Books serve to show a man that those original thoughts of his aren't very new after all.

Abraham Lincoln

 
 
 
 
 
Tác giả: Sara Gruen
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 28
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 948 / 17
Cập nhật: 2017-08-04 07:58:53 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
ôi tiếp tục đứng gác bốn mươi lăm phút tiếp theo ngoài lều thay đồ của Barbara trong khi nàng vui vẻ với các quý ông ham chơi. Chỉ có năm người sẵn sàng trả hai đô la cần thiết, và họ xếp thành một hàng người cáu kỉnh. Người đầu tiên bước vào và sau bảy phút nạt nộ và càu nhàu, hắn lại xuất hiện, vật lộn với cái khóa quần. Hắn lảo đảo bỏ đi và người tiếp theo đi vào.
Sau khi người cuối cùng rời đi, Barbara xuất hiện ở cửa. Nàng gần như trần truồng, chỉ mặc một chiếc áo khoác ngoài bằng lụa phương Đông mà nàng chẳng buồn thắt đai. Tóc nàng rối bời, mồm nhoe nhoét son môi. Một tay nàng cầm điếu thuốc cháy dở.
“Vậy đó, cưng à,” nàng vừa nói vừa xua tôi đi. Uýt ki vẫn còn đọng trong hơi thở và đôi mắt nàng. “Tối nay không có phục vụ miễn phí đâu.”
Tôi trở về lều thoát y để xếp ghế và giúp tháo dỡ sân khấu trong khi Cecil kiểm lại tiền. Sau khi kết thúc, tôi trở thành người sở hữu một đô la và toàn thân cứng đờ.
LỀU CHÍNH VẪN ĐỨNG SỪNG SỮNG, rực sáng như bóng ma của hí trường La Mã và rung động theo âm thanh của ban nhạc. Tôi chăm chú nhìn nó, mê đắm trong tiếng hò reo của khán giả. Họ cười nói, vỗ tay, và huýt sáo. Thỉnh thoảng lại có một tiếng hít vào đồng loạt hay những tiếng la hét kích động ầm ĩ. Tôi kiểm tra đồng hồ bỏ túi; đã mười giờ kém mười lăm.
Tôi nghĩ đến việc thử vào xem một đoạn của sô diễn, nhưng lại sợ nếu băng qua khu đất, tôi sẽ bị ép phải làm việc khác. Những người lao động tự do, dành phần lớn thời gian trong ngày để ngủ trong bất cứ xó nào họ có thể tìm được, đang tháo dỡ thành phố vải bạt khổng lồ cũng hiệu quả như khi họ dựng nó lên. Những căn lều sụp xuống mặt đất, còn cột đỡ thì đổ nghiêng. Ngựa, xe và người di tản qua khu đất, kéo mọi thứ trở lại đường tàu tránh.
Tôi ngồi thụp xuống, dựa đầu lên gối.
“Jacob? Là mày phải không?”
Tôi nhìn lên. Camel tập tễnh đi tới, mắt nheo lại. “Vì Chúa, tao đã đoán là mày,” ông nói. “Mắt già này chẳng còn tốt như xưa nữa.”
Ông ngồi xuống cạnh tôi và lôi ra một cái chai nhỏ màu lục. Ông kéo cái nút bần ra và làm một hơi.
“Tao già quá rồi không hợp với việc này nữa, Jacob ạ. Cứ đến cuối ngày là lại ê ẩm toàn thân. Khốn nạn, giờ tao đang đau nhừ cả người đây, mà đã hết ngày đâu cơ chứ. Chắc là hai giờ nữa Phi Đội mới khởi hành, và năm tiếng sau đó chúng ta lại bắt đầu lại toàn bộ cái công việc ngu ngốc này. Chẳng có cuộc sống nào dành cho những anh già cả.”
Ông chuyển cái chai cho tôi.
“Cái quái gì thế này?” tôi hỏi, nhìn chằm chằm vào thứ chất lỏng lờ lợ.
“Jake(1) đó,” ông nói, giật cái chai lại.
“Bác đang uống cao à?”
“Ừ đấy, thì sao?”
Cả hai ngồi im lặng trong một phút.
“Cái luật cấm bán rượu khốn kiếp,” cuối cùng Camel cũng lên tiếng. “Cái thứ này đã từng rất ngon lành cho đến khi chính phủ quyết định cấm. Vẫn xong việc, nhưng uống thì như cứt. Và thật nhục nhã vì đó là tất cả những gì giúp bộ xương già cỗi này tiếp tục hoạt động. Tao sắp kiệt quệ rồi. Chả làm được gì ngoài đứng bán vé, mà tao cho là mình quá xấu để làm công việc đó.”
Tôi liếc nhìn và quyết định rằng ông nói đúng. “Bù lại, bác có làm được việc gì khác không? Sau hậu trường chẳng hạn?”
“Nhân viên bán vé là bến cuối rồi.”
