Văn Bình phải rời phi cơ ở độ cao, hấu có đủ thì giờ mở dù. Song nhiều năm kinh nghiệm - và đặc biệt là kinh nghiệm nhảy dù trong các trường điệp báo - đã dạy cho chàng một kỹ thuật nhảy thấp an toàn.
Khi ấy, đại tá Tze kêu lên:
- Chết rồi!
Gã thuộc viên đứng phắt dậy:
- Máy bay bị nạn, chắc có chuyện gì đây. Vì phi công là tay cừ khôi, lại quen với cách đáp xuống đảo. Xin đại tá ra lịnh cấp cứu.
Đại tá Tze nhìn bầu trời màu sữa loãng, giọng bực bội:
- Hừ, bảo chúng nó đến ngay chỗ phi công lâm nạn... Đến ngay và nhớ mang theo khí giới. Còn chiếc VTOL, đã tìm thấy tăm hơi gì chưa?
- Thưa, chưa.
- Trên màn radar?
- Cũng chẳng thấy gì hết.
- Đồ ăn hại... Tôi đã dặn mà anh không nghe... Tôi dặn trên đường về phải bay trong tầm radar thì anh nói là sợ địch theo dõi. Lần này thì chết rồi... Chết cả nút rồi...
Nói đoạn, đại tá Tze cầm khẩu AK-47 trên bàn, ngần ngừ một giây rồi chạy ra ngoài. Gã thuộc viên vội vã rượt theo, giọng hớt hải:
- Thưa đại tá...
Đại tá Tze ngừng lại, mặt đỏ gay:
- Còn thưa với gởi gì nữa?
- Thưa... đại tá đi một mình bất tiện. Tôi có cảm tưởng là địch sắp đến...
- Té ra bây giờ anh mới biết! Ở lại đó, gọi điện thoại cho tiềm thủy đĩnh, dặn họ nổi lên ngay. Bây giờ tôi xuống trại giam.
- Thưa, còn các nhân viên ra chỗ phi cơ bốc cháy...
- Kệ chúng nó... Tôi e không kịp nữa đâu. Xong xuôi, anh xuống bờ biển đợi tôi.
Đại tá Tze xăm xăm tiến vào rừng cây mù mịt.
Đại tá Tze đã khôn ngoan. Song Văn Bình lại còn khôn ngoan hơn hắn. Vì vậy, ngay sau khi chân chấm đất, chàng vội rút dao cắt dây dù, rồi ba chân, bốn cẳng chạy về phía phi đạo.
Dường như hai chân chắp cánh nên trong thời gian kỷ lục, chàng đã tới sau ngôi nhà lợp tôn le lói ánh đèn. Chàng thoáng thấy một tên cao lớn, mặc toàn đồ đen, cầm súng tiểu liên Tiệp-Khắc đứng gác, quay lưng ra ngoài.
Nhanh như cắt, chàng vút tới.
Tên gác quay lại, song bàn tay nhu đạo tuyệt luân của Văn Bình đã giáng xuống. Một cú atémi của chàng đủ kết thúc cuộc đấu võ chớp nhoáng và chênh lệch. Tên gác ngã nhào xuống đất.
Văn Bình đạp tung cánh cửa tôn, nhảy vào. Bên trong, bên ngọn đèn loe lét, Như Luyến đang ngồi trầm ngâm. Nàng có vẻ gầy hơn ngày thường, hai má và mắt sâu trũng, song càng gầy, nàng càng tăng thêm vẻ đẹp quyến rũ.
Như bị điện giật, nàng đứng dậy, lắp bắp:
- Anh... Trời ơi, anh của em.
Rồi nàng ôm chầm lấy Văn Bình. Chàng cúi xuống, hôn nhẹ cặp môi run rẩy của Như Luyến. Lâu lắm, chàng mới hôn nàng lại. Đột nhiên, chàng có lại cảm giác kỳ lạ của buổi ban đầu gặp gỡ. Chàng hôn mà chàng lại rụt rè không dám. Vì khi ấy, nàng là đàn bà có chồng. Nói đúng hơn, nàng sắp sửa tái giá với bác sĩ vật-lý Đoàn Trung.
Tuy nhiên, lý trí của Văn Bình luôn luôn thắng tình cảm trong những giây phút trọng đại. Chàng nhẹ nhàng gỡ tay nàng ra. Song nàng vẫn bám cứng vai chàng như con bạch tuột, giọng rên rỉ, nũng nịu:
- Không... Em nhớ anh lắm... Em tưởng trọn đời không được gặp anh nữa.
Văn Bình vội giải thích:
- Anh cũng nhớ em quay quắt. Nhưng chúng mình nên hẹn nhau khi khác. Vì yêu em, anh mạo hiểm đến đây có một mình. Địch đông lắm.
Bừng tỉnh, Như Luyến buông Văn Bình ra. Văn Bình hỏi:
- Em có biết các nhà bác học bị giam ở đâu không?
Như Luyến lắc đầu:
- Có lẽ dưới tiềm thủy đĩnh. Sau khi bị bắt, em bị đưa từ đảo Hoàng sa xuống tàu đánh cá, rồi từ đó tới tiềm thủy đĩnh. Rồi em được dẫn lên đảo nầy. Em quên cả ngày tháng. Em cũng không biết nơi này là đâu. Vì từ khi xuống tàu đánh cá, em bị bịt mắt kín mít.
Giọng nàng trở nên say sưa:
- Anh ơi!
Văn Bình xô cửa:
- Ra mau đi em... Đối phương là người tối nguy hiểm... Đại tá Tze của Quốc Tế Tình báo Sở. Chúng mình phải thoát thân thật nhanh, kẻo đại tá Tze đến bắt em lại.
Một chuỗi cười khanh khách nổi lên.
Tiếp theo một giọng nói dõng dạc, kênh kiệu, khinh miệt. Giọng nói của đại tá Tze:
- Đúng. Văn Bình nói đúng. Đại tá Tze là người tối nguy hiểm.
Văn Bình phóng chân ra, gạt Như Luyến ngã xuống. Đồng thời, khẩu súng lục nhảy vào tay chàng, nhả đạn. Hai động tác này bình thường phải mất 5 giây đồng hồ đã được Văn Bình tiến hành trong chớp mắt.
Óc chàng như được gắn máy tính điện tử, chàng chỉ thoáng nghe tiếng ngươì hoặc nghe hơi thở nhỏ bé hoặc thoáng thấy bóng đen là có thể biết ngay được vị trí của địch và nhả đạn được liền. Trong hầu hết trường hợp, Văn Bình đều bắn trúng mục phiêu.
Nhưng lần nầy, chàng thất bại, vì - như chàng đã nhìn nhận - đối phương là người tối nguy hiểm, có nhiều kinh nghiệm trong nghề điệp báo. Viên đạn vừa vút ra khỏi nòng súng của chàng thì chàng mất luôn súng. Không biết núp ở đâu, đại tá Tze đã ung dung bắn vào khẩu súng của Văn Bình.
Thấy biến, Văn Bình nhảy áp vào tường, nhưng không kịp nữa. Giọng nói của đại tá Tze xoắn sâu vào tai chàng như mũi dùi nhọn:
- Vô ích. Yêu cầu bạn đứng yên.
Biết mọi lối thoát đều bị đối phương chặn trước, Văn Bình đành đứng yên. Như Luyến nép vào vai chàng, run cầm cập.
Bên ngoài bước vào hai người mặc đồ kaki, trên tay lăm lăm khẩu tiểu liên AK-47. Chỉ một khẩu súng máy cũng đủ cầm chân một tiểu đội, huống hồ chàng lại đơn phương, độc mã với một xạc-giơ 8 viên đạn 9 li bé bỏng và chậm chạp.
Hai người này có vẻ là vệ sĩ hơn là thủ lãnh, với khuông mặt phũ phàng, thẹo rỗ chằng chịt, dáng đi khệnh khạng.
Văn Bình đoán đúng. Đại tá Tze chậm rãi tiến vào sau, vừa đi, vửa cất khẩu súng Tôcarếp ngi ngút khói vào bao da ở thắt lưng.
