Số lần đọc/download: 2892 / 38
Cập nhật: 2016-01-28 12:41:00 +0700
Chương 6
M
ột hôm, có một người đàn ông, mặc bộ quần áo màu gụ, thứ y phục quen thuộc của những cán bộ Việt Minh lúc bấy giờ, đeo cái túi dết bằng vải ka ki tự khâu, chân đi đôi dép cao su mà sau này gọi là dép lốp, đến nhà tôi. Tôi nhận ra đó là ông Hứa, cán bộ ngành lương thực, từng ăn dầm ở dề nhà tôi cả mấy tháng trời để vừa thu mua thóc cho chính phủ vừa lo đục tường, phá cửa biến ngôi nhà gỗ lim hướng tây của gia đình tôi thành kho chứa thóc cho nhà nước. Việc biến cái riêng thành cái chung này hoàn toàn là sự tự nguyện của bố mẹ tôi, muốn được đóng góp chút công sức và tài sản cho cách mạng vào thời kỳ đầu miền Bắc mới được giải phóng, còn biết bao khó khăn chồng chất. Từ đấy toàn bộ sinh hoạt của gia đình tôi gói gọn trong căn nhà ba gian lợp rạ, chật hẹp, dựng tạm trên cái nền của cái nhà 7 gian cũ trước đây bị bọn Pháp rỡ mang lên bốt Lãng Điền làm nhà ở cho vợ con binh lính. Chật chội lắm. Nhưng cả nhà tôi lại lấy đó làm vui. Bởi nghĩ rằng mình được phục vụ xã, phục vụ cách mạng, như thế là hạnh phúc lắm rồi. Với lại, khó khăn bây giờ nhằm nhò gì với nỗi kinh hoàng khi bọn giặc Pháp còn chiếm đóng ở đây. Cứ nhìn ngay xuống cái nền nhà này thì rõ. Vết tích tội ác của chúng vẫn còn rành rành kia. Đó là một buổi trưa hè, năm 1953, khi cả nhà tôi đang quây quần bên mâm cơm thì bỗng nghe từ phía thị xã, đánh “ục” một cái, tiếng nổ đầu nòng của một quả đạn đại bác. Cũng như mọi khi, nghe thấy tiếng “nổ” ấy, chúng tôi đều im lặng lắng tai dự đoán xem lần này chúng bắn về đâu. Bởi nếu đó là tiếng “oành” thì đạn nổ hơi xa. Còn nếu là “oàng” là đã quá gần, có khi ở ngay nhà bên cạnh. Nhưng hôm nay chẳng “oành” cũng chẳng “oàng”, chỉ thấy cộc một tiếng, cái đầu đạn to như bắp chuối, xuyên thủng mái nhà, rơi thẳng xuống đất, nằm chềnh ềnh ngay bên cạnh mâm cơm chúng tôi đang ăn. Hoá ra viên đạn ấy bị câm. Cả nhà tôi bàng hoàng, nếu nó không câm miệng hến như thế, chắc họ hàng, làng nước chỉ còn cách dùng cuốc xẻng hốt cả nhà tôi vào một đống rồi chôn chung một lỗ.
Cho nên thực lòng mà nói được đóng góp chút gì cho cách mạng đối với gia đình chúng tôi là một niềm vui không gì so sánh được. Vậy mà bây giờ cái niềm vui ấy đang có nguy cơ bị cướp mất khi ông cán bộ Hứa nói thẳng:
• Chúng tôi sẽ cho chuyển hết số thóc trong kho này đi! Kho thóc của chính phủ từ nay sẽ không đặt ở nhà ông bà nữa.
Bố tôi cứ ngớ người ra. Còn tôi thì bàng hoàng. Bố tôi run giọng hỏi lại:
• Vì sao vậy ông?
• Vì … vì… Thôi cái này ông hỏi cấp trên sẽ rõ.
Bố tôi như muốn khóc. Thấy vậy, mãi sau ông Hứa mới đáp nửa kín nửa hở:
- Nghe đâu sắp có cuộc Cải cách ruộng đất gì đấy…
- Cải cách thì liên quan gì đến chuyện này?
- Có đấy, vì hình như gia đình ông thuộc vào diện…Thôi, tôi không nói nữa. Chỗ thân tình tôi đưa ông cái này, ông đọc thì sẽ rõ.