“Nếu không cố được nữa thì bác định làm gì?”
“Tao nghĩ mình sẽ hẹn với Blackie. Này,” ông nói, quay sang tôi đầy vẻ hy vọng. “Có điếu thuốc nào không?”
“Không. Rất tiếc.”
“Tao cũng không nghĩ mày có,” ông thở dài.
Chúng tôi ngồi lặng lẽ, quan sát từng nhóm nối tiếp nhau kéo dụng cụ, động vật, và vải bạt trở lại tàu. Các diễn viên rời khỏi cửa sau của lều chính, biến mất sau những căn lều thay đồ và hiện ra trong những bộ thường phục. Họ đứng thành nhóm, cười đùa và tán chuyện, một vài người vẫn bận rộn tẩy trang. Dù đã cởi bỏ đồ diễn, trông họ vẫn đẹp lộng lẫy. Những người làm trông ủ dột chạy đôn chạy đáo khắp nơi, dù ở cùng một vũ trụ nhưng có vẻ như họ thuộc một chiều không gian khác. Không hề tương tác gì với nhau.
Camel cắt ngang sự mơ màng của tôi. “Mày là sinh viên à?”
“Vâng.”
“Tao nhận ra ngay.”
Ông lại đưa cái chai ra, nhưng tôi lắc đầu.
“Đã tốt nghiệp chưa?”
“Chưa,” tôi đáp.
“Sao lại chưa?”
Tôi không trả lời.
“Mày bao tuổi rồi, Jacob?”
“Hai mươi ba.”
“Tao có một đứa con trai tầm tuổi mày.”
Tiếng nhạc đã ngưng, dân thị trấn bắt đầu túa ra từ lều chính. Họ dừng lại, bối rối, tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với lều thú mà họ đã đi qua lúc vào. Khi họ ra ở cửa trước thì một đoàn người đã tiến vào từ cửa sau, khuân trở lại xe ngựa những chỗ ngồi trên khán đài, ghế và đai sân khấu, chúng bị ném rầm rầm vào những xe chứa đồ ngổn ngang. Lều chính đang bị vét sạch trước cả khi khán giả kịp ra về.
Camel ho sặc sụa, đến gập cả người lại. Tôi nhìn xem ông có cần đấm vào lưng không, nhưng ông giơ một tay lên ngăn tôi lại. Ông khịt mũi, đằng hắng rồi khạc nhổ. Sau đó ông uống cạn chai. Ông đưa mu bàn tay lên chùi mồm và nhìn tôi, rà soát từ đầu đến chân.
“Nghe này,” ông nói. “Tao không cố tìm hiểu chuyện của mày, nhưng tao biết mày lang thang trên đường phố chưa lâu. Mày quá sạch sẽ, quần áo mày quá tươm tất, và mày chẳng hề có chút của cải nào. Mày thu thập các thứ trên đường - có lẽ chẳng phải thứ tốt đẹp gì, nhưng mày vẫn thu thập. Tao biết mình chả có tư cách gì mà nói, nhưng một chàng trai trẻ như mày không nên lang thang. Tao đã lang thang quá lâu và đó không phải là cuộc sống.” Cánh tay đặt trên hai đầu gối, ông quay mặt về phía tôi. “Nếu mày có một cuộc sống để mà quay trở lại, tao nghĩ đó là việc mày nên làm.”
Phải mất một lúc tôi mới trả lời được. Khi mở miệng, tiếng tôi như vỡ vụn ra. “Tôi không có.”
Ông quan sát tôi một lúc lâu hơn rồi gật đầu. “Tao rất tiếc khi nghe điều đó.”
Đám đông tản ra, di chuyển từ lều chính đến bãi đỗ xe và xa hơn, tới ven thị trấn. Từ phía sau lều chính, hình bóng một quả bóng bay đang bay vào trời đêm, theo sau là tiếng một đứa trẻ gào khóc không dứt. Có tiếng cười đùa, tiếng động cơ ô tô, tiếng nói cất lên đầy phấn khích.
“Cậu có tin là cô ả đã uốn người như thế không?”
“Tôi cứ nghĩ mình chết mất khi gã hề đó tụt quần đùi xuống.”
“Jimmy đâu rồi… Hank, có thấy Jimmy không?”
Camel đột ngột đứng bật dậy. “Ê! Lão kia kìa. Lão già Ô-N D-Ị-C-H ấy đang ở kia kìa.”
“Ai cơ?”
“Bác Al! Đi nào! Chúng ta phải xin cho mày vào đoàn.”
Ông tập tễnh bước đi nhanh hơn tôi tưởng. Tôi đứng dậy đi theo.