Hắn nghiên đầu chào Văn Bình rồi ra lịnh cho thuộc viên thắp thêm một cây bạch lạp lớn ở giữa nhà. Văn Bình kéo ghế cho Như Luyến ngồi.
Trông thái độ của chàng, không ai không ngạc nhiên. Vì chàng vẫn không thay đổi nét mặt, người ngoài không thể hiểu nổi chàng sửng sốt hay bình thản, lo lắng hay khinh thường.
Đại tá Tze cười nhạt:
- Anh rất xứng đáng. Tôi thành thật khen ngợi anh.
Văn Bình nhún vai:
- Đa tạ hảo ý của anh. Hy vọng trong tương lai, chúng mình còn được gặp nhau lại.
- Hy vọng này khó thể thành tựu, anh à. Vì đây là lần cuối cùng.
Văn Bình nhìn giữa mắt đối phương:
- Nghĩa là các anh giết tôi?
Đại tá Tze nhún vai:
-Trong quá khứ, mỗi lần bắt được anh, các đồng nghiệp của tôi đều phạm phải lỗi lầm tai hại. Vô cùng tai hại. Thứ nhất, họ dại dột khinh địch, khiến lần nào anh cũng có thể chuyển ngược thế cờ vào giờ chót. Thứ hai, là nghĩ đến kho tin tức và tài liệu trong đầu anh, và phần nào cũng vì số tiền thưởng quá lớn, nên họ chỉ nhằm bắt sống, giải về Trung uơng. Lợi dụng thời gian, anh đã tìm cách tẩu thoát.
- Anh phân tách tình hình rất đúng.
- Đừng hy vọng lợi dụng, anh Văn Bình ạ. Thứ nhất, tôi không dại dột như các đồng nghiệp của tôi trong Tình báo Sở. Giả sử anh lừa được hai nhân viên của tôi, đoạt được hai khẩu súng của họ, thì đang còn trở ngại cuối cùng nữa. Trở ngại này là tôi. Anh rất giỏi võ, song nhất địch còn thua tôi. Tôi là người Tàu, hấu hết những môn võ bí truyền nguy hiểm đều phát xuất từ đất Tàu. Tôi lại là võ sĩ chuyên về những môn võ bí truyền. Đụng vào tôi, sớm muộn anh sẽ tan xác. Thứ hai...
Văn Bình cắt ngang:
- Tôi biết rồi... Thứ hai, anh sẽ áp dụng biện pháp ăn chắc, anh sẽ hạ sát tôi, chứ không dám bắt sống để lấy tiền thưởng nữa. Dĩ nhiên, sống nhiều tiền thưởng hơn chết, nhưng chắc ăn hơn, phải không anh? Tôi sống quá dai dẵng rồi, anh ạ. Nên cũng bắt đầu muốn chết. Biết đâu anh lại chẳng là ân nhân của tôi.
Đại tá Tze dậm đế dài xuống đất:
- Phải. Tôi sẽ giết anh. Song anh đừng mơ mộng hão huyền nữa.
Văn Bình tỏ bộ ngạc nhìen:
- Mơ mộng hão huyền? Anh bảo tôi đang mơ mộng hão huyền ư?
Tze cười nhạt:
- Anh đừng tiếp tục giả vờ nữa. Mỗi lần bị bắt, anh thường đóng kịch
chán đời, mong được sớm giải thoát. Anh lại thường kể chuyện con cà, con kê. Chẳng qua, anh chủ tâm kéo dài thời giờ để đoạt lại thế chủ động. Nhiều động nghiệp của tôi đã bị anh phỉnh phờ một cách thảm hại. Vì vậy, rút kinh nghiệm, tôi không cho phép anh tán hươu, tán vượn nữa. Mời anh ngồi yên, đợi một phát đạn vào giữa trái tim. Thế thôi.
- Nếu tôi không thích ngồi yên?
- Thì miễn cưởng, tôi sẽ đánh cho anh ngất đi.
- Lạ thật, anh định giết tôi, sao không xả ngay một băng đạn mà lại ngồi nhìn, rồi còn dọa đánh ngất. Thôi, tôi hiểu thâm ý của anh rồi... Có lẽ anh muốn đổi chác.
- Anh lầm to. Không có đổi chác gì cả. Tôi chưa giết anh vì còn
đợi tiềm thủy đĩnh ghé bờ, đưa anh xuống. Trước khi giết anh, tôi cần được anh cung cấp một vài chi tiết.
- Hừ, anh lầm thì đúng hơn. Anh cho tôi sống; cũng vị tất tôi chịu hé răng, huống hồ, trước sau, tôi cũng chết. Anh đừng quên ngọn đèn trước khi hết dầu, bùng lên rồi mới chịu tắt. Ít ra, tôi cũng giết hai thằng vệ sĩ dài lưng tốn vải của anh... Và nếu gặp may mắn, tôi sẽ giết cả anh...
- Nhiều lời qua. Tôi không muốn nghe nữa.
- Đại tá Tze của Quốc Tế Tình báo Sở ơi, đại tá không muốn nghe vì bắt đầu lo sợ.
- Ngậm miệng lại!
Văn Bình ngữa cổ lên cười. Từ nãy đến giờ, Như Luyến vẫn ngồi bất động. Nàng luôn luôn tin tưởng vào tài ba siêu đẳng của Văn Bình. Nàng nghe thiên hạ thuật lại hành động xuất quỷ nhập thần của chàng mỗi khi bị đối phương lừa bắt, song đây là lần đầu nàng được mục kích. Quả lời đồn đãi không ngoa: chàng vẫn bình tĩnh, mỗi lúc một bình tĩnh hơn và thái độ bình tĩnh kỳ lạ này đã làm địch chột dạ.
Đại tá Tze cúi đầu xem đồng hồ tay. Văn Bình lại cất tiếng:
- Anh cho phép tôi vén tay áo, coi giờ được không?
Giọng đại tá Tze đượm vẻ bực bội:
- Anh muốn coi giờ tha hồ, không ai cấm. Nhưng yêu cầu anh đừng làm tàng.
Văn Bình chắt lưỡi:
- Sở dĩ tôi coi không phải vì muốn thời gian chậm lại, chờ một sự may mắn kỳ diệu, đổi ngược thế cờ. Tôi cần báo anh biết rằng cái đồng hồ tay của tôi là dây liên lạc với pháo đài nổi ZZ và văn phòng chỉ huy của ông Hoàng. Cho đến phút này, đồng hồ vẫn còn chạy và còn tiếp tục chạy trong 48 tiếng đồng hồ nữa, vì như anh đã biết, kỹ thuật viễn thông tình báo ngày nay đã dùng pin bằng Cadmium và nhưng transistor nhỏ hơn sợi tóc.
Bàn tay đại tá Tze hơi run run. Hắn nuốt nước miếng vào cổ họng khô đắng, song giọng nói vẫn không mất vẻ bình tĩnh:
- Giỏi... Anh qua mặt được tôi. Nhưng anh Văn Bình ơi, căn phòng này cũng như tàu ngầm của tôi đã được trang bị dụng cụ tối tân phá tuyến. Cho dẫu băng ghi âm và phát âm của các anh khá tinh vi, các anh cũng chỉ nghe được âm thanh bịp bịp hoặc tút tút vô nghĩa và vô vị mà thôi.
- Hừ, dụng cụ phá tuyến tối tân nhất thế giới chỉ có thể triệt hạ được làn sóng thông thường, nghĩa là làn sóng lan vòng tròn của vô tuyến điện, và làn sóng phóng thẳng của vô tuyến truyền hình. Nhưng còn làn sóng vi ti bay vụt lên thượng tầng không gian, do vệ tinh truyền lại xuống đài nghe bí mật dưới đất? Tôi xin thành thật chia buồn cùng đại tá và quốc Tế Tình báo Sở vì đồng hồ phát tuyến của tôi được chế tạo theo phương thức ấy.
- Anh bịp.
- Nếu anh cho phép, tôi xin đưa đồng hồ cho anh xem. Trong đời, tôi từng bịp nhiều lần, song chưa bao giờ dám bịp những thủ lãnh tài ba như đại tá Tze. Anh hãy tin ở tôi...