Ông rút trong túi dết ra tập tài liệu mỏng đưa cho bố tôi rồi lùi lũi bỏ đi.
Tôi cầm tập tài liệu ấy lên tay. Nó chỉ to bằng bàn tay, giấy đen, đầy những cọng rơm. Dòng chữ trang đầu đập ngay vào mắt: “LUẬT CẲI CÁCH RUỘNG ĐẤT” và con số ghi niên hiệu năm tập sách ra đời: 1953. Sau này, tôi mới được biết, đó là năm Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thông qua trong khoá họp lần thứ 3 ngày 4 tháng 12 năm 1953, tại căn cứ kháng chiến Việt Bắc.
Ngay chiều hôm ấy có tới hàng trăm thanh niên quang thúng lỉnh kỉnh, cười nói bô lô ba la đã tề tựu trong mảnh sân gạch nhà tôi. Họ chuyển thóc từ nhà tôi sang kho mới đặt ở từ đường ông Thoại, cùng xóm.
Trong số những thanh niên này, dù biết chắc rằng sẽ có Én, vậy mà khi nhìn thấy nàng hai má đỏ ửng mặc cái áo tôi tặng hôm trước, từ ngoài ngõ quẩy đôi quang thúng bước vào sân, tôi vẫn cứ bối rối. Đứng sau cánh cửa nhìn nàng, lòng tôi buồn rười rượi. Én ơi, liệu chúng ta còn có nhau không.
Không bao lâu sau, toàn bộ số thóc mấy nghìn thùng chất cao đến tận nóc nhà đã bị chuyển đi sạch sành sanh, kể cả bộ khung gỗ và những tấm liếp đan bằng tre. Sẩm tối, kéo nhau lên thăm lại căn nhà cũ, bố con tôi nhìn mà ngao ngán. Tất cả lạnh tanh, trống trải. Nhận lại nhà đáng lẽ chúng tôi phải vui, đằng này lại buồn nẫu ruột.
Vậy là không còn nghi ngờ gì nữa, cách mạng hay chính xác hơn, chính quyền xã này đã từ chối gia đình tôi, loại chúng tôi ra khỏi cộng đồng. Chúng tôi sẽ phải đối mặt với một cái gì không bình thường đây.
Bố tôi bảo:
- Họ chê bai thế này có nghĩa là cuộc cải cách ruộng đất sắp tới nhà mình bị gay go rồi. Dứt khoát là thế.
Mẹ tôi bảo:
- Thầy mày cứ lo hão. Nhà mình xưa nay có giầu có hơn ai.
Tôi nói:
- Thầy đưa quyển sách lúc nãy cho con.
Bố tôi lật đầu giường lấy sách định đưa, sau nghĩ thế nào lại bảo:
- Để đấy đã.
Tôi không hiểu bố tôi định làm gì. Nhìn theo thì thấy ông đi đến chỗ chiếc máy khâu, hiệu Minato, phương tiện lâu nay bố tôi vẫn dùng để kiếm thêm tiền phụ giúp mẹ tôi. Ông đạp máy, may lại tập sách. Hình như bố tôi sợ cái ghim sắt gỉ sét, mỏng mảnh kia không đủ sức giữ cho cuốn sách được vẹn toàn… Cũng có nghĩa ông sợ chỗ dựa tinh thần duy nhất của gia đình tôi lúc này bị xộc xệch, lung lay!
Tứ đấy và những ngày sau, bố mẹ tôi và tôi chỉ xoáy vào từng điểm của cuốn Luật để hỏi nhau và dằn vặt nhau. Theo đó đã gọi là địa chủ thì phải có ruộng đất mà ruộng đất phải nhiều và phải bóc lột địa tô. Hôm ấy quẫn trí quá, tôi đã như quan toà truy hỏi bị cáo là mẹ tôi, vì lâu nay trong gia đình tôi mẹ tôi gần như giữ quyền quản lý.
Quan toà: Số ruộng đất nhà này là bao nhiêu.
Bị cáo: 6 mẫu! (Hơn 3 mẫu mới được một ha. Tính ra ruộng đất của nhà tôi chưa được 2 hecta)
Quan toà: Nguồn gốc.
Bị cáo: Mua. Dành dụm bao nhiêu năm trời từ tiền đi buôn của vợ, tiền làm máy khâu của chồng.
Quan toà: Có bóc lột địa tô.