Trông Bác Al không lẫn vào đâu được. Toàn thân ông ta toát ra cái vẻ của một biên đạo xiếc, từ áo bành tô màu đỏ tươi và quần đi ngựa màu trắng tới cái mũ chóp và bộ ria cuộn bóng bẩy. Ông ta sải bước qua khu trại như người chỉ huy dàn nhạc diễu hành, ưỡn cái bụng phệ ra phía trước và ra chỉ thị bằng một giọng trầm vang. Ông ta tạm dừng để nhường một chuồng sư tử đi qua trước mặt rồi tiếp tục đi qua một nhóm người đang vật lộn với súc vải bạt cuộn tròn. Không hề ngừng bước, ông ta đập vào một bên đầu một trong số họ. Người đó kêu oai oái và quay lại xoa tai, nhưng Bác Al đã đi mất, kéo theo một đoàn những kẻ hộ tống.
“Cái đó khiến cho tao nhớ ra rằng,” Camel nói qua vai, “dù có làm gì cũng không được nhắc đến Ringling trước mặt Bác Al.”
“Tại sao không?”
“Chỉ là không được thôi.”
Camel hối hả đuổi theo Bác Al và bước tới trước mặt ông ta. “A, ngài đây rồi,” ông nói, giọng rên rỉ đầy giả tạo. “Không biết tôi có thể nói đôi lời với ngài được không ạ?”
“Không phải bây giờ, chàng trai. Không phải bây giờ,” Al nói oang oang, lạch bạch bước qua như những tên Áo nâu trong những đoạn quảng cáo tin tức nhiễu nhòe nhoẹt mà người ta thường thấy tại rạp chiếu bóng. Camel yếu ớt tập tễnh phía sau, đầu cứ thụt thò ở một phía, rồi bị tụt lại, và lại đuổi theo người kia như một con cún bị bỏ rơi.
“Chỉ một lát thôi, thưa ngài. Tôi chỉ đang thắc mắc không biết có bộ phận nào thiếu người không.”
“Chúng ta đang xem xét về việc đổi nghề sao?”
Giọng Camel rít lên như một cái còi. “Ồ không, thưa ngài. Không phải tôi. Tôi đã quá thỏa mãn với vị trí của mình rồi. Vâng thưa ngài. Tôi hết sức hạnh phúc.” Ông cười khùng khục như điên.
Khoảng cách giữa họ rộng dần. Camel vấp ngã rồi dừng lại. “Thưa ngài?” ông gọi với qua khoảng không đang lớn dần. Ông đứng lại. “Thưa ngài?”
Bác Al đã đi, lặn mất tăm trong đống người, ngựa, và xe chở hàng.
“Chết tiệt. Chết tiệt!” Camel gào lên, giật mũ ra khỏi đầu ném xuống đất.
“Được rồi, Camel,” tôi nói. “Tôi rất trân trọng nỗ lực của bác.”
“Không, không được chút nào,” ông hét lên.
“Camel, tôi… ”
“Im đi. Tao không muốn nghe. Mày là một đứa ngoan, và tao không định đứng nhìn mày rầu rĩ chỉ vì lão béo cục cằn đó không có thời gian. Tao sẽ không làm vậy đâu. Vậy nên hãy biết tôn trọng người lớn một chút và đừng gây thêm phiền phức cho tao nữa.”
Đôi mắt ông rực lửa.
Tôi cúi xuống, nhặt lại cái mũ và phủi bụi. Rồi tôi đưa nó cho ông.
Sau một lúc, ông cầm lấy nó. “Được rồi,” ông cộc cằn nói. “Tao nghĩ như thế được rồi.”
CAMEL ĐƯA TÔI tới một xe chở hàng và bảo tôi đợi phía ngoài. Tôi dựa vào một cái bánh xe to lắp nan hoa và giết thời gian bằng cách hết cạy ghét dưới móng tay rồi lại nhai những cọng cỏ dài. Có lúc đầu tôi gục về phía trước, ngủ gật.
Một giờ sau Camel xuất hiện, loạng choạng, một tay cầm một cái chai bẹt còn tay kia là một điếu thuốc lá tự cuốn. Mí mắt ông giật giật, hơi cụp xuống.
“Đây là Earl,” ông nói lí nhí, quàng tay ra sau Earl. “Anh ta sẽ chăm sóc mày.”
Một người đàn ông hói đầu bước xuống xe chở hàng. Anh ta rất to lớn, cổ mập hơn cả đầu. Những hình xăm màu lục mờ mờ chạy ngang những đốt ngón tay lên tới cánh tay lông lá. Anh ta chìa tay ra.
“Xin chào,” anh ta nói.
“Xin chào,” tôi lúng túng đáp lại. Tôi quay ngoắt lại phía Camel, lúc này đang đi liểng xiểng qua đám cỏ khô cùng một hướng với Phi Đội. Ông lại còn hát nữa chứ. Dở quá.
Earl khum tay quanh miệng. “Ngậm miệng lại đi, Camel! Cố mà nhảy lên tàu trước khi nó đi mất đấy!”
Camel khuỵu đầu gối xuống.
“Ôi Chúa ơi,” Earl thốt lên. “Đợi chút. Một phút nữa tôi sẽ quay lại.”