Đại tá Tze nhíu mài suy nghĩ, rối nhún vai:
- Anh cởi đồng hồ cho tôi coi.
Văn Bình gất đầu vui vẻ:
- Tuân lịnh.
Cửa ra vào được mở toang. Một thuộc viên chạy vào, mặt hớt hơ, hớt hải.
Đại tá Tze quắc mắt:
- Gì thế?
Gã thuộc viên thở dốc, giọng run run:
- Thưa đại tá, dưới tàu ngầm vừa gọi điện thoại báo tin là không thể chờ được nữa.
Đại tá Tze gằng giọng:
- Tại sao?
- Thưa, họ muốn hầu chuyện với đại tá.
Đại tá Tze càu nhàu, ra lịnh trước khi bước ra ngoài:
- Tôi chỉ vắng mặt vài ba phút. Các chú phải thận trọng. Nếu chúng ngo ngoe, tôi cho phép bắn bỏ.
Điện thoại liên lạc với tiềm thủy đĩnh đuợc cất ở phòng bên. Đại tá Tze chỉ "Alô" chưa kịp xưng tên thì ờ đầu dây đã vang lên tiếng nói nôn nóng, thiếu bình tỉnh:
- Thưa đại tá, nguy rồi. Chúng tôi không thể chờ được nữa.
Đại tá Tze cười nhạt trong điện thoại:
- Phi cơ địch, phải không?
- Thưa, phải.
- Phi cơ địch bay đến thì đánh, chẳng có gì đáng lo ngại cả. Nếu tôi không lầm, tiềm thủy đĩnh của chúng ta được võ trang súng phòng không khá mạnh. Đồng chí còn đợi gì mà chưa tập hợp thủy thủ, sửa soạn cho địch một bài học?
- Thưa đại tá, Trung ương không cho phép.
- Chấp kính phải tòng quyền, sau này nếu Trung ương khiển trách, đồng chí cứ đổ trách nhiệm cho tôi.
- Thưa, tôi rất muốn tuân lịnh đại tá, nhưng bộ Tổng tư lịnh đã ra những chỉ thị rõ rệt, đó là trong bất cứ trường hợp nào, không được khai hỏa, trừ phi...
- Bị tấn công trước?
- Thưa, không. Trừ phi gặp những con tàu lẻ loi, không võ trang. Thiết tưởng, tôi cũng nên trình với đại tá rằng đại bác cũng như ống phóng ngư lôi và đạn dược của ta đều mang nhãn hiệu Mỹ. Tôi chỉ được phép nổ súng trong trường hợp có thể đổ tội cho Đệ Thất hạm đội. Thưa, tàu đang bắt đầt đầu lặn xuống. Kính chào đại tá...
- Phi cơ địch sắp đến chưa?
- Thưa, trong vòng 5 phút nữa.
- Mấy chiếc?
- Khoảng 2 chục.
- Loại nào?
- Hầu hết là phi cơ vận tải.
- Vậy hả?
- Chắc là họ chở binh sĩ dù đến hải đảo. Lực lượng của ta ở đây chưa được một trung đội, hóa lực của quân dù lại rất mạnh. Tôi phải cho tàu lặn xuống. Nếu gần sáng, tất cả đều bình yên, tôi sẽ nổi lên, bằng không, phải đến may. Đêm nay...
- Phiền đồng chí chờ cho 10 phút... Đúng 10 phút nữa, tôi sẽ xuống tàu.
- Không thể được.
- Đồng chí can đảm thêm chút nữa. Có gì đáng lo mà cuống quít lên như thế?
- Nếu tôi chần chừ, tàu ngầm sẽ tan xác. Phi cơ địch được trang bị hỏa tiễn lợi hại, chỉ một phát là xong đời tất cả. Chi bằng chúng ta lánh mặt.
- Đồng chí là thằng hèn.
- Xin đại tá tha lỗi. Tôi vừa nhận được điện của tàu đánh cá cho biết là 4 khoái hạm của Đệ Thất hạm đội xuất hiện phía sau tàu gần 1 cây số, nghĩa là trong tầm bắng của đại bác. Bắt buộc tàu phải ra khơi, chạy lên hướng Bắc. Tôi có cảm tưởng là chúng mình đã bị lừa, bị lừa từ đầu đến cuối. Thôi... tiềm vọng kính của tôi sắp được rút xuống. Kính chào đại tá, và xin chúc may mắn...
Đại tá Tze thét trong điện thoại:
- Thong thả, một phút nữa.
Song tiềm thủy đĩnh đã chìm sâu dưới nước, tiềm vọng kính, đường dây liên lạc duy nhất với mặt đất vừa được rút xuống. Đại tá Tze không còn nghe được gì nữa, ngoại trừ tiếng u u vô vị và bực bội.
Y cau mày, ném ống nói xuống đất., rồi trở lại phòng cũ. Văn Bình vẫn ngồi nghiêm trang, hút thuốc Salem phì phào. Mặt Như Luyến dã trở lại bình thản. Bọn vệ sĩ chia nhau mỗi góc nhà, họng súng tiểu liên đen ngòm chĩa về phía Văn Bình, tưởng như chàng sắp hóa thành con muỗi biến mất vào đêm tối.
Nghe tiếng động, Văn Bình ngẩn đầu lên, tủm tỉm cười, nụ cười ngạo mạn gần hư trêu người:
- À, đại tá đã về... Phi cơ của chúng tôi đang bay tới đảo, phải không?
Đại tá Tze hơi tái mặt. Nhưng y vung nắm tay:
- Phải. Nhưng anh đừng lạc quan vội. Bọn đồng chí của anh sẽ chẳng làm nên cơm cháo gì, một khi anh, bà Như Luyến và phái đoàn bác học còn nằm trong tay tôi.
Văn Bình vẫn giữ nguyên nụ cười khinh bạc:
- Cám ơn anh. Tôi đã nghĩ trước điều đó nên cho anh khám xét đồng hồ đeo tay mà anh cứ chần chừ mãi. Giờ đây, tổng hành dinh của ông Hoàng đã biết hết mọi chuyện xẩy ra trên đảo. Ông Hoàng lại nghe được cả nội dung cuộc đàm thoại giữa anh và nhân viên trên tiềm thủy đĩnh.
- Anh nói láo.
- Hừ, nhân danh đại tá điệp báo mà anh không biết rằng hiện nay ngườI ta đã chế ra nhiều dụng cụ có thể nghe rõ những cuộc nói chuyện thầm thì xa hàng 20, 30 thước và xuyên qua tường dày. Âm thanh còn xuyên qua được bê-tông cốt sắt, huống hồ tường khu nhà này chỉ bằng tôn mỏng, máy điện thoại lại để rất gần...
Lấn nầy, đại tá Tze xanh mặt rõ rệt. Hắn bắt đầu nhận thấy Văn Bình là đối thủ cừ khôi. Trước kia, hắn đinh ninh Văn Bình nguy hiểm trên mức trung bình. Thật không ngờ...
Văn Bình ung dung nói tiếp:
- Anh đã hiểu tại sao tôi đến đây một mình...
Một mình vì tôi nắm vững trong tay yếu tố thành công. Mục đích của tôi là đoạt lại phái đoàn bác học, nếu anh bằng lòng, tôi sẽ yêu cầu binh sĩ dù đình chỉ chiến dịch càn quét. Bằng không...
Đại tá Tze nhún vai:
- Binh sĩ dù của anh sẽ mất mạng sau khi đặt chân xuống hải đảo.
- Dĩ nhiên. Một số sẽ tử thương. Song chúng tôi có rất nhiều binh sĩ... NgườI này chết thì người kia tiếp tục nhảy xuống. Nếu cần mang tới một sư đoàn, chúng tôi cũng không ngần ngại. Vì vậy...
- Anh đừng thuyết phục vô ích. Tôi sẽ chống lại đến cùng.
- Ồ, nếu anh quyết tử thì tôi không dám bàn luận thêm nữa. Với tư cách đồng nghiệp, tôi có bổn phận thông báo là nếu anh khăng khăng một mực thì lát nữa tôi sẽ chết. Và khi bạn bè tôi nhảy dù xuống thì đến lượt anh chết. Hơn ai hết, anh đã biết rằng tôi không muốn chết và cả bản thân anh cũng không muốn chết. Tại sao chúng ta không tìm cách thỏa thuận với nhau? Điệp báo là cuộc cờ, thua ván nầy, xóa đi lại bày ván khác...