Bị cáo: 30 cân, một sào, không nhiều hơn so với quy định của chính phủ trong Luật.
Như vậy thì gia đình này có đội đít mà nâng lên cũng không thể nào thành địa chủ được. Mẹ tôi nói thế. Nhưng tôi biết theo luật thì thế chứ khi vận dụng vào thực tế thì đâu như thế. Nhiều khi còn là nhân thân, là nguồn gốc xuất thân.
Tôi lại làm quan toà lần nữa và lần này thì mẹ tôi cho tôi biết nhân thân của bà. Thì ra tuy là con quan huyện thật đấy (ông thân sinh ra mẹ tôi là Nguyễn Quýnh, sau khi đỗ Cử nhân đã được bổ làm tri huyện huyện Nam Xương, nay thuộc tỉnh Hà Tây vào năm 1886. Gần đây tôi được biết điều này là do được đọc cuốn “Ông Nghè ông Cống, triều Nguyễn”) nhưng là con vợ ba, mà vợ ba ngày trước chỉ là nàng hầu nên mẹ tôi phải vất vả khổ sở từ thuở bé. Đã vậy sau khi sinh mẹ tôi, ông ngoại tôi lại về hưu, quyền hành chẳng còn nên bổng lộc cũng không. Đến năm mẹ tôi mười tuổi thì bà ngoại tôi chết. Chôn cất bà ngoại xong, ngoài dì Sót do còn quá nhỏ nên được đưa về quê ngoại để nuôi, còn mẹ tôi và dì Khuê lập tức phải dời bỏ quê hương theo người lớn về Hà Nội để làm con ở. Mới 10 tuổi đầu, mà ngày nào, 3, 4 giờ sáng, mẹ tôi cũng bị đánh thức bằng đấm, bằng đạp, bằng cả trò đập tã lót ướt sũng nước đái trẻ con vào mặt. Như vậy sao bảo mẹ tôi là người không lao động được. Lại đóng vai quan toà, tôi hỏi mẹ lần nữa.
- Nhưng đó là thời trẻ. Còn sau này!
- Thì vẫn là lao động, là đi buôn đi bán khắp chợ cùng quê, rạc cả gấu váy, rồi bố mày nữa, ngày đêm còng lưng ra đạp máy khâu, có được đồng nào tích cóp lại, thuê người cày bừa, cấy hái, như vậy mà bảo chúng tao bóc lột à? Là sự đổi công chứ…
- Vậy còn thầy.
- Thì cũng vất vả kém gì bu đâu. Tuy là con cụ Hàn nhưng là Hàn mua thôi. Đã vậy cụ Hàn còn bị phá sản vì có bao nhiêu ruộng đất, tài sản phải bán hết, trắng tay sau vụ kiện tranh chấp quyền sở hữu đất đai với đám Hàn Phụ Hàn Bồng về cái ấp ở Thiện Tùng dưới huyện miền biển.
Nhờ mẹ tôi nói tôi mới biết trước đây, ông nội tôi có bỏ ra khá nhiều tiền của trâu bò thóc gạo ra giúp hàng trăm hộ nông dân ở cái ấp này phục hồi sản xuất sau khi một trận sóng thần khủng khiếp xảy ra vào năm 1904, quét sạch toàn bộ nhà cửa, cây cối, hoa màu ra biển cả mênh mông. Biết tiếng ông nội tôi xưa nay hay làm việc thiện, bà con nông dân ở ấp này đã cử đại diện lên quê tôi, cách ấp Thiện Tùng gần 30 cây số, để xin ông nội tôi “ra tay cứu giúp” cho bà con phục hồi sản xuất. Ông nội tôi đã dốc toàn bộ thóc lúa, trâu bò, tiền bạc ra giúp bà con. Nhờ thế mà ấp Thiện Tùng lại được như xưa. Nhà cửa lại cất lên. Cây cối lại tươi tốt. Lúa ngô lại xanh mướt cánh đồng. Thôn ấp lại vang rộn tiếng hát, tiếng cười, tiếng trẻ học bài. Dân ấp Thiện Tùng biết ơn ông nội tôi, đã tôn cụ làm thành hoàng ngay khi cụ còn sống. Các triều vua Thành Thái, Khải Định lần lượt xuống chỉ sắc phong cho đình thờ thành hoàng này. Sau đấy không lâu, cánh Hàn Phụ, Hàn Bồng ở bên kia sông Hồng, nghe tin đã đâm đơn kiện ông nội tôi với lý do, cái ấp này nguyên là của nhà họ, ông nội tôi đã lấn chiếm. Họ là dân có con cháu Tây học, thành thạo pháp luật nên đã thắng ông nội tôi trong vụ kiện này. Kết qủa ông nội tôi không chỉ mất trắng cái ấp Thiện Tùng mà còn phải đóng án phí đền bù thiệt hại cho bên nguyên đơn, với một số tiền khá lớn, đến nỗi, ông nội tôi phải bán đi gần hết số ruộng hiện có mới thoát khỏi tù đầy.