Anh ta bước tới bế thốc ông già lên, dễ dàng như thể ông chỉ là một thằng nhóc. Camel để tay, chân và đầu lủng lẳng trên tay Earl. Ông cười khúc khích và thở dài.
Earl để Camel ngồi lên gờ cửa một toa tàu, bàn bạc với ai đó phía bên trong, rồi quay lại.
“Thứ đó sẽ giết ông bạn già mất,” anh ta lẩm bẩm, bước thẳng qua tôi. “Nếu không ngừng uống rượu, ông ta sẽ lăn khỏi con tàu khốn kiếp đó. Đến tôi còn không đụng tới cái thứ ấy,” anh ta nói, ngoảnh đầu lại nhìn tôi.
Tôi đứng chôn chân tại chỗ anh ta đã bỏ tôi lại.
Trông anh ta có vẻ ngạc nhiên. “Cậu có đi hay không đấy?”
KHI PHẦN CUỐI CÙNG của con tàu cũng đã chuyển bánh, tôi bị nhét xuống dưới một cái giường trong toa nằm, chen chúc với một gã khác. Gã mới là người sở hữu hợp pháp khoảng không đó nhưng đã được thuyết phục để tôi nằm cùng trong một hay hai giờ với giá một đô la. Dù sao thì gã vẫn càu nhàu, còn tôi thì ôm đầu gối để thu mình càng nhỏ lại càng tốt.
Không khí nồng nặc mùi cơ thể chưa tắm và quần áo chưa giặt. Những cái giường ba tầng chồng lên nhau, mỗi tầng chứa ít nhất một và đôi khi là hai người, những chỗ bên dưới chúng cũng vậy. Cái gã bị nhồi nhét vào khoảng trống trên sàn bên cạnh tôi thụi vào cái chăn mỏng màu xám, cố gắng làm thành hình gối nhưng vô ích.
Một giọng nói vang lên giữa những tiếng ồn ào: “Ojcze nasz któryś jest w niebie, swięć sie imie Twoje, przyjdź królestwo Twoje…”
“Chúa ơi,” tay chủ giường thốt lên. Gã thò đầu ra lối đi giữa các dãy giường. “Nói tiếng Anh đi, thằng Ba Lan thối tha!” Rồi gã chui về gầm, lắc đầu. “Cái đám này. Cút mẹ nó khỏi tàu đi.”
“… i nie wódz nasź na pokuszenie ale nas zbaw ode złego. Amen.”
Tôi nép vào tường và nhắm mắt lại. “Amen,” tôi thì thầm.
Con tàu lắc lư. Đèn lập lòe một lúc rồi tắt ngấm. Đâu đó phía trước chúng tôi, một tiếng còi rít lên. Chúng tôi bắt đầu lăn về phía trước và đèn bật sáng trở lại. Tôi mệt mỏi không tả nổi, đầu nện khô khốc vào thành tàu.
Một lúc sau tôi tỉnh dậy và thấy trước mặt là đôi ủng lao động to tổ chảng.
“Đã sẵn sàng chưa?”
Tôi lắc lắc đầu, cố gắng định hướng.
Tôi nghe tiếng gân cốt kêu răng rắc và tanh tách. Rồi tôi thấy một cái đầu gối. Và rồi khuôn mặt của Earl. “Cậu vẫn ở dưới đó à?” anh ta hỏi, nhòm xuống gầm giường.
“Vâng. Xin lỗi.”
Tôi chui ra ngoài và cố gắng đứng lên.
“Hallelujah,” tay chủ giường lên tiếng, vươn vai.
“Pierdol się,” tôi đáp lại.
Một tiếng cười phì phát ra từ chiếc giường cách đó vài bước.
“Đi thôi,” Earl nói. “Al đã có đủ thời gian thư giãn nhưng chưa đủ để trở nên cáu bẳn. Tôi nghĩ đây là cơ hội của cậu.”
Anh ta dẫn tôi qua hai toa nằm nữa. Cuối cùng cũng tới chỗ đứng giữa hai đầu toa, trước mắt chúng tôi là phần sau của một loại toa hoàn toàn khác. Qua cửa sổ, tôi có thể thấy lớp gỗ bóng loáng và những chiếc đèn rất phức tạp.
Earl quay sang tôi. “Sẵn sàng chưa?”
“Rồi,” tôi đáp.
Tôi chưa sẵn sàng. Anh ta tóm gáy tôi và đập mặt tôi vào khung cửa. Bằng tay còn lại, anh ta giật cửa kéo và xô tôi vào trong. Tôi ngã chúi về trước, bàn tay duỗi căng ra. Tôi đập vào một thanh chắn bằng đồng và dừng lại, đứng thẳng dậy, bàng hoàng ngoái nhìn Earl. Rồi tôi thấy những người còn lại.