Đại tá Tze đứng lặn giữa nhà, vẻ mặt suy nghĩ. Văn Bình nói tiếp:
- Phiền anh quyết định ngay, vì phi cơ sắp đến. Họ sẽ lượn hai vòng trên đảo. Nếu tôi không lên tiếng, binh sĩ sẽ nhảy xuống, xứ dụng hỏa lực tối đa. Mặt khác, hải quân sẽ đánh đắm tiềm thủy đĩnh và tàu đánh cá của anh.
Đại tá Tze bất thần lên đạn kêu soạch. Trong tay y, khẩu tiểu liên AK-47 bắt đầu khạc ra thần chết.
Như Luyến rú lên, ôm cứng lấy Văn Bình.
Song Văn Bình vẫn thản nhiên. Chàng đã đọc thấu ý nghĩ của đại tá Tze. Loạt đạn ghê gớm không cấm vào ngườI chàng mà là ria vào bọn thộc viên của Tình báo Sở đang đứng tản mát quanh phòng. Đai tá Tze quả là thần xạ: các nạn nhân đã ngã gục trong nháy mắt, miệng há hốc, mắt trợn trừng trong vẻ kinh ngạc vô biên.
Hạ bọn thuộc viên xong, Tze quay súng vào ngực Văn Bình dõng dạc:
- Tôi đã bài tỏ thiện chí. Giờ đến lượt anh.
Văn Bình chắt lưỡi:
- Anh kinh khủng thật. Giết chết đàn em để không còn nhân chứng nữa. Dầu sao, tôi cũng xin thành thật cám ơn anh.
Tze lắc đầu:
- Không cần anh cám ơn. Phi cơ đã tới. Yêu cầu anh liên lạc với họ.
- Nghĩa là anh chấp nhận mọi điều kiện?
- Dĩ nhiên. Nhưng ngược lại, anh cũng phải chấp nhận điều kiện của tôi. Tôi bằng lòng trả tự do cho anh và phái đoàn bác học. Đền lại, anh không được đụng tới tàu bè và nhân viên của tôi.
- Đồng ý.
- Vậy mời anh qua phòng bên.
- À, còn điều này nữa: tôi sẽ yêu cầu bạn tôi ra lịnh cho các phi đội bay ra chỗ khác, chỉ cho một chiếc đáp xuống, chờ chúng tôi lên.
- Sẵn lòng.
- Từ phút nầy, chúng ta là đồng minh, dầu chỉ là đồng minh giai đoạn. Vậy nhờ anh cất dùm khẩu súng nầy.
- Tôi cần đề phòng anh phản phé.
- Trời ơi, người sợ bị phản phé nhất là tôi. Thế mà tôi không đòi hỏi gì cả.
- Anh đừng nhiều lời vô ích.
Văn Bình cười mỉm, theo đại tá Tze ra ngoài. Tiếng độn cơ máy bay nổ ầm ầm trên không phận. Trời tối om nên không rõ phi đội can thiệp gồm bao nhiêu chiếc, nhưng căn cứ vào tiêng ồn thì có đến cả chục. Trong chớp mắt, Văn Bình đã dặn đúng tần số vô tuyến điện và bắt đầu gọi Triệu Dung:
- Z.28 đây, tất cả đếu bình yên.
Triệu Dung đáp ngay:
- Nghĩa là đại tá Tze đã thỏa thuận?
Văn Bình nói:
- Phải. Anh có thể đáp xuống lập tức được không?
- Được. Tôi sẽ đích thân điều khiển phi cơ. Nhưng còn các anh em khác trong phi đội?
- Anh đừng ngại. Họ nên bay cách đảo 5, 10 cây số.
- Họ còn có nhiệm vụ hộ tống.
- Đại tá Tze đã tỏ ra thành thật nên tôi nhận thấy hộ tống không cần thiết nữa.
- Vậy yêu cầu bên dưới đốt đèn cho phi cơ hạ cánh.
Toán nhân viên kéo tới nơi phi cơ của Văn Bình lâm nạn đã rầm rộ trở về. Đại tá Tze hất hàm ra lịnh:
- Các anh ngồi trong phòng đợi tôi.
Văn Bình tiên đoán lát nữa đại tá Tze sẽ thanh toán các nhân viên này bàng một bì đạn AK-47. Hoàn cảnh éo le bắt hắn phải sống một mình.
Động cơ nhỏ dần. Chiếc vận tải cơ to lớn nghênh ngang đáp xuống phi đạo, giữa ba ngọn đèn pha sáng quắc. Văn Bình nhận ra chiếc Douglas R6D-i Liftmaster[66].
Trong khi đó, đại tá Tze đã sai dẫn phái đoàn bác học ra gần phi đạo. Tze vẫn phớt tỉnh mặc dầu nội tâm hắn vò xé dữ dội. Miễn cưỡng, y phải nhận lời.
Tuy nhiên, y còn nhiều hy vọng...
Triệu Dung thoăn thoắt từ trên máy bay bước xuống. Văn Bình đon đả giới thiệu với đại tá Tze:
- Chỗ anh em nhà, tôi không giấu anh làm gì. Đây là Triệu Dung.
Mắt Tze sáng rực:
- À, ra Triệu Dung! Lâu lắm, tôi nghe danh mãi bây giờ mới được vinh hạnh diện kiến. Tôi thua keo này là đúng.
Triệu Dung bắt tay đại tá Tze:
- Ồ, phen này không có ai thua mà cũng không có ai thắng. Vả lại, trong nghề điệp báo, thắng hay bại là chuyện thường tình. Lần sau, anh sẽ đại thắng và chúng tôi sẽ đại bại.
Theo lịnh Văn Bình, Như Luyến tiến tới chỗ phái đoàn bác học xếp hàng, hỏi han cặn kẽ từng người. Mấy phút sau, nàng quay lại báo cáo với Văn Bình:
- Tất cả đều khỏe mạnh. Nếu đại tá không có gì phản đối thì chúng tôi bắt đầu lên phi cơ.
Khâu tiểu liên lăm lăm trên tay, đại tá Tze nói:
- Trước khi toàn thể rời đảo, tôi muốn hỏi điều nầy: tiềm thủy đĩnh đã lặn xuống đáy biển, còn tàu đánh cá đã chạy ra ngoài khơi xa, tôi chỉ bằng lòng cho các anh rời khỏi đảo khi được bảo đảm đầy đủ về số phận của nhân viên tôi.
Triệu Dung nói:
- Tôi xin nói rõ là tiềm thủy đĩnh chưa hề lặn xuống đáy biển và tàu đánh cá cũng chưa ra ngoài khơi xa, vì lẽ giản dị một phi đội đặc biệt đã kiểm soát chặt chẽ. Nếu muốn đánh đắm thì rất dễ dàng, song tôi tin chắc anh sẽ thỏa thuận nên đã hạ lịnh theo dõi mà không hành động. Phút này, có lẽ anh có thể liên lạc với họ bằng bằng vô tuyến...
Đại tá Tze nổi gai ốc đầy mình. Trong kế hoạch Kim cương, hắn đã bị thua sát ván từ đầu đến cuối.
Nhớ trời tối nên mọi người không thấy cặp mắt thường lệ sáng quắc như điện của đại tá Tze bắt đầu mất thần. Hắn có cảm giác như trái đất nổ tung khi nghe tiếng báo cáo khô khan và chua chác của thuộc viên lênh đênh ngoài biển:
- Alô, thưa đại tá... Họ vừa báo cho biết là đại tá đã chấp nhận phóng thích phái đoàn bác học để đổi lấy chiếc tàu của ta. Đúng hay sai, thưa đại tá?
- Đúng. Anh nói với tôi là tiềm thủy đĩnh đã lặn xuống rồi kia mà... Sao họ bắt anh được?