Do đó mà bố tôi cùng các ông chú bà cô, đúng là tiếng cả nhà thanh, mang tiếng con nhà giầu nhưng ruộng đất, tài sản còn lại chẳng đáng là bao. Cáùc ôngï lại không được học hành đến nơi đến chốn, do ông nội tôi ghét Tây xâm lược không cho con cái học cái chữ mà cụ bảo loằng ngoằng như cái xích chó, trong khi chữ nho đã đến thời mạt vận. Kỳ thi cuối cùng của thứ chữ thánh hiền này xảy ra đúng vào lúc bố tôi và các chú đang tuổi học hành.
Thế là, vào đời, học vấn không co,ù bố tôi và mấy chú buộc phải lặn lội vào Nam kỳ và Campuchia làm phu cao su trong các đồn điền của người Pháp.
- Vậy sao bảo thầy mày bóc với lột được!
Càng nghe mẹ tôi nói đầu óc tôi càng sáng ra. Tôi giở lại tập “Luật cải cách ruộng đất” ra xem một lần nữa. Điều 12,mục 5 ghi rõ: “Những người có ít ruộng đất, nhưng vì tham gia công tác kháng chiến, vì thiếu sức lao động,vì bận làm nghề khác mà phải phát canh thu tô hoặc thuê người làm, thì không coi là địa chủ. Không đụng đến ruộng đất và tài sản của họ”. Gia đình tôi rõ ràng là rơi vào điều vào mục này rồi. “Vì thiếu sức lao động!”. Đúng rồi còn gì. “ Bận việc làm”. Thì cũng đúng nốt. Từ nhỏ đến lớn gần như tôi không thấy mấy khi mẹ tôi có mặt ở nhà. Bà đi hết chợ Thông đến chợ Búng, chợ Sóc, có chợ cách nhà cả hai mươi cây số. Mà toàn là gánh nặng và đi bộ, phải thức dậy từ ba bốn giờ sáng mới kịp. Còn bố tôi thì sau khi hết công-tra, về quê, cưới mẹ tôi, học thêm nghề thợ may, từ đấy ông bị cột chặt vào chiếc máy khâu, hết tháng này năm khác, “đít dầy như cái mo nang”, bố tôi thường bảo thế. Ông còn sợ cái nghề này như sợ định mệnh, đến nỗi mỗi lần tôi trèo lên chiếc ghế may đều bị ông đuổi xuống. “Một mình đời thầy đã khổ rồi, chẳng lẽ lại truyền đến đời con”. Như vậy những điều quy định trong Luật đã rõ ràng như ban ngày, chả còn điều gì khó hiểu nữa. Gia đình tôi dứt khoát không phải là địa chủ rồi! “Dứt khoát không phải là địa chủ rồi!” Sung sướng quá…Tôi hét to lên. Tôi reo lên như một thằng điên. Rồi tôi hát “Giải phóng Điện Biên bộ đội ta tiến quân trở về giữa mùa hoa nở…”. Tôi hát thế vì vừa nghe trên cây nhãn ngoài bờ ao nhà tôi người phụ trách thông tin tuyên truyền xóm phát thanh qua cái loa bằng sắt tây rằng: “Hôm nay là kỷ niệm một năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ…”
Hát rồi reo to không đủ. Tôi phải chạy ngay ra nhà Én. Nhưng Én không có nhà. Nàng đi họp thanh niên chuẩn bị cho buổi lễ chào mừng Đội Cải cách ra mắt dân làng rồi. Nhìn vẻ mặt lạnh tanh của Kền, tự dưng tôi thấy lo sợ. Hình như sắp có chuyện không hay xảy ra rồi. Tôi lầm lũi quay về nhà.