“Chuyện gì vậy?” Bác Al lên tiếng từ trong lòng một chiếc ghế bành. Ông ta đang ngồi bên một chiếc bàn với ba người đàn ông khác, một tay vân vê điếu xì gà mập mạp giữa ngón trỏ và ngón cái, tay kia xòe năm lá bài. Ly rượu branđi đặt trên cái bàn trước mặt. Ngay sau nó là một chồng lớn những thẻ bài pô-kơ.
“Nhảy lên tàu, thưa ngài. Thấy hắn đang lẻn qua một toa nằm.”
“Có thật không?” Bác Al hỏi. Ông ta ung dung hít một hơi từ điếu xì gà và đặt nó lên gờ cái gạt tàn. Ông ta ngồi lún vào ghế, nghiên cứu những quân bài và nhả khói ra hai khóe miệng. “Ta sẽ theo ba và tố năm,” ông ta nói, ngả về trước và liệng một chồng thẻ vào số tiền góp.
“Ngài có muốn tôi chỉ cho nó cửa ra không?” Earl hỏi. Anh ta bước tới và nắm ve áo xốc tôi lên khỏi mặt đất. Tôi gồng mình, nắm chặt cổ tay anh ta, dự tính sẽ bám vào đó nếu anh ta cố ném tôi một lần nữa. Tôi nhìn từ Bác Al đến nửa dưới mặt Earl - đó là tất cả những gì tôi thấy - và rồi lại quay sang Bác Al.
Bác Al xếp bài lại và cẩn thận đặt chúng xuống bàn. “Chưa đâu, Earl,” ông ta nói. Ông ta với lấy điếu xì gà và rít một hơi nữa. “Để nó xuống.”
Earl hạ tôi xuống sàn, để lưng tôi quay lại phía Bác Al. Anh ta miễn cưỡng phủi phẳng áo jacket của tôi.
“Bước tới đây,” Bác Al ra lệnh.
Tôi gượng dậy, rất mừng vì thoát khỏi tầm tay của Earl.
“Ta không tin là mình lại có hân hạnh này,” ông ta nói, nhả ra một vòng khói. “Tên cậu là gì?”
“Jacob Jankowski, thưa ngài.”
“Và, làm ơn nói ta nghe, gã Jacob Jankowski đó nghĩ hắn đang làm gì trên tàu của ta vậy?”
“Tôi đang tìm việc,” tôi đáp.
Bác Al tiếp tục nhìn tôi chăm chú, nhả ra những vòng khói lười biếng. Ông ta đặt tay lên bụng, chậm rãi gõ nhịp lên áo gi lê.
“Đã bao giờ làm cho một đoàn xiếc chưa, Jacob?”
“Chưa thưa ngài.”
“Đã từng xem trình diễn chưa, Jacob?”
“Rồi, thưa ngài. Hẳn rồi.”
“Đoàn nào vậy?”
“Anh em Ringling,” tôi đáp. Một tiếng hít vào thật mạnh khiến tôi phải ngoái đầu. Đôi mắt Earl mở to cảnh cáo.
“Nhưng nó dở lắm. Rất dở,” tôi vội chêm vào, quay lại phía Bác Al.
“Có thật không,” Bác Al hỏi.
“Thật, thưa ngài.”
“Và cậu đã xem sô diễn của chúng ta chưa, Jacob?”
“Rồi, thưa ngài,” tôi nói, cảm thấy hai má nóng bừng.
“Vậy cậu nghĩ sao về nó?” ông hỏi.
“Nó thật… ngoạn mục.”
“Cậu thích nhất màn nào?”
Tôi vội nắm lấy cơ hội, bịa ra một lô đặc điểm. “Màn diễn với những chú ngựa đen và trắng. Còn cô gái thì mặc đồ hồng,” tôi nói. “Và đeo xê quin.”
“Có nghe thấy không, August? Anh chàng này thích Marlena của mày đấy.”
Người ngồi đối diện Bác Al đứng dậy và quay lại - đó là người đàn ông trong lều thú, chỉ có điều lúc này anh ta không đội mũ chóp. Khuôn mặt góc cạnh của anh ta lộ vẻ bình thản, mái tóc đen bóng lộn sáp thơm. Anh ta cũng để ria mép, nhưng không giống Bác Al, bộ ria chỉ bằng độ dài của môi.
“Vậy chính xác thì cậu hình dung công việc của mình là gì?” Bác Al hỏi. Ông ta ngả về trước và nâng một ly rượu từ bàn. Ông ta lắc lắc cái ly, rồi uống cạn chỉ với một ngụm duy nhất. Một anh bồi từ đâu xuất hiện rót đầy chiếc ly.
“Tôi sẽ làm bất cứ việc gì. Nhưng nếu có thể tôi muốn được làm việc với động vật.”
“Động vật,” ông nhắc lại. “Nghe thấy không, August? Anh chàng này muốn làm việc với động vật đấy. Ta đoán là cậu muốn mang nước cho lũ voi, phải chứ?”