- Thưa... trên thực tế, tàu lặn xuống không kịp. Một phi cơ bay sát mặt biển, ngoài tầm radar bất thần vụt tới, bắn đại bác cảnh cáo, ra lịnh cho tôi phải nổi lên. Khi ấy, tàu mới chìm được non nửa, biết không hy vọng trốn thoát, tôi đành nghe lời họ...
- Hừ, đúng ra, anh phải báo cáo ngay cho tôi... vì tiềm thủy đĩnh nổi lên, máy vô tuyến điện có thể được sử dụng dễ dàng.
- Tôi đã nghĩ ngay đến việc liên lạc với đại tá. Nhưng không nghe trả lời.
- Quái lạ! Phòng vô tuyến trên đảo luôn luôn có người canh gác. Anh bịa đặt ra phải không? Hẳn anh đã biết tánh tôi ghét cay, ghét đáng bọn thuộc viên láo khoét?
- Thưa, lời nói của tôi đã được ghi băng như thường lệ, sau này kiểm soát, đại tá sẽ thấy tôi hoàn toàn thành thật. Sở dĩ tôi liên lạc với hải đảo mà đại tá chẳng nghe thấy gì mà do phi cơ địch được trang bị dụng cụ điện tử hút tuyến. Phi công đã nói với tôi là liên lac vô ích vì mọi làn sóng điện từ tiềm thủy đĩnh phát ra đều bị hút như thể đất khô hút nước mưa vậy.
Đại tá Tze thở dài:
- Phút nầy, anh đang ở đâu?
Có tiếng đáp ngay:
- Thưa, vẫn ở vị trí cũ.
Đại tá Tze ra lịnh:
- Trong 5 phút nữa, tôi sẽ ra tới nơi.
Rồi đeo súng lên vai, Tze bắt tay Triệu Dung:
- Hy vọng được gặp lại các anh ít lâu nữa. Và lần ấy, kẻ thua không phải là tôi.
Triệu Dung nói, giọng vui vẻ:
- Vâng, tôi cũng hy vọng như vậy. À, trước giờ tạm biệt, tôi muốn anh giải thích điều nầy: anh cất súng đi, không sợ chúng tôi lừa bắt ư?
Đại tá Tze cười khanh khách:
- Anh đùa đấy chứ? Giết tôi, các anh bắt buộc phải giết hết thủy thủ trên tàu ngầm và tàu đánh cá. Hành động hải khấu này sẽ dẫn tới những hậu quả vô cùng nghiêm trọng trên trường chính trị quốc tế, phương chi chúng tôi là viên chức Trung Hoa Nhân Dân, lại đang thông thương trên vùng biển không thuộc quốc gia nào... Các anh chỉ bội lời hứa nếu tôi chỉ có một mình. Đằng nầy, tôi đã gọi điện thoại cho thuộc viên dưới tiềm thủy đĩnh và họ đang chờ tôi... Vả lại, chúng ta là bọn giang hồ... Luật giang hồ còn cao quý hơn luật xã hội văn minh một bực...
Triệu Dung gật gù:
- Anh muốn tôi im chuyện này luôn, phải không?
Tze đáp:
-Tô ikhông xin xỏ mà chỉ yêu cầu anh tôn trọng cả điều cam kết phụ. Dầu sao, tôi cũng đã hạ sát 3 cận vệ. Có lẽ tôi còn hạ sát thêm nữa.
Triệu Dung giơ tay chào:
- Tôi xin hứa...
Đại tá Tze buông một tiếng ngắn:
- Tạm biệt.
Triệu Dung đáp ngay:
- Không dám, chào anh.
Đại tá Tze lặng lẽ bước qua lùm sáng trên phi đạo rồi tan vào bóng tối. Trong khi ấy, phái đoàn bác học lặng lẽ tiếp tục trèo lên vận tải cơ Douglas R6-D. Bầu không khí bao trùm hải đảo san hô đột nhiên câm nín những âm thanh thường lệ. Tiếng gió gào, tiếng sóng thét, tiếng chim muông rên rít ban đêm dường như biến đâu mất. Thậm chí Văn Bình không nghe cả tiếng động cơ máy bay réo ầm ầm cách chàng một quãng ngắn nữa. Vì tâm trí chàng đang dồn cả cho Như Luyến.
Bỗng Như Luyến nghiên đầu hỏi Triệu Dung:
- Từ nãy đến giờ, tôi chẳng hiểu gì cả. Tại sao đại tá Tze lại chịu thua một cách thản nhiên như vậy hả anh?
Triệu Dung vỗ vai Văn Bình:
- Tôi ríu mắt lại rồi. Phiền anh cắt nghĩa một chút.
Văn Bình véo má Như Luyến:
- Ừ nhỉ, câu chuyện ly kỳ như trong tiểu thuyết, không ở trong cuộc thì không tài nào hiểu được. Tze chịu thua vì không còn lối thoát nào khác.
Như Luyến phản đối:
- Ít ra hắn cũng là sĩ quan tình báo cao cấp, đâu phải hạng nhân viên tầm thường tham sống, sợ chết. Hắn lại có súng trong tay. Hắn có thể làm liều, hạ sát một lượt, rồi có chết nữa cũng được lợi.
Rồi đổi giọng nũng nịu, nàng tiếp:
- Anh cố tình giấu em. Em giận anh đấy.
Văn Bình vuốt nhẹ những sợi tóc mềm mại tỏa xuống một bên trán Như Luyến. Đột nhiên, chàng quên nàng là đàn bà có hai đời chồng, có con, đã trãi qua thời kỳ đôi mươi bồng bột và tưởng như ngồi gần một thiếu nữ đang xuân, tâm hồn và thể xác đều căng cứng nhựa sống và tình yêu thơ dại.
Giọng chậm rãi, chàng giải thích:
- Anh không giấu em đâu. Chẳng qua em chưa ở lâu trong nghề nên không hiểu ngọn nghành. Tze không phải là hạng người tham sống, sợ chết. Mọi thủ lãnh điệp báo đều khinh miệt cái chết. Tuy nhiên, nghề điệp báo cũng là nghề thực tế nhất. Trung Cộng chỉ có được dăm ba cán bộ tài ba như đại tá Tze. Hắn thiệt mạng, Quốc Tế Tình báo Sở phải mấy hàng chục năm mới tìm ra người thay thế. Vì vậy, đại tá Tze không thể chết. Điều thứ hai hắn đinh ninh là chưa thua.
Như Luyến ngạc nhiên:
- Chưa thua?
Văn Bình kéo nàng lại gần:
- Phải. Hắn chịu xuống nước vì vì đinh ninh nhân viên của hắn trên pháo đài ZZ còn nguyên vẹn. Thua keo nầy, bài keo khác. Em hiểu chưa? Hắn không ngờ... nếu ngờ, hắn đã liều sống mái một trận...
- Bây giờ, em mới hiểu... Thì ra hắn có tay sai trà trộn trên pháo đài ZZ. Các anh tài thật...
- Nhờ em đấy... Nhờ em mà anh phăng ra manh mối.
- Ê, đừng nịnh nữa, anh ơi!
- Sự thật trăm phần trăm, anh không dám nói dối đâu. Thoạt tiên, anh tưởng em bị nạn thật sự. Nhưng đến khi theo con chó chow-chow vào nơi quàn thi hài để vĩnh biệt em thì anh khám phá ra ngay là em còn sống. Anh đố em tại sao?
Như Luyến phụng phịu:
- Em tức anh sắp nghẹt thở rồi. Em không ngờ anh lại đối xử với em như vậy.
Đến lượt Văn Bình sửng sốt:
- Anh làm em phật ý ư? Nếu anh không lầm, anh chẳng làm gì cả. Dầu sao, anh cũng xin lỗi em.
Như Luyến buông thõng:
- Không dám.
Văn Bình ghé vào má nàng để hôn, song nàng vùng vằng gạt ra. Chàng vội dịu giọng, năn nỉ:
- Anh có lỗi gì? Em hãy nói cho anh biết. Để anh...
- Hừ, em giận anh vì bao giờ anh cũng mắc bịnh hay quên đối với đàn bà yêu anh. Con chó của em thuộc giống chow-chow chứ tên nó đâu phải là chow-chow, anh nhớ ra chưa?