Earl cau mày. “Nhưng thưa ngài, chúng ta không có…”
“Câm mồm!” Bác Al hét lên, nhảy bật dậy. Tay áo ông ta vướng vào ly rượu làm nó đổ xuống thảm. Ông ta nhìn nó chằm chằm, tay siết chặt nắm đấm, mặt mày càng lúc càng tối sầm lại. Rồi ông ta nhe răng và gào lên một tiếng thật dài và tàn bạo, chân giậm liên hồi lên cái ly.
Có một khoảng im lặng, nó chỉ bị phá vỡ bởi tiếng lạch cạch đều đặn của những thanh tà vẹt đang trôi qua phía dưới chúng tôi. Rồi người bồi bàn ngồi sụp xuống sàn và bắt đầu nhặt những mảnh thủy tinh vỡ.
Bác Al hít một hơi thật sâu và chắp tay sau lưng, quay về phía cửa sổ. Cuối cùng ông ta cũng quay lại phía chúng tôi, khuôn mặt ông ta ửng hồng trở lại. Một nụ cười tự mãn nhếch lên nơi khóe môi.
“Ta sẽ nói tình hình cho cậu, Jacob Jankowski ạ.” Ông ta khạc tên tôi ra như thể đó là thứ gì ghê tởm lắm. “Ta đã từng thấy loại như cậu cả nghìn lần. Cậu nghĩ ta không thể đọc cậu như đọc một cuốn sách sao? Vậy có chuyện gì thế - cậu và mẹ đã cãi nhau à? Hay có lẽ cậu chỉ đang tìm kiếm một chuyến phiêu lưu nhỏ giữa các học kỳ?”
“Không, thưa ngài, hoàn toàn không phải thế.”
“Ta đếch cần biết nó là gì - kể cả ta có cho cậu một công việc trong đoàn, cậu cũng không tồn tại được đâu. Không đến một tuần. Chẳng được một ngày. Đoàn xiếc là một cỗ máy trơn tru mà chỉ những kẻ cứng cáp nhất mới vận hành được. Nhưng cậu chẳng biết gì về sự cứng cáp cả, phải không, Chàng Sinh viên?”
Ông ta trừng mắt nhìn tôi như thể đang thách tôi dám nói. “Giờ thì cuốn xéo,” ông ta nói, xua tay đuổi tôi đi. “Earl, chỉ cho nó cửa ra. Đợi đến lúc thực sự nhìn thấy đèn đỏ mới được ném nó đi nhé - tao không muốn bị điều tra vì đã làm đau em bé tí xíu của mẹ đâu.”
“Đợi chút đã, Al,” August đề nghị. Anh ta đang cười tự mãn, rõ ràng là rất thích thú. “Ông ấy đúng chứ? Cậu là sinh viên à?”
Tôi thấy mình như một con chuột bị lũ mèo tung hứng. “Phải.”
“Vậy cậu học cái gì? Một ngành nào đó thuộc nghệ thuật chăng?” Mắt anh ta nheo lại đầy chế nhạo. “Vũ dân gian Romani? Phê bình văn học Aristote? Hay có thể là - cậu Jankowski - cậu đã tốt nghiệp ngành biểu diễn ac-coóc-đê-ông?”
“Tôi học khoa học thú y.”
Mặt anh ta lập tức biến sắc hoàn toàn. “Trường bác sĩ thú y à? Cậu là một bác sĩ thú y?”
“Không hẳn vậy.”
“Ý cậu ‘không hẳn vậy’ là sao?”
“Tôi không làm những bài thi cuối khóa.”
“Tại sao không?”
“Chỉ là không làm thôi.”
“Và những bài thi cuối khoá đó là ở năm cuối của cậu hả?”
“Vâng.”
“Trường nào?”
“Cornell.”
August và Bác Al liếc nhìn nhau.
“Marlena nói là Ngôi sao Bạc đã yếu lắm rồi,” August nói. “Muốn tôi kiếm một người tiền đạo thu xếp tìm một bác sĩ thú y. Có vẻ không hiểu là người tiền đạo thì sẽ ra đi trước tiên, vì vậy mới có cái tên đó.”
“Mày đang đề nghị cái gì đấy?” Bác Al hỏi.
“Sáng mai hãy cho cậu nhóc xem qua một chút.”
“Vậy mày thử nói xem tối nay chúng ta sẽ nhét nó vào đâu? Ở đây đã quá tải rồi.” Ông ta với lấy điếu xì gà từ chiếc gạt tàn và gõ nhẹ nó lên mép. “Tao nghĩ cứ cho nó ngủ trên toa trần là được.”
“Tôi đang nghiêng về hướng cho cậu ta ngủ trong toa ngựa xiếc,” August nói.
Bác Al cau mày. “Cái gì? Với những con ngựa của Marlena ư?”
“Phải.”