Văn Bình khựng người.
Té ra Như Luyến co hai đời chồng, có con lớn song tâm hồn vẫn ngốc nghếch, ưa làm nũng, thích vò vĩnh, khoái giận hờn vô cớ như thiếu nữ 18 trong trắng.
Nàng giận chàng vì lẽ ra chàng phải gọi tên con chó là Titi. Nàng yêu chàng nên đạt tên nó là Titi, tên tắt bằng anh ngữ của Z.28. Nàng yêu chàng như vậy, chàng không được phép lãng quên, dù là lãng quên vô tình, lãng quên chính đáng.
Lăn lộn nhiều, Văn Bình tự hào thấu hiểu lòng dạ phái yếu hơn ai hết. Giờ đây, chàng mới biết là kinh nghiệm còn non. Đàn bà từ đông sanh tây - đặc biệt, đàn bà đẹp - chỉ là đứa trẻ thơ ngây, bất luận tuổi tác. Nghe chàng thuật lại những tình tiết hiểm nghèo, Như Luyến lẽ ra phải xúc động vì tài ba của người yêu lại chỉ băng khuăng đến việc chàng quên tên thật của con chó chow-chow.
Văn Bình bèn cười xòa:
- Thì anh gọi nó là Titi, em bằng lòng hay chưa?
Văn Bình không hôn vào má mà là vào môi. Như Luyến đờ người một phút. Mãi sau, nàng mới sực nhớ ra Triệu Dung một bên, và nói chữa thẹn:
- Anh Văn Bình hay lợi dụng ghê... Mình lớn rồi, đâu còn là con nít nữa... Anh không sợ anh Triệu Dung cười hay sao?
Triệu Dung xen vào:
- Ai cười thì hở mười cái răng... Chị yên tâm, tôi không cười đâu, vì lúc nầy, tôi đang buồn ngủ kinh khủng.
Văn Bình pha trò:
- Phải, ông buồn ngủ kinh khủng nhưng mắt vẫn sáng như sao sa. Phiền ông quay mặt ra phía khác để người ta nói chuyện riêng.
Triệu Dung thở dài:
- Ừ, thì quay! Tuy nhiên, trước khi nói chuyện riêng, ông bà hãy cho phép tôi nhắc một vài chuyện công đã.
Văn Bình nhăn nhó:
- Trong lúc nầy, xin anh gác chuyện ông Hoàng của anh lại. Lát nữa, về pháo đài ZZ, anh tha hồ nói, nói suốt đêm nay, nói suốt ngày mai, tôi cũng sẵn sàng nghe. Còn bây giờ...
Triệu Dung nhìn lên không trung thấp thoáng ánh đèn xanh đỏ của đoàn phi cơ sắp tới:
- Nếu vậy thì tôi đâu dám quấy rầy anh chị... Trước khi tới đây, tôi đã nhận được chỉ thị của ông Hoàng.
- Lại chỉ thị...
- Xin anh tha lỗi... Trước tôi, Lê Diệp nhiều lần đã phải làm công việc đầy bạc bẽo nầy. Nói ra thì anh lại nghi là anh chị em trong Sở toa rập với ban Biệt vụ để phá đám cuộc vui của anh, nhưng nếu không nói ra thì hàng vạn, hàng triệu sinh mạng trên thế giới có thể bị liên lụy...
- Tôi ngán danh từ dao to, búa lớn rồi. Ông Hoàng dặn anh những gì, yêu cầu anh cho tôi biết.
Vâng, ông Hoàng nói là mình đã có cơ hội mang về cho Sở 15 triệu đô-la, như đã hứa với CIA. Mọi côgn việc bên kia bức màn sắt đã được thu xếp xong, anh có thể bắt tay hoàn thành kế hoạch Hàn học.
- Nghĩa là tôi phải lên đường?
- Đúng thế.
- Bao giờ?
- Ngay bây giờ. Một phái đoàn CIA đang chớ anh ở Banguio, miền bắc Phi Luật Tân.
- Khổ quá! Nếu anh không thấy gì trở ngại...
- Dĩ nhiên là không. Ông Hoàng cho phép Như Luyến đi Baguio cùng anh.
- Thật hả?
- Thật trăm phần trăm. Anh sẽ ngụ tại khách sạn Thông Reo như hồi nào anh qua Phi Luật Tân, đối phó với điệp báo Huk. Ông Hoàng đã ra lịnh cho ngân hàng chuyển tiền tới Baguio cho anh. Anh được tiêu xài vô hạn định. Bao nhiêu cũng được, miển hồ anh tuân theo 3 điều kiện nầy: Sau 3 ngày nghĩ mát, anh phải về Mani, tôi sẽ đưa Nguyệt Hằng sang trước đợi anh. Để tránh một vài hậu quả có thể xảy ra, Như Luyến phải lưu lại Baguio trong suốt thời gian anh xuất ngoại.
- Đồng ý. Được sống với Như Luyến 1 đêm ở Baguio thì bắt tôi làm Câu Tiễn hầu hạ Ngô Phù Sai tôi cũng ký cả hai tay, huống hồ những ba ngày, ba đêm...
Như Luyến tát nhẹ Văn Bình:
- Đồ nói dóc!
Văn Bình phì cười, kéo nàng lại sát người. Nàng nguýt chàng một cái dài rồi sà vào cánh tay lực lưỡng cúa chàng. Hạnh phúc bất ngờ đã làm nàng quên phứt hiện tại.
Nàng quên hỏi Văn Bình tại sao khi đi với con chó vào phòng quàn xác, chàng lại khám phá ra nàng còn sống. Vì nàng chỉ nghĩ đến cái hôn độc nhất, vô nhị làm châu thân nàng rung chuyển như phún thạch của hỏa diệm sơn làm rung chuyển mặt đất.
Qua bóng tối mờ mờ, Triệu Dung thoáng thấy hai người quấn chặt lấy nhau như thể đã xa nhau từ nhiều thế kỷ. Họ ôm cứng lấy nhau như từ nhiều thế kỷ bị đói tình, Văn Bình chưa hề biết đàn bà và Như Luyến chưa hề biết đàn ông.
Chàng không dám chép miệng sợ làm mất tính cách thiêng liêng của gây phút thần tiên giữa hai người. Chàng đành ngồi yên trước cần lái, nhìn vào khoảng đen trước mặt.
Giữa khoảng đen bao la ấy, những giòng chữ trắng toát bắt đầu hiện lên: đó là bản báo cáo mà chàng đã soạn sẵn trong đầu, sắp sửa gởi về Saigon bằng vô tuyến điện cho ông Tổng Giám đốc.
Triệu Dung nhớ rõ từng giòng, từng chữ, từng dấu chấm, phjết, như thể bản báo cáo đóng ở trước mặt chàng.
Nội dung như sau:
"Kính gởi HH,
Tuân lịnh ông, tôi đã thực hiện đúng kế hoạch đã vạch và đến nay, có thể nói là thành công.
Như ông tiên đoán, tay sai của địch trà trộn trên pháo đài ZZ phải là 1 nhân viên cao cấp. Thời khóa biểu và chi tiết của những cuộc thí nghiệm khoa học là những điếu tối mật, ngoài hạm trưởng ra chỉ có hai phụ tá biết được.
Vì vậy, sau khi chuyến vận tải cơ chở phái đoàn bác học tư đảo Hoàng sa về bị nổ trên mẫu hạm, tôi đã hướng cuộc điều tra vào nhóm phụ tá của hạm trưởng.
Vụ Nguyệt Hằng lâm bịnh bất thần và được giải phẩu cấp cứu đã giúp tôi tiếnh nhanh đến kết quả. Tuy Nguyệt Hằng cải nam trang, nàng vẫn bị lộ hình tích. Tôi chưa hiểu nguyên nhân nào đã khiến địch nhận ra nàng, có lẽ vì địch chụp được hình nàng và gởi về Bắc-kinh điều tra. Nguyệt Hằng bị đầu độc vì chất strychnine. Nếu là người khác thì đã thiệt mạng, cũng may nàng được làm quen với các độc dược nên chỉ bị ngất đi và đau ruột mà thôi.
Cũng may, nạn nhân là Nguyệt Hằng, không phải tôi hoặc Văn Bình vì nếu chúng tôi bị đầu độc bằng strychnine thì chắc chắn sẽ bị nguy hại đến tánh mạng. Đành rằng chúng tôi đã được huấn luyện quen với tác dụng độc dược, chất strychnine vẫn chưa hoàn toàn quen như vói Nguyệt Hằng, từng tốt nghiệp khóa độc dược của phản gián Smerch sô viết.
Trước khi Văn Bình lái chiếc VTOL đi gặp địch, hạm trưởng cũng bị đầu độc. Nhờ đó, tôi biết trước nên bịnh tình không lấy gì làm trầm trọng.
Nhưng cũng vì hạm trưởng bị đầu độc nên tôi phăng ra tay sai của địch dễ dàng. Viên phụ tá số 2 thay mặt hạm trưởng lên điều khiển công việc đã vô tình sa vào cặm bẩy của tôi. Tuy nhiên, tuân theo chỉ thị của ông, tôi không bắt hắn.
Nhân tiện, tôi cũng xin trình rằng thái độ của đại tá Tze phần nào đã làm nhân viên hắn trên pháo đài ZZ bị lộ diện. Hắn hành động một cách quá ung dung, tưởng như nắm chắc phần thắng trăm phần trăm, nên đã vô tình thú nhận rằng hắn đã gài được tay sai cao cấp trong bộ tham mưu của hạm trưởng.
Sẵn sàng đơị lịnh ông.
Phượng Hoàng."
Triệu Dung ngoảnh nhìn Văn Bình và Như Luyến. Hai người vẫn dính chặt lấy nhau như bị dán bằng keo nhựa epôxy. Trên phi đại sáng rực, máy bay vừa đáp xuống. Đó là phi cơ dành riêng cho cặp uyên ương đi Baguio.
Chiếc Northrop F-5B hai chỗ ngồi đã dừng hẳn. Hoa tiêu nhảy xuống, chạy về phía Triệu Dung.
Triệu Dung lẩm bẩm:
- Ông Hoàng chu đáo thật!
Chàng muốn nói thêm: "Rõ Văn Bình là đứa tốt số, song tiếng nói của chàng bị vướng nghẽn trong cổ họng. Đã lâu, chàng sống cô đơn. Cô đơn, phần nào vì chàng luôn luôn đắm mình trong công tác đặc biệt của Sở. Nhưng phần chính, chàng sống cô đơn vì không có duyên thầm với phái yếu. Mọi người - kể cả ông Hoàng và các nữ đồng nghiệp trong ban Biệt vụ đẹp như hoa hồng đượm sương mai - đều cho chàng là đàn ông đứng đắn, xứng đáng nối nghiệp Tổng Giám đốc. Thật ra, mọi người đều lầm. Chàng là con người, cũng thích rung động như những con người khác trên trái đất.
Gió biển tổi vù vù. Phái đoàn bác học đã lên phi cơ gần hết. Phi hành đoàn của vận tải cơ chỉ còn chờ Triệu Dung nữa là cất cánh về pháo đài nổi ZZ.
Tôn trọng giây phút thần tiên của bạn, Triệu Dung không muốn giục dã. Chàng không thể ngờ rằng một trận bão ghê gớm đang đâm bổ xuống hạnh phúc của hai người.
Đang ôm cứng Văn Bình bỗng Như Luyến xô chàng ra. Má nàng vừa chạm phải một tấm lắc lủng lẳng ở cườm tay chàng. Duới ánh đèn, nàng thấy rõ như ban ngày. Vả lại, nếu là trời tồi như hũ nút, nàng vẫn thấy như thường. Vì nàng là đàn bà, có thể nhìn thấy bằng giác quan thứ sáu.
Tấm lắc của Văn Bình bằng bạch kim, gồm hai cái vòng nhỏ xíu, cặp vào nhau như dây đeo đồng hồ, ở chính giữa có hai bình lục lăng cân đối lớn bằng nửa đông tiền Khải Định.
Tấm lắc bạch kim như luồng hơi ngạt dữ dội bắn vào mặt Như Luyến làm nàng xay xẩm và loạng choạng xuýt ngã. Văn Bình đỡ ngang lưng nàng, giọng hốt hoảng:
- Em làm sao thế?
Như Luyến không đáp, gỡ tay chàng ra:
- Không.
- Chắc em bị gió lạnh. Phi cơ đến rổi, để anh bồng em lên.
- Cám ơn lòng tốt của anh.
- Ơ kià...
Như Luyến dằn giọng:
- Anh lấy tấm lắc này ở đâu?
Đến lượt Văn Bình choáng váng. Như Luyến bắt đầu ghen. Chàng đã thất điên, bát đảo vì bịnh ghen của Nguyên Hương. Chàng đã kinh hồn, tán đởm vì bịnh ghen của Quỳnh-Loan. Nhiều lần, chàng đã tả tơi vì bịnh ghen của người đẹp trên thế giới. Giờ đây... là Như Luyến. Nàng yêu chàng tất có quyền ghen, song chàng không ngờ nàng có thể ghen bóng, ghen gió, ghen vớ vẩn, ghen quái gở như vậy. Nàng phải biết rằng chàng là trai chưa vợ, chàng lại có nhiều bạn gái. Nghề của chàng lại là nghề dễ gặp gỡ, dễ hò hẹn với đàn bà. Chàng lại có bộ mã hào hoa dễ cho đàn bà vướng mắc.
Như Luyến bóp chặt bàn tay đeo lắc của chàng:
- Văn Bình, anh nói đi! Anh nói đi, kẻo em chết mất. Tấm lắc này anh lấy ở đâu? Ai cho anh, anh phải khai thật!
Đàn bà rõ lắm chuyện! Có một tấm lắc kỷ niệm nhỏ xíu mà cũng đòi biết xuất xứ! Nàng bắt chàng nói thật, nếu không nàng sẽ chết! Không những thế, nàng còn bắt chàng phải "khai thật" như thể chàng là tên trộm và nàng là thẩm vấn viên công an.
Chàng cuống quýt:
- Có gì đâu mà em lo sợ? Từ từ để anh giải thích... Một cô bạn gái cho anh vì tấm lắc này rất hên, được phù phép ở miền thượng du Diến Điện, deo vào có thể tránh mọi nguy hiểm.
- Cô bạn nào?
- Anh không nhớ nữa.
- Sở khanh! Anh phỉnh phờ em sao được!
- Em dùng những danh từ quá nặng nề và miệt thị đối với anh. Lúc yên anh, em hẳn biết rằng anh...
- Hiểu rồi, hiểu rồi... Em không phải là đàn bà vô học, ghen bừa, ghen bãi. Vả lại, em cũng chưa có quyền để ghen. Chẳng qua, em hốt hoảng vì tấm lắc này là của gia bảo. Em van anh, em lạy anh, em ráng nhớ lại xem cô bạn gái ấy tên là gì...
- Lấy danh dự con người, anh thề là không dối gạt em. Sự thật là trước khi lái phi cơ đến pháo đài ZZ, anh tạt qua Đà-Nẵng và tình cờ gặp nàng trong một nhà hàng. Không phải anh quên tên nàng, mà vì nàng không cho biết tên và anh lại cũng không hỏi. Nàng trạc 18 tuổi, rất đẹp, da trắng như tuyết, mũi cao, mắt tròn và đen, thân hình nẩy nở cân đối, tóc cắt ngắn không uống. Nàng mời anh về nhà.
- Rồi anh ngủ đêm lại.
- Trời ơi, em hãy để anh nói nốt. Về đến nhà, anh gặp mẹ nàng. Sở dĩ anh tới đó vì được biết nàng lâm vào hoàn cảnh khốn cùng, gia đình nợ 5 triệu bạc,nàng phải bán mình cho một gã trọc phú để trả nợ.
- Anh ruột nàng là đại úy không quân tử nạn, phải không?
- Phải, tại sao em biết?
- Vì cô bé 18 tuổi này là cháu ruột của em. Nó là Như Hồng.
Cha nó là anh cả của em.
- Trời ơi! Vậy anh còn thể thống nào nữa??!