“Ý mày là ở khu vực từng dành cho lũ dê á? Đó chẳng phải chỗ ngủ của thằng nhóc khốn nạn đó sao - ồ, mà tên nó là gì ấy nhỉ?” ông ta vừa nói vừa bật ngón tay. “Stinko? Kinko? Thằng hề với con chó ấy?”
“Đúng vậy đó,” August mỉm cười.
AUGUST DẪN TÔI TRỞ LẠI qua các toa nằm của đám đàn ông cho tới khi cả hai đứng trên một khoảng nhỏ đối diện với mặt sau của toa chở gia súc.
“Cậu có vững chân không, Jacob?” anh ta ân cần hỏi thăm.
“Tôi tin là có,” tôi đáp.
“Tốt,” anh ta nói. Không chần chừ thêm, anh ta đổ người về trước, tóm lấy thứ gì đó ở cạnh bên của toa chở gia súc và lẹ làng trèo lên nóc.
“Lạy Chúa!” tôi hét lên, hoảng hốt nhìn hết cái nơi August vừa biến mất rồi lại nhìn xuống móc nối trần và những thanh tà vẹt lao đi dưới những toa xe. Đoàn tàu xóc nảy lên khi đi qua một khúc cua. Tôi duỗi thẳng tay để giữ thăng bằng và thở một cách khó nhọc.
“Lên đi chứ,” một giọng hét lên từ nóc toa.
“Làm thế quái nào mà anh lên được vậy? Anh bám vào cái gì thế?”
“Có cái thang đấy. Ở ngay chỗ lề thôi. Vươn tới mà với lấy. Cậu sẽ tìm thấy thôi.”
“Nếu không thì sao?”
“Vậy chắc là chúng ta sẽ phải cáo từ thôi, phải không?”
Tôi thận trọng tiến về mép toa. Tôi chỉ có thể thấy đúng phần gờ của một cái thang sắt mỏng dính.
Tôi dán mắt vào cái gờ ấy và chùi hai tay vào đùi. Rồi tôi rướn người về trước.
Tay phải tôi chạm được vào thang. Tôi giữ nó thật chặt bằng tay trái cho tới khi tóm được gờ bên kia. Tôi ấn chặt chân xuống các bậc thang và bám thật chắc, cố gắng thở đều.
“Nào, tiếp đi chứ!”
Tôi ngước lên. August đang chăm chú nhìn xuống, cười toe toét, mái tóc bay phấp phới trong gió.
Tôi trèo lên nóc. Anh ta dịch qua một bên, và khi tôi ngồi xuống bên cạnh, anh ta vỗ vai tôi. “Quay lại đây. Tôi muốn cậu xem một thứ.”
Anh ta chỉ xuôi đoàn tàu. Nó kéo dài phía sau chúng tôi như một con rắn khổng lồ, các toa nối nhau khẽ lắc lư và cong lại mỗi khi qua những khúc cua.
“Một cảnh tượng thật đẹp, phải không, Jacob?” August nói. Tôi quay lại nhìn anh ta. Anh ta đang nhìn thẳng vào tôi, mắt sáng rực. “Dù vẫn không đẹp bằng Marlena của tôi… phải không?” Anh ta tặc lưỡi và nháy mắt.
Trước khi tôi kịp phản đối, anh ta đã đứng dậy và nhảy điệu tap trên nóc tàu.
Tôi rướn cổ lên và đếm số toa chở gia súc. Có ít nhất sáu toa.
“August?”
“Gì?” anh ta hỏi, dừng lại giữa lúc đang xoay.
“Kinko ở toa nào vậy?”
Anh ta đột ngột chúi xuống. “Toa này. Chẳng phải cậu rất may mắn sao?” Anh ta cạy một lỗ thông hơi trên nóc rồi biến mất.
Tôi vội vàng bò theo.
“August?”
“Gì?” một giọng đáp lại từ trong bóng tối.
“Ở đây có thang không?”
“Không, cứ nhảy xuống thôi.”
Tôi hạ người vào trong cho tới khi cả thân hình treo lủng lẳng trên những đầu ngón tay. Rồi tôi rơi uỳnh xuống sàn. Một tiếng ngựa hí đầy kinh ngạc chào đón tôi.
Những dải ánh trăng hẹp len lỏi qua những bức vách giát gỗ của toa ngựa xiếc. Bên này là một hàng ngựa. Bên kia được chặn bởi một bức tường rõ ràng là đồ tự chế.
August bước tới và xô cửa vào bên trong. Cái cửa đâm sầm vào bức tường phía sau, để lộ một căn phòng tạm bợ được chiếu sáng bằng đèn dầu. Ngọn đèn đặt trên một cái thùng thưa úp ngược cạnh một cái giường xếp. Một người lùn đang nằm sấp, cuốn sách dày cộp mở ra trước mặt. Cậu ta trạc tuổi tôi và, cũng như tôi, tóc cậu ta màu đỏ. Nhưng khác với tôi, mái tóc đó dựng thẳng trên đầu cậu ta, một bộ tóc bờm xờm không chịu vào nếp. Khuôn mặt, cổ, cánh tay và bàn tay chi chít tàn nhang.