- Không phải đâu. Tình cờ anh gặp Như Hồng. Nếu anh cố ý thì mới đáng trách. Hồi nãy em la lối, không phải vì ghen. Mà vì một nguyên nhân quan trọng khác. Em hỏi thật anh... có gì với nó không?
Văn Bình thở dài não ruột:
- Em tha lỗi cho anh.
Như Luyến cũng thở dài:
- Em đâu dám giận anh. Chẳng qua, số em hẩm hiu như vậy. Ngần ấy tuổi đầu mà phải trải qua hai đời chồng. Đến tình yêu thứ ba và cũng là tình yêu lý tưởng thì bị ngang trái. Tấm lắc bạch kim mà Như Hồng tặng anh rất linh thiêng, nó có thể bảo vệ anh chống nguy hiểm, cũng như có thể giết anh chết. Nó được luyện với ngãi yêu và phù ếm ma xó tại một ngôi đền nhiệm mầu, dọc biên giới Hoa-Miến. Phụ thân em từ trần, giao lại cho anh cả, cha của Như Hồng, không hiểu sao Như Hồng lại có. Như Hồng tặng anh, ngụ ý là trọn đời anh không thể giao du quá... thân mật với mọi người đàn bà khác.Trong trường hợp anh giao du quá thân mật với người trong họ Như Hồng thì tai họa sẽ xảy ra. Con Như Hồng sẽ chết.
- Em là nhà khoa học mà cũng tin dị đoan ư?
- Hừ, dó không phải dị đoan mà là khoa học siêu hình. Trong vũ trụ còn nhiều việc mà khoa học tân tiến ngày nay mù tịt hoàn toàn. Em rất tin vì sự thật đã từng xảy ra.
- Bây giờ anh phải làm sao?
- Anh đưa tấm lắc đó cho em, em sẽ trả lại cho Như Hồng. Và em phải về Đà-Nẵng, anh đi Baguio một mình vậy.
Văn Bình nắm tay Như Luyến:
- Anh không đi Phi Luật Tân nữa. Đêm nay, anh sẽ lái phi cơ đưa em về Đà-Nẵng.
- Vậy thì em hoặc Như Hồng phảichết. Thôi, anh đi đi. Em hoàn tấm lắc lại rồi xuống tóc đi tu thì thần ma mới không ám hại anh... Văn Bình ơi, em xin vĩnh biệt...
Văn Bình định kéo nàng vào lòng thì nàng thẳng thắn đẩy ra, giọng buồn hơn bao giờ hết:
- Tùy anh đấy. Nếu anh muốn em chết thì cứ mò vào thân thể em.
Văn Bình thở dài, tiến về phía phi đạo sáng rực. Triệu Dung gọi lớn:
- Văn Bình!
Chàng nghe rõ tiếng bạn gọi song không trả lời. Bên tai chàng chỉ văng vẳng tiếng nức nỡ của Như Luyến. Như người máy, chàng trèo vào phi cơ F-5B. Triệu Dung tất tưởi chạy đến dưới chân cầu thang:
- Tại sao không cho nàng đi luôn thể?
Tiếng động cơ ầm ầm át hẳn tiếng hối hả của Triệu Dung. Văn Bình không còn nghe, còn thấy gì nữa hết, ngoài đường bay đang trải ra trước mặt. Thực tế quá phũ phàng đã biến chàng thành mù, câm và điếc.
Triệu Dung vội nhảy sang bên, nằm rạp xuống đất vì phi cơ bắt đầu lăng bánh. Tuy vậy, chàng vẫn cố thét to:
- Thong thả, thong thả, Văn Bình!
Trong chớp mắt chiếc F-5B đã bay vù lên tầng không. Say sưa với đêm tối bao la, Văn Bình cứ bay cao, cao mãi. Chàng chỉ nghĩ đến trời cao vô tận, đến tốc độ suýt soát 1.500 cây số giờ của chiếc Northrop tối tân mà không để y đến một chiếc Super-Sabre đang từ phía đông vút tới.
Mãi đến khi gần va chạm, Văn Bình mới biết. Linh tính tự tồn và kinh nghiệm phi hành bùng dậy tong khối óc trống rõng và lạc lõng của chàng. Chàng nghiến răng lái chúc mũi phi cơ xuống, đồng thời gia tăng tốc độ. Hú vía, phi công Super-Sabre cũng né tránh kịp thời.
Văn Bình có cảm giác như bầu trời tối thui đang nỗ tan xung quanh chàng. Hàng trăm đom đóm đen sì tứ mắt chàng vọt ra rồi một màn đen kiêng cố và hãi hùng chặn ngang trước mặt. Chiếc F-5B xoắn tròn thành hình tròn ốc, tiếp tục đâm xuống.
Tốc độn phi thường của phi cơ dán chặt thân thể chàng vào ghế ngồi, chàng muốn giang tay nắm bộ phận điều khiển song tay chàng đã biến thành tảng chì không tuân theo mệnh lệnh của óc nữa. Tuy vậy, chàng chưa mê man hẳn. Chàng vẫn tỉnh táo. Và khi ấy, thính giác của chàng trở nên vô cùng bén nhạy, chàng có thể nghe cả những tiếng lào xào trong mũ nghe vô tuyến. Chàng nghe tiếng Triệu Dung xen lẫn tiếng Như Luyến:
- Văn Bình, Văn Bình, alô, alô, trả lời đi, trả lời ngay. Trời ơi, Văn Bình không trả lời nữa.
Hơn bao giờ hết, chàng biết chàng sắp sửa bất tỉnh. Tỉnh táo là sống mà bất tỉnh là chết vì phi cơ bất kham sẽ lao thẳng xuống biển. Giữa sự sống và sự chết chỉ còn một tơ sương mong manh, đụng nhẹ là đứt. Chàng cố vận chân khí lên đầu để chống trả. Những phân tử dưỡng khí còn sót lại trong mạch máu chàng lộn nhanh vế tim, bảo vệ cho thần kinh hệ khỏi bị tắc nghẽn.
Văn Bình mứng rú. Bàn tay phải của chàng đã bắt đầu cử động lại được. Tuy nhiên, vận tốc của phi cơ đã làm cho cần lái cứng đét và nặng chình chịch. Chàng chỉ còn lối thoát cuối cùng: thả thắng-dù ra để hãm bớt sức nhanh tự sát. Phi cơ đang phóng vùn vụt bị giữ chậm lại có thể vỡ tung, đuôi cánh và động cco văng ra tứ phía và Văn Bình sẽ tan xác...
Nhưng cũng có thể...
Chàng đành liều mạng.
Chiếc dù xoe tròn ở phía đuôi, gây ra một tiếng động lớn, còn kinh hồn tán đởm hơn tiếng động cơ phản lực. Nó bị đứt tơi tả nhưng đã thành công trong việc hãm bớt vận tốc. Phi cơ chồng chềnh, lăn sang tả, lộn qua hữu, song vẫn còn nguyên vẹn. Và trong vi phân giây đồng hồ tiếp sau, Văn Bình đã lấy lại thế quân bình cho chim sắt cuồng loạn.
Chàng nghe Như Luyến gọi chàng:
- Anh ơi, anh ơi, may quá! Anh đừng đi Baguio nữa, anh về với em đi!
Và tiếng Triệu Dung:
- Khiếp, anh làm bọn tôi đứng tim... Về pháo đài hay đi?
Văn Bình định cười vui với bạn song chàng đã ngậm miệng kịp thời. Tấm lắc bạch kim... Tấm lắc định mạng... Chàng về Đà-Nẵng thì nàng sẽ chết. Nàng quên bẵng nguy hiểm, đòi chàng quay về. Nhưng chàng có bổn phận phải nhớ.
Chàng lượn một vòng trên đảo san hô rồi bay thẳng về hướng đông. Công tác hiểm nghèo đang chờ chàng bên kia bức màn sắt. Đối với ông Hoàng, đối với thủ đô Sàigòn rạo rực nhựa sống, Văn Bình ra đi rồi sẽ trờ về. Nhưng đối với ái tình ngang trái thì chuyến đi này cũng là Phi Tuần Vĩnh Biệt.