“Kinko,” August nói vẻ ghê tởm.
“August,” người lùn nói, tỏ ra ghê tởm không kém.
“Đây là Jacob,” August vừa giới thiệu vừa làm một vòng quanh căn phòng bé tin hin. Anh ta cúi người và sờ soạng mọi thứ trên đường đi qua. “Cậu ta sẽ ngủ với mày một thời gian.”
Tôi bước tới, chìa tay ra. “Xin chào,” tôi nói.
Kinko lãnh đạm nhìn bàn tay tôi rồi quay sang August. “Nó là cái gì vậy?”
“Tên cậu ta là Jacob.”
“Tao hỏi cái gì, không phải là ai.”
“Cậu ta sẽ giúp việc trong lều thú.”
Kinko đứng bật dậy. “Một gã chăm sóc thú à? Quên đi. Tao là diễn viên. Không đời nào lại ngủ cùng một thằng làm công cả.”
Có tiếng gầm gừ phát ra từ phía sau cậu ta, và lần đầu tiên tôi thấy một con chó săn giống Jack Russell. Nó đang đứng cuối giường, lông cổ dựng đứng.
“Tao là chỉ huy cưỡi ngựa và là người quản thú,” August từ tốn nói, “và nhờ sự chiếu cố của tao mày mới được ngủ ở đây. Cũng nhờ sự chiếu cố của tao mà nơi đây không đầy chặt những thằng lao động tự do. Đương nhiên, lúc nào tao cũng có thể thay đổi điều đó. Vả lại, cậu đây là bác sĩ thú y mới của đoàn - từ trường Cornell cơ đấy - và điều đó làm tao đánh giá cậu ấy cao hơn hẳn mày. Có lẽ mày nên nghĩ đến việc dâng tặng cậu ta cái giường xếp.” Ánh lửa của ngọn đèn bập bùng trong mắt August. Môi anh ta run run trong ánh sáng mờ ảo của nó.
Một lúc sau anh ta quay sang tôi và cúi người, đập hai gót chân vào nhau. “Chúc ngủ ngon, Jacob. Tôi tin chắc Kinko sẽ khiến cậu thoải mái. Phải không, Kinko?”
Kinko quắc mắt nhìn anh ta.
August đưa tay vuốt thẳng hai bên tóc. Rồi anh ta bỏ đi, không quên với tay đóng cánh cửa phía sau. Tôi chăm chú nhìn lớp gỗ thô nhám tới khi nghe thấy tiếng chân August gõ lộc cộc trên đầu chúng tôi. Rồi tôi quay lại.
Kinko và con chó đang nhìn tôi chằm chằm. Con chó cong môi lên gầm gừ.
TÔI QUA ĐÊM trên một tấm chăn ngựa nhàu nhĩ áp sát tường, tránh càng xa cái giường xếp càng tốt. Tấm chăn ẩm xì. Cái kẻ đã phủ những tấm gỗ giát để biến nơi đây thành một căn phòng đã làm ăn thật tệ hại, vậy nên tấm chăn bị ngấm mưa và bốc mùi nấm mốc.
Tôi giật mình tỉnh giấc. Tôi đã gãi trầy cả da tay và cổ. Tôi không biết đó là do ngủ trên vải dính lông ngựa hay do lũ rận và cũng không muốn biết. Qua những thanh gỗ ráp nối, bầu trời hiện ra đen kịt, và đoàn tàu vẫn tiếp tục tiến lên.
Tôi tỉnh dậy vì một giấc mơ, nhưng tôi không thể nhớ lại chính xác. Tôi nhắm mắt lại, ngập ngừng tiếp cận những ngóc ngách trong tâm trí.
Đó là mẹ tôi. Bà đứng trong sân, mặc đầm màu xanh hoa mua, đang phơi quần áo lên dây. Bà ngậm những cái kẹp gỗ trong mồm, trong chiếc tạp dề buộc quanh eo còn nhiều kẹp gỗ hơn nữa. Những ngón tay bà bận rộn với tấm ga trải giường. Bà đang khe khẽ hát bằng tiếng Ba Lan.
Chớp sáng.
Tôi đang nằm trên sàn, nhìn lên bộ ngực đu đưa của người vũ nữ thoát y. Hai núm vú của nàng, màu nâu và to cỡ bằng chiếc bánh kếp giá một đồng bạc, đang xoay tròn - ra ngoài và vòng quanh, BỐP. Ra ngoài và vòng quanh, BỐP. Tôi thấy nhói lên một cảm giác hưng phấn, rồi hối hận, và rồi thấy kinh tởm.
Và rồi tôi đang…
Tôi đang…
Nước Cho Voi Nước Cho Voi - Sara Gruen Nước Cho Voi